Đề cương ôn tập học kỳ 1 Ngữ văn 7 Chân trời sáng tạo 2023-2024

Tổng hợp toàn bộ Đề cương ôn tập học kỳ 1 Ngữ văn 7 Chân trời sáng tạo 2023-2024 được biên soạn đầy đủ và chi tiết . Các bạn tham khảo và ôn tập kiến thức đầy đủ cho kì thi sắp tới . Chúc các bạn đạt kết quả cao và đạt được những gì mình hi vọng nhé !!!!

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP CUI HC KÌ 1
MÔN NG VĂN 7
A. CU TRÚC ĐỀ KIM TRA
HÌNH THC: T LUN
1.
Đọc - hiu: 6.0 điểm
2.
Viết bài văn: 4.0 đim
B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
I. NG LIU: S dng ng liu t các văn bản ngoài chương trình SGK.
YÊU CU:
Ngh luận văn học
- Nhn biết được các ý kiến, lí l, bng chứng trong văn bản ngh lun
- Nhn biết được đặc điểm của văn bản ngh lun
- Xác định được mục đích, nội dung chính của văn bản
- Ch ra được mi liên h gia ý kiến, lí l và bng chng
- Ch ra được mi quan h giữa đặc điểm văn bản vi mục đích của nó
- Rút ra nhng bài hc cho bn thân t nội dung văn bản.
- Th hiện được thái độ đồng tình hoặc không đồng tình vi vấn đề đặt ra trong văn bản
Tản văn, tuỳ bút
- Nhn biết được các chi tiết tiêu biểu, đề tài, cnh vật, con người, s kin
- Nhn biết được cái tôi, s kết hp gia cht t s, tr tình, ngh luận, đặc trưng ngôn ngữ
- Phân tích được nét riêng v cnh vật, con người được tái hin trong tùy bút, tản văn.
- Hiu và lí giải được nhng trng thái tình cm, cm xúc của người viết được th hiện qua văn bản.
- Nêu được ch đề, thông điệp mà văn bản mun gửi đến người đọc.
- Nêu được nhng tri nghim trong cuc sng giúp bn thân hiu thêm v nhân vt, s vic
- Th hiện được thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với thái độ, tình cm,
Tiếng Vit
- Ch ra và giải thích nghĩa từ Hán Vit, t địa phương
II. KIN THỨC ĐỌC HIU
1. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
1.1. Khái nim
- Là mt loi nh của văn bản ngh luận, được viết ra để bàn v mt tác phẩm văn học.
1.2. Đặc điểm
- Th hin rõ ý kiến v tác phẩm như: Nhân vật, chi tiết, ngôn từ, đề tài, ch đề,...
- Trình bày được lí l và bng chng thuyết phc. Lí l và bng chng cần căn cứ vào TPVH:
+ Lí l là nhng lí gii, phân tích v tác phm;
+ Bng chng là nhng s vic, chi tiết, t ng, trích dn,...t TP để làm sáng t lí l.
- Lí l và bng chứng được sp xếp theo trình t hp lí.
1.3. Mục đích
- Thuyết phục người đọc, người nghe v ý kiến, quan điểm của người viết trước mt vấn đề.
1.4. Ni dung chính
- ý kiến, quan điểm người viết mun thuyết phục người đọc (nhan đề, ý kiến, lí l, bng chứng được nêu
trong VB).
1.5. Ý kiến ln và ý kiến nh, bng chng
- Ý kiến lớn là quan điểm của người viết;
- Ý kiến nh nêu ra để b tr cho ý kiến ln.
1.6. Mi quan h gia ý kiến ln và ý kiến nh; lí l và bng chng (Sơ đồ SGK tr.55)
1.7. Cách đọc VB ngh lun phân tích mt TPVH
- Đọc tên của VB để xác định luận đề ca VB (VB viết/bàn v vấn đề gì?);
- Đọc các tiêu đề, các câu đứng đầu, cui mỗi đoạn hoc nhng câu then chốt để nhn din ý kiến ln, ý kiến
nh; chia VB theo b cc và ch ra ni dung tng phn.
- Tóm tt các ni dung chính (da trên các ý kiến).
- Nhn biết, phân tích các lí l, bng chng.
- Xác định cách t chc trin khai, mi quan h gia lí l và bng chng.
- Nhn ra mục đích viết và tư tưởng, quan điểm ca tác gi.
- Đánh giá hình thức và ni dung ca VB.
- Rút ra được ý nghĩa hay bài học tác động ca vấn đề bàn lun vi bn thân, t đó liên hệ.
2. TẢN VĂN, TUỲ BÚT
2.1. Khái nim
- Tản văn: Là loại văn xuôi ngắn gn, hàm súc cách th hiện đa dng (tr tình, t s, ngh lun, miêu t...)
nhưng nhìn chung đu mang tính cht chm phá, bc l trc tiếp suy nghĩ, cảm xúc của người viết qua các hin
ợng đời sống thường nhmật, giàu ý nghĩa xã hội.
- Tu bút mt th trong kí, dùng để ghi chép, miêu t nhng hình nh, s việc mà người viết quan sát, chng
kiến; đồng thi chú trng th hin cm xúc, tình cảm, suy nghĩ của c gi trước các hiện tượng vấn đề ca
đời sng.
2.2. Các yếu t trong tản văn, tuỳ bút
- Cht tr tình trong tản văn, tu bút yếu t được to nên t v đp ca cảm xúc, suy nghĩ, v đp ca thiên
nhiên to vật để rung động thẩm mĩ cho người đọc.
- Cái tôi tác gi trong tn văn, tuỳ bútyếu t th hin cảm xúc, suy nghĩ riêng của tác gi qua văn bản. Thông
thường, có th nhn biết cái tôi y qua các t nhân xưng ngôi thứ nht.
- Ngôn ng trong tản văn, tuỳ bút thường tinh tế, sống động, mang hơi th đời sng, gia hình nh cht tr
tình.
2.3. Cách đọc hiu văn bn tản văn, tùy bút
- Tìm chi tiết th hin s hoà quyn gia cảm xúc, suy nghĩ của tác gi vi v đẹp ca thiên nhiên, to vt
Xác định cht tr tình của văn bản.
- Tìm các t ng, hình nh th hin tình cm, cm xúc ca tác giả, thường là qua đại t nhân xưng ngôi thứ nht
Xác định cái tôi ca tác gi.
- Xác định ngôn ng của văn bản
Xác định ch đề của văn bn: tình cm, cm xúc ca tác gi trong văn bản.
3. THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT
3.1. T Hán Vit:
- Tiếng để cu to t Hán Vit gi là yếu t Hán Vit.
VD: Quc (nước), Gia (nhà) Quc gia: nước nhà.
- Mt s t Hán Việt đã học trong bài: S gi, tuyt vng, triết lí, thiên nhiên, trí tu, ngoi bang, hi sinh, ngc
nhiên, song hành, nguy kch,...
3.2. T địa phương:
- Là nhng t được s dng hn chế mt hoặc vài địa phương nào đó. Dựa vào đặc đim cách phát âm, chúng
ta có th nhn ra ging min Bc, min Nam, min Trung.
Ví d: T địa phương Bắc B: U (m), gii (tri),...
+ T địa phương Trung Bộ: m (m), mô (nào, ch nào), tê (kia), răng (thế nào), ra (thế),...
+ T địa phương Nam Bộ: Ba , tía (b), má (m), heo (lợn), thơm (dứa), chén (bát), té ngã),...
3.3. Tính liên kết và mch lc: Văn bản cn phi mch lc
* Đặc điểm :
- Các phần, các đoạn, các câu cùng nói v mt ch đề.
- Các phần, các đoan, các câu trong văn bản được sp xếp theo mt trình t hp lí.
3.4. Đặt câu t Hán Vit
+ Đặt câu có t Hán Vit (Ch đề t chn): Gia đình em sống rt hòa thun.
C. VIẾT: Viết bi văn phân tch đc điểm nhân vt trong mt tc phm văn học
* DÀN Ý:
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác phẩm, nhân vật cần phân tích.
- Nêu ngắn gọn những đặc điểm nổi bật của nhân vật.
2. Thân bài
- Giới thiệu hoàn cảnh xuất thân của nhân vật (nếu có): Tên, tuổi, quê hương,…
- Phân tích những đặc điểm về ngoại hình và tính cách của nhân vật.
Nêu lần lượt các đặc điểm thứ nhất, thứ hai,… của nhân vật.
Trích dẫn các chi tiết, câu văn trong bài liên quan đến đặc điểm đó của nhân vật; rồi dùng lí lẽ phân tích
làm sáng tỏ.
- Đánh giá về nhân vật:
Nhân vật đó đại diện cho tầng lớp xã hội nào?
Qua nhân vật đó, tác giả muốn gửi gắm điều gì?
Nghệ thuật xây dựng nhân vật có gì đặc sắc?
3. Kết bài
- Khẳng định lại những đặc điểm nổi bật của nhân vật.
- Đánh giá và suy nghĩ về nhân vật.
C. ĐỀ ĐỌC HIU THAM KHO
1. Ngh luận văn học
PHIU S 1: Ch ra lí l, bng chứng trong đoạn trích sau:
Bằng trí tưởng tượng phong phú, em nghe được cái người ln không nghe được, tiếng gi ca sóng,
của y: “Mẹ ơi trên y người gọi con”, “Trong sóng người gọi con”. Tiếng gi hi h, gic giã, bn
chn, lặp đi lặp lại như ca tâm hn vn thích bay bng, mộng mơ của bé. Giấc tưởng đã trở thành
hin thực. Nhưng bé chợt phân vân. Có một cái gì như níu kéo:
- Con nói: “Mẹ mình đang đợi nhà,... Làm sao có th ri m mà đến được?”.
- Con bảo: “Chiều chiu m luôn mun mình nhà, làm sao có th ri m mà đi được?”.
(Theo Vũ Dương Qu, Lê Bo, trích Bình giảng văn 9, NXB Giáo dc Vit Nam, 2014)
PHIU S 2: Nhng du hiu nào giúp em nhận ra đoạn văn sau thuộc văn bản ngh lun phân tích mt
tác phẩm văn học?
Bên cạnh đó, sức hp dn ca truyện còn đến t kết thúc hết sc bt ngờ. Cho đến cuối văn bản, cũng tức
cui tuyn ngn, Ô Hen-ri mới để cho Xu k li cho Giôn-xi (lúc đó vào buổi chiu, Giôn-xi đang vui vẻ
đan chiếc khăn choàng len màu xanh sm) v cái chết ca c -mơn, về “kiệt tác” chiếc cui cùng.
Người k chuyện không “nói hộ” ý nghĩ của nhân vt c Bo-mơn nhưng lại c ý “bỏ qua”, không k vic c đã
hoàn thành bc v đó trong đêm như thế nào. Nhưng đó cũng chính ý đồ ngh thut của người sáng to mà
người đọc cm nhận được qua s mô t cách nhìn, thái độ, trng thái tinh thn ca c -mơn.
(Theo Minh Khuê, trích Tc phm văn hc trong nh trưng - Nhng vấn đ trao đi, tp 3,
NXB Giáo dc Vit Nam, 2012)
PHIU S 3: Đọc đoạn văn bản:
“Đoàn Giỏi đã từng viết mt lot sách v các con vt trên rừng, dưới biển, trong đó mi con (h, su,
voi,..) ông đều k đến trên dưới 50 trang sách. Không ch kiến thc v loài, h, thói quen sinh thái,...
phn nhiu nhng mu chuyn thật, sinh động xen ln nhng huyn thoi xut x hn hoi.Trong Đất
rừng phương Nam, ông ch s dng mt phn rt nh vn sống phong phú đó đã làm người đọc đi từ ngc
nhiên này đến ngc nhiên khác: ba ba to bằng cái nia, đã lớn hơn chiếc xung tam bn, su phải mười hai
trai tráng lực lưỡng mi khiêng nổi. Người đọc không ch ngc nhiên mà còn thấm đẫm cm xúc, bởi Đoàn Giỏi
một nhà thơ, một “thi sĩ của đất rừng phương Nam” (ý của Trần Đình Nam). Đó cảm giác ngây ngất trước
v đẹp ca rừng U Minh dưới ánh Mt Tri vàng óng: Nhng thân cây tràm v trắng vươn thẳng lên tri,
chng khác nhng cây nến khng lồ, đầu l rũ phất phơ như những đầu liu bt ngàn. T trong bin
xanh rn đã bắt đầu ng sang màu úa, ngát dy một mùi hương l trm b hun nóng… tiếng chim không ngt
vang ra, vng mãi lên tri cao xanh thẳm không cùng… ni rn ngợp trước dòng sông Năm Căn: nước m
ầm đ ra biển ngy đêm như thc, c nước bơi hng đn đen trũi nhô lên hp xuống như ngưi bơi ếch gia
những đầu sóng trắng… con sông rộng hơn ngn thước, trông hai bên b, rng đước dng lên cao ngất như hai
dãy trưng thành vô tận…”
(Bùi Hng, Thiên nhiên con người trong truyn Đất rừng phương Nam”, Ng văn 7- Cánh diu,
trang 85, Nhà XB Đại học Sư phạm TPHCM)
Tr li các câu hi:
Câu 1. Xác định ni dung chính của đoạn trích.
Câu 2. Nêu mục đích nghị lun ca tác gi.
Câu 3. Chỉ ra lí lẽ và các bằng chứng được Bùi Hồng sử dụng trong đoạn trích.
Câu 4. Qua đoạn trích em rút ra bài học nào về cách đưa lí lẽ và dẫn chứng trong văn nghị luận?
PHIẾU SỐ 4: Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Truyn ngắn “Bức tranh ca em gái tôi” (T Duy Anh) s dng ngôi k th nhất, điểm nhìn ca nhân vt
xưng “tôi”. Tác gi không trc tiếp miêu t, ca ngi Kiều Phương vẻ đẹp ca nhân vt y dn dn hin ra
qua con mt và li k ca nhân vật người anh.
Khi được người anh đặt cho bit hiệu “Mèo” luôn t bôi bn khuôn mt mình, Kiều Phương “vui vẻ
chp nhận” và còn dùng cái tên đó để xưng hô với bn bè. nhà, mèo rt hay lc lọi các đồ vt vi mt s thích
thú. Khi b anh nhc nh, cô em này li vênh mt tr li: “Mèo mà lại! Em không phá là được...”
Sáu bc tranh do Mèo lâu nay bí mt v b phát hin. Chú Tiến Lê gi em là mt thiên tài hi ha. T đó,
Mèo được c nhà quý mến chăm sóc để phát huy tài năng. Bố m không giu ni nim sung sướng, xúc động.
Chú Tiến Lê mua tng Mèo hp màu ngoi xịn để v. Chng kiến những điều này, người anh li t ti, mc cm,
xa lánh em gái mình. Ri nh chú Tiến Lê gii thiệu, Mèo được tham gia tri thi v quc tế.
Kết thúc cuc thi, bc tranh ca Kiều Phương được trao gii nht. Trước thái đ lnh nht ca anh trai.
Kiều Phương vẫn thì thầm vào tai anh: “Em muốn c anh cùng đi nhn giải”. Yêu cu ca cuc thi mi thí
sinh phi v mt bức tranh theo đề tài t chọn trước mt ban giám khảo. Mèo đã vẽ bc tranh anh trai đang ngồi
nhìn ra ngoài ca sổ, nơi bầu tri trong xanh. Khuôn mặt người anh trai ta ra mt th ánh sáng rt l,va
suy vừa mộng. Ngm mình trong bc tranh của em gái, người anh rt ng ngàng, thy hãnh din
xu h. Kết thúc tác phm, tâm hn và lòng nhân hu ca Kiều Phương đã thức tỉnh người anh khi nhng t ti
mc cm.
(Bài tp phát triển năng lực Ng văn 7 theo CTGDPT 2018, NXBGD VN, tp 1, trang 66)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt và ni dung của đoạn văn bản trên.
Câu 2. Em có đồng ý đoạn văn bản trên là đoạn văn bản ngh lun phân tích tác nhân vt trong tác phm truyn
không? Vì sao?
Câu 3. Nếu em viết bài phân tích nhân vt Kiều Phương trong truyện ngắn “Bức tranh của em gái tôi” em sẽ
thc hiện như nào trên cơ sở các ý trong đoạn văn bản đã cho.
Câu 4. Chia s nhng yêu cu khi viết bài phân tích nhân vt trong tác phẩm văn học.
PHIẾU SỐ 5: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Gấp lại truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn ơng trước vẻ
đẹp của những con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin u.
được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của "Lặng lẽ Sa Pa" cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục.
Trong đó anh thanh niên làm công c khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó
phai mờ.
Trước tiên anh thanh niên này đẹp tấm lòng yêu đời, yêu nghề, tinh thần trách nhiệm cao với công
việc lắm gian khổ của mình. Trong lời giới thiệu với ông hoạ sgià cô gái, bác lái xe gọi anh "người
độc nhất thế gian". Đã mấy năm nay anh "sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và
mây lạnh lẽo". Công việc hàng ngày của anh "đo gió, đo mưa, đo chấn động mặt đất" rồi ghi chép, gọi
vào máy bộ đàm báo vtrung tâm. Nhiều đêm anh phải "đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ". Vậy
anh rất yêu công việc của mình.
Anh quan niệm: "khi ta làm việc ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?" Anh hiểu rõ: "Công
việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất đi, cháu buồn đến chết mất". Sống một mình nhưng anh không đơn
độc bởi "lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà ". Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn
nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh
nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện
cho vơi bớt nỗi nhớ nhà.
Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn. Nhưng anh thanh niên này
thật đáng yêu ở nỗi "thèm người", lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu
đáo. Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu, lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã y được thiện cảm tự nhiên
đối với người hoạ sỹ già k trẻ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh, toát lên qua nét mặt, cử
chỉ: anh biếu bác lái xe củ tam thất, mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ, hồ hởi đón mọi người lên thăm
"nhà", hồn nhiên kể về công việc, đồng nghiệp cuộc sống của mình nơi Sa Pa lặng lẽ. Khó người đọc nào
thể quên, việc làm đầu tiên của anh khi khách lên thăm nơi của mình là: hái một hoa rực rỡ sắc màu
tặng người con gái lần đầu quen biết. hoa cho gái, nước chè cho ông hoạ sgià, làn trứng ăn đường cho
hai bác cháu... Tất cả không chỉ chứng tỏ đó người con trai tâm lý còn kỷ niệm của một tấm lòng sốt
sắng, tận tình đáng quí.
Công việc vất vả, những đóng góp quan trọng cho đất nước nhưng người thanh niên hiếu khách
sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường, nhỏ so với bao người khác. Bởi
thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sgià phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay. Con người khiêm tốn y
hào hứng giới thiệu cho ông hoạ snhững người khác đáng vẽ hơn mình: "Không, không, c đừng mất công
vẽ cháu, để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vhơn". Đó ông kỹ vườn rau vượt qua bao
vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn, to hơn. Đó "người cán bộ nghiên cứu sét, 11 năm không xa quan lấy
một ngày"... còn trẻ tuổi, anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hy sinh lặng
thầm của những con người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực tinh tế, ngôn ngữ đối thoại sinh động
Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ thú vị nơi Sa Pa lặng lẽ. Chưa đầy 30 phút tiếp xúc
với anh thanh niên, khiến người hoạ sỹ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mình không bao giờ thể hiện
hết được và còn làm cô kỹ sư trẻ lòng bao cảm mến bâng khuâng...
Với truyện ngắn này, phải chăng nhà văn muốn khẳng định: Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ
bao phấn đấu, hy sinh lớn lao thầm lặng? Những con người cần mẫn, nhiệt thành như anh thanh niên y,
khiến cuộc sống này thật đáng trân trọng, thật đáng tin yêu.
Câu 1. Xác định vấn đề bàn luận và bố cục của bài văn.
Câu 2. Tìm câu văn nêu ý kiến ln, ý kiến nh được th hin trong VB. Vì sao em nhn biết ra được điều y?
Câu 3. Văn bản được viết ra nhằm mục đích gì? Các lí lẽ và bằng chứng có đáp ứng được mục đích ấy không?
Câu 4. Em hãy chỉ ra những điểm thành công của bài văn trên. Từ những điểm thành công ấy, khi viết bài văn
phân tích đặc điểm nhân vật trong một tác phẩm văn học, em cần chú ý điều gì?
2. Tản văn, tuỳ bút
PHIẾU SỐ 6: Đọc đoạn trích:
Thế tôi đã rời châu Âu rồi đấy, giữa tháng Sáu hội ánh trăng lai láng, giữa hương thơm ngọt ngào
của những cây vả đang đến mùa đậu quả. Tạm biệt nhé hoàng hôn trên sông Sein, những cây cầu lãng mạn, bình
minh đầy hơi sương, khu vườn ngập hoa hồng, vài tháp chuông nhà thờ cao vút, ruộng nho ngút ngàn, lúa
vàng rộm, gió từ biển Địa Trung Hải, vang Ý, nhạc cổ điển thành Vienna!
Nội đón tôi bằng những ngày thật ẩm buồn. Tôi đem ức cất k từ những thuở rong chơi nào ra
hong khô. Những tấm bưu thiếp ngày nào nhắc tôi nhớ rằng mùa xuân trước tôi từng London một ngày
xuân nào đó xa xôi lắm tôi từng Graz. Hình như gia tài của tôi chỉ còn lại toàn c. Rồi một ngày ký ức
cũng mờ dần, lớp y phlên lớp khác chúng vỡ vụn vào nhau. Châu Âu trở thành nơi xa lắm! Tôi quay lại
với sự điên rồ mà thơ mộng của Hà Nội. Nơi ấy tôi từng gọi là nhà, nơi đón tôi trở về sau mỗi chuyến đi xa, nơi
tôi chìm trong những yêu thương quen thuộc rồi một ngày lại khao khát ra đi.
Không dễ gì để làm quen trở lại với khuôn mặt mới này của Hà Nội! Thành phố thanh tao ngày nào giờ điểm
trang bằng những tòa chung cư mọc lên như nấm hàng ngày loay hoay tìm chỗ đậu cho thêm mấy triệu xe ô
tô của tầng lớp trung lưu mới nổi.
May mà một Hà Nội rất cũ, nơi cuộc sống vẫn diễn ra đều đặn dung dị. Cái cầu thang mấy chục hộ
dùng chung, vừa tối vừa ẩm, nhà nào tận dụng được tí khoảng không là đua ra bằng hết. Quần áo phấp phới trên
những y phơi còng quèo. Cứ đều đặn sáu giờ hàng xóm bắc bếp nấu cơm chiều. Hôm nay rau muống
xào. Đám tỏi ngập dầu kêu xì xèo trên bếp. Mùi thịt rang ướp với nước mắm, cái mùi rất gia đình xộc hết ra
hành lang, len vào qua cánh cửa sắt đóng kín. Tiếng dép loẹt quẹt leo cầu thang, một cậu choai choai mới lớn
vừa vỡ giọng càu nhàu chuyện lau sàn, trong khi em gái nhà kế bên ngồi hong tóc ướt hoáy nhắn tin sát chỗ
giếng trời. Tiệm gội đầu ngay tầng trệt đang xối nước, tiếng nhà bên mở khoá lách cách, ai đó thdài. Chiếc
giày cũ trơ trọi nằm lăn lóc trong xó; còn ngoài hiên, phố xá chưa bao giờ thôi gầm gào!
Khi gió thổi bụi ầm cả lên, nắng bớt gắt gỏng đi, buổi trưa không còn gắt gao nữa những ngày mềm mại
hơn, Nội xuất hiện những góc rất ciné
1
! một góc nào đó đoạn Cửa Đông vài sạp hàng n xanh ngắt
trước cửa tiệm bán đồ cổ im lìm. Gương mặt Đức Phật hiền từ sau lớp kính có dán logo VISA của VCB!
Những ngôi nhà với mặt tiền xém một góc con phố cong mềm mại. Quả bóng bay xẹp phất phới trên y
điện chằng chịt một góc ngã tư, nơi người đàn ông phả khói thuốc vào nắng. bán hành răm ngáp dài,
không buồn xua con ruồi đậu vào góc quả bí ngô cắt dở. Tiệm cafe vẫn còn thưa người.
những góc nhỏ Nội khiến tôi nghĩ rằng cuộc sống cứ nên êm trôi đi như thế giữa những ny
tháng Mười duyên dáng. Tôi nhớ cái góc nhỏ của một quán trà rất nhỏ, những bông hoa dại rất xinh. Nhớ
một cái ghế gỗ xanh bỏ không ven bờ sông. Tôi đã ngồi đó đọc hết một cuốn tiểu thuyết của Banana
Yoshimoto mặc cho bên kia sông những ánh đèn bắt đầu sáng. trụ c đó thật nhỏ và tôi thành thật tin
rằng cả thế giới dừng lại cùng với mình và rằng không cần gì phải vội. Rồi buổi chiều cứ lững thững đi qua, mãi
không hết một ngày. Suỵt, đừng nói gì cả nhé kẻo những thanh âm đang rung lên trong lòng bỗng vỡ vụn ra hết!
Tôi nhớ một buổi sáng mưa dìu dịu, đứng trên một con thuyền nhỏ ngắm dòng sông bạc màu nước chảy lặng
như tờ. Xa xa một bãi cồn lớn với đàn thong thả gặm cỏ, mờ ảo như một ký ức. Thực hay không thực, ai
biết được. Tôi đã đi qua những làng mạc ven đô nhỏ xinh, những cánh đồng lúa đang ngậm đòng xanh
mướt, đi qua những nghĩa địa quạnh hiu lẩn khuất, những nhà thờ họ cánh cổng. (Thùy Dương, Trích
mùa thu chầm chậm đi qua, NXB Phụ nữ)
Thc hin các yêu cu sau:
Câu 1. Th loi của văn bản.
Câu 2. Ch đề chính của đoạn trích
Câu 3: Trong đoạn trích, Hà Nội đã đón tôi bằng những ngày như thế nào?
Câu 4. Trong văn bản, người viết xưng “tôi”có ý nghĩa gì?
Câu 5: Cái “Hà Nội rất cũ” trong kí ức ca nhân vt tr tình là mt Hà Nội như thế nào?
Câu 6. Em hãy nhn xét v cái tôi tác gi th hiện qua đoạn trích
Câu 7. Tìm 02 t Hán Vit
Câu 8. Xác định 02 hình nh xut hin trong một “Hà Nội rất cũ” của nhân vật “tôi”?
Câu 9. Ch ra cht tr tình biu hiện trong đon trích?
Câu 10. Qua đoạn trích, em hãy viết một đoạn văn từ 6 8 câu v một điều em luôn hoài nim trong lòng
mình.
PHIẾU SỐ 7: Đọc văn bản:
Chiều cao nguyên. Gió nhè nhẹ. Trời trong không một gợn mây. Tôi thong dong dạo quanh các ngả phố. Qua
công viên, chợt nghe phảng phất trong gió mùi ngai ngái của cỏ khô. Vội dừng xe lại, cố hít lấy hít để mùi
hương ấy. Cái mùi quen thuộc của tuổi thơ. Thế bao ký ức của mùa nơi làng quê theo làn gió thơm ngát
bất chợt ùa về.
Đó khoảng đầu tháng Sáu. Khi những nẻo đường quê được bao phủ bởi một màu vàng màu của lúa sắp
tới vụ thu hoạch. Một gam màu không chói lóa, không gay gắt êm dịu, hiền hòa. Mùa gặt đến cũng là lúc
trẻ chúng tôi được nghỉ học. Ngày nào cũng vậy, bọn tôi thường rủ nhau chạy khắp cánh đồng mênh mông lúa
chín. Hễ gặp nhà ai đang gặt lúa là xúm nhau ùa tới để bắt châu chấu, cào cào… Đứa nào cũng chăm chú mong
bắt được thật nhiều những chú cào cào, muồm muỗm béo ngậy. Sau đó, đi gom nhặt rơm rạ khô nhóm thành
một đống lửa nhỏ nướng chúng lên và tranh nhau ăn. Nếu bữa nào bắt được nhiều sẽ chia ra đem về nhờ mẹ làm
cho món châu chấu rang lá chanh ngon tuyệt.
Mùa gặt, rơm rạ phơi đầy đường. Tôi đặc biệt thích mùi thơm của rơm mùi của những mẻ rơm được nắng.
Cứ chiều tối, tôi lại nằm dài trên đống rơm chỉ để hít hà mùi hương đồng gió nội ấy. Mùi hương không nồng mà
thoang thoảng nhưng đã thấm sâu vào tiềm thức tự lúc nào không hay. Cho tới bây giờ, tận sâu miền ký ức nơi
trong trẻo của tôi mùi hương ấy vẫn còn nguyên vẹn.
Nhớ làm sao, cái nóng nực của những buổi trưa hè. Khi ấy, chỉ ước ao một cơn mưa rào ập tới để rồi thỏa
sức tắm. Những giọt nước mưa, lúc đầu mằn mặn vị của mồ i, nhưng sau thì trong lành, ngọt lịm
ngấm vào đầu lưỡi rồi tan dần khắp cơ thể.
Mùa hè, còn một trò chơi khác không kém phần thú vị tụi tôi đứa nào cũng tít. Đó thả diều.
ngày đó không có diều bán sẵn như bây giờ nên bọn tôi phải tự làm diều để thả. Chúng tôi làm được những con
diều to. Nhưng muốn tiếng sáo vang xa phải nhờ đến người lớn. Nhà ai ông thì nhờ ông, nếu không thì
nhờ bố hoặc anh làm giúp. Còn bọn tôi chỉ biết xúm quanh quan sát và chờ sai vặt. Khi những con diều được
hoàn thành, đứa nào cũng háo hức đem khoe với nhau, rồi mở hội thi xem diều ai bay cao n, sáo kêu to hơn.
Đến lúc những cánh diều đã no gió, cả nằm dài ra bờ đê dõi theo chúng màng nghe tiếng sáo vi vu.
Giờ đây, khi cuộc sống đã phát triển, diều bán khắp mọi nơi đủ loại, đủ màu sắc nên tr con hầu như không
được trải qua cái thú làm diều và không biết tới tiếng sáo diều nữa. Vì thế tiếng sáo diều với tôi cũng trở nên xa
xôi đến lạ thường. Bất chợt lòng thoảng qua một nỗi buồn.
phố đã lâu, quen với ánh đèn điện, tôi ít để ý tới trăng nên hình như ánh trăng trong lòng cũng mờ dần đi.
Tối nay, tình cờ ngửa mặt lên nhìn trời bỗng dưng lại nôn nao nhớ những đêm trăng thời thơ ấu. Dạo y, cứ tối
đến khi đã mệt nhoài với các trò chơi đuổi bắt, trốn tìm. Chị em tôi và các bạn cùng xóm lại trải chiếu ngồi quay
quần dưới sân cùng nhau ngắm trăng. Ánh trăng quê vằng vặc soi tỏ mặt từng đứa, hiện mồn một hình chú
Cuội ngồi gốc cây đa. Bọn tôi lại râm ran đố nhau xe mai nhanh mắt tìm ra ông Thần Nông, dải Ngân hà… Rồi
kể cho nhau nghe sự tích của trăng, của sao. Những câu chuyện đã lặp đi lặp lại bao lần vẫn không h
chán.
Tuổi thơ tôi đã gắn liền với những mùa đầy ắp kniệm ấy. Bây giờ dẫu chỉ còn lại trong ký ức nhưng
vẫn như dòng sông tươi mát êm dịu chảy trong lòng tôi. Để mỗi lần đắm mình vào đó, tôi lại thấy cuộc sống
chậm lại và lắng đọng hơn.
(Hoàng Xuyến, Mùa h trong kí c, https://baodaknong.vn/tan-van-mua-ha-trong-ky-uc, 2013)
Thc hin các yêu cu sau:
Câu 1. Th loi ca văn bản?
Câu 2: Xác định đối tượng điểm tựa để tác gi bc l tư tưởng, tình cm trong văn bản
Câu 3: Mch cm xúc của văn bản được trin khai theo trình t thời gian như thế nào?
Câu 4: Tìm 02 t Hán Vit và giải thích nghĩa
Câu 5: Món ăn nào trong kí ức tuổi thơ được nhắc đến trong VB trên?
Câu 6: Vì sao đối vi tác gi, tiếng sáo diu gi tr nên xa xôi đến l thường?
Câu 7: Cm xúc ch đạo trong văn bản
Câu 8: Câu văn: phố đã lâu, quen với nh đèn điện, tôi ít đý tới trăng nên hình như nh trăng trong lòng
cũng m dần đi.” thuộc kiểu câu:
Câu 9: Nhng k nim tuổi thơ nào gợi lên trong c mùa h ca tác gi? T đó, em hãy nhận xét cái tôi ca
tác gi th hin trong VB?
Câu 10: Em hãy viết đoạn văn 5 – 7 câu bày t cm xúc ca mình v mùa h quê em?
| 1/8

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP CUỐI HỌC KÌ 1 MÔN NGỮ VĂN 7
A. CẤU TRÚC ĐỀ KIỂM TRA
HÌNH THỨC: TỰ LUẬN
1. Đọc - hiểu: 6.0 điểm
2. Viết bài văn:
4.0 điểm
B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
I. NGỮ LIỆU:
Sử dụng ngữ liệu từ các văn bản ngoài chương trình SGK.  YÊU CẦU:
Nghị luận văn học
- Nhận biết được các ý kiến, lí lẽ, bằng chứng trong văn bản nghị luận
- Nhận biết được đặc điểm của văn bản nghị luận
- Xác định được mục đích, nội dung chính của văn bản
- Chỉ ra được mối liên hệ giữa ý kiến, lí lẽ và bằng chứng
- Chỉ ra được mối quan hệ giữa đặc điểm văn bản với mục đích của nó
- Rút ra những bài học cho bản thân từ nội dung văn bản.
- Thể hiện được thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với vấn đề đặt ra trong văn bản
Tản văn, tuỳ bút
- Nhận biết được các chi tiết tiêu biểu, đề tài, cảnh vật, con người, sự kiện
- Nhận biết được cái tôi, sự kết hợp giữa chất tự sự, trữ tình, nghị luận, đặc trưng ngôn ngữ
- Phân tích được nét riêng về cảnh vật, con người được tái hiện trong tùy bút, tản văn.
- Hiểu và lí giải được những trạng thái tình cảm, cảm xúc của người viết được thể hiện qua văn bản.
- Nêu được chủ đề, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc.
- Nêu được những trải nghiệm trong cuộc sống giúp bản thân hiểu thêm về nhân vật, sự việc
- Thể hiện được thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với thái độ, tình cảm,…  Tiếng Việt
- Chỉ ra và giải thích nghĩa từ Hán Việt, từ địa phương
II. KIẾN THỨC ĐỌC HIỂU 1. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC 1.1. Khái niệm
- Là một loại nhỏ của văn bản nghị luận, được viết ra để bàn về một tác phẩm văn học. 1.2. Đặc điểm
- Thể hiện rõ ý kiến về tác phẩm như: Nhân vật, chi tiết, ngôn từ, đề tài, chủ đề,...
- Trình bày được lí lẽ và bằng chứng thuyết phục. Lí lẽ và bằng chứng cần căn cứ vào TPVH:
+ Lí lẽ là những lí giải, phân tích về tác phẩm;
+ Bằng chứng là những sự việc, chi tiết, từ ngữ, trích dẫn,...từ TP để làm sáng tỏ lí lẽ.
- Lí lẽ và bằng chứng được sắp xếp theo trình tự hợp lí. 1.3. Mục đích
- Thuyết phục người đọc, người nghe về ý kiến, quan điểm của người viết trước một vấn đề. 1.4. Nội dung chính
- Là ý kiến, quan điểm mà người viết muốn thuyết phục người đọc (nhan đề, ý kiến, lí lẽ, bằng chứng được nêu trong VB).
1.5. Ý kiến lớn và ý kiến nhỏ, bằng chứng
- Ý kiến lớn là quan điểm của người viết;
- Ý kiến nhỏ nêu ra để bổ trợ cho ý kiến lớn.
1.6. Mối quan hệ giữa ý kiến lớn và ý kiến nhỏ; lí lẽ và bằng chứng (Sơ đồ SGK tr.55)
1.7. Cách đọc VB nghị luận phân tích một TPVH
- Đọc tên của VB để xác định luận đề của VB (VB viết/bàn về vấn đề gì?);
- Đọc các tiêu đề, các câu đứng ở đầu, cuối mỗi đoạn hoặc những câu then chốt để nhận diện ý kiến lớn, ý kiến
nhỏ; chia VB theo bố cục và chỉ ra nội dung từng phần.
- Tóm tắt các nội dung chính (dựa trên các ý kiến).
- Nhận biết, phân tích các lí lẽ, bằng chứng.
- Xác định cách tổ chức triển khai, mối quan hệ giữa lí lẽ và bằng chứng.
- Nhận ra mục đích viết và tư tưởng, quan điểm của tác giả.
- Đánh giá hình thức và nội dung của VB.
- Rút ra được ý nghĩa hay bài học tác động của vấn đề bàn luận với bản thân, từ đó liên hệ. 2. TẢN VĂN, TUỲ BÚT 2.1. Khái niệm
- Tản văn: Là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc có cách thể hiện đa dạng (trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả...)
nhưng nhìn chung đều mang tính chất chấm phá, bộc lộ trực tiếp suy nghĩ, cảm xúc của người viết qua các hiện
tượng đời sống thường nhmật, giàu ý nghĩa xã hội.
- Tuỳ bút là một thể trong kí, dùng để ghi chép, miêu tả những hình ảnh, sự việc mà người viết quan sát, chứng
kiến; đồng thời chú trọng thể hiện cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ của tác giả trước các hiện tượng và vấn đề của đời sống.
2.2. Các yếu tố trong tản văn, tuỳ bút
- Chất trữ tình trong tản văn, tuỳ bút là yếu tố được tạo nên từ vẻ đẹp của cảm xúc, suy nghĩ, vẻ đẹp của thiên
nhiên tạo vật để tâọ rung động thẩm mĩ cho người đọc.
- Cái tôi tác giả trong tản văn, tuỳ bút là yếu tố thể hiện cảm xúc, suy nghĩ riêng của tác giả qua văn bản. Thông
thường, có thể nhận biết cái tôi ấy qua các từ nhân xưng ngôi thứ nhất.
- Ngôn ngữ trong tản văn, tuỳ bút thường tinh tế, sống động, mang hơi thở đời sống, giữa hình ảnh và chất trữ tình.
2.3. Cách đọc hiểu văn bản tản văn, tùy bút
-
Tìm chi tiết thể hiện sự hoà quyện giữa cảm xúc, suy nghĩ của tác giả với vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật
 Xác định chất trữ tình của văn bản.
- Tìm các từ ngữ, hình ảnh thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả, thường là qua đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất
 Xác định cái tôi của tác giả.
- Xác định ngôn ngữ của văn bản
 Xác định chủ đề của văn bản: tình cảm, cảm xúc của tác giả trong văn bản.
3. THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT 3.1. Từ Hán Việt:
- Tiếng để cấu tạo từ Hán Việt gọi là yếu tố Hán Việt.
VD: Quốc (nước), Gia (nhà)  Quốc gia: nước nhà.
- Một số từ Hán Việt đã học trong bài: Sứ giả, tuyệt vọng, triết lí, thiên nhiên, trí tuệ, ngoại bang, hồi sinh, ngạc
nhiên, song hành, nguy kịch,... 3.2. Từ địa phương:
- Là những từ được sử dụng hạn chế ở một hoặc vài địa phương nào đó. Dựa vào đặc điểm cách phát âm, chúng
ta có thể nhận ra giọng miền Bắc, miền Nam, miền Trung.
Ví dụ: Từ địa phương Bắc Bộ: U (mẹ), giời (trời),...
+ Từ địa phương Trung Bộ: mạ (mẹ), mô (nào, chỗ nào), tê (kia), răng (thế nào), rứa (thế),...
+ Từ địa phương Nam Bộ: Ba , tía (bố), má (mẹ), heo (lợn), thơm (dứa), chén (bát), té ngã),...
3.3. Tính liên kết và mạch lạc: Văn bản cần phải mạch lạc * Đặc điểm :
- Các phần, các đoạn, các câu cùng nói về một chủ đề.
- Các phần, các đoan, các câu trong văn bản được sắp xếp theo một trình tự hợp lí.
3.4. Đặt câu có từ Hán Việt
+ Đặt câu có từ Hán Việt (Chủ đề tự chọn): Gia đình em sống rất hòa thuận.
C. VIẾT: Viết bài văn phân tích đặc điểm nhân vật trong một tác phẩm văn học * DÀN Ý: 1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác phẩm, nhân vật cần phân tích.
- Nêu ngắn gọn những đặc điểm nổi bật của nhân vật. 2. Thân bài
- Giới thiệu hoàn cảnh xuất thân của nhân vật (nếu có): Tên, tuổi, quê hương,…
- Phân tích những đặc điểm về ngoại hình và tính cách của nhân vật.
 Nêu lần lượt các đặc điểm thứ nhất, thứ hai,… của nhân vật.
 Trích dẫn các chi tiết, câu văn trong bài liên quan đến đặc điểm đó của nhân vật; rồi dùng lí lẽ phân tích làm sáng tỏ.
- Đánh giá về nhân vật:
 Nhân vật đó đại diện cho tầng lớp xã hội nào?
 Qua nhân vật đó, tác giả muốn gửi gắm điều gì?
 Nghệ thuật xây dựng nhân vật có gì đặc sắc? 3. Kết bài
- Khẳng định lại những đặc điểm nổi bật của nhân vật.
- Đánh giá và suy nghĩ về nhân vật.
C. ĐỀ ĐỌC HIỂU THAM KHẢO 1. Nghị luận văn học
PHIẾU SỐ 1: Chỉ ra lí lẽ, bằng chứng trong đoạn trích sau:
Bằng trí tưởng tượng phong phú, em bé nghe được cái mà người lớn không nghe được, tiếng gọi của sóng,
của mây: “Mẹ ơi trên mây có người gọi con”, “Trong sóng có người gọi con”. Tiếng gọi hối hả, giục giã, bồn
chồn, nó lặp đi lặp lại như gõ cửa tâm hồn vốn thích bay bổng, mộng mơ của bé. Giấc mơ tưởng đã trở thành
hiện thực. Nhưng bé chợt phân vân. Có một cái gì như níu kéo:
- Con nói: “Mẹ mình đang đợi ở nhà,... Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”.
- Con bảo: “Chiều chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”.
(Theo Vũ Dương Quỹ, Lê Bảo, trích Bình giảng văn 9, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014)
PHIẾU SỐ 2: Những dấu hiệu nào giúp em nhận ra đoạn văn sau thuộc văn bản nghị luận phân tích một tác phẩm văn học?
Bên cạnh đó, sức hấp dẫn của truyện còn đến từ kết thúc hết sức bất ngờ. Cho đến cuối văn bản, cũng tức
là cuối tuyện ngắn, Ô Hen-ri mới để cho Xu kể lại cho Giôn-xi (lúc đó là vào buổi chiều, Giôn-xi đang vui vẻ
và đan chiếc khăn choàng len màu xanh sẫm) về cái chết của cụ Bơ-mơn, về “kiệt tác” chiếc lá cuối cùng.
Người kể chuyện không “nói hộ” ý nghĩ của nhân vật cụ Bo-mơn nhưng lại cố ý “bỏ qua”, không kể việc cụ đã
hoàn thành bức vẽ đó trong đêm như thế nào. Nhưng đó cũng chính là ý đồ nghệ thuật của người sáng tạo mà
người đọc cảm nhận được qua sự mô tả cách nhìn, thái độ, trạng thái tinh thần của cụ Bơ-mơn.
(Theo Minh Khuê, trích Tác phẩm văn học trong nhà trường - Những vấn đề trao đổi, tập 3,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2012)
PHIẾU SỐ 3: Đọc đoạn văn bản:

“Đoàn Giỏi đã từng viết một loạt sách về các con vật trên rừng, dưới biển, trong đó mỗi con (hổ, cá sấu,
voi,..) ông đều kể đến trên dưới 50 trang sách. Không chỉ có kiến thức về loài, họ, thói quen sinh thái,... mà
phần nhiều là những mẩu chuyện có thật, sinh động xen lẫn những huyền thoại có xuất xứ hẳn hoi.Trong Đất
rừng phương Nam
, ông chỉ sử dụng một phần rất nhỏ vốn sống phong phú đó mà đã làm người đọc đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác: ba ba to bằng cái nia, kì đã lớn hơn chiếc xuồng tam bản, cá sấu phải mười hai
trai tráng lực lưỡng mới khiêng nổi. Người đọc không chỉ ngạc nhiên mà còn thấm đẫm cảm xúc, bởi Đoàn Giỏi
là một nhà thơ, một “thi sĩ của đất rừng phương Nam” (ý của Trần Đình Nam). Đó là cảm giác ngây ngất trước
vẻ đẹp của rừng U Minh dưới ánh Mặt Trời vàng óng: Những thân cây tràm vỏ trắng vươn thẳng lên trời,
chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rũ phất phơ như những đầu lá liễu bạt ngàn. Từ trong biển lá
xanh rờn đã bắt đầu ngả sang màu úa, ngát dậy một mùi hương lá tràm bị hun nóng… tiếng chim không ngớt
vang ra, vọng mãi lên trời cao xanh thẳm không cùng…
Và nỗi rợn ngợp trước dòng sông Năm Căn: nước ầm
ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa
những đầu sóng trắng… con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai
dãy trường thành vô tận…”
(
Bùi Hồng, Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam”, Ngữ văn 7- Cánh diều,
trang 85, Nhà XB Đại học Sư phạm TPHCM)
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1.
Xác định nội dung chính của đoạn trích.
Câu 2. Nêu mục đích nghị luận của tác giả.
Câu 3. Chỉ ra lí lẽ và các bằng chứng được Bùi Hồng sử dụng trong đoạn trích.
Câu 4. Qua đoạn trích em rút ra bài học nào về cách đưa lí lẽ và dẫn chứng trong văn nghị luận?
PHIẾU SỐ 4: Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Truyện ngắn “Bức tranh của em gái tôi” (Tạ Duy Anh) sử dụng ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn của nhân vật
xưng “tôi”. Tác giả không trực tiếp miêu tả, ca ngợi Kiều Phương mà vẻ đẹp của nhân vật này dần dần hiện ra
qua con mắt và lời kể của nhân vật người anh.
Khi được người anh đặt cho biệt hiệu là “Mèo” vì luôn tự bôi bẩn khuôn mặt mình, Kiều Phương “vui vẻ
chấp nhận” và còn dùng cái tên đó để xưng hô với bạn bè. Ở nhà, mèo rất hay lục lọi các đồ vật với một sự thích
thú. Khi bị anh nhắc nhở, cô em này lại vênh mặt trả lời: “Mèo mà lại! Em không phá là được...”
Sáu bức tranh do Mèo lâu nay bí mật vẽ bị phát hiện. Chú Tiến Lê gọi em là một thiên tài hội họa. Từ đó,
Mèo được cả nhà quý mến chăm sóc để phát huy tài năng. Bố mẹ không giấu nổi niềm sung sướng, xúc động.
Chú Tiến Lê mua tặng Mèo hộp màu ngoại xịn để vẽ. Chứng kiến những điều này, người anh lại tự ti, mặc cảm,
xa lánh em gái mình. Rồi nhờ chú Tiến Lê giới thiệu, Mèo được tham gia trại thi vẽ quốc tế.
Kết thúc cuộc thi, bức tranh của Kiều Phương được trao giải nhất. Trước thái độ lạnh nhạt của anh trai.
Kiều Phương vẫn thì thầm vào tai anh: “Em muốn cả anh cùng đi nhận giải”. Yêu cầu của cuộc thi là mỗi thí
sinh phải vẽ một bức tranh theo đề tài tự chọn trước mắt ban giám khảo. Mèo đã vẽ bức tranh anh trai đang ngồi
nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi có bầu trời trong xanh. Khuôn mặt người anh trai tỏa ra một thứ ánh sáng rất lạ,vừa
suy tư vừa mơ mộng. Ngắm mình trong bức tranh của cô em gái, người anh rất ngỡ ngàng, thấy hãnh diện và
xấu hổ. Kết thúc tác phẩm, tâm hồn và lòng nhân hậu của Kiều Phương đã thức tỉnh người anh khỏi những tự ti mặc cảm.
(Bài tập phát triển năng lực Ngữ văn 7 theo CTGDPT 2018, NXBGD VN, tập 1, trang 66)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt và nội dung của đoạn văn bản trên.
Câu 2. Em có đồng ý đoạn văn bản trên là đoạn văn bản nghị luận phân tích tác nhân vật trong tác phẩm truyện không? Vì sao?
Câu 3. Nếu em viết bài phân tích nhân vật Kiều Phương trong truyện ngắn “Bức tranh của em gái tôi” em sẽ
thực hiện như nào trên cơ sở các ý trong đoạn văn bản đã cho.
Câu 4. Chia sẻ những yêu cầu khi viết bài phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học.
PHIẾU SỐ 5: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Gấp lại truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ
đẹp của những con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Dù
được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của "Lặng lẽ Sa Pa" cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục.
Trong đó anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ.
Trước tiên anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công
việc lắm gian khổ của mình. Trong lời giới thiệu với ông hoạ sỹ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là "người cô
độc nhất thế gian". Đã mấy năm nay anh "sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và
mây mù lạnh lẽo". Công việc hàng ngày của anh là "đo gió, đo mưa, đo chấn động mặt đất" rồi ghi chép, gọi
vào máy bộ đàm báo về trung tâm. Nhiều đêm anh phải "đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ". Vậy mà
anh rất yêu công việc của mình.
Anh quan niệm: "khi ta làm việc ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?" Anh hiểu rõ: "Công
việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất". Sống một mình nhưng anh không đơn
độc bởi "lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà ". Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn
nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh
nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện
cho vơi bớt nỗi nhớ nhà.
Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn. Nhưng anh thanh niên này
thật đáng yêu ở nỗi "thèm người", lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu
đáo. Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu, lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên
đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh, toát lên qua nét mặt, cử
chỉ: anh biếu bác lái xe củ tam thất, mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ, hồ hởi đón mọi người lên thăm
"nhà", hồn nhiên kể về công việc, đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa Pa lặng lẽ. Khó người đọc nào có
thể quên, việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là: hái một bó hoa rực rỡ sắc màu
tặng người con gái lần đầu quen biết. Bó hoa cho cô gái, nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho
hai bác cháu... Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng sốt
sắng, tận tình đáng quí.
Công việc vất vả, có những đóng góp quan trọng cho đất nước nhưng người thanh niên hiếu khách và
sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường, nhỏ bé so với bao người khác. Bởi
thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sỹ già phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay. Con người khiêm tốn ấy
hào hứng giới thiệu cho ông hoạ sỹ những người khác đáng vẽ hơn mình: "Không, không, bác đừng mất công
vẽ cháu, để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn". Đó là ông kỹ sư ở vườn rau vượt qua bao
vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn, to hơn. Đó là "người cán bộ nghiên cứu sét, 11 năm không xa cơ quan lấy
một ngày"... Dù còn trẻ tuổi, anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa Pa, thấm thía sự hy sinh lặng
thầm của những con người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực tinh tế, ngôn ngữ đối thoại sinh động
Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa Pa lặng lẽ. Chưa đầy 30 phút tiếp xúc
với anh thanh niên, khiến người hoạ sỹ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện
hết được và còn làm cô kỹ sư trẻ lòng bao cảm mến bâng khuâng...
Với truyện ngắn này, phải chăng nhà văn muốn khẳng định: Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ
bao phấn đấu, hy sinh lớn lao và thầm lặng? Những con người cần mẫn, nhiệt thành như anh thanh niên ấy,
khiến cuộc sống này thật đáng trân trọng, thật đáng tin yêu.
Câu 1. Xác định vấn đề bàn luận và bố cục của bài văn.
Câu 2. Tìm câu văn nêu ý kiến lớn, ý kiến nhỏ được thể hiện trong VB. Vì sao em nhận biết ra được điều ấy?
Câu 3. Văn bản được viết ra nhằm mục đích gì? Các lí lẽ và bằng chứng có đáp ứng được mục đích ấy không?
Câu 4. Em hãy chỉ ra những điểm thành công của bài văn trên. Từ những điểm thành công ấy, khi viết bài văn
phân tích đặc điểm nhân vật trong một tác phẩm văn học, em cần chú ý điều gì? 2. Tản văn, tuỳ bút
PHIẾU SỐ 6: Đọc đoạn trích:
Thế là tôi đã rời châu Âu rồi đấy, giữa tháng Sáu hội hè và ánh trăng lai láng, giữa hương thơm ngọt ngào
của những cây vả đang đến mùa đậu quả. Tạm biệt nhé hoàng hôn trên sông Sein, những cây cầu lãng mạn, bình
minh đầy hơi sương, khu vườn ngập hoa hồng, vài tháp chuông nhà thờ cao vút, ruộng nho ngút ngàn, lúa mì
vàng rộm, gió từ biển Địa Trung Hải, vang Ý, nhạc cổ điển thành Vienna!
Hà Nội đón tôi bằng những ngày thật ẩm và buồn. Tôi đem ký ức cất kỹ từ những thuở rong chơi nào ra
hong khô. Những tấm bưu thiếp cũ ngày nào nhắc tôi nhớ rằng mùa xuân trước tôi từng ở London và một ngày
xuân nào đó xa xôi lắm tôi từng ở Graz. Hình như gia tài của tôi chỉ còn lại toàn là ký ức. Rồi một ngày ký ức
cũng mờ dần, lớp này phủ lên lớp khác và chúng vỡ vụn vào nhau. Châu Âu trở thành nơi xa lắm! Tôi quay lại
với sự điên rồ mà thơ mộng của Hà Nội. Nơi ấy tôi từng gọi là nhà, nơi đón tôi trở về sau mỗi chuyến đi xa, nơi
tôi chìm trong những yêu thương quen thuộc rồi một ngày lại khao khát ra đi.
Không dễ gì để làm quen trở lại với khuôn mặt mới này của Hà Nội! Thành phố thanh tao ngày nào giờ điểm
trang bằng những tòa chung cư mọc lên như nấm và hàng ngày loay hoay tìm chỗ đậu cho thêm mấy triệu xe ô
tô của tầng lớp trung lưu mới nổi.
May mà có một Hà Nội rất cũ, nơi cuộc sống vẫn diễn ra đều đặn và dung dị. Cái cầu thang cũ mấy chục hộ
dùng chung, vừa tối vừa ẩm, nhà nào tận dụng được tí khoảng không là đua ra bằng hết. Quần áo phấp phới trên
những dây phơi còng quèo. Cứ đều đặn sáu giờ là hàng xóm bắc bếp nấu cơm chiều. Hôm nay có rau muống
xào. Đám tỏi ngập dầu kêu xì xèo trên bếp. Mùi thịt rang ướp với nước mắm, cái mùi rất gia đình xộc hết ra
hành lang, len vào qua cánh cửa sắt đóng kín. Tiếng dép loẹt quẹt leo cầu thang, một cậu choai choai mới lớn
vừa vỡ giọng càu nhàu chuyện lau sàn, trong khi em gái nhà kế bên ngồi hong tóc ướt hí hoáy nhắn tin sát chỗ
giếng trời. Tiệm gội đầu ngay tầng trệt đang xối nước, tiếng nhà bên mở khoá lách cách, ai đó thở dài. Chiếc
giày cũ trơ trọi nằm lăn lóc trong xó; còn ngoài hiên, phố xá chưa bao giờ thôi gầm gào!
Khi gió thổi bụi ầm cả lên, nắng bớt gắt gỏng đi, buổi trưa không còn gắt gao nữa và những ngày mềm mại
hơn, Hà Nội xuất hiện những góc rất ciné1! Ở một góc nào đó đoạn Cửa Đông có vài sạp hàng xén xanh ngắt
trước cửa tiệm bán đồ cổ im lìm. Gương mặt Đức Phật hiền từ sau lớp kính có dán logo VISA của VCB!
Những ngôi nhà với mặt tiền xém một góc vì con phố cong mềm mại. Quả bóng bay xẹp phất phới trên dây
điện chằng chịt một góc ngã tư, nơi có người đàn ông phả khói thuốc vào nắng. Bà cô bán hành răm ngáp dài,
không buồn xua con ruồi đậu vào góc quả bí ngô cắt dở. Tiệm cafe vẫn còn thưa người.
Có những góc nhỏ ở Hà Nội khiến tôi nghĩ rằng cuộc sống cứ nên êm ả trôi đi như thế giữa những ngày
tháng Mười duyên dáng. Tôi nhớ cái góc nhỏ của một quán trà rất nhỏ, có những bông hoa dại rất xinh. Nhớ
một cái ghế gỗ xanh bỏ không ven bờ sông. Tôi đã ngồi đó và đọc hết một cuốn tiểu thuyết của Banana
Yoshimoto mặc cho bên kia sông những ánh đèn bắt đầu sáng. Vũ trụ lúc đó thật nhỏ bé và tôi thành thật tin
rằng cả thế giới dừng lại cùng với mình và rằng không cần gì phải vội. Rồi buổi chiều cứ lững thững đi qua, mãi
không hết một ngày. Suỵt, đừng nói gì cả nhé kẻo những thanh âm đang rung lên trong lòng bỗng vỡ vụn ra hết!
Tôi nhớ một buổi sáng mưa dìu dịu, đứng trên một con thuyền nhỏ ngắm dòng sông bạc màu nước chảy lặng
như tờ. Xa xa là một bãi cồn lớn với đàn bò thong thả gặm cỏ, mờ ảo như một ký ức. Thực hay không thực, ai
mà biết được. Tôi đã đi qua những làng mạc ven đô nhỏ xinh, những cánh đồng lúa đang ngậm đòng xanh
mướt, đi qua những nghĩa địa quạnh hiu lẩn khuất, những nhà thờ họ có cánh cổng. (Thùy Dương, Trích
mùa thu chầm chậm đi qua,
NXB Phụ nữ)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Thể loại của văn bản.
Câu 2. Chủ đề chính của đoạn trích
Câu 3: Trong đoạn trích, Hà Nội đã đón tôi bằng những ngày như thế nào?
Câu 4. Trong văn bản, người viết xưng “tôi”có ý nghĩa gì?
Câu 5: Cái “Hà Nội rất cũ” trong kí ức của nhân vật trữ tình là một Hà Nội như thế nào?
Câu 6. Em hãy nhận xét về cái tôi tác giả thể hiện qua đoạn trích
Câu 7. Tìm 02 từ Hán Việt
Câu 8. Xác định 02 hình ảnh xuất hiện trong một “Hà Nội rất cũ” của nhân vật “tôi”?
Câu 9. Chỉ ra chất trữ tình biểu hiện trong đoạn trích?
Câu 10. Qua đoạn trích, em hãy viết một đoạn văn từ 6 – 8 câu về một điều mà em luôn hoài niệm trong lòng mình.
PHIẾU SỐ 7: Đọc văn bản:
Chiều cao nguyên. Gió nhè nhẹ. Trời trong không một gợn mây. Tôi thong dong dạo quanh các ngả phố. Qua
công viên, chợt nghe phảng phất trong gió mùi ngai ngái của cỏ khô. Vội dừng xe lại, cố hít lấy hít để mùi
hương ấy. Cái mùi quen thuộc của tuổi thơ. Thế là bao ký ức của mùa hè nơi làng quê theo làn gió thơm ngát bất chợt ùa về.
Đó là khoảng đầu tháng Sáu. Khi những nẻo đường quê được bao phủ bởi một màu vàng – màu của lúa sắp
tới vụ thu hoạch. Một gam màu không chói lóa, không gay gắt mà êm dịu, hiền hòa. Mùa gặt đến cũng là lúc lũ
trẻ chúng tôi được nghỉ học. Ngày nào cũng vậy, bọn tôi thường rủ nhau chạy khắp cánh đồng mênh mông lúa
chín. Hễ gặp nhà ai đang gặt lúa là xúm nhau ùa tới để bắt châu chấu, cào cào… Đứa nào cũng chăm chú mong
bắt được thật nhiều những chú cào cào, muồm muỗm béo ngậy. Sau đó, đi gom nhặt rơm rạ khô nhóm thành
một đống lửa nhỏ nướng chúng lên và tranh nhau ăn. Nếu bữa nào bắt được nhiều sẽ chia ra đem về nhờ mẹ làm
cho món châu chấu rang lá chanh ngon tuyệt.
Mùa gặt, rơm rạ phơi đầy đường. Tôi đặc biệt thích mùi thơm của rơm – mùi của những mẻ rơm được nắng.
Cứ chiều tối, tôi lại nằm dài trên đống rơm chỉ để hít hà mùi hương đồng gió nội ấy. Mùi hương không nồng mà
thoang thoảng nhưng đã thấm sâu vào tiềm thức tự lúc nào không hay. Cho tới bây giờ, tận sâu miền ký ức nơi
trong trẻo của tôi mùi hương ấy vẫn còn nguyên vẹn.
Nhớ làm sao, cái nóng nực của những buổi trưa hè. Khi ấy, chỉ ước ao một cơn mưa rào ập tới để rồi thỏa
sức mà tắm. Những giọt nước mưa, lúc đầu mằn mặn vì có vị của mồ hôi, nhưng sau thì trong lành, ngọt lịm
ngấm vào đầu lưỡi rồi tan dần khắp cơ thể.
Mùa hè, còn có một trò chơi khác không kém phần thú vị mà tụi tôi đứa nào cũng mê tít. Đó là thả diều. Vì
ngày đó không có diều bán sẵn như bây giờ nên bọn tôi phải tự làm diều để thả. Chúng tôi làm được những con
diều to. Nhưng muốn có tiếng sáo vang xa phải nhờ đến người lớn. Nhà ai có ông thì nhờ ông, nếu không thì
nhờ bố hoặc anh làm giúp. Còn bọn tôi chỉ biết xúm quanh quan sát và chờ sai vặt. Khi những con diều được
hoàn thành, đứa nào cũng háo hức đem khoe với nhau, rồi mở hội thi xem diều ai bay cao hơn, sáo kêu to hơn.
Đến lúc những cánh diều đã no gió, cả lũ nằm dài ra bờ đê dõi theo chúng mà mơ màng nghe tiếng sáo vi vu.
Giờ đây, khi cuộc sống đã phát triển, diều bán khắp mọi nơi đủ loại, đủ màu sắc nên trẻ con hầu như không
được trải qua cái thú làm diều và không biết tới tiếng sáo diều nữa. Vì thế tiếng sáo diều với tôi cũng trở nên xa
xôi đến lạ thường. Bất chợt lòng thoảng qua một nỗi buồn.
Ở phố đã lâu, quen với ánh đèn điện, tôi ít để ý tới trăng nên hình như ánh trăng trong lòng cũng mờ dần đi.
Tối nay, tình cờ ngửa mặt lên nhìn trời bỗng dưng lại nôn nao nhớ những đêm trăng thời thơ ấu. Dạo ấy, cứ tối
đến khi đã mệt nhoài với các trò chơi đuổi bắt, trốn tìm. Chị em tôi và các bạn cùng xóm lại trải chiếu ngồi quay
quần dưới sân cùng nhau ngắm trăng. Ánh trăng quê vằng vặc soi tỏ mặt từng đứa, hiện rõ mồn một hình chú
Cuội ngồi gốc cây đa. Bọn tôi lại râm ran đố nhau xe mai nhanh mắt tìm ra ông Thần Nông, dải Ngân hà… Rồi
kể cho nhau nghe sự tích của trăng, của sao. Những câu chuyện dù đã lặp đi lặp lại bao lần mà vẫn không hề chán.
Tuổi thơ tôi đã gắn liền với những mùa hè đầy ắp kỷ niệm ấy. Bây giờ dẫu chỉ còn lại trong ký ức nhưng nó
vẫn như dòng sông tươi mát êm dịu chảy trong lòng tôi. Để mỗi lần đắm mình vào đó, tôi lại thấy cuộc sống
chậm lại và lắng đọng hơn.
(Hoàng Xuyến, Mùa hạ trong kí ức, https://baodaknong.vn/tan-van-mua-ha-trong-ky-uc, 2013)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Thể loại của văn bản?
Câu 2: Xác định đối tượng – điểm tựa để tác giả bộc lộ tư tưởng, tình cảm trong văn bản
Câu 3: Mạch cảm xúc của văn bản được triển khai theo trình tự thời gian như thế nào?
Câu 4: Tìm 02 từ Hán Việt và giải thích nghĩa
Câu 5: Món ăn nào trong kí ức tuổi thơ được nhắc đến trong VB trên?
Câu 6: Vì sao đối với tác giả, tiếng sáo diều giờ trở nên xa xôi đến lạ thường?
Câu 7: Cảm xúc chủ đạo trong văn bản
Câu 8: Câu văn: “Ở phố đã lâu, quen với ánh đèn điện, tôi ít để ý tới trăng nên hình như ánh trăng trong lòng
cũng mờ dần đi.”
thuộc kiểu câu:
Câu 9: Những kỉ niệm tuổi thơ nào gợi lên trong kí ức mùa hạ của tác giả? Từ đó, em hãy nhận xét cái tôi của
tác giả thể hiện trong VB?
Câu 10: Em hãy viết đoạn văn 5 – 7 câu bày tỏ cảm xúc của mình về mùa hạ quê em?