Đề cương nghiên cứu bộ môn kinh tế chính trị Mác Leenin | Trường đại học Quốc tế Hồng Bàng

Đề cương nghiên cứu bộ môn kinh tế chính trị Mác Leenin | Trường đại học Quốc tế Hồng Bàng được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG
B MÔN KINH T CHÍNH TR MÁC LÊNIN
Đ CƯƠNG NGHIÊN CU
TÊN Đ TÀI: HỘI NHẬP KINH TQUỐC TẾ VÀ NHNG VẤN Đ
ĐẶT RA ĐI VỚI XÂY DNG NN KINH TẾ ĐC LP TỰ CHỦ
CỦA VIỆT NAM HIN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lịch
SINH VIÊN THỰC HIN:
1/ Nguyễn Trung Thành 2213070005
2/ Bùi Thị Thuỵ Vy 2212030004
3/ Ngô Ngọc Khánh Vy 2114211765
4/ Văn Hoàng Anh 2114211766
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 4 năm 2023
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
EU Liên minh châu Âu
SEV Hội đồng Tương trợ Kinh tế
GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
WTO Tổ chức Thương mại Thế Giới
FTAs Các Khu vực Mậu dịch tự do
CU Liên minh Hải quan
CM Thị trường chung
EMU Liên minh Kinh tế và Tiền tệ
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
MFN Nguyên tắc tối huệ quốc
NAFTA Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ
SACU Liên minh Hải quan Nam Phi
EEC Cộng đồng Kinh tế châu Âu
RTA Thoả thuận thương mại khu vực
PTA Thoả thuận thương mại ưu đãi
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
WB Ngân hàng Thế Giới
Mục lục
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG...................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................................... 1
LỜI CAM ĐOAN...............................................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài:......................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................................................... 2
CHƯƠNG I...................................................................................................................................................... 2
1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ..........................................2
CHƯƠNG II.................................................................................................................................................. 11
1. KHÁI NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ................11
2. TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
VIỆT NAM...................................................................................................................................................12
CHƯƠNG III................................................................................................................................................. 15
1. NỘI DUNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.................................................................................15
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................................................... 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................20
PHẦN MỞ ĐẦU
LỜI CAM ĐOAN
Nhóm em xin cam đoan tn bộ nội dung trong bài tiểu luận nghiên cứu đ tài HỘI NHẬP
KINH TQUỐC TNHNG VN ĐĐT RA ĐI VỚI XÂY DNG NỀN KINH T
ĐC LẬP T CH CỦA VIT NAM HIN NAY là thành quca nhóm tôi sau quá tnh thc
hin cẩn trọng và nghiêm túc. Nếu có bt kì phát hiện gian ln hay sao chép nào tôi xin được chu
hoàn toàn tch nhim.
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá hay hội nhập kinh tế quốc tế đang xu thế rất
đáng được quan tâm. Các nước vẫn luôn đua nhau phát triển vị thế kinh tế quốc tế
Việt Nam cũng một phần trong đó. Tại Đại hội X của Đảng cũng đã khẳng định:
“Tn cầu hoá kinh tế tạo ra hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất
bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất các nước đang phát
triển”. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam vẫn đang từng bước tham gia cố
gắng phát triển mạnh mẽ theo con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Sau gần 30 năm đổi
mới bước chân vào thị trường quốc tế từ 1986, Việt Nam đã trải qua quá trình đầy
gian nan và thử thách. Tuy vậy, những thành công đã đạt được lại có ý nghĩa rất lớn và
cũng là bước đà để Việt Nam bước thêm sâu và rộng hơn trên con đường hội nhập đó.
Việc kết hợp nguồn nội lực dồi dào sẵn cùng ngoại lực sẽ giúp Việt Nam mở rộng
nhiều thị trường xuất khẩu hơn để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như
học hỏi, tiếp thu những công nghệ kỹ thuật tiên tiến hay các kinh nghiệm đã được đúc
kết từ những nước phát triển. Tuy nhiên, việc hội nhập kinh tế quốc tế mang đến rất
nhiều hội cho Việt Nam nhưng cùng đồng nghĩa rằng sẽ không ít khó khăn, thử
thách. Do đó, nhóm em xin chọn đề tài: “Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam
những vấn đề đặt ra đối với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của Việt Nam hiện
nay”. Do thời gian nghiên cứu khả năng của nhóm hạn nên bài tiểu luận này
chúng em chỉ đề cập những điều cơ bản về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam cũng như một số giải pháp, quan điểm bản để cung cấp thông tin đến người
đọc cũng như góp phần giúp ích cho nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
hiện nay.
1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm
Hội nhập quốc tế một quá trình tất yếu, lịch sử phát triển lâu dài
nguồn gốc, bản chất hội của lao động sự phát triển văn minh của quan hệ giữa
con người với con người. Trong hội, con người muốn tồn tại phát triển phải
mối liên kết chặt chẽ với nhau. Rộng hơn, phạm vi quốc tế, một quốc gia muốn phát
triển phải liên kết với các quốc gia khác. Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX cho
đến nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát
triển vượt bậc các lĩnh vực của đời sống hội hội hóa cao của lực lượng sản
xuất. Quá trìnhhội hóa và phân công lao động mức độ cao đã vượt ra khỏi phạm
vi biên giới quốc gia được quốc tế hoá ngày một sâu sắc. Sự quốc tế hoá như vậy
thông qua việc hợp tác ngày càng sâu giữa các quốc gia tầm song phương, tiểu khu
vực, khu vựctoàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc
gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia
sẻ có lợi ích, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung. Sau chiến tranh thế giới
thứ hai đã xuất hiện các tổ chức như EU, SEV, GATT. Từ những năm 1990 trở lại đây,
tiến trình này phát triển mạnh cùng với xu thế toàn cầu hoá đời sống kinh tế, thể hiện ở
sự xuất hiện của nhiều tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trước kia, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế chỉ được hiểu đơn thuần là những
hoạt động giảm thuế, mở rộng thị trường. Chẳng hạn, GATT trong suốt 38 năm ròng,
qua 7 vòng đàm phán cũng chỉ tập trung vào việc giảm thuế. Hội nhập kinh tế quốc tế
ngày nay được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các
định chế kinh tế-tài chính quốc tế, thực hiện tự do hoá thuận lợi hoá thương mại,
đầu tư bao gồm các lĩnh vực:
Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế suất bằng 0 đối với hàng hoá
xuất nhập khẩu.
Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với hoạt
động thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông (như giấy phép, tiêu chuẩn
2
chất lượng, vệ sinh kiểm dịch...) cần được chuẩn mực hoá theo các quy định chung
của WTO hoặc các thông lệ quốc tế và khu vực khác.
Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại, dịch vụ, tức tự do hoá hiện nay
khoảng 12 nhóm dịch vụ được đưa vào đàm phán, từ dịch vụ vấn giáo dục, tin
học đến các dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải...
Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở đường hơn nữa cho tự do hoá thương
mại.
Điều chỉnh chính sách quản thương mại theo những quy tắc luật chơi chung
quốc tế, đặc biệt các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại, như thủ tục hải
quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh ...Tại các diễn đàn quốc tế và khu
vực hiện nay, việc điều chỉnh hài hoà các thủ tục hành chính liên quan đến giao
dịch thương mại được gọi là hoạt động thuận lợi hoá thương mại.
Triển khai các hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá,hội nhằm nâng cao năng lực
của các nước trong quá trình hội nhập.
Như vậy, có thể thấy vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay không
chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan đã được mở rộng cho
tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế-thương mại, nhằm mục tiêu mở
rộng thị trường cho hàng hoádịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình hình đối
với trao đổi thương mại quốc tế.
1.2 Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
Nhìn tổng thể thì hội nhập quốc tế ba cấp độ chính là: Hội nhập toàn cầu,
khu vực song phương. Các phương thức hội nhập này được triển khai trên các lĩnh
vực khác nhau của đời sống hội. Cho đến nay, đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế
được triển khai trên 3 lĩnh vực chính gồm: Hội nhập trong lĩnh vực kinh tế (hội nhập
kinh tế quốc tế), hội nhập trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực
khác. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập
trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế.
3
1.2.1 Hợp tác kinh tế song phương
Loại hình đầu tiên cần nhắc tới khi nền kinh tế một quốc gia hội nhập cùng các
nền kinh tế quốc gia khác hợp tác kinh tế song phương. Hợp tác kinh tế song
phương thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp định kinh tế, thương mại,
đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, FTAs song phương… Loại hình hội nhập
này thường hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế. Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi cột mốc
quan trọng đánh dấu s thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đại hội
được “Đại hội của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến việc mở rộng giao lưu
quốc tế để thu hút vốn đầu nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Sau Đại
hội, hàng chục hiệp định thương mại, đầu song phương đã được kết giữa Việt
Nam các nước khác trên thế giới. Hiệp định về Thúc đẩy bảo hộ đầu dụ:
lẫn nhau giữa Việt Nam Australia ngày 05/3/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước
Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam Chính phủ Vương quốc Thái Lan về Khuyến
khích Bảo hộ đầu lẫn nhau ngày 30/10/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Liên bang Nga về
Khuyến khích bảo hộ đầu ngày 16/6/1994; Hiệp định Thương mại giữa Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa ngày 07/11/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà hội chủ
nghĩa Việt Nam Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về Khuyến khích
và bảo hộ đầu tư ngày 02/12/1992. Tính đến ngày 30/12/2018, Việt Nam đã có quan hệ
ngoại giao với 185 nước (so với 11 nước năm 1954); có 16 đối tác chiến lược, 14 đối
tác toàn diện. Việt Nam đã kí kết được trên 90 hiệp định thương mại song phương; gần
60 hiệp định khuyến khích bảo hộ đầu tư; 75 hiệp định tránh đánh thuế hai lần
ngăn ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với các nước/vùng lãnh thổ trên thế giới. Có thể
kể đến một số hiệp định kinh tế song phương của Việt Nam với các đối tác quan trọng
như: Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2000), Hiệp định Đối tác kinh tế Việt
Nam - Nhật Bản (2008) - Đây là FTA song phương đầu tiên của Việt Nam (được kí kết
ngày 25/12/2018, hiệu lực ngày 01/10/2009), Hiệp định Thương mại tự do song
phương Việt Nam - Hàn Quốc (2015), …
4
1.2.2 Hợp tác kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ XX
phát triển cho đến ngày nay. Sự phân loại và khái niệm về các loại hình hội nhập kinh
tế khu vực có sự thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Theo kinh nghiệm
hội nhập kinh tế khu vực của Tây Âu, các học giả phân loại hội nhập kinh tế khu vực
thành các cấp độ từ thấp đến cao: FTA, CU, CM, EMU.
1.2.3 Khu mậu dịch tự do (FTA – theo quan niệm truyền thống)
Khu vực mậu dịch tự do là liên kết kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước nhằm mục
đích tự do hóa buôn bán một số mặt hàng nào đó, từ đó thành lập thị trường thống nhất
giữa các nước, nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập
với các nước ngoài khu vực mậu dịch tự do.
Với cách hiểu trên, yếu tố tự do di chuyển trong các FTA theo quan niệm truyền
thống chỉ hàng hóa, mỗi nước thành viên trong quan hệ đối ngoại với các nước
ngoài FTA vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập. Với do này, các học giả cho
rằng đây là cấp độ thấp nhất của hội nhập kinh tế khu vực. Trong Khu vực MậuVí dụ:
dịch tự do ASEAN 1993 - 2015 (từ 31/12/2015 chuyển thành Cộng đồng Kinh tế
ASEAN), thuế quan giữa các nước thành viên chỉ là 0 - 5%. Tuy nhiên, mỗi thành viên
của Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN lại chính sách thuế quan riêng đối với các
nước ngoài khu vực như: Mức thuế xuất nhập khẩu trung bình của Việt Nam MFN với
các thành viên WTO 13,4%, trong khi Singapore mức thuế 0% cho hàng hóa
nhập khẩu từ Hoa Kỳ.
Cách hiểu theo quan niệm truyền thống trên về FTA hiện không còn phù hợp.
Đặc biệt từ những năm 90 của thế kỉ XX đến nay đã xuất hiện trào lưu FTA thế hệ
mới, theo đó, khái niệm FTA không chỉ tạo ra sự tự do dịch chuyển hàng hóa, còn
bao hàm sự tự do dịch chuyển của nhiều yếu tố khác như: dịch vụ, vốn, lao động...
Ví dụ: NAFTA được đánh giá là một hiệp định thương mại toàn diện và tiên tiến ở thời
điểm ra đời. Đây hình FTA hiện đại vượt ra khỏi khái niệm FTA truyền thống
với sự tự do dịch chuyển của hàng hóa, dịch vụ, sức lao động đầu tư. Theo quan
điểm của Walter Goode đưa ra trong Từ điển Chính sách thương mại quốc tế thì FTA
được hiểu là “Một nhóm gồm hai hay nhiều nước cùng xóa bỏ thuế quan và tất cả hoặc
phần lớn các biện pháp phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước này.
5
Các nước tham gia FTA có thể tiếp tục áp dụng thuế quan của nước mình đối với hàng
hóa bên ngoài, hoặc nhất trí xây dựng một biểu thuế quan đối ngoại chung”. Khái niệm
FTA này giống với khái niệm CU điểm cho phép thiết lập một biểu thuế quan đối
ngoại chung.
1.2.4 Liên minh hải quan (Custom Union – CU)
Liên minh hải quan là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên thỏa thuận
loại bỏ thuế quan trong quan hệ thương mại nội bộ, đồng thời thiết lập một biểu thuế
quan chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới. Theo Từ điển
Chính sách thương mại quốc tế của Walter Goode: “Liên minh hải quan một khu
vực gồm có hai hay nhiều nền kinh tế hoặc lãnh thổ hải quan riêng biệt, quy định
loại bỏ mọi loại thuế đôi khi cả những rào càn đối với việc mở rộng thương mại
giữa chúng. Các thành viên lập nên khu vực sau đó sẽ áp dụng một loại thuế đối ngoại
chung”. Như vậy, có thể nhận thấy, CU là hình thức liên kết có tính thống nhất, tổ chức
cao hơn so với FTA. Cả hai loại hình hội nhập kinh tế khu vực y đều sự thỏa
thuận giữa hai hoặc nhiều quốc gia, theo đó các quốc gia thỏa thuận với nhau về loại
bỏ thuế quan các hàng rào phi thuế quan khác đối với toàn bộ hoặc một phần hoạt
động mậu dịch của họ. Nhưng trong chính sách thuế quan với các nước ngoài khối thì
FTA CU sự khác biệt. Nếu như trong FTA: Các nước thực hiện chính sách thuế
quan độc lập trong quan hệ với các nước ngoài FTA; Thì đối với CU: Các nước thành
viên biểu thuế quan chung với các nước ngoài CU. Sự ưu đãi nội bộ đã tạo ra sự
phân biệt đối xử đối với các nước ngoài FTA CU. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử
này được chấp nhận như một ngoại lệ của nguyên tắc không phân biệt đối xử - Điều
XXIV GATT. Theo Điều XXIV GATT, khi các nước thành viên trong khu vực thành
lập FTA hoặc CU, các liên kết kinh tế này sẽ quy chế đặc biệt, theo đó các thành
viên của liên kết kinh tế khu vực sẽ áp dụng cho nhau chế độ thương mại nội bộ ở mức
ưu đãi hơn so với các nước ngoài liên kết kinh tế. Ngoại lệ này cũng dành cho cả
trường hợp quan hệ thương mại biên giới. số CU trên thế giới: SACU; dụ về một
EEC thành lập năm 1957 - Từ năm 1968 đến trước những năm 80 của thế kỉ XX, EEC
là một liên minh hải quan với chính sách thuế quan đối ngoại chung.
1.2.5 Thị trường chung (Common Market – CM)
6
Thị trường chung là liên kết kinh tế được đánh giá mức độ hội nhập cao hơn
so với cu. Theo đó, ở mức độ liên kết này, các nước thành viên ngoài việc cho phép tự
do di chuyển hàng hóa, còn thoả thuận cho phép tự do di chuyển bản sức lao
động giữa các nước thành viên với nhau. EU từ năm 1993, đã thiết lập Thị dụ:
trường chung châu Âu; Thị trường chung Nam Mỹ được thành lập năm 1991 gồm:
Argentina, Brazil, Uruguay, Paraguay, Venezuela, Bolivia, Chile, Colombia, Ecuador
Peru; Thị trường chung Caribe được thành lập năm 1973 gồm 15 thành viên chính
thức là các quốc gia có chủ quyền ở Caribe và các khu vực phụ thuộc.
1.2.6 Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic and Monetary Union – EMU)
Các quốc gia tham gia liên kết kinh tế khu vực, muốn đạt đến cấp độ liên minh
kinh tế tiền tệ, cần hai giai đoạn phát triển Liên minh kinh tế Liên minh
tiền tệ.
1.2.7 Liên minh kinh tế
Liên minh kinh tế tiếp tục được đánh giá cấp độ liên kết cao hơn thị trường
chung, thể hiện việc: Ngoài yếu tố tự do di chuyển là hàng hóa, tư bản, sức lao động
còn mở rộng thêm yếu tố tự do dịch chuyển cho dịch vụ giữa các nước thành viên. Bên
cạnh đó, các nước thành viên cùng nhau thiết lập một bộ máy tổ chức điều hành sự
phối hợp kinh tế giữa các nước nhằm tạo ra một không gian kinh tế thống nhất,
cấu kinh tế tối ưu, xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các
nước thành viên.
Ví dụ: Liên minh kinh tế Benelex giữa Bỉ - Hà Lan - Luxembourg được thành lập năm
1944; Liên minh kinh tế Á Âu chính thức hoạt động vào năm 2015 giữa các nước
Armenia, Belarus, Kazakhstan, Nga, và Kyrgyzstan.
1.2.8 Liên minh tiền tệ
Liên minh tiền tệliên kết kinh tế trong đó các nước thành viên phải phối hợp
chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất cuối
cùng là sử dụng chung một đồng tiền.
Liên minh tiền tệ là hình thức rất khó thực hiện trong các liên kết kinh tế,
những đặc trưng riêng có sau: Hình thành đồng tiền chung thống nhất thay thế cho các
đồng tiền riêng của các nước thành viên; Thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ; xây
dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng Trung ương của các nước
7
thành viên; Xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước
đồng minh các tổ chức tiền tệ quốc tế. EMU tại thời điểm ra đời ngày dụ:
01/01/1999 gồm 11 nước thành viên, sử dụng chung đồng tiền EURO. Các nước thành
viên được sử dụng chung song song hai loại tiền EURO tiền quốc gia trong thời
gian quá độ 3 năm. Kể từ ngày 01/01/2002, đồng EURO chính thức được lưu hành
trong 12 nước thành viên gồm Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Lan, Phần Lan, Hy Lạp, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Luxembourg, Ireland, Italia. Các nước quyết định đứng ngoài
EMU Anh, Đan Mạch Thụy Điển. Tính đến tháng 01/2019, Liên minh tiền tệ
châu Âu có 19 nước thành viên trong tổng số 28 nước EU. Tiêu chuẩn để các nước EU
thể tham gia Liên minh tiền tệ châu Âu không hề dễ dàng, theo đó: Lạm phát
không cao hơn 1,5% so với mức trung bình của ba thành viên mức lạm phát thấp
nhất trong EMU; Thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP; Nợ công không quá 60%
GDP; Lãi suất dài hạn không cao hơn 2% mức trung bình của ba thành viên có mức lãi
suất thấp nhất; Tham gia vào chế tỉ giá hối đoái ít nhất hai năm không biến
động mạnh trượt khỏi tỉ giá trung tâm.
1.2.9 Trào lưu FTA (Free Trade Agreement) thế hệ mới
Năm 1995, WTO ra đời, đánh dấu mốc lần đầu tiên trong lịch sử có một tổ chức
thương mại có quy toàn cầu, thiết lậpvận hành các chuẩn mực thương mại đa
phương. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các hình thức hợp tác kinh tế khu vực, lấy nền tảng là
các nguyên tắc lớn của WTO, cũng đã có sự phát triển mạnh mẽ kể từ khi tổ chức này
ra đời. Trong những thập niên gần đây, các cơ chế hợp tác kinh tế khu vực đang chứng
tỏ vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc xây dựng, cũng như tăng cường quan
hệ thương mại giữa các đối tác, đặc biệt sau thất bại của vòng đàm phán Doha. Theo
quan điểm của WTO, các RTA khác với các PTA ở tính chất có đi lại. Các PTA bao
gồm các ưu đãi thương mại đơn phương quốc gia được hưởng ưu đãi không có
nghĩa vụ dành các ưu đãi tương đương theo nguyên tắc có đi có lại. về PTA: QuyVí dụ
chế ưu đãi thuế quan phổ cập của các nước phát triển dành cho các nước đangkém
phát triển. Trong khi đó, RTA là các thỏa thuận đi lại giữa hai hay nhiều nước.
Theo thống chính thức của WTO, các RTA bắt đàu tăng lên nhanh chóng về số
lượng kể từ đầu những năm 1990. Nếu như trước khi WTO ra đời, số lượng các tổ
chức khu vực trên thế giới chỉ là hàng chục, thì hiện nay con số đã là hàng trăm. Trong
8
giai đoạn 1948 - 1994, GATT đã nhận được 124 thông báo về các RTAs kể từ khi
thành lập WTO vào năm 1995, đã có thông báo hơn 400 thoả thuận bổ sung về thương
mại hàng hóa hoặc dịch vụ. Tính đến tháng 6/2016, tất cả các thành viên của WTO đều
một RTA đang hiệu lực. Tính đến thời điểm ngày 03/02/2020, WTO đã nhận
được 484 thông báo từ các thành viên WTO, trong đó 304 RTA đang hiệu lực.
Trong số các RTA này, FTA thỏa thuận ưu đãi một phần chiếm đa số, liên minh hải
quan chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ tầm 10%.
phạm vi khu vực, các FTA cũng đang ngày càng tăng lên về số lượng. Năm
1975 cả châu Á chỉ 1 FTA thì tính đến tháng 01/2020, số lượng các FTA các
quốc gia mà nền kinh tế thành viên khu vực châu Á Thái Bình Dương tham gia là 265.
thể đơn cử sự tham gia vào FTA của một số nước trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương: Việt Nam tham gia vào 26 FTA, Singpore tham gia vào 43 FTA, Thái
Lan tham gia vào 37 FTA, Malaysia tham gia vào 34 FTA, Trung Quốc tham gia vào
45 FTA, Nhật Bản tham gia vào 32 FTA Hiện tượng một quốc gia tham gia o
nhiều FTA vừa cho phép mở rộng nhanh thị trường, vừa tháo gỡ được những khó khăn
mang tính đặc thù trên từng thị trường chủ lực, từ đó tăng tốc tiến trình hội nhập khu
vực quốc tế. Điển hình cho trào lưu liên kết kinh tế khu vực thời này sự xuất
hiện của các FTA thế hệ mới.
Đặc trưng của các FTA thế hệ mới:
Nếu FTA theo quan niệm truyền thống: chỉ cho phép tự do di chuyển hàng hóa;
thì FTA thế hệ mới cho phép tự do di chuyển thêm nhiều các yếu tố khác với mức độ
cam kết ngày càng sâu như: Đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ, trợ cấp, mua sắm chính
phủ...; Một số FTA thế hệ mới còn bao gồm cả các nội dung vốn được coi “phi
thương mại” như: lao động, môi trường, cam kết phát triển bền vững quản trị tốt...
Các FTA giữa các bên không sự gần gũi về địa xuất hiện ngày càng nhiều.
dụ, FTA giữa Hoa Kỳ và Singapore.
Phạm vi cam kết ngày càng rộngmức độ cam kết ngày càng sâu: mức độ tự
do hóa có thể vượt lên trên khuôn khổ pháp lý hiện tại. Có thể:
Hàm chứa các cam kết cao hơn trong khuôn khổ WTO
Điều chỉnh những vấn đề không thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO
9
Khác với các FTA trước đây chủ yếu ảnh hưởng tới chính sách thuế quan tại
biên giới, các FTA thế hệ mới cam kết ảnh hưởng trực tiếp lớn đến thể chế, chính
sách pháp luật nội địa.
Bên cạnh các FTA giữa các nước phát triển đang phát triển (như giữa Hoa
Kỳ - Chile, EU - Thái Lan, EU - Việt Nam, Việt Nam - Hàn Quốc...) đã xuất hiện các
FTA giữa các “siêu cường thương mại”.
Mở đầu là thỏa thuận giữa Australia và Hoa Kỳ.
Tiếp đó các hiệp định đã hoặc đang được đàm phán như EU - Nhật Bản, EU -
Canada, EU - Hoa Kỳ, Nhật Bản - Australia...
Như vậy, với sự xuất hiện của trào lưu FTA thế hệ mới, quan niệm truyền thống
về hội nhập kinh tế khu vực khi chia liên kết kinh tế khu vực thành các cấp độ khác
nhau không còn phù hợp; mà thay vào đó là các FTA thế hệ mới với cách tiếp cận rộng
mức độ hội nhập u hơn rất nhiều. FTA thế hệ mới: Hiệp định Đối tác dụ về
toàn diện tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương, bao gồm 11 nước thành viên: Canada,
Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia
và Việt Nam, hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/01/2019; FTA giữa Việt Nam EU
khi có hiệu cũng sẽ trở thành FTA thế hệ mới điển hình mà Việt Nam tham gia kí kết.
1.3 Hội nhập kinh tế toàn cầu
Nếu như hợp tác kinh tế song phưong là sự hợp tác của nhóm gồm chỉ hai nước
với nhau, thông qua các hiệp định kinh tế song phương được thiết lập bởi hai nước thì
hội nhập kinh tế khu vực tiếp tục phát triển rộng hơn về phạm vi hội nhập, đó giữa
một nhóm các nước trong cùng khu vực hoặc liên khu vực với nhau, thông qua các
hiệp định kinh tế đa phương được thiết lập bởi những tổ chức kinh tế tính khu vực;
Đen hội nhập kinh tế toàn cầu phạm vi hội nhập giữa các nước đã được mở rộng trên
phạm vi toàn thế giới, thông qua các hiệp định kinh tế đa phương hoặc đa biên được
thiết lập bởi những tổ chức kinh tế có tính toàn cầu. Các tổ chức kinh tế quốc tế có tầm
ảnh hưởng, chi phối toàn cầu cần phải nhắc tới như: WTO, IMF, WB hay các tổ chức
kinh tế quốc tế thuộc hệ thống UN như: ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại
quốc tế, Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển...
dụ: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ năm 1995, sau 12 năm đàm
phán, tới m 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
10
thương mại lớn nhất hành tinh này. Khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị
trường hàng hóa dịch vụ tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã
được cắt giảm các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử; Việt Namđược vị
thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại
toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn,
hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
CHƯƠNG II
1. KHÁI NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
1.1 Xu thế khách quan
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong hội trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các nhân góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy toàn cầu.
Như vậy, toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người khác
nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái liên kết gắn bó thành một
thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một
vấn đề xảy ra vùng miền này, cộng đồng người này sẽnh hưởng, tác động tới
các vùng miền, các cộng đồng người khác trên quy mô toàn thế giới.
Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện : kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
… trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng nổi trội, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở
và là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Toàn cầu hóa kinh tế sự gia
tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt ra khỏi biên giới quốc gia, khu vực, tạo
ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới
một nền kinh tế thế giới thống nhất. Toàn cầu hóa đi liền với khu vực hóa. Khu vực
hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như
khu vực mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị trường chung,
11
đồng minh kinh tế… Nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng
bước xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển vốn, lực lượng lao động, hàng hoá
dịch vụ …tiến tới tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên giữa các nước thành
viên trong khu vực.
Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động
quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất trao đổi ngày càng ra tăng, khiến cho
nền kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ, không thể tách rới nền kinh tế
toàn cầu. Trong toàn cấu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi
toàn cầu. Do đó nếu không hội nhập kinh tế quốc tế các nước không thể tự đảm bảo
được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra
hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã đang xuất hiện ngày
càng nhiều tận dụng được các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp, biến
thành động lực cho sự phát triển.
1.2 Phương pháp phổ biến
Đối với các nước đang kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế hội
để tiếp cận sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công
nghệ, kinh nghiệm của các nước cho sự phát triển của mình. Khi các nước bản
giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất
và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ phát triển kinh
tế mở hội nhập quốc tế, các nước đang kém phát triển mới có thể tiếp cận được
những năng lực này cho phát triển của mình. Ngoài ra, hội nhập quốc tế còn con
đường để tận dụng thời phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách đối với các nước
tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến ổn định kinh tế vĩ mô. Việc
mở cửa thị trường, thu hút vốn không chỉ thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
còn tăng tích lũy, cải thiện thâm hụt ngân sách, tạo niềm tin cho các chương trình hỗ
trợ quốc tế trong cải cách kinh tế mở cửa, tạo ra nhiều hội việc làm mới, nâng
cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên, trong quá trình toàn
cầu hóa, các nước bản với những ưu thế về vốn công nghệ đang biến quá trình
toàn cầu hóa thành quá trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo của chủ
nghĩa bản. Các nước đang kém phát triển phải đối mặt với nhiều rủi ro thách
thức (gia tăng sự phụ thuộc, bất bình đẳng trong thương mại). Bởi vậy, các nước đang
12
kém phát triển cần phải chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù hợp đẻ
thích ứng với quá trình toàn cầu hóa đa bình diện và đầy nghịch lý.
2. TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
2.1 Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Tác động tích cực của hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho mỗi nước tìm cho
mình một vị trí thích hợp trong trật tự thế giới mới, giúp tăng uy tín và vị thế; tăng khả
năng duy trì an ninh, hoà bình, ổn định phát triển phạm vi khu vực thế giới.
Qua đó, chúng ta có thể:
Mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất
trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của đất nước trong phân công lao động
quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững chuyển đổi
mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện đại
hiệu quả hơn.
Nâng cao trình độ nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia.
Tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế.
Là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa
của thế giới.
Tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điều kiện cho cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, xây dựng một
hội mở, dân chủ, văn minh.
Góp phần đảm báo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế
để tập trung cho phát triển kinh tế hội; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các
nỗ lực và nguồn lực của các nước để giả quyết những vấn đề chung mang tính toàn
cầu.
2.2 Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đó sẽ làm tăng nguy bản sắc dân
tộc, văn hóa truyền thống bị xói mòn, lấn át bởi văn hóa nước ngoài. Làm gia tăng sự
cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn
trong phát triển, thậm chí phá sản, gây hậu quả bất lợi về mặt kinh tế.thể làm gia
13
tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế
dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính trị, kinh tếthị trường
quốc tế. Dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích rủi ro cho các nước các
nhóm khác nhau trong hội, làm tăng khoảng cách giàu - nghèo bất bình đẳng
trong hội. Các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy chuyển dịch cấu
kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều i
nguyên, nhiều sức lao động, nhưng giá trị gia tăng thấp. Tạo ra một s thách thức
đối với quyền lực nhà nước, chủ quyền quốc gia phát sinh nhiều vấn đề phức tạp
với việc duy trì an ninh ổn định trật tự, an toàn hội. Làm gia tăng nguy của
tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập
bất hợp pháp…
Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế vừa khả năng tạo ra những hội thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế, vừa những nguy to lớn với những hậu quả khó lường.
Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là
vấn đề cẩn đặc biệt coi trọng.
2.3 Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong phát triển
của Việt Nam
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo các vấn đề về hội nhập.
Tổ chức thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế ...
Mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. ...
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải.
2.4 Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế đem
lại
Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế tầm quan trọng ảnh hưởng to lớn
đến những vấn đề cốt lõi của hội nhập, về thực chất là sự nhận thức quy luật vận động
khách quan của lịch sử xã hội. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng
chủ trương chính sách phát triển thích ứng. Trong nhận thức, phải xác định được
hội nhập kinh tế tất yếu khách quan, xu thế khách quan của thời đại, không một
quốc gia nào thể nằm ngoài xu thế đó. Nhận thức cần thấy rõ, hội nhập kinh tế
tác động đa chiều, đa phương diện gồm cả mặt tích cựctiêu cực. Trong đó phải coi
14
mặt tích cực, thuận lợi bản, nhưng cũng phải thấy được những mặt trái những
thách thức của nó.
Về chủ thể tham gia hội nhập, nhà nước một chủ thể quan trọng (dẫn dắt
hỗ trợ các chủ thể khác trongtiến trình hội nhập). Nhưng hội nhập sự hội nhập của
toàn xã hội, sự nghiệp của toàn dân, trong đó doanh nghiệp, doanh nhân đội ngũ
trí thức lực lượng nòng cốt. Thực tế hiện nay, chủ trương, đường lối chính sách về
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và nhà nước có nơi,lúc chưa được quán triệt kịp
thời, đầy đủ thực hiện nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi
cách tiếp cận phiến diện, ngắn hạn cục bộ, nên chưa tận dụng được hết các hội
và ứng pháo hữu hiệu với các thách thức.
2.5 Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp
Chiến lược kinh tế một kế hoạch tổng thể về phương hướng, mục tiêucác
giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế phải phù hợp với
điều kiện, khả năng thực tế: Cần đánh giá đúng bối cảnh quốc tế, xu hướng vận động
của kinh tế, chính trị thế giới; tác động của toàn cầu hóa, của cách mạng công nghiệp
đối với các nước cụ thể hóa đối với nước ta. Trong đó, cần chú ý đến sự chuyển
dịch tương quan sức mạnh kinh tế giữa các trung tâm; xu hướng liên kết kinh tế đa
tầng nấc; đánh giá được vai trò của của các tổ chức kinh tế, các công ty xuyên quốc gia
của các nước lớn. Đánh giá được những điều kiện khách quan chủ quan ảnh
hưởng đến hội nhập kinh tế của nước ta. Cần m vị trí của Việt Nam để xác định
khả năng và điều kiện để Việt Nam có thể hội nhập.
Hiện nay, hội nhập kinh tế của nước ta đã đang được đẩy nhanh về tốc độ
cũng như phạm vi song việc chuẩn bị bên trong lại không đi liền với tiến trình này.
Xây dựng phương hướng, mục tiêu, giải pháp hội nhập kinh tế phải đề cao tính hiệu
quả, phù hợp với thực tiễn về năng lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, tiềm lực khoa học
công nghệ lao động theo hướng tích cực, chủ động. Chiến lược hội nhập kinh tế
phải gắn với tiến trình hội nhập toàn diện tính mở, điều chỉnh linh hoạt để ứng
phó kịp thời với sự biến động của thế giới và các tác động của mặt trái phát sinh trong
quá trình hội nhập kinh tế.
CHƯƠNG III
1. NỘI DUNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
15
1.1 Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của Việt Nam
Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải có được 2 yếu tố cơ bản: Quốc gia
phải độc lập, tự chủ trong việc xây dựng đường lối, chính sách về phát triển kinh tế -
xã hội. Bên cạnh đó, để một nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ thì cần phải đảm bảo có
nội lực đủ mạnh về năng lực sản xuất của nền kinh tế. Nền kinh tế độc lập, tự chủ
nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác, người khác hoặc vào một tổ
chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những
điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ… để áp đặt, khống chế, làm tổn hại
chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế chủ trương đúng, phù hợp với thực tiễn đất nước xu thế phát triển của
thời đại. Đây vấn đề luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta. Theo đó, độc
lập và tự chủ là năng lực của quốc gia trong giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về đối
nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia, không bị sự thống trị, lệ thuộc, chi phối mang
tính cưỡng bức, áp đặt từ bên ngoài. Quốc gia độc lập, tự chủ quốc gia quyền
quyết định việc lựa chọn con đường, hình phát triển, chế độ chính trị, độc lập, tự
chủ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong đó,
độc lập, tự chủ về kinh tế nền tảng vật chất bản để giữ vững độc lập, tự chủ về
chính trị tăng cường độc lập, tự chủ của quốc gia; không thể độc lập, tự chủ về
chính trị trong khi lệ thuộc về kinh tế. Tuy nhiên, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
không nghĩa khép kín, tách bạch với khu vực thế giới được thực hiện
thông qua việc phát huy sức mạnh nội lực kết hợp với ngoại lực, phù hợp với yêu cầu
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ hội
nhập kinh tế quốc tế là quan điểm nhất quán, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ trương
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Đảng trong điều kiện mới. Quá trình lãnh đạo
phát triển kinh tế, nhất từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng
ta luôn nhất quán, vận dụng sáng tạo, phù hợp chủ trương: giữ vững độc lập, tự chủ đi
đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa
vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài; xây
dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực thế giới. Nghị quyết số 06-NQ/TW,
ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - hội trong bối cảnh
16
nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chủ trương: tăng cường
khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ,
tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Đánh giá kết quả
thực hiện Nghị quyết Đại hội XII về hội nhập kinh tế quốc tế, Dự thảo Báo cáo Chính
trị trình Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, kết nhiều hiệp định thương mại song phương,
đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu nước ngoài tăng mạnh,
đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. “Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa
tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỷ USD năm 2010 lên 517 tỷ USD năm 2019, năm 2020 do ảnh
hưởng nặng nề của dịch Covid-19 đạt khoảng 527 tỷ USD, tương đương trên 190%
GDP. Xuất khẩu tăng nhanh, từ 72,2 tỷ USD năm 2010 lên khoảng 267 tỷ USD năm
2020, tăng bình quân khoảng 14% năm, động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh
tế”3, v.v. Đó minh chứng khẳng định chủ trương nhất quán, đúng đắn, sáng tạo của
Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế. Sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,ý
nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những hạn chế và nguy cơ tụt hậu; độ mở
cửa nền kinh tế cao, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn mức
độ. Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước
đều thống nhất với nhau ở mục tiêu cuối cùng là vì lợi ích của quốc gia - dân tộc. Mục
tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân và để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế; đồng thời, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ sở, điều kiện
bảo đảm cho nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện tốt, trong những
năm tới, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện đồng bộ một số yêu cầu và giải pháp trọng
tâm sau:
Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược
phát triển kinh tế đất nước Đây vấn đề quan trọng hàng đầu, bài học kinh.
nghiệm qua hơn 35 năm đổi mới, bảo đảm cho xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất
nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng
tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh
17
tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài. Hiện nay, “Nhiều
doanh nghiệp nhà nước… hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ,
thua lỗ, lãng phí còn lớn… Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ
công nghệ thấp, năng lực tài chính quản trị yếu” . vậy, cần phải thúc đẩy
6
doanh nghiệp phát triển lớn mạnh, bảo đảm tốt an ninh kinh tế không ngừng
tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia, khả năng chống chịu trước tác động tiêu cực
từ bên ngoài.
Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, qua đó, vừa khai thác tiềm
năng, lợi thế của các thị trường, vừa tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác,
nhất là khi thị trường hay đối tác đó có sự biến động.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế cam kết
quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở
cửa hội nhập quốc tế, Việt Nam đã kết, tham gia nhiều điều ước, cam kết
quốc tế các hiệp định thương mại tự do thế ž mới với những cam kết sâu rộng,
toàn diê žn. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp
với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù
hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước từng giai đoạn. Hội nhập kinh tế quốc tế
bao gồm nhiều hình thức với mức độ yêu cầu khác nhau, như: thỏa thuận
thương mại ưu đãi, khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường
chung, liên minh kinh tế, v.v. Vì vậy, cần phải thực hiện nhiều hình thức với các lộ
trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, khả năng và mục tiêu của đất nước từng giai
đoạn, góp phần tích cực xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết cán bộ trực tiếp làm công tác
hội nhập kinh tế quốc tế, am hiểu sâu về luật pháp, thương mại, đầu tư, văn hóa,
ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế, giải quyết các
tranh chấp, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
1.2 Về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX nhấn mạnh: “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia”. Đây là
phương thức kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Độc lập, tự chủ
18
khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc, hội nhập quốc tế phương thức phát triển
đất nước, chúngmối quan hệ biện chứng; vừa tạo tiềm lực để cho nhau và phát huy
lẫn nhau, vừa thống nhất với nhau trong việc thực hiện mục tiêu của đất nước, của dân
tộc, trước hết là mục tiêu phát triển và an ninh.
Do đó, giữ vững độc lập tự chủ là sở để đẩy mạnh hội nhập quốc tếhiệu
quả vì có độc lập tự chủ mới quyết định được chiến lược tổng thể, mức độ, phạm vi, lộ
trình và bước đi hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực, nếu không độc lập, tự chủ thì
quá trình hội nhập sẽ bị “hòa tan” mục tiêu sẽ không đạt được. Ngược lại hội nhập
quốc tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện, tạo thế thuận lợi để giữ vững độc lập, tự chủ. Hội
nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững độc lập,
tự chủ: Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc; tạo
ra sự phân hóa thu nhập góp phần làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội; làm cho lợi
ích nhóm nổi trội hơn, nhất sự liên kết với yếu tố nước ngoài, dẫn đến quá trình
quyết sách thêm phức tạp. Hội nhập quốc tế không hiệu quả sẽ làm suy giảm độc lập,
tự chủ, suy giảm chủ quyền quốc gia.
Để hội nhập hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và quan niệm
cứng nhắc về độc lập, tự chủ, cũng như không chủ động, sáng tạo tìm ra những
phương thức mới.
PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế nước ta hiện nay quá trình đầy hội
nhưng cũng nhiều thách thức tồn tại lẫn nhau. Đặc biệt trong những lúc thế giới bị ảnh
hưởng bởi COVID 19 hay chiến tranh Nga Ukraine thì càng làm cho tình hình kinh
tế bị ảnh hưởng trở nên phức tạp. Điều này cũng tác động nghiêm trọng đến nền
kinh tế của thế giới nói chung Việt Nam nói riêng. Việc nắm bắt hội và đối phó
với thách thức một việc hết sức quan trọng cần thiết vai trò chủ chốt tính
quyết định rất lớn là hoạt động điều hướng đúng đắn của lãnh đạo Đảng ta trên tinh
thần đoàn kết dân tộc. Thực tế đã chứng minh việc kiên định nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình con đường đúng đắn nước ta đã đang hướng
tới. Những thành tựu đạt được trong quá khứ và cả tương lai sẽ là bước đệm vững chắc
cho đất nước ta tiến lên hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn
minh.
19
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn đến các quý thầy/cô... khoa…, Trường…
đã tạo hội cho được học tập, rèn luyện tích lũy kiến thức, kỹ năng để thực hiện khóa
luận.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn đến giảng viên hướng dẫn… đã tận tình chỉ dẫn, theo dõi
đưa ra những lời khuyên bổ ích giúp em giải quyết được các vấn đề gặp phải trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành đề tài một cách tốt nhất.
Do kiến thức của bản thân còn hạn chế thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung khóa
luận khó tránh những thiếu sót. Em rất mong nhận sự góp ý, chỉ dạy thêm từ quý thầy cô.
Cuối cfng, em xin chúc quý thầy luôn thật nhiều sức khỏe đạt được nhiều thành công
trong công viê hc.
Trân trọng.
20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Admin Luật Văn Anpha. (21/02/2022). Tiểu luận: Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam 9 điểm. Truy cập ngày 25/4/2023, từ https://trangluanvan.com/tieu-luan-hoi-
nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam/
Bài giảng Kinh tế Chính trị. Truy cập ngày 25/4/2023, từ tài liệu được cung cấp từ
giảng viên ĐHQT Hồng Bàng Nguyễn Thị Lịch.
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. Truy cập Bản chất và hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.
ngày 25/4/2023, từ https://www.voer.edu.vn/m/ban-chat-va-cac-hinh-thuc-hoi-nhap-
kinh-te-quoc-te/0f03e179/
Đinh Thuỳ Dung. (19/12/2022). Hội nhập quốc tế là gì? Nội dung hội nhập kinh tế
quốc tế?. Truy cập ngày 25/4/2023, từ https://luatduonggia.vn/hoi-nhap-quoc-te-la-gi-
noi-dung-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te/
Đội Ngũ Luật Sư Công Ty Luật ACC. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam. Truy cập 25/4/2023, từ https://accgroup.vn/noi-dung-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-
cua-viet-nam//
Lê Minh Trường. (27/11/2022). Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Tác động hội nhập
kinh tế quốc tế. Truy cập ngày 25/4/2023, từ https://luatminhkhue.vn/hoi-nhap-kinh-te-
quoc-te-la-gi-tac-dong-va-cac-loai-hinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.aspx/
Nhóm nghiên cứu Ban Kinh tế vĩ mô và Dự báo. (11/12/2020). Giải pháp tài chính
góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Truy cập ngày 25/4/2023, từ
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?
dDocName=MOFUCM187074/
Phạm Văn Sơn. (21/01/2021). Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế. Truy cập ngày 25/4/2023, từ
http://tapchiqptd.vn/vi/chao-mung-thanh-cong-dai-hoi-xiii-cua-dang/xay-dung-nen-
kinh-te-doc-lap-tu-chu-va-nang-cao-hieu-qua-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te/16610.html/
Trần Anh Tuấn. (28/4/2023). Khái quát chung về hội nhập quốc tế trong giai đoạn
hiện nay. Truy cập ngày 25/4/2023, từ https://moj.gov.vn/tttp/tintuc/Pages/thuong-mai-
tai-chinh.aspx?ItemID=5#_ftn1/
Trường Chính Trị. Những lợi ích kinh tế quốc gia của Việt Nam trong bối cảnh toà cầu
hoá và nội nhập quốc tế. Truy cập ngày 25/4/2023, từ
http://stnmt.kontum.gov.vn/vi/news/thong-tin-tuyen-truyen/nhung-loi-ich-kinh-te-
quoc-gia-cua-viet-nam-trong-boi-canh-toan-cau-hoa-va-hoi-nhap-quoc-te-1028.html/
21
| 1/24

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG
BỘ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
TÊN ĐỀ TÀI: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lịch SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1/ Nguyễn Trung Thành 2213070005 2/ Bùi Thị Thuỵ Vy 2212030004
3/ Ngô Ngọc Khánh Vy 2114211765 4/ Văn Hoàng Anh 2114211766
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 4 năm 2023
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT EU Liên minh châu Âu SEV
Hội đồng Tương trợ Kinh tế GATT
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại WTO
Tổ chức Thương mại Thế Giới FTAs
Các Khu vực Mậu dịch tự do CU Liên minh Hải quan CM Thị trường chung EMU
Liên minh Kinh tế và Tiền tệ ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á MFN
Nguyên tắc tối huệ quốc NAFTA
Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ SACU Liên minh Hải quan Nam Phi EEC
Cộng đồng Kinh tế châu Âu RTA
Thoả thuận thương mại khu vực PTA
Thoả thuận thương mại ưu đãi IMF Quỹ tiền tệ quốc tế WB Ngân hàng Thế Giới Mục lục
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG...................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................................... 1
LỜI CAM ĐOAN...............................................................................................................................................1 1.
Tính cấp thiết của đề tài:......................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................................................... 2
CHƯƠNG I...................................................................................................................................................... 2 1.
KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ..........................................2
CHƯƠNG II..................................................................................................................................................11 1.
KHÁI NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ................11 2.
TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
VIỆT NAM...................................................................................................................................................12
CHƯƠNG III.................................................................................................................................................15 1.
NỘI DUNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.................................................................................15
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................................................... 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................... 20 PHẦN MỞ ĐẦU LỜI CAM ĐOAN
Nhóm em xin cam đoan toàn bộ nội dung trong bài tiểu luận nghiên cứu đề tài HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
ĐỘC LẬP TỰ CHỦ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY là thành quả của nhóm tôi sau quá trình thực
hiện cẩn trọng và nghiêm túc. Nếu có bất kì phát hiện gian lận hay sao chép nào tôi xin được chịu hoàn toàn trách nhiệm.
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá hay hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế rất
đáng được quan tâm. Các nước vẫn luôn đua nhau phát triển vị thế kinh tế quốc tế và
Việt Nam cũng là một phần trong đó. Tại Đại hội X của Đảng cũng đã khẳng định:
“Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất
bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển”. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam vẫn đang từng bước tham gia và cố
gắng phát triển mạnh mẽ theo con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Sau gần 30 năm đổi
mới và bước chân vào thị trường quốc tế từ 1986, Việt Nam đã trải qua quá trình đầy
gian nan và thử thách. Tuy vậy, những thành công đã đạt được lại có ý nghĩa rất lớn và
cũng là bước đà để Việt Nam bước thêm sâu và rộng hơn trên con đường hội nhập đó.
Việc kết hợp nguồn nội lực dồi dào sẵn có cùng ngoại lực sẽ giúp Việt Nam mở rộng
nhiều thị trường xuất khẩu hơn để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như
học hỏi, tiếp thu những công nghệ kỹ thuật tiên tiến hay các kinh nghiệm đã được đúc
kết từ những nước phát triển. Tuy nhiên, việc hội nhập kinh tế quốc tế mang đến rất
nhiều cơ hội cho Việt Nam nhưng cùng đồng nghĩa rằng sẽ có không ít khó khăn, thử
thách. Do đó, nhóm em xin chọn đề tài: “Hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam và
những vấn đề đặt ra đối với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của Việt Nam hiện
nay”. Do thời gian nghiên cứu và khả năng của nhóm có hạn nên bài tiểu luận này
chúng em chỉ đề cập những điều cơ bản về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam cũng như một số giải pháp, quan điểm cơ bản để cung cấp thông tin đến người
đọc và cũng như góp phần giúp ích cho nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập hiện nay. 1 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I
1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1 Khái niệm
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, có lịch sử phát triển lâu dài và có
nguồn gốc, bản chất xã hội của lao động và sự phát triển văn minh của quan hệ giữa
con người với con người. Trong xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển phải có
mối liên kết chặt chẽ với nhau. Rộng hơn, ở phạm vi quốc tế, một quốc gia muốn phát
triển phải liên kết với các quốc gia khác. Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX cho
đến nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát
triển vượt bậc các lĩnh vực của đời sống xã hội và xã hội hóa cao của lực lượng sản
xuất. Quá trình xã hội hóa và phân công lao động ở mức độ cao đã vượt ra khỏi phạm
vi biên giới quốc gia và được quốc tế hoá ngày một sâu sắc. Sự quốc tế hoá như vậy
thông qua việc hợp tác ngày càng sâu giữa các quốc gia ở tầm song phương, tiểu khu
vực, khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc
gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia
sẻ có lợi ích, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung. Sau chiến tranh thế giới
thứ hai đã xuất hiện các tổ chức như EU, SEV, GATT. Từ những năm 1990 trở lại đây,
tiến trình này phát triển mạnh cùng với xu thế toàn cầu hoá đời sống kinh tế, thể hiện ở
sự xuất hiện của nhiều tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trước kia, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế chỉ được hiểu đơn thuần là những
hoạt động giảm thuế, mở rộng thị trường. Chẳng hạn, GATT trong suốt 38 năm ròng,
qua 7 vòng đàm phán cũng chỉ tập trung vào việc giảm thuế. Hội nhập kinh tế quốc tế
ngày nay được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các
định chế kinh tế-tài chính quốc tế, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại,
đầu tư bao gồm các lĩnh vực:
Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế suất bằng 0 đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.
Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với hoạt
động thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông (như giấy phép, tiêu chuẩn 2
chất lượng, vệ sinh kiểm dịch...) cần được chuẩn mực hoá theo các quy định chung
của WTO hoặc các thông lệ quốc tế và khu vực khác.
Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại, dịch vụ, tức là tự do hoá hiện nay có
khoảng 12 nhóm dịch vụ được đưa vào đàm phán, từ dịch vụ tư vấn giáo dục, tin
học đến các dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải...
Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở đường hơn nữa cho tự do hoá thương mại.
Điều chỉnh chính sách quản lý thương mại theo những quy tắc và luật chơi chung
quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại, như thủ tục hải
quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh ...Tại các diễn đàn quốc tế và khu
vực hiện nay, việc điều chỉnh và hài hoà các thủ tục hành chính liên quan đến giao
dịch thương mại được gọi là hoạt động thuận lợi hoá thương mại.
Triển khai các hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm nâng cao năng lực
của các nước trong quá trình hội nhập.
Như vậy, có thể thấy vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay không
chỉ đơn thuần là giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng cho
tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế-thương mại, nhằm mục tiêu mở
rộng thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối
với trao đổi thương mại quốc tế.
1.2 Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
Nhìn tổng thể thì hội nhập quốc tế có ba cấp độ chính là: Hội nhập toàn cầu,
khu vực và song phương. Các phương thức hội nhập này được triển khai trên các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội. Cho đến nay, đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế
được triển khai trên 3 lĩnh vực chính gồm: Hội nhập trong lĩnh vực kinh tế (hội nhập
kinh tế quốc tế), hội nhập trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực
khác. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập
trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. 3
1.2.1 Hợp tác kinh tế song phương
Loại hình đầu tiên cần nhắc tới khi nền kinh tế một quốc gia hội nhập cùng các
nền kinh tế quốc gia khác là hợp tác kinh tế song phương. Hợp tác kinh tế song
phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp định kinh tế, thương mại,
đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, FTAs song phương… Loại hình hội nhập
này thường hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia có chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế. Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là cột mốc
quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đại hội
được ví là “Đại hội của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến việc mở rộng giao lưu
quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Sau Đại
hội, hàng chục hiệp định thương mại, đầu tư song phương đã được kí kết giữa Việt
Nam và các nước khác trên thế giới. Ví dụ: Hiệp định về Thúc đẩy và bảo hộ đầu tư
lẫn nhau giữa Việt Nam và Australia ngày 05/3/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan về Khuyến
khích và Bảo hộ đầu tư lẫn nhau ngày 30/10/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Liên bang Nga về
Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 16/6/1994; Hiệp định Thương mại giữa Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa ngày 07/11/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về Khuyến khích
và bảo hộ đầu tư ngày 02/12/1992. Tính đến ngày 30/12/2018, Việt Nam đã có quan hệ
ngoại giao với 185 nước (so với 11 nước năm 1954); có 16 đối tác chiến lược, 14 đối
tác toàn diện. Việt Nam đã kí kết được trên 90 hiệp định thương mại song phương; gần
60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; 75 hiệp định tránh đánh thuế hai lần và
ngăn ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với các nước/vùng lãnh thổ trên thế giới. Có thể
kể đến một số hiệp định kinh tế song phương của Việt Nam với các đối tác quan trọng
như: Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2000), Hiệp định Đối tác kinh tế Việt
Nam - Nhật Bản (2008) - Đây là FTA song phương đầu tiên của Việt Nam (được kí kết
ngày 25/12/2018, có hiệu lực ngày 01/10/2009), Hiệp định Thương mại tự do song
phương Việt Nam - Hàn Quốc (2015), … 4
1.2.2 Hợp tác kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ XX và
phát triển cho đến ngày nay. Sự phân loại và khái niệm về các loại hình hội nhập kinh
tế khu vực có sự thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Theo kinh nghiệm
hội nhập kinh tế khu vực của Tây Âu, các học giả phân loại hội nhập kinh tế khu vực
thành các cấp độ từ thấp đến cao: FTA, CU, CM, EMU.
1.2.3 Khu mậu dịch tự do (FTA – theo quan niệm truyền thống)
Khu vực mậu dịch tự do là liên kết kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước nhằm mục
đích tự do hóa buôn bán một số mặt hàng nào đó, từ đó thành lập thị trường thống nhất
giữa các nước, nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập
với các nước ngoài khu vực mậu dịch tự do.
Với cách hiểu trên, yếu tố tự do di chuyển trong các FTA theo quan niệm truyền
thống chỉ là hàng hóa, mỗi nước thành viên trong quan hệ đối ngoại với các nước
ngoài FTA vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập. Với lý do này, các học giả cho
rằng đây là cấp độ thấp nhất của hội nhập kinh tế khu vực. Ví dụ: Trong Khu vực Mậu
dịch tự do ASEAN 1993 - 2015 (từ 31/12/2015 chuyển thành Cộng đồng Kinh tế
ASEAN), thuế quan giữa các nước thành viên chỉ là 0 - 5%. Tuy nhiên, mỗi thành viên
của Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN lại có chính sách thuế quan riêng đối với các
nước ngoài khu vực như: Mức thuế xuất nhập khẩu trung bình của Việt Nam MFN với
các thành viên WTO là 13,4%, trong khi Singapore có mức thuế 0% cho hàng hóa nhập khẩu từ Hoa Kỳ.
Cách hiểu theo quan niệm truyền thống trên về FTA hiện không còn phù hợp.
Đặc biệt từ những năm 90 của thế kỉ XX đến nay đã xuất hiện trào lưu FTA thế hệ
mới, theo đó, khái niệm FTA không chỉ tạo ra sự tự do dịch chuyển hàng hóa, mà còn
bao hàm sự tự do dịch chuyển của nhiều yếu tố khác như: dịch vụ, vốn, lao động...
Ví dụ: NAFTA được đánh giá là một hiệp định thương mại toàn diện và tiên tiến ở thời
điểm ra đời. Đây là mô hình FTA hiện đại vượt ra khỏi khái niệm FTA truyền thống
với sự tự do dịch chuyển của hàng hóa, dịch vụ, sức lao động và đầu tư. Theo quan
điểm của Walter Goode đưa ra trong Từ điển Chính sách thương mại quốc tế thì FTA
được hiểu là “Một nhóm gồm hai hay nhiều nước cùng xóa bỏ thuế quan và tất cả hoặc
phần lớn các biện pháp phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước này. 5
Các nước tham gia FTA có thể tiếp tục áp dụng thuế quan của nước mình đối với hàng
hóa bên ngoài, hoặc nhất trí xây dựng một biểu thuế quan đối ngoại chung”. Khái niệm
FTA này giống với khái niệm CU ở điểm cho phép thiết lập một biểu thuế quan đối ngoại chung.
1.2.4 Liên minh hải quan (Custom Union – CU)
Liên minh hải quan là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên thỏa thuận
loại bỏ thuế quan trong quan hệ thương mại nội bộ, đồng thời thiết lập một biểu thuế
quan chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới. Theo Từ điển
Chính sách thương mại quốc tế của Walter Goode: “Liên minh hải quan là một khu
vực gồm có hai hay nhiều nền kinh tế hoặc lãnh thổ hải quan riêng biệt, có quy định
loại bỏ mọi loại thuế và đôi khi cả những rào càn đối với việc mở rộng thương mại
giữa chúng. Các thành viên lập nên khu vực sau đó sẽ áp dụng một loại thuế đối ngoại
chung”. Như vậy, có thể nhận thấy, CU là hình thức liên kết có tính thống nhất, tổ chức
cao hơn so với FTA. Cả hai loại hình hội nhập kinh tế khu vực này đều là sự thỏa
thuận giữa hai hoặc nhiều quốc gia, theo đó các quốc gia thỏa thuận với nhau về loại
bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan khác đối với toàn bộ hoặc một phần hoạt
động mậu dịch của họ. Nhưng trong chính sách thuế quan với các nước ngoài khối thì
FTA và CU có sự khác biệt. Nếu như trong FTA: Các nước thực hiện chính sách thuế
quan độc lập trong quan hệ với các nước ngoài FTA; Thì đối với CU: Các nước thành
viên có biểu thuế quan chung với các nước ngoài CU. Sự ưu đãi nội bộ đã tạo ra sự
phân biệt đối xử đối với các nước ngoài FTA và CU. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử
này được chấp nhận như một ngoại lệ của nguyên tắc không phân biệt đối xử - Điều
XXIV GATT. Theo Điều XXIV GATT, khi các nước thành viên trong khu vực thành
lập FTA hoặc CU, các liên kết kinh tế này sẽ có quy chế đặc biệt, theo đó các thành
viên của liên kết kinh tế khu vực sẽ áp dụng cho nhau chế độ thương mại nội bộ ở mức
ưu đãi hơn so với các nước ngoài liên kết kinh tế. Ngoại lệ này cũng dành cho cả
trường hợp quan hệ thương mại biên giới. Ví dụ về một số CU trên thế giới: SACU;
EEC thành lập năm 1957 - Từ năm 1968 đến trước những năm 80 của thế kỉ XX, EEC
là một liên minh hải quan với chính sách thuế quan đối ngoại chung.
1.2.5 Thị trường chung (Common Market – CM) 6
Thị trường chung là liên kết kinh tế được đánh giá có mức độ hội nhập cao hơn
so với cu. Theo đó, ở mức độ liên kết này, các nước thành viên ngoài việc cho phép tự
do di chuyển hàng hóa, còn thoả thuận cho phép tự do di chuyển tư bản và sức lao
động giữa các nước thành viên với nhau. Ví dụ: EU từ năm 1993, đã thiết lập Thị
trường chung châu Âu; Thị trường chung Nam Mỹ được thành lập năm 1991 gồm:
Argentina, Brazil, Uruguay, Paraguay, Venezuela, Bolivia, Chile, Colombia, Ecuador
và Peru; Thị trường chung Caribe được thành lập năm 1973 gồm 15 thành viên chính
thức là các quốc gia có chủ quyền ở Caribe và các khu vực phụ thuộc.
1.2.6 Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic and Monetary Union – EMU)
Các quốc gia tham gia liên kết kinh tế khu vực, muốn đạt đến cấp độ liên minh
kinh tế và tiền tệ, cần có hai giai đoạn phát triển là Liên minh kinh tế và Liên minh tiền tệ. 1.2.7 Liên minh kinh tế
Liên minh kinh tế tiếp tục được đánh giá là cấp độ liên kết cao hơn thị trường
chung, thể hiện ở việc: Ngoài yếu tố tự do di chuyển là hàng hóa, tư bản, sức lao động
còn mở rộng thêm yếu tố tự do dịch chuyển cho dịch vụ giữa các nước thành viên. Bên
cạnh đó, các nước thành viên cùng nhau thiết lập một bộ máy tổ chức điều hành sự
phối hợp kinh tế giữa các nước nhằm tạo ra một không gian kinh tế thống nhất, cơ
cấu kinh tế tối ưu, xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên.
Ví dụ: Liên minh kinh tế Benelex giữa Bỉ - Hà Lan - Luxembourg được thành lập năm
1944; Liên minh kinh tế Á – Âu chính thức hoạt động vào năm 2015 giữa các nước
Armenia, Belarus, Kazakhstan, Nga, và Kyrgyzstan. 1.2.8 Liên minh tiền tệ
Liên minh tiền tệ là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên phải phối hợp
chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất và cuối
cùng là sử dụng chung một đồng tiền.
Liên minh tiền tệ là hình thức rất khó thực hiện trong các liên kết kinh tế, nó có
những đặc trưng riêng có sau: Hình thành đồng tiền chung thống nhất thay thế cho các
đồng tiền riêng của các nước thành viên; Thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ; xây
dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng Trung ương của các nước 7
thành viên; Xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước
đồng minh và các tổ chức tiền tệ quốc tế. Ví dụ: EMU tại thời điểm ra đời ngày
01/01/1999 gồm 11 nước thành viên, sử dụng chung đồng tiền EURO. Các nước thành
viên được sử dụng chung song song hai loại tiền EURO và tiền quốc gia trong thời
gian quá độ 3 năm. Kể từ ngày 01/01/2002, đồng EURO chính thức được lưu hành
trong 12 nước thành viên gồm Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Hà Lan, Phần Lan, Hy Lạp, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Luxembourg, Ireland, Italia. Các nước quyết định đứng ngoài
EMU là Anh, Đan Mạch và Thụy Điển. Tính đến tháng 01/2019, Liên minh tiền tệ
châu Âu có 19 nước thành viên trong tổng số 28 nước EU. Tiêu chuẩn để các nước EU
có thể tham gia và Liên minh tiền tệ châu Âu không hề dễ dàng, theo đó: Lạm phát
không cao hơn 1,5% so với mức trung bình của ba thành viên có mức lạm phát thấp
nhất trong EMU; Thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP; Nợ công không quá 60%
GDP; Lãi suất dài hạn không cao hơn 2% mức trung bình của ba thành viên có mức lãi
suất thấp nhất; Tham gia vào Cơ chế tỉ giá hối đoái ít nhất hai năm mà không có biến
động mạnh trượt khỏi tỉ giá trung tâm.
1.2.9 Trào lưu FTA (Free Trade Agreement) thế hệ mới
Năm 1995, WTO ra đời, đánh dấu mốc lần đầu tiên trong lịch sử có một tổ chức
thương mại có quy mô toàn cầu, thiết lập và vận hành các chuẩn mực thương mại đa
phương. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các hình thức hợp tác kinh tế khu vực, lấy nền tảng là
các nguyên tắc lớn của WTO, cũng đã có sự phát triển mạnh mẽ kể từ khi tổ chức này
ra đời. Trong những thập niên gần đây, các cơ chế hợp tác kinh tế khu vực đang chứng
tỏ vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc xây dựng, cũng như tăng cường quan
hệ thương mại giữa các đối tác, đặc biệt sau thất bại của vòng đàm phán Doha. Theo
quan điểm của WTO, các RTA khác với các PTA ở tính chất có đi có lại. Các PTA bao
gồm các ưu đãi thương mại đơn phương mà quốc gia được hưởng ưu đãi không có
nghĩa vụ dành các ưu đãi tương đương theo nguyên tắc có đi có lại. Ví dụ về PTA: Quy
chế ưu đãi thuế quan phổ cập của các nước phát triển dành cho các nước đang và kém
phát triển. Trong khi đó, RTA là các thỏa thuận có đi có lại giữa hai hay nhiều nước.
Theo thống kê chính thức của WTO, các RTA bắt đàu tăng lên nhanh chóng về số
lượng kể từ đầu những năm 1990. Nếu như trước khi WTO ra đời, số lượng các tổ
chức khu vực trên thế giới chỉ là hàng chục, thì hiện nay con số đã là hàng trăm. Trong 8
giai đoạn 1948 - 1994, GATT đã nhận được 124 thông báo về các RTAs và kể từ khi
thành lập WTO vào năm 1995, đã có thông báo hơn 400 thoả thuận bổ sung về thương
mại hàng hóa hoặc dịch vụ. Tính đến tháng 6/2016, tất cả các thành viên của WTO đều
có một RTA đang có hiệu lực. Tính đến thời điểm ngày 03/02/2020, WTO đã nhận
được 484 thông báo từ các thành viên WTO, trong đó 304 RTA đang có hiệu lực.
Trong số các RTA này, FTA và thỏa thuận ưu đãi một phần chiếm đa số, liên minh hải
quan chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ tầm 10%.
Ở phạm vi khu vực, các FTA cũng đang ngày càng tăng lên về số lượng. Năm
1975 cả châu Á chỉ có 1 FTA thì tính đến tháng 01/2020, số lượng các FTA mà các
quốc gia mà nền kinh tế thành viên khu vực châu Á Thái Bình Dương tham gia là 265.
Có thể đơn cử sự tham gia vào FTA của một số nước trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương: Việt Nam tham gia vào 26 FTA, Singpore tham gia vào 43 FTA, Thái
Lan tham gia vào 37 FTA, Malaysia tham gia vào 34 FTA, Trung Quốc tham gia vào
45 FTA, Nhật Bản tham gia vào 32 FTA… Hiện tượng một quốc gia tham gia vào
nhiều FTA vừa cho phép mở rộng nhanh thị trường, vừa tháo gỡ được những khó khăn
mang tính đặc thù trên từng thị trường chủ lực, từ đó tăng tốc tiến trình hội nhập khu
vực và quốc tế. Điển hình cho trào lưu liên kết kinh tế khu vực thời kì này là sự xuất
hiện của các FTA thế hệ mới.
Đặc trưng của các FTA thế hệ mới:
Nếu FTA theo quan niệm truyền thống: chỉ cho phép tự do di chuyển hàng hóa;
thì FTA thế hệ mới cho phép tự do di chuyển thêm nhiều các yếu tố khác với mức độ
cam kết ngày càng sâu như: Đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ, trợ cấp, mua sắm chính
phủ...; Một số FTA thế hệ mới còn bao gồm cả các nội dung vốn được coi là “phi
thương mại” như: lao động, môi trường, cam kết phát triển bền vững và quản trị tốt...
Các FTA giữa các bên không có sự gần gũi về địa lý xuất hiện ngày càng nhiều. Ví
dụ, FTA giữa Hoa Kỳ và Singapore.
Phạm vi cam kết ngày càng rộng và mức độ cam kết ngày càng sâu: mức độ tự
do hóa có thể vượt lên trên khuôn khổ pháp lý hiện tại. Có thể:
Hàm chứa các cam kết cao hơn trong khuôn khổ WTO
Điều chỉnh những vấn đề không thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO 9
Khác với các FTA trước đây chủ yếu ảnh hưởng tới chính sách thuế quan tại
biên giới, các FTA thế hệ mới cam kết ảnh hưởng trực tiếp và lớn đến thể chế, chính
sách pháp luật nội địa.
Bên cạnh các FTA giữa các nước phát triển và đang phát triển (như giữa Hoa
Kỳ - Chile, EU - Thái Lan, EU - Việt Nam, Việt Nam - Hàn Quốc...) đã xuất hiện các
FTA giữa các “siêu cường thương mại”.
Mở đầu là thỏa thuận giữa Australia và Hoa Kỳ.
Tiếp đó là các hiệp định đã hoặc đang được đàm phán như EU - Nhật Bản, EU -
Canada, EU - Hoa Kỳ, Nhật Bản - Australia...
Như vậy, với sự xuất hiện của trào lưu FTA thế hệ mới, quan niệm truyền thống
về hội nhập kinh tế khu vực khi chia liên kết kinh tế khu vực thành các cấp độ khác
nhau không còn phù hợp; mà thay vào đó là các FTA thế hệ mới với cách tiếp cận rộng
và mức độ hội nhập sâu hơn rất nhiều. Ví dụ về FTA thế hệ mới: Hiệp định Đối tác
toàn diện và tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương, bao gồm 11 nước thành viên: Canada,
Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia
và Việt Nam, có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/01/2019; FTA giữa Việt Nam – EU
khi có hiệu cũng sẽ trở thành FTA thế hệ mới điển hình mà Việt Nam tham gia kí kết.
1.3 Hội nhập kinh tế toàn cầu
Nếu như hợp tác kinh tế song phưong là sự hợp tác của nhóm gồm chỉ hai nước
với nhau, thông qua các hiệp định kinh tế song phương được thiết lập bởi hai nước thì
hội nhập kinh tế khu vực tiếp tục phát triển rộng hơn về phạm vi hội nhập, đó là giữa
một nhóm các nước trong cùng khu vực hoặc liên khu vực với nhau, thông qua các
hiệp định kinh tế đa phương được thiết lập bởi những tổ chức kinh tế có tính khu vực;
Đen hội nhập kinh tế toàn cầu phạm vi hội nhập giữa các nước đã được mở rộng trên
phạm vi toàn thế giới, thông qua các hiệp định kinh tế đa phương hoặc đa biên được
thiết lập bởi những tổ chức kinh tế có tính toàn cầu. Các tổ chức kinh tế quốc tế có tầm
ảnh hưởng, chi phối toàn cầu cần phải nhắc tới như: WTO, IMF, WB hay các tổ chức
kinh tế quốc tế thuộc hệ thống UN như: ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại
quốc tế, Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển...
Ví dụ: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ năm 1995, sau 12 năm đàm
phán, tới năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức 10
thương mại lớn nhất hành tinh này. Khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị
trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã
được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử; Việt Nam có được vị
thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại
toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn,
hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. CHƯƠNG II
1. KHÁI NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Xu thế khách quan
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mô toàn cầu.
Như vậy, toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người khác
nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái liên kết gắn bó thành một
thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một
vấn đề xảy ra ở vùng miền này, ở cộng đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới
các vùng miền, các cộng đồng người khác trên quy mô toàn thế giới.
Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện : kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
… trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng nổi trội, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở
và là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia
tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt ra khỏi biên giới quốc gia, khu vực, tạo
ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới
một nền kinh tế thế giới thống nhất. Toàn cầu hóa đi liền với khu vực hóa. Khu vực
hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như
khu vực mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị trường chung, 11
đồng minh kinh tế… Nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng
bước xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển vốn, lực lượng lao động, hàng hoá
dịch vụ …tiến tới tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực.
Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động
quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng ra tăng, khiến cho
nền kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ, không thể tách rới nền kinh tế
toàn cầu. Trong toàn cấu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi
toàn cầu. Do đó nếu không hội nhập kinh tế quốc tế các nước không thể tự đảm bảo
được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra
cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày
càng nhiều và tận dụng được các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp, biến nó
thành động lực cho sự phát triển.
1.2 Phương pháp phổ biến
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội
để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công
nghệ, kinh nghiệm của các nước cho sự phát triển của mình. Khi mà các nước tư bản
giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất
và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ có phát triển kinh
tế mở và hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể tiếp cận được
những năng lực này cho phát triển của mình. Ngoài ra, hội nhập quốc tế còn là con
đường để tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách đối với các nước
tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến ổn định kinh tế vĩ mô. Việc
mở cửa thị trường, thu hút vốn không chỉ thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà
còn tăng tích lũy, cải thiện thâm hụt ngân sách, tạo niềm tin cho các chương trình hỗ
trợ quốc tế trong cải cách kinh tế và mở cửa, tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới, nâng
cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên, trong quá trình toàn
cầu hóa, các nước tư bản với những ưu thế về vốn và công nghệ đang biến quá trình
toàn cầu hóa thành quá trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo của chủ
nghĩa tư bản. Các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với nhiều rủi ro và thách
thức (gia tăng sự phụ thuộc, bất bình đẳng trong thương mại). Bởi vậy, các nước đang 12
và kém phát triển cần phải có chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù hợp đẻ
thích ứng với quá trình toàn cầu hóa đa bình diện và đầy nghịch lý.
2. TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
2.1 Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Tác động tích cực của hội nhập quốc tế là tạo điều kiện cho mỗi nước tìm cho
mình một vị trí thích hợp trong trật tự thế giới mới, giúp tăng uy tín và vị thế; tăng khả
năng duy trì an ninh, hoà bình, ổn định và phát triển ở phạm vi khu vực và thế giới. Qua đó, chúng ta có thể:
Mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất
trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của đất nước trong phân công lao động
quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi
mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn.
Nâng cao trình độ nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia.
Tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế.
Là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới.
Tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điều kiện cho cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã
hội mở, dân chủ, văn minh.
Góp phần đảm báo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế
để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các
nỗ lực và nguồn lực của các nước để giả quyết những vấn đề chung mang tính toàn cầu.
2.2 Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đó là sẽ làm tăng nguy cơ bản sắc dân
tộc, văn hóa truyền thống bị xói mòn, lấn át bởi văn hóa nước ngoài. Làm gia tăng sự
cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn
trong phát triển, thậm chí phá sản, gây hậu quả bất lợi về mặt kinh tế. Có thể làm gia 13
tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế
dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường
quốc tế. Dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các
nhóm khác nhau trong xã hội, làm tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng
trong xã hội. Các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài
nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Tạo ra một số thách thức
đối với quyền lực nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp
với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội. Làm gia tăng nguy cơ của
tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế, vừa có những nguy cơ to lớn với những hậu quả khó lường.
Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là
vấn đề cẩn đặc biệt coi trọng.
2.3 Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong phát triển của Việt Nam
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo các vấn đề về hội nhập.
Tổ chức thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế ...
Mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. ...
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải.
2.4 Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại
Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế có tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn
đến những vấn đề cốt lõi của hội nhập, về thực chất là sự nhận thức quy luật vận động
khách quan của lịch sử xã hội. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng
chủ trương và chính sách phát triển thích ứng. Trong nhận thức, phải xác định được
hội nhập kinh tế là tất yếu khách quan, là xu thế khách quan của thời đại, không một
quốc gia nào có thể nằm ngoài xu thế đó. Nhận thức cần thấy rõ, hội nhập kinh tế có
tác động đa chiều, đa phương diện gồm cả mặt tích cực và tiêu cực. Trong đó phải coi 14
mặt tích cực, thuận lợi là cơ bản, nhưng cũng phải thấy được những mặt trái những thách thức của nó.
Về chủ thể tham gia hội nhập, nhà nước là một chủ thể quan trọng (dẫn dắt và
hỗ trợ các chủ thể khác trongtiến trình hội nhập). Nhưng hội nhập là sự hội nhập của
toàn xã hội, là sự nghiệp của toàn dân, trong đó doanh nghiệp, doanh nhân và đội ngũ
trí thức là lực lượng nòng cốt. Thực tế hiện nay, chủ trương, đường lối chính sách về
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và nhà nước có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp
thời, đầy đủ và thực hiện nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi
cách tiếp cận phiến diện, ngắn hạn và cục bộ, nên chưa tận dụng được hết các cơ hội
và ứng pháo hữu hiệu với các thách thức.
2.5 Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp
Chiến lược kinh tế là một kế hoạch tổng thể về phương hướng, mục tiêu và các
giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế phải phù hợp với
điều kiện, khả năng thực tế: Cần đánh giá đúng bối cảnh quốc tế, xu hướng vận động
của kinh tế, chính trị thế giới; tác động của toàn cầu hóa, của cách mạng công nghiệp
đối với các nước và cụ thể hóa đối với nước ta. Trong đó, cần chú ý đến sự chuyển
dịch tương quan sức mạnh kinh tế giữa các trung tâm; xu hướng liên kết kinh tế đa
tầng nấc; đánh giá được vai trò của của các tổ chức kinh tế, các công ty xuyên quốc gia
và của các nước lớn. Đánh giá được những điều kiện khách quan và chủ quan có ảnh
hưởng đến hội nhập kinh tế của nước ta. Cần làm rõ vị trí của Việt Nam để xác định
khả năng và điều kiện để Việt Nam có thể hội nhập.
Hiện nay, hội nhập kinh tế của nước ta đã và đang được đẩy nhanh về tốc độ
cũng như phạm vi song việc chuẩn bị bên trong lại không đi liền với tiến trình này.
Xây dựng phương hướng, mục tiêu, giải pháp hội nhập kinh tế phải đề cao tính hiệu
quả, phù hợp với thực tiễn về năng lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, tiềm lực khoa học
công nghệ và lao động theo hướng tích cực, chủ động. Chiến lược hội nhập kinh tế
phải gắn với tiến trình hội nhập toàn diện và có tính mở, điều chỉnh linh hoạt để ứng
phó kịp thời với sự biến động của thế giới và các tác động của mặt trái phát sinh trong
quá trình hội nhập kinh tế. CHƯƠNG III
1. NỘI DUNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 15
1.1 Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của Việt Nam
Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải có được 2 yếu tố cơ bản: Quốc gia
phải độc lập, tự chủ trong việc xây dựng đường lối, chính sách về phát triển kinh tế -
xã hội. Bên cạnh đó, để một nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ thì cần phải đảm bảo có
nội lực đủ mạnh về năng lực sản xuất của nền kinh tế. Nền kinh tế độc lập, tự chủ là
nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác, người khác hoặc vào một tổ
chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những
điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ… để áp đặt, khống chế, làm tổn hại
chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế là chủ trương đúng, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của
thời đại. Đây là vấn đề luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta. Theo đó, độc
lập và tự chủ là năng lực của quốc gia trong giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về đối
nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia, không bị sự thống trị, lệ thuộc, chi phối mang
tính cưỡng bức, áp đặt từ bên ngoài. Quốc gia độc lập, tự chủ là quốc gia có quyền
quyết định việc lựa chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị, độc lập, tự
chủ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong đó,
độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để giữ vững độc lập, tự chủ về
chính trị và tăng cường độc lập, tự chủ của quốc gia; không thể có độc lập, tự chủ về
chính trị trong khi lệ thuộc về kinh tế. Tuy nhiên, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
không có nghĩa là khép kín, tách bạch với khu vực và thế giới mà được thực hiện
thông qua việc phát huy sức mạnh nội lực kết hợp với ngoại lực, phù hợp với yêu cầu
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội
nhập kinh tế quốc tế là quan điểm nhất quán, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ trương
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Đảng trong điều kiện mới. Quá trình lãnh đạo
phát triển kinh tế, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng
ta luôn nhất quán, vận dụng sáng tạo, phù hợp chủ trương: giữ vững độc lập, tự chủ đi
đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa
vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài; xây
dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới. Nghị quyết số 06-NQ/TW,
ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh 16
nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chủ trương: tăng cường
khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ,
tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Đánh giá kết quả
thực hiện Nghị quyết Đại hội XII về hội nhập kinh tế quốc tế, Dự thảo Báo cáo Chính
trị trình Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương,
đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh,
đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. “Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa
tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỷ USD năm 2010 lên 517 tỷ USD năm 2019, năm 2020 do ảnh
hưởng nặng nề của dịch Covid-19 đạt khoảng 527 tỷ USD, tương đương trên 190%
GDP. Xuất khẩu tăng nhanh, từ 72,2 tỷ USD năm 2010 lên khoảng 267 tỷ USD năm
2020, tăng bình quân khoảng 14% năm, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh
tế”3, v.v. Đó là minh chứng khẳng định chủ trương nhất quán, đúng đắn, sáng tạo của
Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế. Sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những hạn chế và nguy cơ tụt hậu; độ mở
cửa nền kinh tế cao, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn mức
độ. Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước
đều thống nhất với nhau ở mục tiêu cuối cùng là vì lợi ích của quốc gia - dân tộc. Mục
tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân và để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế; đồng thời, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện
bảo đảm cho nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện tốt, trong những
năm tới, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện đồng bộ một số yêu cầu và giải pháp trọng tâm sau:
Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược
phát triển kinh tế đất nước. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, bài học kinh
nghiệm qua hơn 35 năm đổi mới, bảo đảm cho xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất
nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng
tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh 17
tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài. Hiện nay, “Nhiều
doanh nghiệp nhà nước… hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ,
thua lỗ, lãng phí còn lớn… Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ
công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu” .6 Vì vậy, cần phải thúc đẩy
doanh nghiệp phát triển lớn mạnh, bảo đảm tốt an ninh kinh tế và không ngừng
tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia, khả năng chống chịu trước tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, qua đó, vừa khai thác tiềm
năng, lợi thế của các thị trường, vừa tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác,
nhất là khi thị trường hay đối tác đó có sự biến động.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết
quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở
cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký kết, tham gia nhiều điều ước, cam kết
quốc tế và các hiệp định thương mại tự do thế hê ž mới với những cam kết sâu rộng,
toàn diê žn. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp
với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù
hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước từng giai đoạn. Hội nhập kinh tế quốc tế
bao gồm nhiều hình thức với mức độ và yêu cầu khác nhau, như: thỏa thuận
thương mại ưu đãi, khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường
chung, liên minh kinh tế, v.v. Vì vậy, cần phải thực hiện nhiều hình thức với các lộ
trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, khả năng và mục tiêu của đất nước từng giai
đoạn, góp phần tích cực xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác
hội nhập kinh tế quốc tế, am hiểu sâu về luật pháp, thương mại, đầu tư, văn hóa,
ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế, giải quyết các
tranh chấp, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
1.2 Về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX nhấn mạnh: “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia”. Đây là
phương thức kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Độc lập, tự chủ là 18
khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc, hội nhập quốc tế là phương thức phát triển
đất nước, chúng có mối quan hệ biện chứng; vừa tạo tiềm lực để cho nhau và phát huy
lẫn nhau, vừa thống nhất với nhau trong việc thực hiện mục tiêu của đất nước, của dân
tộc, trước hết là mục tiêu phát triển và an ninh.
Do đó, giữ vững độc lập tự chủ là cơ sở để đẩy mạnh hội nhập quốc tế có hiệu
quả vì có độc lập tự chủ mới quyết định được chiến lược tổng thể, mức độ, phạm vi, lộ
trình và bước đi hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực, nếu không có độc lập, tự chủ thì
quá trình hội nhập sẽ bị “hòa tan” và mục tiêu sẽ không đạt được. Ngược lại hội nhập
quốc tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện, tạo thế thuận lợi để giữ vững độc lập, tự chủ. Hội
nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững độc lập,
tự chủ: Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc; tạo
ra sự phân hóa thu nhập góp phần làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội; làm cho lợi
ích nhóm nổi trội hơn, nhất là có sự liên kết với yếu tố nước ngoài, dẫn đến quá trình
quyết sách thêm phức tạp. Hội nhập quốc tế không hiệu quả sẽ làm suy giảm độc lập,
tự chủ, suy giảm chủ quyền quốc gia.
Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và quan niệm
cứng nhắc về độc lập, tự chủ, cũng như không chủ động, sáng tạo tìm ra những phương thức mới. PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay là quá trình đầy cơ hội
nhưng cũng nhiều thách thức tồn tại lẫn nhau. Đặc biệt trong những lúc thế giới bị ảnh
hưởng bởi COVID 19 hay chiến tranh Nga – Ukraine thì càng làm cho tình hình kinh
tế bị ảnh hưởng và trở nên phức tạp. Điều này cũng tác động nghiêm trọng đến nền
kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc nắm bắt cơ hội và đối phó
với thách thức là một việc hết sức quan trọng và cần thiết mà vai trò chủ chốt có tính
quyết định rất lớn là hoạt động điều hướng đúng đắn của lãnh đạo và Đảng ta trên tinh
thần đoàn kết dân tộc. Thực tế đã chứng minh việc kiên định nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình là con đường đúng đắn mà nước ta đã và đang hướng
tới. Những thành tựu đạt được trong quá khứ và cả tương lai sẽ là bước đệm vững chắc
cho đất nước ta tiến lên và hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh. 19 LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn đến các quý thầy/cô... khoa…, Trường…
đã tạo cơ hội cho được học tập, rèn luyện và tích lũy kiến thức, kỹ năng để thực hiện khóa luận.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn đến giảng viên hướng dẫn… đã tận tình chỉ dẫn, theo dõi và
đưa ra những lời khuyên bổ ích giúp em giải quyết được các vấn đề gặp phải trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành đề tài một cách tốt nhất.
Do kiến thức của bản thân còn hạn chế và thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung khóa
luận khó tránh những thiếu sót. Em rất mong nhận sự góp ý, chỉ dạy thêm từ quý thầy cô.
Cuối cfng, em xin chúc quý thầy cô luôn thật nhiều sức khỏe và đạt được nhiều thành công trong công viê h c. Trân trọng. 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Admin Luật Văn Anpha. (21/02/2022). Tiểu luận: Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam 9 điểm. Truy cập ngày 25/4/2023, từ https://trangluanvan.com/tieu-luan-hoi-
nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam/
Bài giảng Kinh tế Chính trị. Truy cập ngày 25/4/2023, từ tài liệu được cung cấp từ
giảng viên ĐHQT Hồng Bàng Nguyễn Thị Lịch.
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. T
Bản chất và hình thức hội nhập kinh tế quốc tế. ruy cập
ngày 25/4/2023, từ https://www.voer.edu.vn/m/ban-chat-va-cac-hinh-thuc-hoi-nhap- kinh-te-quoc-te/0f03e179/
Đinh Thuỳ Dung. (19/12/2022). Hội nhập quốc tế là gì? Nội dung hội nhập kinh tế
quốc tế?. Truy cập ngày 25/4/2023, từ https://luatduonggia.vn/hoi-nhap-quoc-te-la-gi-
noi-dung-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te/
Đội Ngũ Luật Sư Công Ty Luật ACC. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam. Truy cập 25/4/2023, từ https://accgroup.vn/noi-dung-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te- cua-viet-nam//
Lê Minh Trường. (27/11/2022). Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Tác động hội nhập
kinh tế quốc tế. Truy cập ngày 25/4/2023, từ https://luatminhkhue.vn/hoi-nhap-kinh-te-
quoc-te-la-gi-tac-dong-va-cac-loai-hinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.aspx/
Nhóm nghiên cứu Ban Kinh tế vĩ mô và Dự báo. (11/12/2020). Giải pháp tài chính
góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Truy cập ngày 25/4/2023, từ
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=MOFUCM187074/
Phạm Văn Sơn. (21/01/2021). Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế. Truy cập ngày 25/4/2023, từ
http://tapchiqptd.vn/vi/chao-mung-thanh-cong-dai-hoi-xiii-cua-dang/xay-dung-nen-
kinh-te-doc-lap-tu-chu-va-nang-cao-hieu-qua-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te/16610.html/
Trần Anh Tuấn. (28/4/2023). Khái quát chung về hội nhập quốc tế trong giai đoạn
hiện nay. Truy cập ngày 25/4/2023, từ https://moj.gov.vn/tttp/tintuc/Pages/thuong-mai- tai-chinh.aspx?ItemID=5#_ftn1/
Trường Chính Trị. Những lợi ích kinh tế quốc gia của Việt Nam trong bối cảnh toà cầu
hoá và nội nhập quốc tế. Truy cập ngày 25/4/2023, từ
http://stnmt.kontum.gov.vn/vi/news/thong-tin-tuyen-truyen/nhung-loi-ich-kinh-te-
quoc-gia-cua-viet-nam-trong-boi-canh-toan-cau-hoa-va-hoi-nhap-quoc-te-1028.html/ 21