



















Preview text:
CHƯƠNG 1
1. Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản?
- Đầu tiên là do vị thế địa kinh tế - chính trị của đất nước, trải qua hàng nghìn năm lịch sử
đấu tranh với thiên nhiên nghiệt ngã và sự hung tàn của giặc ngoại xâm để sinh tồn và phát
triển, dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã xây đắp nên một truyền thống văn hóa
tôn vinh những giá trị hướng tới và thực hiện sự giải phóng và phát triển của dân tộc, con
người Việt Nam, hình thành nên chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam. Chủ nghĩa yêu
nước-nhân văn Việt Nam là giá trị kép của văn hóa truyền thống, trong đó biểu thị rõ mối
quan hệ khăng khít giữa lợi ích của cộng đồng dân tộc và con người, đồng thời cho thấy
việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ này là nguyên nhân căn bản bảo đảm cho sự phát
triển của dân tộc và con người Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Sự lên đường cứu nước,
cứu dân của các nhà cách mạng hồi đầu thế kỷ XX bởi sự thúc đẩy của văn hóa truyền
thống và đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc đó.
- Đa phần người Việt Nam là nông dân tức thuộc giai cấp vô sản. Trong giai đoạn đó, có
hơn 90% người Việt Nam là nông dân. Họ phần lớn có cuộc sống vất vả, chịu nhiều tầng
áp bức của địa chủ, thực dân phong kiến. Họ không có tư liệu sản xuất.
- Do chủ nghĩa cách mạng vô sản là con đường duy nhất có thể giải phóng người vô sản
nói chung và người nông dân nói riêng. Chủ nghĩa vô sản chủ trương tiến hành cuộc cách
mạng XHCN bằng con đường vũ trang, cách mạng lật đổ giai cấp thống trị mang lại quyền lợi cho người dân.
- Do Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và thấy rằng chủ nghĩa vô sản trực tiếp là cách mạng vô sản
mới có thể giải phóng người Việt Nam khỏi áp bức bóc lột, giành độc lập dân tộc.
Vậy nên vì tính đúng đắn của nó đối với cách mạng của một nước thuộc địa, đây là con
đường cách mạng duy nhất có khả năng giải phóng dân tộc Việt Nam.
2. Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một tất yếu lịch sử.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là một tất yếu khách quan, tất yếu lịch
sử, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời đại mới;
là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử;
là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến sĩ
cách mạng, đứng đầu là Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
=> Lý giải :
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Đặt ra yêu cầu bức
thiết về thị trường, các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao
động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn
bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực.
Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong
trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ
nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc
đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra Đảng cộng sản.
=> Sự ra đời của Đảng cộng sản là tất yếu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống áp bức, bóc lột.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết (1922). Đối với nước Nga, đó là cuộc cách mạng vô sản,
nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó còn là một cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc thuộc địa. Những tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến Việt Nam (một quốc gia đang là thuộc địa của bọn thực dân Pháp).Trước
tình hình đó, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và thực
tiễn thắng lợi của CM Nga vào thực tiễn cách mạng nước ta, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt
được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy
thống trị thực dân. Chúng thống trị và bóc lột người dân nước ta về tất cả các mặt, từ kinh
tế, chính trị, văn hóa đến các giai cấp xã hội. Tình trạng khủng hoảng kinh tế -xã hội , đặc
biệt là các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng.
Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta, là nhu cầu bức thiết của dân tộc.
Phong trào đấu tranh chống lại thực dân Pháp của nhân dân phát triển mạnh mẽ.Từ sau
chiến tranh thế giới I đến 1930 phong trào yêu nước VN tiêu biểu theo 2 khuynh hướng rõ
rệt: Khuynh hướng tư sản và vô sản.
- Khuynh hướng tư sản bao gồm các phong trào đấu tranh của giai cấp tiểu tư sản và tư sản
dân tộc. Tiêu biểu: Chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá, chống độc quyền thương cảng,
đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Việt
Nam quốc dân đảng. Tất cả các phong trào đều diễn ra sôi nổi, mãnh liệt, nhưng cuối cùng đều thất bại.
- Khuynh hướng vô sản do ảnh hưởng của CM Tháng Mười Nga, những hoạt động tích cực
của Quốc tế Cộng sản và ảnh hưởng sự ra đời của Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản
Trung Quốc và nhất là những hành động truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin của Nguyễn Ái
Quốc từ 1921 - 1930 làm cho phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản ở nước ta
ngày càng phát triển mạnh mẽ, điển hình là hoạt động của các tổ chức: Hội Thanh niên
Đảng Tân Việt, đã có nhiều thanh niên yêu nước được giác ngộ trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản.
=> Kết luận :
Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ phải có sự lựa chọn đúng đắn để đi đến thành công và
con đường đó chính là đi theo khuynh hướng vô sản. Sự lựa chọn này tất yếu sẽ dẫn đến
sự ra đời của Đảng Cộng Sản. Vì vậy, sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn
con đường cứu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan dựa trên
sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân dân
phong trào yêu nước Việt Nam
3. Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là Cương
lĩnh đúng đắn và sáng tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc, tính giai
cấp và tính nhân văn?
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc dự thảo
được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (1/1930) gồm các văn kiện:
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng.
Tính cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện qua những nội dung sau:
1. Cương lĩnh vạch rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng tư sản dân quyền (về sau gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và cách
mạng xã hội chủ nghĩa (“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”).
Như vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Việt Nam là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta: đánh đổ đế quốc
Pháp, vua quan phong kiến và tư sản phản cách mạng. Mục tiêu:
+ Làm cho nước Việt Nam độc lập.
+ Dựng lên chính phủ công nông binh.
+ Tổ chức ra quân đội công nông.
+ Tịch thu sản nghiệp lớn của bọn đế quốc và ruộng đất của bọn đế quốc, bọn phản cách
mạng đem chia cho dân cày nghèo, chuẩn bị cách mạng thổ địa.
=> Như vậy, Cương lĩnh bao gồm nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống
phong kiến nhưng nổi bật là chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.
Lực lượng cách mạng chủ yếu là công nông, đồng thời phải lôi kéo tiểu tư sản, trí thức,
trung nông về phe giai cấp vô sản, còn phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản Việt Nam chưa
lộ rõ bộ mặt phản động thì phải lợi dụng và làm cho họ trung lập.
=> Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tối đa lực lượng cách mạng, cô lập tối đa lực
lượng kẻ thù. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của đảng, trên cơ sở công-nông-trí liên minh.
3. Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng tư tưởng.
- Đảng phải có trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được quần chúng.
Phải thu phục đại đa số dân cày, dựa vững vào dân cày.
Đồng thời phải liên minh với các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết, tổ chức họ
đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
4. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng còn coi cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới, đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị áp bức và
giai cấp công nhân thế giới.
=> Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh cách mạng giải phóng
dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân
tộc và tính nhân văn với tư tưởng cốt lõi là Độc lập – Tự do cho dân tộc.
- Nội dung con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là con đường cách mạng vô
sản, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lực lượng nòng cốt là công – nông, đồng thời phải
đoàn kết với tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc và phú nông, dùng bạo lực cách mạng.
4. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc 1930 - 1945.
- Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính
quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Đó là:
- Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh: Làm
rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần
chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp,
thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức XôViết. Cao trào cách mạng
1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và
để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân
tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của
quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một
số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực
lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm
trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần
chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên
quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến
đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào
yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần
một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỷ, mở
ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở
thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình
lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông
đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng
có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
5. Tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tính chất:
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính
chất dân chủ mới” (Trường Chinh)
️Trước hết, đây là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
- Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc.
- Lực lượng Cách mạng bao gồm toàn thể dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận Việt
Minh với các tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”.
- Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc”.
Nhưng Cách mạng tháng Tám còn có tính chất dân chủ, thể hiện:
- Cách mạng giải phóng ở VN là một bộ phận của của phe dân chủ chống phát xít. Nó
chống lại phát xít Nhật và bọn tay sai phản động, là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại
của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống phát xít xâm lược.
- CM đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân – lực lượng đông đảo nhất trong dân
tộc: một phần ruộng đất của đế quốc Việt gian đã bị tịch thu, địa tô được tuyên bố giảm
25%, một số nợ lưu cữu được xóa bỏ.
- Cuộc cách mạng đã xây dựng được chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên, xóa
bỏ chế độ quân chủ phong kiến, các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
=> CMT8 “chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng’,
chưa xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất, chưa xóa bỏ tàn tích phong kiến...Chính vì thế
CMT9 có tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó chưa đầy đủ và sâu sắc”
Ngoài ra, CMT8 dưới sự lãnh đạo của Đảng mang đậm tính nhân văn, hoàn thành một bước
hết sức cơ bản giải phóng con người Việt Nam khỏi áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về
mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.
Ý nghĩa lịch sử: 1. Với thế giới
Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của một
dân tộc nhỏ bé, đã tự đấu tranh giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân. Thắng lợi ấy là nguồn
cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là
phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, nhất
là nhân dân châu Á và châu Phi. Là lời động viên to lớn đối với các dân tộc thuộc địa cũng
như nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới đấu tranh giành lại độc lập, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Thắng lợi của cách mạng ở các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên khắp thế giới
đã thực sự làm thay đổi thế giới, giúp cho các dân tộc ấy thành các nước độc lập, tự do, thu
hẹp sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời nó cũng báo hiệu một sự sụp đổ
không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, phản ánh rõ nét tính chất của thời
đại mới, đem lại những nhận thức mới và triệt để trong quan niệm, giải pháp để giải quyết
vấn đề độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, cách mạng tháng Tám cũng đã làm sáng tỏ hàng loạt
các luận điểm cơ bản cũng như làm phong phú thêm kho tàng lý luận của Học thuyết Mác
- Lênin về phương pháp tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt Nam mà
còn là là chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do, vì thế
nó có sức mạnh to lớn, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. 2. Với Việt Nam
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong
lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Đối với Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ
nghĩa đế quốc Pháp trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên
chế kéo dài gần nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Thắng lợi ấy đã giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một
cuộc cách mạng xã hội, đó là vấn đề chính quyền.
Đây là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam. Sự thành công của tư tưởng Hồ Chí Minh cùng đường lối cách mạng của
Đảng ta, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với dân tộc thời đại
Chiến thắng vang dội của Cách mạng Tháng Tám, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô
lệ tiến lên địa vị của người làm chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của chính dân
tộc mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ
quyền, có thể cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của thời
đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng Cộng sản Đông Dương từ
lúc phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ giây phút này, Đảng và nhân
dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử
dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội. Kỷ nguyên giải phóng dân
tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một kỷ nguyên mới, nơi mà dân tộc ta có quyền tự quyết, tự
xây dựng và bảo vệ chính
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:
Bài học thứ nhất là, có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-
Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai
đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh
phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy
được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là, vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực
lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần
chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách
mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà
nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh
thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử
dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là, vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và
kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn
đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của
Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945. Cũng
nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của Nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được
nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
Bài học thứ tư là, xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Từ khi mới thành lập, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã sớm nhận thức đúng và đầy đủ về sức mạnh to lớn của đông đảo quần
chúng nhân dân, sớm đề ra đường lối chiến lược giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc
và dân chủ, đáp ứng đúng nguyện vọng của đại đa số nhân dân là độc lập, tự do, người cày
có ruộng. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, khai thác và phát huy
triệt để động lực tinh thần, nêu cao “ý chí Việt Nam”, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn
sàng xông lên cứu nước cứu nhà, tạo thành nguồn động lực to lớn để đưa Cách mạng Tháng
Tám đến thắng lợi hoàn toàn.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Nhìn lại về dấu mốc son chói lọi của dân tộc, ta thêm phần tự hào, kính trọng những công
lao của Đảng, những người chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ nền độc
lập tự do, cuộc sống hòa bình cho toàn thể nhân dân. Họ mạnh mẽ và kiên cường, sẵn sàng
từ bỏ đời sống cá nhân nhỏ bé vì tương lai lớn hơn của toàn dân tộc. Nhắc lại về Cách
mạng Tháng Tám, chúng ta thấy rằng, nhiều bài học cũng như tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của
Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị. Trong đó, bài học về xây dựng Đảng, về
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
vẫn còn nguyên giá trị và cần phải được kế thừa và phát huy và nâng lên tầm cao mới.
Ngày nay, đất nước đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong bối cảnh cơ hội và thách thức đan xen. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại đang không ngừng phát triển với những bước tiến nhảy vọt. Đòi hỏi Đảng ta phải
nâng cao hơn nữa cả tầm trí tuệ và bản lĩnh để luôn có những quyết sách đúng đắn, sáng
suốt, kiên định lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Làm cho Đảng ta thực sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân.
Là những thế hệ thanh niên tiếp theo, ta cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm trong công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Hiện nay khi tình hình đại dịch COVID đang bùng
phát và lây lan nhanh chóng trong cộng đồng, ta càng nhận thức rõ nét hơn về vai trò lãnh
đạo của Đảng và nhà nước. Đương đầu với dịch bệnh nguy hiểm, với tinh thần kiên cường
và mạnh mẽ, ý chí bền bỉ luôn tiến về phía trước, nhân dân ta đã và đang cùng đồng lòng
chung tay đẩy lùi mối nguy hiểm thường trực. Đời sống chúng ta luôn biến đổi không
ngừng, nhưng không vì thế mà con người chúng ta lại chùn chân, hãy luôn nâng cao, học
hỏi, phát triển bản thân, không ngừng rèn luyện, xứng đáng với công lao của các thế hệ đi
trước. Nhìn lại sự mất mát chiến tranh để biết kính trọng những thành công anh dũng của
năm tháng kháng chiến, để thêm tự hào và hoàn thiện tốt vai trò của mình. Mỗi người phải
ý thức được giá trị của dân tộc, biết bảo vệ chủ quyền độc lập và dựng xây một đất nước
vững mạnh, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới. CHƯƠNG 2
1. Vì sao nói sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng Việt Nam
rơi vào tình thế "ngàn cân treo sợi tóc"?
Những khó khăn của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng tám năm 1945.
Về kinh tế, tài chính, văn hóa xã hội.
Kinh tế: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu
điều, công nghiệp đình đốn, nông nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang.
- Kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
- Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Lũ lụt, hạn hán, thiên tai,
mất mùa diễn ra liên miên gây nhiều thiệt hại, 2 triệu người dân chết đói.
- Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Các cơ sở công nghiệp của ta chưa kịp
phục hồi sản xuất. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Tài chính: Tình hình tài chính vô cùng khó khăn.
- Ngân sách Nhà nước trống rỗng, tài chính cạn kiệt, thuế không thu được, kho bạc chỉ có
1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách.
- Chính quyền cách mạng chưa quản lý được Ngân hàng Đông Dương.
- Quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại tiền đã mất giá, làm cho nền tài
chính nước ta thêm rối loạn.
Văn hóa xã hội: Tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề.
- Do chính sách ngu dân của thực dân Pháp nên sau cách mạng nước ta có 95% dân số thất học, mù chữ.
- Các tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút ngày đêm hoành hành.
Về chính trị, ngoại giao.
Do lợi ích cục bộ của mình các nước lớn (Anh, Mỹ, Liên Xô) không có nước nào ủng hộ
lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Bởi vậy chưa có nước nào công nhận và đạt quan hệ ngoại giao với nước ta, nước ta bị cô lập với thế giới.
Hệ thống chính quyền cách mạng vừa được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt. Về quân sự.
Lực lượng quân đội chưa có đủ thời gian và điều kiện phát triển lực lượng vũ trang và quân
đội chính quy. Sau cách mạng tháng tám, lực lượng quân đội chính quy của ta chỉ có khoảng
năm nghìn người với vũ khí thô sơ. Về kẻ thù.
Nền độc lập non trẻ của Việt Nam phải đương đầu với sự hiện diện của đội quân nước
ngoài đông đúc chưa từng có khoảng hơn 30 vạn tên cùng với các thế lực tay sai phản động
đi theo đội quân xâm lược. Các thế lực chống đối trong giai cấp bóc lột cũ ngóc đầu dậy,
các đối tượng phản cách mạng cũ, các loại tội phạm hình sự chống phá cách mạng rất quyết liệt:
- Quân đội các nước đế quốc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật
Bản, lũ lượt kéo vào Việt Nam.
- Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch hùng hổ tràn
qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa quân
đội Đồng minh và giải giáp quân đội Nhật thua trận ở Bắc Việt Nam. Chúng kéo theo một
lũ tay sai đông đúc với âm mưu thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ”.
- Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, tạo điều kiện cho Pháp trở
lại xâm lược Việt Nam.
- Ngoài ra, trên đất nước Việt Nam lúc này vẫn còn 6 vạn quân đội Nhật Hoàng thua trận đang chờ giải giáp.
Tóm lại, sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam cùng lúc phải đối mặt với tất cả
những khó khăn được liệt kê phía trên đã đẩy tình hình đất nước đứng trước tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Đảng Cộng sản cầm quyền đang phải đối mặt với những thách thức
nghiêm trọng, biến động phức tạp khôn lường.
2. Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1946-1954) là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: "toàn dân, toàn diện, lâu dài
và dựa vào sức mình là chính"
● Hoàn cảnh lịch sử:
Sau khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, đất nước ta đứng trước muôn vàn khó
khăn, thử thách. Theo thỏa thuận giữa các nước đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng
Giới Thạch vào đóng tại miền Bắc, quân Anh (theo sau là quân Pháp) vào đóng tại miền
Nam Việt Nam làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật (lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới),
nhưng đều nuôi dưỡng ý đồ tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương,
thành lập chính quyền phản động tay sai. Trong khi đó, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
trong nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng: Sản xuất trì trệ, ngân khố quốc gia trống rỗng,
nạn đói năm 1945 làm gần 2 triệu người chết chưa khắc phục xong, hơn 90% dân số mù
chữ, tệ nạn xã hội còn rất phổ biến, các thế lực phản động ra sức hoạt động chống phá...
"Giặc đói", "giặc dốt", "giặc ngoại xâm" đang đe dọa, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc".
Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân đội Anh,
thực dân Pháp tiến công Sài Gòn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Tiếp đó, từ tháng 10/1945 - 1/1946, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm nhiều địa bàn quan
trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, từng bước thiết lập hệ thống kìm kẹp tại cơ sở. Trong
bối cảnh đó, để tránh phải đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa một mặt nhân nhượng cho quân đội Tưởng Giới Thạch một số quyền
lợi ở miền Bắc (nhận cung cấp lương thực, nhận tiêu tiền "quan kim", "quốc tệ" đã mất
giá...), mặt khác kiên quyết phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, đưa hàng
vạn cán bộ, chiến sĩ vào Nam chiến đấu, trực tiếp góp phần làm thất bại âm mưu "đánh
nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp.
Do gặp khó khăn ở chiến trường miền Nam, thực dân Pháp không đủ khả năng đánh chiếm
ngay miền Bắc, buộc phải đàm phán với Tưởng Giới Thạch hòng tìm bước đi thích hợp.
Cuối tháng 2/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết. Theo đó, thực dân Pháp nhượng bộ
cho Tưởng Giới Thạch một số quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa... Ngược lại, quân Pháp
sẽ ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực
chất là chờ viện binh phát động chiến tranh. Để nhanh chóng gạt quân Tưởng về nước,
đồng thời có thêm điều kiện chuẩn bị tiềm lực, ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với đại diện Chính phủ Pháp (Xanhtơni)
bản Hiệp định sơ bộ, chấp thuận cho quân Pháp ra miền Bắc thay quân Tưởng làm nhiệm
vụ giải giáp quân đội Nhật. Tiếp đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính
phủ Pháp bản Tạm ước nhượng bộ cho Pháp thêm một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở
Việt Nam. Tranh thủ thời gian hòa hoãn, nhân dân ta ra sức xây dựng lực lượng. Ngày
22/5/1946, Chính phủ ra sắc lệnh quy định Vệ quốc đoàn chính thức trở thành Quân đội
quốc gia nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra, cách mạng còn có gần 1 triệu đội
viên thuộc lực lượng dân quân tự vệ khắp cả nước, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp
đấu tranh suốt chặng đường về sau.
Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành động
khiêu khích. Tháng 11/1946, chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra
cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên
tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm
một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi
tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành
phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. ● Nội dung:
Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, bên trong “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc nội phản
hoành hành, bên ngoài giặc ngoại xâm liên tục tấn công hòng tiêu diệt chính quyền non trẻ
vừa thành lập, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã mở cuộc họp hội nghị mở rộng do Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Hội nghị đã quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến
chống Pháp trên phạm vi cả nước. “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng với “Chỉ thị Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng
và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, trở thành
ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- Kháng chiến toàn dân:
Đường lối này xuất phát từ truyền thống "toàn dân đánh giặc" của dân tộc ta; Từ quan điểm
"cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng "chiến tranh
nhân dân" của chủ tịch Hồ Chí Minh. Và bởi "kháng chiến toàn diện" nên cần phải kháng
chiến toàn dân. Nhằm huy động sức mạnh toàn dân, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến có đoạn: "Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già,
người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu tổ quốc".
Trong đó lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân quân du kích làm nòng cốt.
Để phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc, Đảng tổ chức, tập hợp mọi tầng lớp nhân
dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái,... cùng tham gia một mặt trận dân tộc
thống nhất (Mặt trận Việt Minh).
Có lực lượng toàn dân tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước. Vì vậy, đây
là nhiệm vụ của toàn dân chứ không phải của riêng ai.
- Kháng chiến toàn diện:
Đồng thời ta vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tức là xây dựng chế độ mới nên phải kháng chiến toàn diện.
Vì địch không chỉ đánh ta trên mặt trận quân sự mà còn đánh ta trên các mặt kinh tế, chính
trị, văn hóa, ngoại giao nên ta phải thực hiện kháng chiến toàn diện trên tất cả các mặt.
Cuộc kháng chiến của ta bao gồm cuộc đấu tranh trên tất cả các mặt quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục ngoại giao,... nhằm phát huy khả năng của mỗi người trên từng
lĩnh vực, tạo ra sức mạnh tổng hợp.
+ Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích.
+ Về chính trị: Năm 1948, tại Nam Bộ, bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp xã đến cấp tỉnh; Ở
nhiều nơi, Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Kháng chiến hành chính các cấp được củng cố và kiện toàn.
+ Về kinh tế: ta chủ trương phá hoại kinh tế của địch, xây dựng nền kinh tế tự cấp, tự túc.
+ Về văn hoá, giáo dục: tháng 7-1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông.
+ Về ngoại giao: Ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với bất cứ nước nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam. Sau đó, Trung Quốc, Liên Xô, lần lượt các nước dân chủ nhân dân khác
công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.
Hơn nữa, nhờ kháng chiến toàn diện mới tạo điều kiện để kháng chiến toàn dân.
- Kháng chiến lâu dài:
Đảng và Bác Hồ quyết định phải “trường kỳ kháng chiến”, bởi so sánh tương quan lực
lượng giữa ta và Pháp trong những ngày đầu cuộc chiến quá chênh lệch. Nhiều người đã
dùng hình ảnh “châu chấu đá voi” hay “châu chấu đá xe” để so sánh.
Trong những ngày đầu tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, thông qua cuộc chiến
đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 và Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947, Đảng
ta nhận thức rõ âm mưu của Pháp là “đánh nhanh, thắng nhanh”. Việc tiến hành đánh
nhanh, thắng nhanh sẽ phát huy được ưu thế quân sự áp đảo của Pháp, giúp Pháp nhanh
chóng đạt mục đích quay trở lại tái chiếm Việt Nam và Đông Dương. Vì vậy, trường kỳ
kháng chiến - đánh lâu dài giúp ta đối chọi và làm phá sản âm mưu của thực dân Pháp,
khắc phục được điểm yếu lớn nhất của quân Pháp là hậu cần.
Không để cho quân Pháp áp đặt lối chơi, phát huy thế mạnh, đồng thời nhằm vào “gót chân
Achilles” của kẻ thù, chúng ta đã chọn cách đánh du kích, lâu dài. Đây cũng là cách đánh
“lấy đoản binh chế trường trận” đã được Đảng ta vận dụng trong thời đại mới.
- Kháng chiến dựa vào sức mình là chính:
Sở dĩ Đảng ta xác định phải tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính bởi trong những
ngày đầu của cuộc kháng chiến, chúng ta chưa nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của bất kỳ
quốc gia hay tổ chức quốc tế nào. Bên cạnh đó, chúng ta lại bị kẻ thù bao vây tứ phía; đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã gọi giai đoạn 1945 - 1950 là “cuộc chiến trong vòng vây”. Mặc
dù rất coi trọng thuận lợi và sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng vận mệnh của dân tộc ta phải
do nhân dân ta quyết định, phải dựa vào sức mạnh của ta, sự giúp đỡ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Một dân tộc không tự mình đứng lên đánh
giặc, giành lại độc lập dân tộc, thì dân tộc ấy không xứng đáng được hưởng độc lập.
Tự lực cánh sinh là dựa vào những điều kiện trong nước (thiên thời, địa lợi, nhân hòa). Tuy
nhiên, Đảng ta luôn khẳng định: Tự lực cánh sinh không có nghĩa là không tranh thủ sự
ủng hộ, viện trợ của quốc tế. Nếu có thể, chúng ta vẫn tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ đó để
kết thúc sớm cuộc kháng chiến.
● Bài học lịch sử
Về mặt lý luận, đường lối kháng chiến của Đảng nói chung, nội dung cốt lõi - phương châm
nói riêng đã góp phần quan trọng bổ sung, phát triển lý luận về chiến tranh, cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam. Từ đó, góp phần nâng tầm nghệ thuật cách mạng (khởi
nghĩa toàn dân) lên tầm cao mới (kháng chiến toàn dân).
Về mặt thực tiễn, phương châm trường kỳ kháng chiến đã góp phần quan trọng làm nên
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954). Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, căn cứ vào tình hình thực tế, vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, chúng ta đã chủ động
phòng ngự (1946 - 1947), rồi tiến lên cầm cự (1948 - 1950) và chuyển sang phản công
(1951 - 1954) với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ - Chi Lăng, Bạch Đằng,
Đống Đa của thế kỷ XX, “chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, bài học hoạch
định đường lối đúng đắn nói chung, xác định đúng phương châm “Toàn dân, toàn diện,
trường kỳ và tự lực cánh sinh” trong kháng chiến chống Pháp nói riêng, vẫn còn nguyên giá trị.
Tiếp tục vận dụng sáng tạo bài học này giúp cho chúng ta có phương pháp đúng trong
hoạch định đường lối phát triển, nhất là đường lối về quốc phòng. Phải luôn xuất phát đầy
đủ từ thực tiễn đất nước, đánh giá đúng so sánh tương quan lực lượng để lựa chọn cách
ứng xử, đối phó phù hợp.
Mặt khác, bài học này cho chúng ta thêm vững tin vào tiền đồ tươi sáng của đất nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Con đường phía trước dù lắm chông gai, song nhất định chúng ta sẽ
luôn gặt hái được những thành tựu rực rỡ, làm nên những Điện Biên Phủ mới trong xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
3. Tại sao Đại hội III của Đảng (9-1960) được xem là Đại hội hoàn chỉnh đường lối
chiến lược cách mạng hai miền Nam - Bắc?
Đại hội III của Đảng (9-1960) được xem là Đại hội hoàn chỉnh đường lối chiến lược cách
mạng hai miền Nam-Bắc vì nó đã đề ra một chiến lược toàn diện và đồng bộ cho cả hai
miền Nam và Bắc Việt Nam trong cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước.
Đại hội III đã xác định rõ mục tiêu chính của cuộc chiến là giành độc lập, thống nhất và
xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đại hội cũng đề ra các nhiệm vụ cụ thể
để đạt được mục tiêu này, bao gồm:
1. Xây dựng một quân đội nhân dân mạnh mẽ và chính quy, có khả năng tiến công và phòng ngự.
2. Xây dựng một hệ thống chính trị và quản lý hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của nhân
dân và phát triển kinh tế.
3. Xây dựng một phong trào văn hóa, giáo dục và thông tin đại chúng mạnh mẽ, nhằm
nâng cao nhận thức và ý thức cách mạng của nhân dân.
Đại hội III cũng đã đề ra các biện pháp cụ thể để thực hiện chiến lược này, bao gồm:
1. Tăng cường sự đoàn kết và sự lãnh đạo của Đảng trong cả hai miền.
2. Xây dựng một hệ thống cơ sở vững mạnh, bao gồm các tổ chức cơ sở của Đảng, quân đội và nhân dân.
3. Tăng cường quân đội và chiến sự, đặc biệt là trong việc tiến công và phòng ngự.
4. Phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc chiến.
Tổng cộng, Đại hội III của Đảng (9-1960) đã định hình một chiến lược toàn diện và đồng
bộ cho cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam, đồng thời đề ra các biện pháp cụ thể để thực
hiện chiến lược này. Đây là lý do tại sao nó được xem là Đại hội hoàn chỉnh đường lối
chiến lược cách mạng hai miền Nam-Bắc.
4. Tại sao nói cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 là một chủ
trương táo bạo và sáng tạo của Đảng, đánh thăng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ?
Nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968 kết
thúc, nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng mãi...
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một đòn giáng mạnh
vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược “chiến
tranh cục bộ” bằng chiến lược “Phi Mỹ hóa chiến tranh” rồi “Việt Nam hoá chiến tranh”.
Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tưởng rằng, với chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa hơn
50 vạn quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp chiến đấu với Quân giải phóng miền Nam, Mỹ có
thể cứu vãn chế độ ngụy quyền Sài Gòn đang trên đà sụp đổ, làm thay đổi cục diện chiến
trường sau thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Thế nhưng, toàn bộ những cố
gắng của “Nhà Trắng” trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” đã bị phá sản do quân và dân
miền Nam anh dũng chiến đấu, mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Đêm 30 rạng ngày 31/1/1968 - đêm Giao thừa Tết Mậu Thân, quân dân miền Nam đồng
loạt Tổng tiến công đánh vào 4 thành phố lớn, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, 04 bộ tư lệnh
quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần-kỹ thuật
của Mỹ-ngụy. Trong đó có những trận gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Mỹ và có
tiếng vang mạnh mẽ trên thế giới như: Trận đánh vào tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ
Tổng tham mưu ngụy, Đài phát thanh ở Sài Gòn và 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế…
Đòn tiến công Mậu Thân 1968 đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ. Trên hầu hết các bang
của Mỹ rộ lên những cuộc biểu tình chống chiến tranh, đặc biệt là của giới sinh viên, học
sinh. Nhiều người trong chính giới Mỹ đòi xét lại chính sách của Mỹ đối với cuộc chiến
này. Trong nội bộ các cố vấn thân cận của Tổng thống Mỹ gây ra sự chia rẽ gay gắt. Ngày
31/3/1968, Tổng thống Giôn- xơn thông báo quyết định đơn phương ngừng ném bom miền
Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris và tuyên
bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai.
Đánh giá về giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của
toàn dân đoàn kết quyết chiến, quyết thắng giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến
tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Bộ Chính trị đánh giá: Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng tạo ra bước ngoặt
quyết định của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược chiến tranh cục bộ
của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi
vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Paris, chấm dứt ném bom không điều kiện, chủ trương
“phi Mỹ hóa chiến tranh”, mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh
5. Hãy chứng minh Hiệp định Paris (27-1-1973) là kết quả của quá trình "vừa đánh,
vừa đàm" và là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Là kết quả của quá trình "vừa đánh, vừa đàm"
Hiệp định Pa-ri 1973 là kết quả của việc vận dụng nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm”. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngay từ đầu, ngoại giao được Đảng ta xác định là
một mặt trận song hành với mặt trận chính trị và mặt trận quân sự, kết hợp chặt chẽ “vừa
đánh, vừa đàm”. Một mặt, ngoại giao Việt Nam tích cực đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại,
nhằm làm cho các nước xã hội chủ nghĩa hiểu và ủng hộ sách lược “đánh - đàm” của Việt
Nam. Mặt khác, chúng ta luôn tự chủ và vững vàng tiếp tục chủ động thế “đánh - đàm” khi
Mỹ tìm cách phá hoại, cố tình hạ thấp vai trò của Hội nghị Pa-ri, gây nên những bế tắc về
ngoại giao. Trong suốt thời gian đàm phán tại Pa-ri, chúng ta luôn kịp thời phát huy thắng
lợi, tranh thủ mọi cơ hội để tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ của các nước,
bạn bè yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Đỉnh cao
trong việc vận dụng thành công nghệ thuật “đánh - đàm” của ngoại giao Việt Nam được
thể hiện ở thời điểm tháng 3-1972, khi Mỹ đơn phương “ngừng không thời hạn” hội nghị
Pa-ri, ném bom trở lại miền Bắc với quy mô chưa từng có, nhằm buộc Việt Nam phải nhân
nhượng. Tuy nhiên, Trung ương Đảng vẫn chủ trương duy trì Hội nghị Pa-ri với mục tiêu
làm diễn đàn tuyên truyền để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế và kết hợp với chiến
trường để đấu tranh với Mỹ về mặt ngoại giao. Quán triệt chỉ đạo này, tại Pa-ri, phái đoàn
Việt Nam đã chủ động, tích cực đấu tranh, đòi phía Mỹ phải nối lại đàm phán theo hướng
giải quyết toàn bộ về vấn đề chiến tranh Việt Nam. Với nghệ thuật “đánh - đàm”, trong quá
trình đàm phán, Việt Nam đã có 05 lần kéo địch xuống thang. Trên thực tế, “giành thắng
lợi từng bước” thì các nước có chiến tranh đều thực hiện, song kéo đối phương xuống thang
từng bước thì chỉ có tại cuộc đàm phán về Hiệp định Pa-ri 1973.
Là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn
Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên “đánh
cho ngụy nhào” với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn
miền nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.
Chiến thắng vĩ đại này là kết tinh thành quả đấu tranh kiên cường, bất khuất và hy sinh vô
cùng to lớn của quân và dân ta trên mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao dưới sự lãnh
đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đồng khởi Bến Tre năm
1960, đến Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Tiến công chiến lược xuân-
hè năm 1972 và chiến thắng vang dội 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.
Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, mà còn đi vào lịch sử cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý. CHƯƠNG 3
1. Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng sản
Việt Nam thời kỳ trước đổi mới toàn diện đất nước (1975-1986).
* Bối cảnh lịch sử:
1976-1986 là giai đoạn lịch sử quan trọng đối với kinh tế Việt Nam trước đổi mới. Bao
Cấp – một trong những đặc điểm của xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ. Kinh tế tư nhân không
thể tồn tại, chỉ có 2 loại hình là kinh tế tập trung và loại hình nhà nước chỉ đạo.
Trong nền kinh tế hiện thời đó, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân không thể tồn tại, họ trao
đổi hàng hóa bằng tem phiếu cái mà được nhà nước ban hành và nắm toàn quyền. Cũng kể
từ đó mà người dân gặp khó khăn cho việc di chuyển hàng hóa sang nơi khác cũng như tư
do mua bán. Hàng hóa lúc bấy giờ là do nhà nước phân phối độc quyền, tối thiếu việc trao
đổi tiền mặt. Sổ gạo vào thời điểm đó rất quan trọng do việc phân phối lương thực tính
theo đầu người và mỗi hộ gia đình, nó quy định bắt buộc loại hàng hóa nào mà mỗi hộ được mua.
Trước đó giai đoạn 1945-1975 đã áp dụng kế hoạch hóa rồi nhưng do tại thời điểm đó
chúng vẫn có một vài ưu điểm phù hợp với thời cuộc nên vẫn được duy trì. Tuy nhiên vào
30/4/1975, độc lập dân tộc, giải phóng Việt Nam. Ngày 16/5/1975 Lê Duẩn – Bí thư đầu
tiên của Đảng Lao động Việt Nam, ông đã nhận ra những mặt sáng của kinh doanh tư nhân
và thị trường trong khu vực phía Nam. Phát triển cải tiến thủ công nghiệp và thương nghiệp