












Preview text:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ***** NHÓM 9
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHỦ ĐỀ: Phân tích và chứng minh động lực của Chủ nghĩa xã hội theo
quan điểm của Hồ Chí Minh. STT Tên MSSV Chức vụ 1 Bùi Phương Linh 21041522 Nhóm trưởng 2 Bùi Nguyễn Khánh Linh 21041521 Thành viên 3 Hoàng Thị Bích Hằng 20041412 Thành viên 4 Lý Mai Anh 21040787 Thành viên 5 Trương Khánh Linh 21041031 Thành viên Hà Nội, 2023 MỤC LỤC
1. Về lợi ích của nhân dân.................................................................................................................................
2. Về dân chủ......................................................................................................................................................
3. Về sức mạnh đoàn kết toàn dân....................................................................................................................
4. Về hoạt động các tổ chức...............................................................................................................................
5. Về con người...................................................................................................................................................
6. Khắc phục những trở lực của CNXH...........................................................................................................
Nguồn tham khảo...............................................................................................................................................
Bảng đánh giá về hiệu quả thực hiện nhiệm vụ.............................................................................................. 2
1. Về lợi ích của nhân dân:
Theo Hồ Chí Minh, hệ thống động lực để xây dựng CNXH là: đoàn kết, đồng thuận, lợi ích,
công bằng, dân chủ, khoa học kỹ thuật...Những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: vật
chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết
định nhất là con người, là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là công – nông – trí thức.
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải thường xuyên quan tâm đến lợi ích của tất cả
các tầng lớp nhân dân; chăm lo bồi dưỡng sức dân, quan tâm đến lợi ích chính đáng, khơi dậy
khát vọng cống hiến xây dựng đất nước, xây dựng CNXH của mỗi người dân.
Nhìn nhận yếu tố con người là động lực của CNXH, hơn nữa là động lực quan trọng nhất, Hồ
Chí Minh đã nhận thấy sự kết hợp sức mạnh của mỗi cá nhân với xã hội (sức mạnh cộng
đồng). Người cho rằng, không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân
con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần tư tưởng mác-xít và trải qua thực tiễn quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân là lực
lượng vô tận của cách mạng và là nhân tố tạo nên thắng lợi của cách mạng. Người đã khẳng
định: “Có dân là có tất cả”, tin ở dân, dựa vào dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn
dân là nguyên tắc cơ bản trong chiến lược cách mạng của Người. Nguyên tắc quan trọng này
bắt nguồn từ các giá trị trong truyền thống dân tộc: “Chở thuyền là dân, làm lật thuyền cũng
là dân”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Sinh thời, Người từng nói: Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân, dựa vào
lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân, bởi dân là gốc của nước. Dân
là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì
không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân
là chủ của nước. Do đó, với Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn
đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi
non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc
dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm
ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ
theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”. Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh hy
sinh, đấu tranh cũng chỉ vì một mục đích: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, 3
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây cũng chính là lợi ích cao nhất của dân tộc
mà Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam luôn hướng tới.
2. Về dân chủ:
Ý thức sâu sắc vai trò quan trọng đặc biệt của dân chủ trong sự nghiệp kiến thiết chế độ mới
XHCN ở Việt Nam Hồ Chí Minh đã xác định phải thực hành dân chủ: đảm bảo cho nhân dân
có quyền làm chủ, thực sự là người chủ, tham gia trực tiếp vào các công việc quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế và xã hội. Người còn nhấn mạnh: nhân dân đã có quyền làm chủ thì
đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ của người chủ.
Thứ nhất, khẳng định vai trò, địa vị của nhân dân trong chế độ chính trị dân chủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Nó được hình thành
trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đồng thời, nó phản ánh mối quan hệ cơ
bản giữa Nhà nước và nhân dân trong chế độ chính trị - xã hội nhất định. Ngay sau khi Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng một
Nhà nước Việt Nam kiểu mới, đó là nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc”. Người tuyên bố dứt khoát: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ”.
Thứ hai, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trên tinh thần dân chủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ mật
thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân dân cần Nhà nước để lãnh đạo và tổ chức lực lượng xây
dựng, phát triển đất nước. Mặt khác, Nhà nước phải dựa vào mọi nguồn lực của nhân dân để
phục vụ nhân dân. Trong tư tưởng của Người, nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Nhà
nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà nước phát huy dân chủ đến cao độ mới động viên
được tất cả các lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời, phải tập trung cao
độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngay từ năm 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định:
“Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh
rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi
hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, Nhà nước cách mạng được thành lập, Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. 4
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân”. Đây là điểm khác biệt về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân
với các nhà nước của giai cấp bóc lột từng tồn tại trong lịch sử.
3. Về sức mạnh đoàn kết toàn dân:
Động lực của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Hồ Chí Minh còn có thể được phân tích
và chứng minh thông qua trên hai khía cạnh: sức mạnh đoàn kết toàn dân và hoạt động của các tổ chức.
Theo Hồ Chí Minh, Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người,
là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là công – nông – trí thức. Người nói: “Trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc
thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam... Chúng ta phải
đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân, động viên lực lượng của nhân dân để phấn đấu hoàn
thành sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa... Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng
nhau xây dựng Tổ quốc”. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng ghen
chỉ rõ: “Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc
là mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu
lợi ích cho khối đại đa số”. Cách mạng XHCN với mục đích giải phóng giai cấp công nhân và
nhân dân lao động khỏi tình trạng áp bức bóc lột, thu hút được sự tham gia của giai cấp công
nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua Đảng Cộng sản. Vì vậy, động lực của cách mạng XHCN là tổng hợp sức mạnh của các
giai cấp, các tầng lớp, các lực lượng xã hội, trong đó động lực chủ yếu là khối liên minh giữa
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như
vậy, tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh là ra sức phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân
tộc, bởi xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân
tộc. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới tăng cường được sức mạnh dân tộc, giữ vững
độc lập dân tộc. Đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất không phải chỉ là
chiến lược trong cách mạng dân tộc dân chủ mà còn là chiến lược nhất quán của Đảng và Hồ
Chí Minh trong toàn bộ tiến trình cách mạng.
Nhìn nhận yếu tố con người là động lực quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao
động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt 5
chẽ thành một khối”. Đội ngũ trí thức “phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hoá
và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho
nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là
khoa học, lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”. Người
nhận thấy sự cần thiết phải kết hợp sức mạnh của mỗi cá nhân với sức mạnh đoàn kết, tập thể
của toàn xã hội và cho rằng không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá
nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, lợi
ích cá nhân phải luôn được đặt trong mối quan hệ thống nhất với lợi ích tập thể và lợi ích xã
hội. Người nói: “Lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích
tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích của cá nhân mới có điều kiện để
được thỏa mãn”. Hồ Chí Minh không chỉ đề cao lợi ích của nhân dân mà Người còn gắn lợi
ích với nghĩa vụ. “Nhân dân đã có quyền hạn làm chủ thì phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ.
Tóm lại, Liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nòng cốt
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN. Nói cách khác, khối đại đoàn kết toàn dân tộc đó chính là động lực con
người trong cách mạng XHCN được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận ở cả góc độ toàn thể
cộng đồng quốc gia dân tộc và ở góc độ mỗi cá nhân con người đều cần phải được phát huy
thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
4. Về hoạt động của các tổ chức:
Về hoạt động của các tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức chính trị
- xã hội khác trong đó Đảng Cộng sản có vai trò lãnh đạo.Trong cuốn Đường cách mệnh
(năm 1927), Hồ Chí Minh viết: “Cách Mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng giống như một chiếc bánh lái, nếu bánh lái vững thì con thuyền mới chạy.”
Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân
dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của CNXH. Nhà nước đại diện cho ý
chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã
hội, đưa sự nghiệp xây dựng CNXH đến thắng lợi. Các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách
là các tổ chức quần chúng tuy có những nội dung và phương thức hoạt động khác nhau nhưng 6
đều nhất quán về chính trị, tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước;
hành động vì lợi ích của các thành viên thống nhất với lợi ích của dân tộc. Người đặc biệt
quan tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong
sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến địa phương. Người
yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. "Cán bộ và đảng viên càng phải nâng
cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không
được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai". Người cũng luôn nhắc nhở rằng phải không
ngừng nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống cả kẻ thù bên ngoài tìm cách phá hoại thành quả
cách mạng và đấu tranh chống kẻ thù bên trong là chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh nhận thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của CNXH.
5. Về con người:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng “ Quy luật cơ bản của kinh tế xã hội chủ nghĩa là thoả
mãn những nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng cao của nhân dân lao động.”. Chính vì
vậy, Người luôn quan tâm đến việc giải quyết một cách hài hòa nhu cầu, lợi ích của cá nhân
người lao động với nhu cầu, lợi ích của giai cấp, của nhân dân và dân tộc trong hoạch định
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hồ Chí Minh cũng nhận định được yếu tố con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn
nữa là động lực quan trọng nhất. Người khẳng định “Không có chế độ nào tôn trọng con
người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ XHCN”.
Chế độ XHCN là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập
thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Lợi ích cá nhân
nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Có thể thấy, Hồ Chí Minh
cho rằng yếu tố con người là yếu tố quan trọng và quyết định nhất để đảm bảo cho công cuộc
xây dựng CNXH. Con người là nhân dân lao động, nòng cốt là công-nông-trí thức. Người
cũng nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân và xã hội. 7
6. Khắc phục những trở lực của CNXH:
Nếu như trong giai đoạn cách mạng trước và trong xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh đã lưu
tâm về “ba thứ giặc”: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm thì khi bước vào xây dựng CNXH
ở miền Bắc, Người lại một lần nữa lưu ý rằng: “Để tiến lên CNXH, cuộc đấu tranh phải lâu
dài và gian khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ địch chống lại cách mạng”. Trong
thời kỳ này, Hồ Chí Minh cho rằng kẻ địch gồm 3 loại:
1. Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc: Đây là kẻ địch rất nguy hiểm.
2. Những thói quen và truyền thống lạc hậu: Đây là những yếu tố ngấm ngầm ngăn trở sự
tiến bộ của cách mạng nước nhà. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một
cách rất cẩn thận, rất chịu khó và rất lâu dài.
3. Chủ nghĩa cá nhân, hệ tư tưởng tiểu tư sản: Yếu tố này hầu như con ẩn nấp trong tiềm
thức của mỗi người dân. Nó chờ dịp hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi, để ngóc đầu dậy.
“Nó là bạn đồng minh của 2 kẻ địch kia”
Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới và tiến lên CNXH như hiện nay, chúng ta lại nên đặc biệt
lưu ý đến những trở lực sau:
Thứ nhất: Tư tưởng và hành động không thông suốt, không nhất trí, trước hết từ trong Đảng,
rồi đến các lực lượng xã hội, trong quần chúng.
Hồ Chí Minh nhận định rằng: “Nếu đảng viên tư tưởng và hành động không nhất trí, thì khác
nào một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Như vậy, thì không thể lãnh đạo quần
chúng, không thể làm cách mạng”. Và, Người nêu ngay hướng khắc phục trở lực lớn đó: “Vì
vậy, đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên
quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng”.
Thứ hai “Chủ nghĩa cá nhân – đây là một trở lực nằm ngay trong mỗi cán bộ, đảng viên và
mỗi con người ... mà khi tiến hành xây dựng CNXH nó có nhiều điều kiện và cơ hội thể hiện
rõ hơn nhiều, tinh vi hơn nhiều so với giai đoạn cách mạng trước.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là một trở lực nội tại và là nguyên nhân gây ra
những khuyết điểm, sai lầm và trở lực khác. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ
bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó
bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham
muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân
dân.” Hồ Chí Minh cũng nhận định rằng “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của
CNXH. Người cách mạng phải tiêu diệt nó” hay “Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức 8
cách mạng..., chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng
một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”
Thứ 3: “Tham ô, lãng phí là một trở lực lớn cho sự nghiệp xây dựng CNXH (gắn liền với tệ
quan liêu, mệnh lệnh...)”
Trong điều kiện và hoàn cảnh mới, công việc hàng ngày của Đảng lãnh đạo chính quyền, cán
bộ, đảng viên có cương vị gắn liền với những nhu cầu, lợi ích, nhất là lợi ích về mặt kinh tế
của nhân dân ở các cấp các ngành. Đó chính là “những viên đạn bọc đường” rất dễ bắn gục
con người, thậm chí cả những người đã rất kiên cường trong lao tù, trong chiến trận chống
bọn xâm lược và tay sai trước đây. Người nhấn mạnh: “Tham ô, lãng phí tài sản của Nhà
nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp, mà ai cũng phải thù ghét, phải trừ
bỏ”. Hồ Chí Minh thường coi đó “là giặc nội xâm, là hành động xấu xa nhất của con người...
Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà”. Bởi vì, nạn tham nhũng luôn luôn là một trở
lực lớn, là nguy cơ sụp đổ đối với mọi chế độ xã hội. CNXH là chế độ của dân, do dân và vì
dân, là chế độ có bản chất và mục tiêu ưu việt hơn hẳn các chế độ khác. Chính vì điều đó,
càng không thể tha thứ cho nạn tham ô, tham nhũng của cán bộ, đảng viên có chức có quyền.
Thứ 4: “Hành động chia rẽ bè phái, mất đoàn kết, vô tổ chức, vô kỷ luật cũng là một trở lực
lớn trong xây dựng CNXH.”
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nghiêm khắc phê phán những người “... thường lo cho lợi ích riêng
của mình (tham danh vọng, suy tị, gây lủng củng trong nội bộ). Thậm chí “có đảng viên còn
“kể công” với Đảng, muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ đòi hỏi ưu đãi, danh dự và địa vị. Nếu
không thoả mãn yêu cầu của họ thì họ oán trách Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ
luật của Đảng”. Có những đảng viên “tự do hành động”, trái với tổ chức và kỷ luật của Đảng.
Dù muốn hay là không muốn, hành động của những đồng chí ấy đã làm giảm sút uy tín và
ngăn trở sự nghiệp của Đảng, ngăn trở bước tiến của cách mạng”
Thứ năm là “Bệnh chủ quan, bảo thủ, chủ nghĩa kinh nghiệm, giáo điều, lười biếng không
chịu học tập cái mới cũng là một trở lực lớn của CNXH”
Trong diễn văn khai mạc Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Chúng ta còn nhiều khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh
nghiệm, tác phong quan liêu, chủ nghĩa cá nhân …” Người cũng đánh giá luôn rằng những
khuyết điểm ấy đã góp phần ngăn trở sự tiến bộ của chúng ta. Người đã nhiều lần chú ý việc
học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, kinh nghiệm các nước khác, của đơn vị khác, người khác... đều
phải chủ động, sáng tạo, chứ không thể “rập khuôn máy móc”. Đó là một bài học có ý nghĩa
phương pháp luận khoa học rất to lớn đối với Đảng và nhân dân ta trong xây dựng CNXH.
Người cũng cảnh tỉnh bệnh chủ quan, “lạc quan tếu”, khi có đôi chút thành tích thì... “tự mãn 9
với những kinh nghiệm đã có, kiêu căng, hoài nghi với những sáng kiến bình thường của
quần chúng, lười biếng, không thích học tập cái mới ….
Chính những bệnh chủ quan, giáo điều, không chịu học hỏi là những cản trở trực tiếp đối với
sự trưởng thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong quá trình xây dựng CNXH, đặc biệt
lại ở một nước có điểm xuất phát rất thấp về kinh tế, khoa học kỹ thuật... như Việt Nam. 10
Nguồn tham khảo:
1. Phải dựa vào lực lượng quần chúng. (2021, March 7). YouTube.
https://www.youtube.com/watch?v=RO7jrDX6DEE
2. Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. (2021, May 18). YouTube.
https://www.youtube.com/watch?v=dnMCD3MGGFo
3. Nguyễn Ái Quốc viết “Đường Kách mệnh” | Phim tài liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(2023, May 17). YouTube. https://www.youtube.com/watch?v=HNt9eg-98qE
4. Bác Hồ - Vị cha già kính yêu của dân tộc | Đảng với Dân. (2023, May 19). YouTube.
https://www.youtube.com/watch?v=KTKAUGIQpCU
5. Xây dựng con người và tư tưởng xã hội chủ nghĩa. (2021, June 20). YouTube.
https://www.youtube.com/watch?v=kk0FTECgWJs
6. Trang, T. (2017, November 17). Động lực cách mạng và điều kiện làm cho động lực
trở thành sức mạnh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Động Lực Cách Mạng Và Điều Kiện Làm Cho Động Lực Trở Thành Sức Mạnh
Trong Xây Dựng Chủ Nghĩa Xã Hội Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
https://bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/6809-dong-luc-cach-mang-va-dieu-kien-
lam-cho-dong-luc-tro-thanh-suc-manh-trong-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-theo-tu- tuong-ho-chi-minh.html
7. Tạp chí Giáo dục lý luận. (n.d.). Tạp Chí Giáo Dục Lý Luận.
https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?
portalid=33&tabid=19&distid=255&name=Tu%20tuong%20Ho%20Chi%20Minh
%20ve%20dong%20luc%20cua%20chu%20nghia%20xa%20hoi%20va%20su
%20van%20dung%20trong%20giai%20doan%20hien%20nay
8. Vo. (2023, August 4). QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC CỦA
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA Ở VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY. Retrieved November 14, 2023, from
https://truongchinhtri.haugiang.gov.vn/chi-tiet/-/tin-tuc/QUAN-IEM-CUA-HO-CHI-
MINH-VE-ONG-LUC-CUA-CHU-NGHIA-XA-HOI-VA-NHUNG-YEU-CAU-AT-
RA-O-VIET-NAM-TRONG-GIAI-OAN-HIEN-NAY43622
9. Acomm(http://www.acomm.com.vn), C. (n.d.). Hồ Chí Minh phê phán những trở lực
căn bản đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta | Tạp chí Tuyên giáo. Hồ Chí
Minh Phê Phán Những Trở Lực Căn Bản Đối Với Sự Nghiệp Xây Dựng CNXH Ở 11
Nước Ta | Tạp Chí Tuyên Giáo. https://tuyengiao.vn/tuyen-truyen/ho-chi-minh-phe-
phan-nhung-tro-luc-can-ban-doi-voi-su-nghiep-xay-dung-cnxh-o-nuoc-ta-10067
10. Tạp chí cộng sản. (n.d.). Tạp Chí Cộng Sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang?
p_p_auth=SEa2zmDp&p_p_id=49&p_p_lifecycle=1&p_p_state=normal&p_p_mode
=view&_49_struts_action=%2Fmy_sites
%2Fview&_49_groupId=20182&_49_privateLayout=false
11. Tạp chí cộng sản. (n.d.). Tạp Chí Cộng Sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang?
p_p_auth=0a4DMBTj&p_p_id=49&p_p_lifecycle=1&p_p_state=normal&p_p_mode
=view&_49_struts_action=%2Fmy_sites
%2Fview&_49_groupId=20182&_49_privateLayout=false
Bảng đánh giá về hiệu quả thực hiện nhiệm vụ STT Tên thành viên Công việc Nhận xét Đánh giá - Phân công công việc cho các thành viên và Phân công, kiểm soát 1 Bùi Phương Linh kiểm tra tiến độ 10 công việc hiệu quả - Làm nội dung - Lồng tiếng Tham gia tích cực, hoàn Bùi Nguyễn Khánh - Làm nội dung 2 thành công việc tốt và 10 Linh - Lồng tiếng đúng hạn
- Hỗ trợ tìm hình ảnh, lọc Tham gia tích cực, hiệu 3
Hoàng Thị Bích Hằng video tham khảo quả, hoàn thành công 10 - Làm video việc tốt 4 Lý Mai Anh
- Hỗ trợ tìm hình ảnh, lọc Đóng góp tích cực, làm 10 12 video tham khảo
việc hiệu quả, đúng hạn - Làm video Tham gia thảo luận tích 5 Trương Khánh Linh - Làm nội dung cực, hoàn thành công 10 việc tốt 13