Đề cương ôn tập LSĐ/ Trường đại học Nguyễn Tất Thành
-Phương hướng chiến lược cách mạng Đông Dương:là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”,”có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46090862
I. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM 1930 – 1935
1. Luận cương chính trị (10/1930)
Mâu thuẫn chủ yếu: Mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa “một bên thì thợ thuyền,
dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.
Phương hướng chiến lược cách mạng Đông Dương:là một cuộc “cách mạng tư sản dân
quyền”,”có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ
tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Nhiệm vụ cách mạng: đánh đổ phong kiến, thực hành thổ địa triệt để; tranh đấu để đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Lực lượng cách mạng: Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách
mạng tư sản dân quyền.
Lãnh đạo cách mạng: Luận cương chỉ ra rằng đều cốt yếu trong cách mạng Đông
Dương là phải có một Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
Phương pháp cách mạng: ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”.
Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới;
vìthế vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp. *Nhận xét:
Ưu điểm: Bản luận cương đã khẳng định nhiều vấn đề mà cương lĩnh nêu ra: đường lối
cách mạng, lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Hạn chế:
• Không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp
• Không đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu mà đặt nặng
vấn đề đấu tranh giai cấp.
• Đánh giá không đúng vai trò vị trí của các giai cấp tầng lớp khác do đó không lôi
kéo được bộ phận có tinh thần yêu nước.
2. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất (3/1935) Nhiệm vụ cách mạng:
• Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng vào các xí
nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, biến mỗi xí nghiệp thành
một cơ sở vững chắc của Đảng; đồng thời, phải đưa nông dân lao động và trí thức
cách mạng đã trải qua thử thách vào Đảng. Phải chăm lo tăng cường các đảng viên lOMoAR cPSD| 46090862
ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm sự
thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự
phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt chống “tả” khuynh và “hữu” khuynh, giữ vững kỷ luật của Đảng.
• Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng. “Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh
hưởng và thế lực của Đảng trong quần chúng... muốn đưa cao trào cách mạng mới
lên tới trình độ cao, tới toàn quốc vũ trang bạo động, đánh đổ đế quốc phong kiến,
lập nên chính quyền Xô viết, thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại quần
chúng. Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần
kíp của Đảng hiện thời” Để thu phục quảng đại quần chúng cách mạng. Đảng cần
phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh bênh vực quyền lợi cho quần chúng nhân dân
đồng thời cũng cần phải xây dựng, tổ chức, phát triển các hình thức tập hợp lực
lượng quần chúng tham gia đấu tranh. Cốt lõi nhất là cần phải mở rộng mặt trận
đoàn kết toàn dân để nâng cao sức mạnh cho đất nước, thu hút ngày càng nhiều
nguồn lực để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
• Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành
trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc... Đảng còn mở rộng
các phương thức đấu tranh khác để chống đế quốc,lập ra các tổ chức tập hợp lực
lượng chống chiến tranh đế quốc, giữ vững đấu tranh hòa bình. Lực lượng cách mạng:
• Giai cấp vô sản: Đảng đã khẳng định trong nghị quyết “ đây là lực lượng có đầy
năng lực cách mạng triệt để, nên chỉ có vô sản giai cấp phải cầm quyền lãnh đạo
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương mới hoàn toàn thắng lợi”.
• Giai cấp tư sản: Đảng cũng khẳng định tư bản bản xứ không phải là lực lượng
cách mạng trong giai đoạn này, mặc dù bị Pháp chèn ép rất nhiều nhưng giai cấp
này vẫn có liên quan mật thiết với thực dân, địa chủ, vua quan… vì thế nên giai
cấp này thường liên kết với đế quốc và phong kiến để chống lại cách mạng.
• Tiểu tư sản: Đảng đã chỉ rõ “những phần tử bóc lột trong các đám tiểu tư sản,
những tụi đại trí thức bị bọn đế quốc mua chuộc đều là đồng minh của đế quốc”.
• Các Đoàn thể phản đế như: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Cứu tế đỏ, Thanh niên
Cộng sản Đoàn do Đảng chỉ huy và thực hiện các nhiệm vụ cách mạng được giao
phó. Hơn hết ở Đông Dương còn có những đoàn thể quốc gia cách mạng, những
phần tử cách mạng lẻ tẻ đấy cũng là những lực lượng cách mạng mà Đảng cũng
cần hết sức liên lạc trong thời điểm bấy giờ để gia tăng các lực lượng phản đế
cũng như mở rộng thêm vận động cách mạng.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: toàn thể Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia)
*Nhận xét: Nghị quyết trong đại hội Đảng lần I của Đảng Cộng sản Đông Dương
(3/1935) thực sự đã có những nét mới trong nhiệm vụ thời điểm bây giờ nhưng chỉ tập
trung xoáy sâu vào các phương pháp xây dựng, củng cố nội bộ cũng như chủ trương vạch lOMoAR cPSD| 46090862
ra cũng gần như chưa sát với tình hình bấy giờ. Phạm vi cách mạng vẫn chỉ là ở Đông
Dương không có nhiều thay đổi so với luận cương tháng 10/1930. Về lực lượng tham gia
cách mạng thì trong nghị quyết lần này Đảng vẫn nhấn mạnh vai trò và khả năng lãnh
đạo của giai cấp vô sản hơn hết Đảng cũng bổ sung thêm nhiều những tổ chức yêu nước
khác vào lực lượng cách mạng đương thời và cũng gần như chưa xác định được khả năng
đấu tranh của giai cấp tư sản hay tiểu tư sản.
3. Tiểu kết giai đoạn 1930 – 1935
Trong gần 5 năm hoạt động, Đảng Cộng sản Đông Dương đã có những sự trưởng thành
cũng như kinh nghiệm hoạt động vì thế ta sẽ có những ưu điểm của nghị quyết tháng
3/1935 so với luận cương tháng 10/1930 như: •
Đề ra được đa dạng hơn các phương thức đấu tranh có cả trực tiếp lẫn gián tiếp
sao cho phù hợp nhất với các tình hình thực tiễn •
Đề ra được rất nhiều các nghị quyết về vận động binh lính, phụ nữ, thanh niên,
…từ đó có thể xác định đúng đắn hơn về lực lượng cách mạng cũng như có thể
thực hiện tốt được nhiệm vụ vận động được sức mạnh của toàn thể nhân dân •
Tiếp đến là vấn đề lực lượng cách mạng trong khi luận cương tháng 10/1930
chỉ xem lực lượng nòng cốt của cách mạng chỉ là giai cấp vô sản nhưng trong
nghị quyết trong đại hội Đảng lần I (3/1935) thì lực lượng cách mạng ngoài
giai cấp vô sản còn có các tổ chức phản đế trên toàn thể Đông Dương. •
Cuối cùng trong nghị quyết tháng 3/1935 Đảng đã thực hiện việc thống nhất
các tổ chức hoạt động riêng lẻ thành một thể thống nhất trên toàn Đông Dương.
II. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM 1936-1939 1. Chủ
trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7/1936) Nhiệm vụ cách mạng
• Xác định cách mạng Đông Dương vẫn là;” Cách mạng tư sản dân quyền-phản đế
và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô Viết, để dự bị điều
kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa".
• Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống.
Đảng phải nắm lấy những yêu cầu đó để phát động quần chúng đấu tranh, tạo tiền
đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này. Hội nghị chỉ rõ kẻ thù trước mắt
nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động
thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Từ đó Hội nghị xác định những nhiệm vụ
trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động
thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; "lập Mặt trận nhân
dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể
chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng
nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ" 6 . Xác định nhiệm vụ trước lOMoAR cPSD| 46090862
mắt của cách mạng: chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống
nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
Nhiệm vụ cụ thể: Thành lập Mật trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.
Tháng /1938, đổi thành Mật trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân
chủ Đông Dương. Bao gồm tất cả các giai cấp, dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể chính
trị xã hội, các tín ngưỡng tôn giáo.
Lực lượng cách mạng: Hội nghi Ban Chấp hành Trung ương Đảng 7/1936 quyết định
thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương. Mặt trận có nhiệm vụ tập hợp rộng
rãi “các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác
nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương với liên minh công nông là nòng cốt để cùng nhau
đấu tranh để đòi những điều dân chủ đơn sơ ( tức đòi những quyền dân chủ tối thiểu)”.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Toàn Đông Dương 2.
Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10/1936)
Tháng 10-1936, Đảng đã công bố văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới. Xuất
phát từ tình hình thực tế, Đảng đã xác định: Nhiệm vụ cách mạng:
• Nhiệm vụ chiến lược: Theo đúng chiến lược của Quốc tế Cộng sản thì chiến lược
của Đảng Cộng sản Đông Dương là phải làm cách mạng tư sản dân quyền - phản
đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xôviết, để dự bị
điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. • Nhiệm vụ cụ thể:
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương.
Cụ thể, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Đảng đã nêu ra
một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định kết chặt với
cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế
quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền
địa cần phải đánh đổ đế quốc”. Điều này có nghĩa là tuỳ vào tình hình thực
tế, nếu việc đấu tranh chống đế quốc là bắt buộc còn việc giải quyết vấn đề
địa điền là quan trọng nhưng chưa bắt buộc thì ta có thể ưu tiên đánh đổ đế
quốc trước rồi sau này giải quyết vấn đề địa điền sau.
“Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh
đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết
trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực
lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.
Đây là nhận thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 101930. lOMoAR cPSD| 46090862
Lực lượng cách mạng: Lực lượng cách mạng giống với Chủ trương đấu tranh đòi
quyềndân chủ dân sinh (7/1936). Đảng chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết bao gồm
các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ các lực
lượng và đảng phái phản cách mạng.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Giải quyết vấn đề dân tộc trên toàn Đông Dương như giai đoạn trước. *Nhận xét
• Ưu điểm: Đảng đã nhận thức đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống
đế quốc và phong kiến, phủ nhận vai trò quan trọng của Cách mạng ruộng đất, bắt
đầu tập trung kẻ thù chính là đế quốc.
• Hạn chế: Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc vẫn tập trung trên toàn Đông Dương 3.
Tiểu kết giai đoạn 1936 – 1939
Chủ trương của Đảng 1936-1939 có tính chất sách lược nhưng rất kịp thời và phù hợp với tình hình mới.
Những điểm khác biệt so với giai đoạn trước:
• Nhiệm vụ: Đảng đã có nhận thức đúng đắn rằng cuộc cách mạng giải phóng không
nhất thiết phải kết hợp chặt chẽ với cuộc cách mạng địa điền. Dựa vào tình hình cụ
thể trong nước, Đảng đã phủ nhận vai trò quan trọng của cuộc cách mạng địa điền,
tập trung vào kẻ thù chính là đế quốc.
• Lực lượng cách mạng: lượng lực tham gia đã trở nên đông đảo, không phân biệt
giai cấp tầng lớp, công nhận vai trò cách mạng của tầng lớp tư sản, tiểu tư sản và
địa chủ phong kiến thay vì bỏ qua như giai đoạn trước.
• Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: vẫn trên toàn Đông Dương như ở giai đoạn trước.
III. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM 1939 - 1945 1. Nghị
quyết hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 6 (11/1939)
Nhiệm vụ cách mạng (xung quanh việc giải quyết hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến):
• Nhận định chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát xít quân phiệt tàn
bạo, mâu thuẫn chủ yếu gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc
Đông Dương; dự báo Nhật sẽ vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật.
• Hội nghị phân tích và chỉ rõ “Bước đường sinh tồn của dân tộc Đông Dương
không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất
cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy độc lập”.
• Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là
đánh đổ đế quốc và tay sai giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội lOMoAR cPSD| 46090862
quyền lợi dân tộc, chống tố cáo, lãi nặng. Khẩu hiệu thành lập chính quyền Xô
viết công, nông, binh được thay thế bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hoà.
• Về phương pháp cách mạng, Hội nghị quyết định chuyển từ đấu tranh đòi quyền
dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay
sai, từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp
“bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc".
• Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” và thay bằng khẩu
hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và
địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho dân cày.
• Chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (Mặt
trận Phản đế Đông Dương) để tập trung mọi lực lượng của dân tộc nhằm đánh đổ
đế quốc và tay sai, giành lại độc lập cho toàn dân tộc Đông Dương. Lực lượng cách mạng:
• Lực lượng chính là công nông dựa vào tầng lớp trung sản thành thị, thôn quê và
đồng minh trong chốc lát hoặc trung lập giai cấp tư sản bản xứ, trung tiểu địa chủ.
Trong đó lực lượng chỉ huy là giai cấp vô sản.
• Công nông là lực lượng chính của cách mạng, sự liên minh chặt chẽ của nó là vấn
đề sống còn của cách mạng, không có sự liên minh ấy thì cách mạng không thể thắng lợi được.
• Vô sản giai cấp Đông Dương, tuy số lượng tương đối ít, tuy còn non nớt trẻ tuổi,
song vì không có chút thủ đoạn sinh sản nào ngoài dây xiềng xích của tư bản trói
buộc, vì tập trung ở chỗ yết hầu của tư bản đế quốc, lại sinh nhầm thế kỷ XX là
thời đại đế quốc chủ nghĩa và vô sản cách mệnh thế giới, nên chẳng những vô sản
là một động lực cách mệnh mạnh mẽ phi thường mà còn là lực lượng lãnh đạo của cách mệnh.
• Ngoài những lực lượng chính và phụ ấy, cuộc cách mệnh còn cần đến những lực
lượng dự trữ gián tiếp như vô sản Pháp, vô sản thế giới, Liên Xô, dân chúng thuộc
địa và bán thuộc địa.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: hội nghị đã thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương (thay cho Mặt trận dân chủ không còn phù hợp) nhằm đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các cá nhân yêu nước trên toàn Đông
Dương tập trung đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xít.
Hội nghị chỉ đạo toàn dân Đông Dương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. *Nhận xét:
• Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939 đánh dấu bước phát triển
quan trọng về lý luận và đường lối phương pháp cách mạng của Đảng, thể hiện sự lOMoAR cPSD| 46090862
nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Nghị quyết góp phần làm
phong phú kho tàng lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
• Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo
chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt cơ sở nền tảng
cho toàn bộ cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những năm 1939 - 1945, mở
đường đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Hội nghị phù hợp với
những yêu cầu khách quan và bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
• Một quyết định lịch sử, đôi khi chỉ đúng trong một thời điểm nhất định, nhưng có
những quyết định lịch sử đã đưa đến sự thay đổi cả một giai đoạn, một thời kỳ lịch
sử của dân tộc. Quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược dưới sự chủ trì của
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ tại Hội nghị Trung ương 6 là một quyết định như thế.
Nó mở ra một giai đoạn cách mạng mới của lịch sử đấu tranh cách mạng Việt
Nam. Giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc. Hơn thế nữa, sự đúng đắn, phù
hợp của nó đã đưa đến sự thắng lợi của cách mạng, mở ra kỷ nguyên mới cho cách
mạng Việt Nam. Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việt
Nam từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập. Nhân dân Việt Nam từ
thân phận nô lệ, đứng lên làm chủ đất nước.
• Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 6 (11/1939) chủ trương
cách mạng thành công sẽ xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa.
2. Nghị quyết hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 7 (11/1940) 3. Nghị
quyết hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 8 (5/1941) Vấn đề dân tộc:
• Hội nghị chỉ rõ nhân dân Đông Dương phải chịu những hậu quả nặng nề của cuộc
chiến tranh thế giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai cấp có thay đổi khá lớn.
Mâu thuẫn chủ yếu phải được giải quyết cấp bách lúc này là mâu thuẫn giữa các
dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Hội nghị tán thành Nghị
quyết của các Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, bảy về chuyển hướng chiến lược
và sách lược. Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm
quan trọng của vấn đề dân tộc, nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu
muốn tập hợp lực lượng toàn dân thì phải giương cao ngọn cờ dân tộc, phải đoàn
kết hết sức rộng rãi: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp, phải đặt
dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
• Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam,
Lào, Khơ me, thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật
thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi. Từ đó, hội nghị quyết định thành lập ở mỗi lOMoAR cPSD| 46090862
nước Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời
đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung.
Nhiệm vụ chiến lược: Để tập hợp được mọi người Việt Nam yêu nước, tranh thủ các
lựclượng cách mạng chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu của dân tộc là phát xít Nhật -
Pháp, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng như:
Thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh hội (gọi tắt là Việt Minh); tạm gác khẩu hiệu:
“Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày”; đề ra chủ trương tịch thu ruộng đất
của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo; giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công,
tiến tới thực hiện người cày có ruộng; chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ mỗi nước ở Đông Dương; thành lập, phát triển và tăng cường lãnh đạo các tổ chức
vũ trang và nửa vũ trang; chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần đến
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Nhiệm vụ cách mạng:
• Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết
liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công
tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể
lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành
sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
• Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ
và tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng. Lực lượng cách mạng:
• Với nhận thức “quyền lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc
nguy vong không lúc nào bằng”, Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương “tập trung
cho được lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền,
dân cày, phú nông. Địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ
cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập,
tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước ta”
• Thành lập tổ chức Việt Nam độc lập đồng minh (nói tắt là Mặt trận Việt Minh) với
chủ trương “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại, chiến đấu đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phát xít Nhật,
giành quyền độc lập cho nước Việt Nam”.
• Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Trung ương
mới và cử đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị bầu Ban
Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn
Thụ, Hạ Bá Cang, Phùng Chí Kiên, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của
Đảng. Ban Thường vụ Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang. lOMoAR cPSD| 46090862
Phạm vi cách mạng: Cuộc cách mạng diễn ra ở toàn thể Đông Dương với 3 nước bao
gồm Việt Nam, Lào và Campuchia cùng đoàn kết, hợp lực với quyết tâm cách mạng để
giành lại độc lập cho Đông Dương. *Nhận xét:
• Hội nghị Trung ương 8 tháng 5/1941 đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược đề ra từ
hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính
trị tháng 10/1930, khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng
đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
• Hội nghị xác định rõ được đối tượng cách mạng, cũng như chỉ ra được những mâu
thuẫn giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp, từ đó đề ra đường lối cách mạng đúng đắn cho dân tộc.
• Hội nghị đã chỉ ra được phương pháp vận động cách mạng là khởi nghĩa vũ trang
đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước.
• Hội nghị có ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng đối với cách mạng nước ta, trực
tiếp góp phần vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945. 4.
Tiểu kết giai đoạn 1939 – 1945