Đề cương ôn tập lý luận nhà nước và pháp luật | Trường đại học Luật, đại học Huế

Đề cương ôn tập lý luận nhà nước và pháp luật | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

 

Thông tin:
37 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương ôn tập lý luận nhà nước và pháp luật | Trường đại học Luật, đại học Huế

Đề cương ôn tập lý luận nhà nước và pháp luật | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

 

205 103 lượt tải Tải xuống
1. Quy phạm pháp luật là gì?
Một đất nước chỉ có thể ổn định, phát triển khi xây dựng được một hệ thống
pháp luật chặt chẽ và hiện đại. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật được
ban hành nhằm quy định tất cả các vấn đề, lĩnh vực phát sinh trong đời
sống xã hội. Và mỗi một văn bản pháp luật sẽ được cấu thành từ nhiều quy
phạm pháp luật để có thể tạo thành một thể thống nhất và hoàn chỉnh nhất.
Theo đó, quy phạm pháp luật là nội dung, là những quy tắc ứng xử, chuẩn
mực mang tính pháp lý, bắt buộc mọi cá nhân, tổ chức đều phải thực hiện vì
mục đích chung và được ban hành thông qua các văn bản pháp luật như văn
bản Luật và văn bản dưới luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy
định.
2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật:
Một, quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành hoặc thừa nhận.
Chúng ta thường thấy hàng năm có hàng loạt các văn bản pháp luật được
ban hành với nhiều nội dung và mục đích khác nhau. Các văn bản Luật được
ban hành để sửa đổi, bổ sung cho những Luật hoặc Bộ luật cũ để phù hợp
với tình hình thực tế. Và việc ý kiến, thông qua và ban hành đều là nhiệm vụ
và chức năng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cụ thể Quốc Hội là cơ
quan có quyền lực xem xét và thông qua tất cả các văn bản Luật trước khi
được ban hành có hiệu lực và áp dụng trong thực tế. Bên cạnh đó, còn có
các cơ quan hành pháp, tư pháp cũng là những chủ thể có thẩm quyền ban
hành. Nhà nước ta cũng quy định rõ, các cơ quan nhà nước chỉ được ban
hành văn bản pháp luật trong phạm vi lĩnh vực của mình và chịu trách
nhiệm pháp lý đối với những quy phạm pháp luật được quy định trong đó.
Ngoài ra, chúng ta cần hiểu không chỉ các bộ, ngành mới được ban hành mà
người đứng đầu các cơ quan nhà nước, thủ trưởng một số đơn vị trực thuộc
các cơ quan nhà nước,…cũng được phép ban hành văn bản pháp luật trong
phạm vi quyền hạn và lĩnh vực quản lý của mình.
Tuy nhiên, không phải tất cả những văn bản do nhà nước ban hành là văn
bản quy phạm pháp luật.
Hai, là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc và
được nhà nước đảm bảo thực hiện
Việc ban hành quy phạm pháp luật chỉ thực sự đạt hiệu quả khi những quy
định này được đảm bảo thực hiện trong thực tế. Chính vì vậy, nhà nước ta
bên cạnh ban hành những quy phạm pháp luật này chính là ban hành nhiều
biện pháp áp dụng khác nhau, trường hợp không thực hiện sẽ bị xử lý và cơ
quan có chức năng áp dụng biện pháp đó chính là cơ quan Công an, Tòa án,
Thi hành án…đây chính là những cơ quan thực thi pháp luật.
Ba, văn bản pháp luật được thể hiện với một hình thức nhất định do pháp
luật quy định.
Hình thức thể hiện quy phạm pháp luật dưới dạng văn bản luật hoặc văn
bản dưới luật và được cấu thành dựa theo hai yếu tố là tên gọi và thể thức
văn bản.
Đối với tên gọi thì quy phạm pháp luật được chứa đựng trong các văn bản
luật hoặc dưới luật với nhiều tên gọi khác nhau dựa trên các lĩnh vực khác
nhau như Hiến pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ luật hình sự, Bộ luật
dân sự, Nghị định, Thông tư, Quyết định…
Về thể thức: Quy phạm pháp luật được trình bày trong những văn bản theo
một khuôn mẫu, kết cấu nhất định, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa ình thức với
nội dung và đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của hệ thống cơ quan
nhà nước.
Tư, quy phạm pháp luật chứa đựng ý chí của chủ thể, phản ánh chức năng
điều chỉnh hành vi, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
Bởi lẽ nếu xem xét kỹ một quy phạm pháp luật nào đó chúng ta sẽ thấy
rằng trong một quy phạm pháp luật luôn có chứa đựng ý chí như cấm thực
hiện, cho phép thực hiện, bắt buộc thực hiện, có thể thực hiện hoặc không…
tất cả đều tác động đến ý chí của chủ thể.
3. Cấu thành quy phạm pháp luật:
Với mục đích không chỉ mô tả quy tắc hành vi của những người tham gia
quan hệ xã hội mà còn chỉ ra hoàn cảnh tồn tại quy tắc. Cấu trức của quy
phạm pháp luật được cấu thành từ ba yếu tố sau đây:
Một, giả định
Giả định là bộ phận của quy phạm quy định địa điểm, thời gian, các chủ thể,
các hoàn cảnh thực tế mà trong đó mệnh lệnh của quy phạm được thực
hiện, tức là xác định môi trường của sự tác động của quy phạm pháp luật.
Giả định có thể chua ra giả định xác định và giả định tương đối.
Giả định xác định là sự liệt kê một cách chính xác, rõ ràng các hoàn cảnh cụ
thể mà trong hoàn cảnh đó các mệnh của quy phạm đoiì hỏi phải thực hiện.
Giả định xác định tương đối, mặc dầu cũng được gọi là điều kiện môi trường
tác động của quy phạm, nhưng lại giới thiệu cho chủ thể áp dụng pháp luật
khả năng giải quyết vấn đề trong mỗi trường hợp cụ thể có thể có mặt điều
kiện đó, hoặc vắng mặt nó. Về nguyên tắc, giả định xác định tương đối
không tồn tại trong quy phạm pháp luật một cách độc lập. Nó chỉ phần bổ
sung thêm cho giả định xác định.
Hai, quy định
Quy định là yếu tố trung tâm của quy phạm pháp luật. Bởi vì, trong quy định
trình bày ý chí và lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân con người trong
việc điều chỉnh quan hệ xã hội nhất định. Quy định là bộ phận của quy
phạm pháp luật trong đó nêu quy tắc xử sự buộc mọi chủ thể phải xử sự
theo khi ở hoàn cảnh đã nêu trong giả định của quy phạm. Tùy thuộc vào
mức độ xác định của quy tắc hành vi mà bộ phận quy định có thể phân ra
quy định xác định, quy định tùy nghi và quy định mẫu.
Quy định xác định là quy định chỉ ra một cách chính xác đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện.
Quy định tùy nghi có lúc còn gọi là quy định xác định tương đối. Quy định
này nêu lên cho chủ thể một phạm vi có thể của hành vi và chủ thể có
quyền lựa chọn một phương án trong số các phương án đó của hành vi.
Quy định mẫu là quy định thiết lập quy tác của hành vi dưới dạng chung
nhất. Việc giải thích và cụ thể hóa nó có thể hiện trong một văn bản pháp
luật khác. Đặc điểm của quy định mẫu thể hiện ở chỗ nó không có quan hệ
với một quy phạm cụ thể nào đó mà chỉ quan hệ với một nhóm, một tập hợp
quy phạm. Do vậy, quy định mẫu là những quy định nguyên tắc chung hay
quy định định nghĩa.
Ba, chế tài
Chế tài là một bộ phận bắt buộc của quy phạm pháp luật nêu lên những
biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không
thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu trong bộ phận quy định của
quy phạm pháp luật.
Ý nghĩa của từng bộ phận trong cơ cấu quy phạm pháp luật
1 – Ý nghĩa của bộ phận giả định
Giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những điều kiện, hoàn
cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà khi gặp thì mọi người cần phải xử sự
theo quy định của pháp luật và chỉ rõ chủ thể nào cần phải xử sự trong điều
kiện, hoàn cảnh đó. Phần này còn nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh để áp
dụng các biện pháp tác động của nhà nước và chỉ rõ chủ thể nào sẽ là đối
tượng để áp dụng chế tài hoặc các biện pháp tác động khác của nhà nước.
Vì thế, ý nghĩa của bộ phận này là cho mọi người biết quy phạm đó điều
chỉnh quan hệ xã hội nào, ai và khi nào, trong điều kiện và hoàn cảnh nào
thì cần phải xử sự theo quy phạm đó. Bộ phận này cũng cho các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền biết là khi nào thì họ cần phải áp dụng các biện
pháp tác động của nhà nước được quy định trong quy phạm, áp dụng đối với
ai, đối tượng nào và điều kiện để áp dụng các biện pháp đó là gì.
2 – Ý nghĩa của bộ phận quy định
Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên cách xử sự hay quy
tắc xử sự cho chủ thể khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả
định của quy phạm. Ý nghĩa của bộ phận này là hướng dẫn cách xử sự cho
các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do quy phạm đó điều chỉnh, chỉ
cho mọi người biết khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả
định của quy phạm thì họ được làm gì hay hành vi nào họ được phép thực
hiện; họ không được làm gì hay hành vi nào họ không được phép thực hiện;
họ phải làm gì hay hành vi nào họ bắt buộc phải thực hiện. Nói cách khác,
bộ phận quy định của quy phạm chỉ cho mọi người biết các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của họ khi tham gia vào quan hệ xã hội do quy phạm điều chỉnh;
đồng thời, nó cũng chỉ cho mọi người biết ý chí, mong muốn, mục đích của
nhà nước khi điều chỉnh quan hệ đó.
3 – Ý nghĩa của bộ phận chế tài
Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên các biện pháp cưỡng
chế mang tính chất trừng phạt mà nhà nước dự kiến có thể áp dụng đối với
các chủ thể được nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật khi họ vi
phạm pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ
những nghĩa vụ pháp lý đã được nêu trong bộ phận quy định của quy phạm
pháp luật. Ý nghĩa của bộ phận này là chỉ cho mọi người biết những biện
pháp cưỡng chế nhà nước nào hay những hậu quả pháp lý bất lợi nào họ có
thể phải gánh chịu nếu tham gia vào quan hệ xã hội do quy phạm điều
chỉnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các
nghĩa vụ pháp lý được nêu trong phần quy định của quy phạm, tức là thực
hiện không đúng những yêu cầu, mệnh lệnh của nhà nước đối với họ. Vì thế,
phần chế tài của quy phạm pháp luật được đặt ra nhằm răn đe, phòng ngừa
sự vi phạm pháp luật và nhằm trừng phạt các chủ thể vi phạm pháp luật để
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh hay bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật. Do vậy, có thể nói, trong số các biện pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật thì chế tài là biện pháp quan trọng nhất, có tác
dụng lớn nhất và có hiệu quả nhất.
2. Phân biệt quy phạm pháp luật với quy phạm xã hội khác và rút ra đặc điểm của quy phạm
pháp luật:
Sự giống nhau đó là:
Điểm giống nhau được thể hiện với tính quy tắc và xác định chuẩn mực
chung cho một nhóm người. Cả hai quy phạm này đều là những quy tắc xử
sự chung được hình thành và thừa nhận trong đời sống con người. Được một
bộ phận những cá nhân, tổ chức công nhận và đảm bảo tuân thủ trong hoạt
động của họ. Gắn với đời sống sinh hoạt, lao động, tham gia vào các mối
quan hệ,…
Mọi người định hướng những hành vi của họ theo những quy tắc này. Khi
thực hiện hoạt động, phải cân nhắc hướng đến ý nghĩa trong chuẩn mực
chung đã được xây dựng. Hướng toàn bộ cộng đồng đó phải tuân theo
những quy tắc định sẵn đó. Tính đồng bộ và hiệu quả thực hiện tập thể sẽ
loại bỏ ra các đối tượng không tuân thủ quy phạm chung. Và có các hình
thức xử lý đối với các vi phạm đó, để các chủ thể khác có bài học nhận thức
sâu sắc.
3. Phân biệt quy phạm pháp luật và xã hội:
Để phân biệt các quy phạm này, phải dựa trên các tiêu chí khác nhau:
3.1. Khái niệm:
Quy phạm pháp luật:
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Phải đảm bảo thực hiện trong tính bắt
buộc chung, trong quyền lực nhà nước. Mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội
đều phải đảm bảo tuân thủ.
Nhằm mục đích để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo những định
hướng, đạt được mục đích đề ra trong quản lý nhà nước. Tiếp cận các công
bằng và bình đẳng trong xã hội, cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp cho người dân.
Quy phạm xã hội:
Quy phạm xã hội là những quy tắc xử sự chung trong xã hội. Được xây dựng
và tồn tại lâu đời, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con
người trong một cộng đồng, một khu vực nhất định. Các quy phạm này được
thực hiện với phạm vi xã hội nhất định, có giới hạn người tham gia và tuân
thủ. Mọi người tham gia vì tính hợp lý, bảo đảm cho các nhu cầu hay quyền
lợi nhất định của họ.
3.2. Nguồn gốc:
Quy phạm pháp luật:
Là kết quả của cả quá trình tư duy sáng tạo. Thực hiện với hoạt động của
các cơ quan nhà nước về Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp. Bộ máy nhà nước
phân công và phối hợp để mang đến hiệu quả quản lý chung trên toàn xã
hội. Thể hiện ý chí của nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.
Khi được quy định là quy phạm pháp luật sẽ được ghi nhận trong luật và các
văn bản có giá trị pháp lý khác.
Quy phạm xã hội:
Được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội, từ đó áp dụng trong thời gian
dài. Bắt nguồn từ các quan niệm về đạo đức, lối sống. Hình thành nên các
quy tắc chung cho nhóm người trong cân bằng các quyền và lợi ích.
3.3. Phạm vi:
Quy phạm pháp luật:
Áp dụng rộng rãi trên toàn lãnh thổ đất nước, quốc gia và toàn bộ người
dân.Thực hiện quy định với tất cả các khía cạnh, lĩnh vực trong tiếp cận hoạt
động của con người. Mang đến quy tắc, chuẩn mực đối với mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Quy phạm xã hội:
Phạm vi hẹp hơn, chỉ áp dụng trong một tổ chức hay một cộng đồng nhất
định. Thực hiện với quy phạm xã hội do người dân nhất chí thực hiện. Mang
đến các thống nhất, thỏa thuận thành lập nguyên tắc chung.
3.4. Mục đích:
Quy phạm pháp luật:
Để điều chỉnh mối quan hệ xã hội dựa theo ý chí của nhà nước. Trong đó,
nguyên tắc quản lý nhà nước là tìm kiếm quyền và lợi ích cho người dân khi
tham gia vào xã hội. Cũng như cấm các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi
ích của chủ thể khác được pháp luật bảo vệ.
Quy phạm xã hội:
Để điều chỉnh mối quan hệ xã hội giữa con người với con người. Thông
thường gắn với yếu tố tình cảm, cảm xúc trong một nhóm người, một cộng
đồng.
3.5. Hình thức:
Quy phạm pháp luật:
Thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành, có hiệu lực thi hành trên toàn quốc. Các chủ
thể liên quan bắt buộc tuân thủ quy định này.
Quy phạm xã hội:
Bằng hình thức truyền miệng, quy tắc ngầm trong cuộc sống. Được duy trì
khi thường xuyên sử dụng tạo thành nguyên tắc chung. Các cá nhân hay tổ
chức quản lý với uy tín được công nhận, tạo ra sức ảnh hưởng với cộng
đồng.
3.6. Nội dung:
Quy phạm pháp luật:
– Là quy tắc xử sự với việc được làm, việc phải làm, việc không được làm. Từ
đó hình thành các quyền, nghĩa vụ phải tuân thủ.
– Mang tính chất bắt buộc chung đối với tất cả mọi người trong xã hội. Như
pháp luật nước ta được áp dụng cho tất cả người dân Việt nam và người
nước ngoài sinh sống trên lãnh thổ Việt nam.
– Được thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Từ giáo dục,
thuyết phục đến cưỡng chế là biện pháp mạnh nhất. Nhà nước có sức mạnh
của quyền lực, cùng các chế tài tạo nên uy quyền.
– Mang tính quy phạm chuẩn mực, có giá trị pháp lý cao nhất. Có giới hạn,
các chủ thể buộc phải xử sự trong phạm vi pháp luật cho phép. Từ đó mang
đến hiệu quả thống nhất trong tổ chức, hoạt động xã hội.
– Thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị. Ngoài ra cũng
thực hiện các đại diện quyền lực quản lý. Trong đó, quyền lực tối cao thuộc
về nhân dân, nhà nước là đại diện thống nhất quyền lực.
Quy phạm xã hội:
– Là các quan điểm chuẩn mực đối với đời sống tinh thần, tình cảm của con
người. Được thừa nhận trong các giá trị chuẩn mực mang lại cho nhận thức
và tư duy của con người.
– Không mang tính bắt buộc thực hiện. Tuy nhiên có thể mất uy tín trong
cộng đồng, không nhận được sự tôn trọng từ nhóm người của cộng đồng.
– Không được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế. Được thực hiện
bằng 1 cách tự nguyện, tự giác.
– Không có sự thống nhất, không rõ ràng, cụ thể như quy phạm pháp luật.
Chỉ mang tính chất thừa nhận vì tính hợp lý trong tổ chức.
– Thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi cho đông đảo tầng lớp và tất cả mọi
người. Mang đến các ý nghĩa nhận thức, phát triển tư duy. Giúp con người
tiếp cận với các chuẩn mực đạo đức, cũng như thúc đẩy hiệu quả tuân thủ
pháp luật. Các quy phạm này không được trái với quy phạm pháp luật.
3.7. Đặc điểm:
Quy phạm pháp luật:
– Dễ thay đổi, làm sao phù hợp với thực tiễn nhu cầu tiếp cận của con người.
Cũng như điều chỉnh để mang đến chặt chẽ của quy định.
– Có sự tham gia của Nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.
-Cứng rắn, không tình cảm, thể hiện sự răn đe.
Quy phạm xã hội:
– Không dễ thay đổi, thường mang đến hiệu quả ứng dụng và áp dụng
thường xuyên.
– Do tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo quy định hay tự hình thành trong xã
hội. Tạo thành nguyên tắc chung trên địa bàn, hay trong một nhóm người.
– Là những quy tắc xử sự không có tính bắt buộc chỉ có hiệu lực đối với
thành viên tổ chức. Là những người mong muốn nhận được các lợi ích từ tổ
chức.
3.8. Phương thức tác động:
Quy phạm pháp luật:
Thuyết phục, cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước.
Quy phạm xã hội:
Chịu tác động từ dư luận xã hội. Như các nhận xét, đánh giá và cái nhìn của
xã hội về hành vi thực hiện.
5. Trình bày cách thức thể hiện quy phạm pháp luật trong văn bản quy
phạm pháp luật. Cho ví dụ?
Trình bày cách thức thể hiện quy phạm pháp luật trong văn bản quy phạm
pháp luật. Cho ví dụ
Quy phạm pháp luật có thể có các bộ phận như giả định, quy định, chế tài
hoặc biện pháp tác động của nhà nước, song trong quá trình xây dựng pháp
luật, do yêu cầu của kỹ thuật xây dựng pháp luật đòi hỏi các quy phạm phải
được trình bày một cách ngắn gọn, chặt chẽ, không trùng lặp, chồng chéo
nên trong các văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm có thể được trình
bày theo nhiều cách khác nhau mà cơ bản có 05 cách sau:
1 – Cách thứ nhất: Tất cả các bộ phận của một quy phạm pháp luật có thể
được trình bày trong cùng một điều, một khoản của một văn bản quy phạm
pháp luật.
Ví dụ: khoản 1 Điều 63 Luật giáo dục đại học năm 2012 quy định: ‘Người học
chương trình giảo dục đại học nêu được hưởng học bổng và chi phí đào tạo
do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo Hiệp định ký kết với Nhà
nước Việt Nam, thì sau khỉ tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động làm việc
của Nhà nước trong thời gian ít nhất là gấp đôi thời gian được hưởng học
bong và chi phí đào tạo, nếu không chấp hành thì phải bồi hoàn học bổng,
chi phí đào tạo”. Với quy phạm trên, cả ba bộ phận giả định, quy định và chế
tài của nó đuợc trình bày trong cùng một khoản của một điều của một văn
bản quy phạm pháp luật là Luật giáo dục đại học năm 2012.
2 – Cách thứ hai: Trong một điều của một văn bản quy phạm pháp luật có
thể trình bày một hoặc nhiều quy phạm pháp luật.
Ví dụ: trong Điều 63 Luật giáo dục đại học năm 2012 đã trình bày nhiều quy
phạm pháp luật. Còn trong Điều 50 Luật giao thông đường bộ năm 2008 chỉ
trình bày một quy phạm pháp luật với nội dung: “Việc xây dựng đoạn đường
giao nhau cùng mức giữa đường bộ với đường sắt phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép; có thiết kế bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật và
điều kiện an toàn giao thông được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ”.
3 – Cách thứ ba: Các bộ phận của một quy phạm pháp luật có thể được trình
bày trong các điều, khoản khác nhau của cùng một văn bản quy phạm pháp
luật
Ví dụ: khoản 1 Điều 301 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 quy định về tội bắt cóc con tin như sau: “Người nào bắt, giữ hoặc giam
người khác làm con tin nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức
quốc tế hoặc cơ quan, tồ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như
một điều kiện để thả con tin, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
113 và Điều 299 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 nấm đền 05 năm”. Quy
định này cho thấy, bộ phận giả định của quy phạm pháp luật được trình bày
trong 03 điều luật là các Điều 301, 113 và 229 của cùng một văn bản quy
phạm pháp luật là Bộ luật hình sự năm 2015.
4 – Cách thứ tư: Các bộ phận mang nội dung của một quy phạm pháp luật
có thể được trình bày trong các điều, khoản khác nhau của các văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau.
Ví dụ: khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cấm
các hành vi sau đây:
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khảc hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kêt hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.
Và Điều 182 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội vi phạm chế độ một
vợ, một chồng như sau: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ
là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng
đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.”
Mặc dù hai điều luật trên trình bày hai quy phạm pháp luật khác nhau, song
nếu ghép hai quy phạm đó với nhau thì có thể tạo thành một quy phạm
pháp luật hoàn chỉnh có đủ ba bộ phận cấu thành là giả định, quy định và
chế tài. Trong quy phạm ở Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì
trình bày hai bộ phận là giả định và quy định, còn trong quy phạm ở Điều
182 Bộ luật hình sự năm 2015 thì trình bày hai bộ phận là giả định và chế
tài.
Đây là cách trình bày khá phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam hiện nay.
5 – Cách thứ năm: Trật tự sắp xếp các bộ phận trong quy phạm pháp luật
không nhất thiết phải theo đúng thứ tự: Giả định, quy định, chế tài hay biện
pháp tác động của nhà nước mà có thể trình bày các bộ phận đó theo cách
đảo lộn hoặc đan xen nhau.
Ví dụ: Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
Cấm các hành vi sau đây:
… Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.
Trong quy phạm này, các bộ phận giả định và quy định đã được trình bày
theo cách đan xen vào nhau.
6. Trang chủ Xây dựng pháp luật là gì? Phân tích khái niệm xây dựng pháp luật? »
Xây dựng pháp luật là gì? Phân tích khái niệm xây dựng pháp luật?
Khái niệm xây dựng pháp luật có thể hiểu theo các nghĩa khác nhau:
1 – Theo nghĩa rộng – Xây dựng pháp luật là hoạt động của tất cả tổ chức và
cá nhân (các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền, các Tổ chức
xã hội và các cá nhân trong xã hội) tham gia vào quá trình tạo lập pháp luật
Quá trình tạo lập pháp luật rất phức tạp, bao gồm rất nhiều hoạt động kế
tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều tổ chức và cá nhân có vị trí,
vai trò, chức năng, quyền hạn khác nhau cùng tiến hành, nhằm chuyến hoá
ý chí nhà nước thành những quy định pháp luật dựa trên những nguyên tắc
nhất định và được thể hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định, đặc biệt
là hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
2 – Theo nghĩa hẹp – Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ
quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục
do pháp luật quy định nhằm ban hành các quy phạm pháp luật để điều
chỉnh quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước
Theo nghĩa này, xây dựng pháp luật có đặc điểm sau:
– Xây dựng pháp luật là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước
hoặc nhà chức trách có thẩm quyền ban hành pháp luật theo quy định của
pháp luật. Pháp luật của các nước thường qưy định cụ thể các chủ thể có
thẩm quyền sáng tạo ra pháp luật.
– Hoạt động xây dựng pháp luật được tiến hành theo những trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định. Do đó, xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính tổ
chức rất chặt chẽ, được diễn ra theo quy trình nhất định với những bước cơ
bản sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những nhu cầu về sự cần thiết phải xây dựng hoặc
sửa đổi pháp luật, loại văn bản cần xây dựng (luật, pháp lệnh, nghị định hay
án lệ…), xác định đối tượng áp dụng, phạm vi áp dụng và phương pháp điều
chỉnh pháp luật đối với quan hệ xã hội đó;
Thứ hai, công nghệ sáng tạo ra quy phạm pháp luật: Xác định những nội
dung cơ bản, nội dung của từng chương, mục, điều, khoản, điểm cụ thể của
văn bản.
Nhìn chung, các nhà nước thường có những quy định rất chặt chẽ về thẩm
quyền, tên gọi, nội dung, nguyên tắc và trình tự, thủ tục ban hành đối với
mỗi loại hình thức (nguồn) pháp luật nhất định trong Hiến pháp hoặc luật
hoặc văn bản dưới luật…
7. Xây dựng pháp luật là gì? (theo nghĩa hẹp)
Theo nghĩa hẹp: Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ quan
nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do
pháp luật quy định nhằm ban hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh
quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước.
Theo nghĩa này, xây dựng pháp luật có đặc điểm sau:
– Xây dựng pháp luật là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước
hoặc nhà chức trách có thẩm quyền ban hành pháp luật theo quy định của
pháp luật. Pháp luật của các nước thường qưy định cụ thể các chủ thể có
thẩm quyền sáng tạo ra pháp luật.
– Hoạt động xây dựng pháp luật được tiến hành theo những trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định. Do đó, xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính tổ
chức rất chặt chẽ, được diễn ra theo quy trình nhất định với những bước cơ
bản sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những nhu cầu về sự cần thiết phải xây dựng hoặc
sửa đổi pháp luật, loại văn bản cần xây dựng (luật, pháp lệnh, nghị định hay
án lệ…), xác định đối tượng áp dụng, phạm vi áp dụng và phương pháp điều
chỉnh pháp luật đối với quan hệ xã hội đó;
Thứ hai, công nghệ sáng tạo ra quy phạm pháp luật: Xác định những nội
dung cơ bản, nội dung của từng chương, mục, điều, khoản, điểm cụ thể của
văn bản.
Nhìn chung, các nhà nước thường có những quy định rất chặt chẽ về thẩm
quyền, tên gọi, nội dung, nguyên tắc và trình tự, thủ tục ban hành đối với
mỗi loại hình thức (nguồn) pháp luật nhất định trong Hiến pháp hoặc luật
hoặc văn bản dưới luật…
– Kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật là làm hình thành nên các quy
định pháp luật mới để bổ sung vào hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành
hoặc sửa đổi, loại bỏ những quy định pháp luật đã lỗi thời, không còn phù
hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hiện tại, không đáp ứng được nhu
cầu phát triển của đất nước. Do vậy, xây dựng pháp luật là hoạt động mang
tính sáng tạo, là một quá trình sáng tạo ra các quy định pháp luật.
Việc tạo ra các quy phạm pháp luật có thể tiến hành thông qua hoạt động
xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, thông qua việc thừa nhận các
quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán… hoặc qua việc đưa ra các án lệ được
thừa nhận.
2 – Thế nào là nguyên tắc xây dựng pháp luật?
Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo, là cơ sở cho toàn
bộ quá trình xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào
quá trình này phải nghiêm chỉnh tuân theo.
3 – Các nguyên tắc xây dựng pháp luật
a – Nguyên tắc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong xây dựng pháp luật
(nguyên tắc pháp chế)
Nguyên tắc này thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, trong quá trình xây dựng pháp luật, các cơ quan nhà nước và các
nhà chức trách có thẩm quyền phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp
luật về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục. Chẳng hạn, trong Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của nước ta đã quy định cụ thể trình tự,
thủ tục ban hành từng loại văn bản quy phạm pháp luật như luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của
Chính phủ… Hoặc trong Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quy định cụ thể về quy trình lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ ở nước ta.
Hai là, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là phải tôn trọng tính tối
cao của hiến pháp và luật.
Ví dụ: ở nước ta, nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền khi xây
dựng và ban hành pháp luật phải bảo đảm cho các quy định trong văn bản
luật phải phù hợp với Hiến pháp và không mâu thuẫn với nhau, quy định
trong văn bản dưới luật phải phù hợp với quy định trong văn bản luật, quy
định trong văn bản của cấp dưới phải phù hợp với văn bản của cấp trên và
văn bản của địa phương phải phù hợp với văn bản của trung ương.
b – Nguyên tắc tôn trọng quy luật khách quan trong xây dựng pháp luật, bảo
đảm tính phù hợp và khả thi của pháp luật
Pháp luật là hiện tượng có tính khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu đòi
hỏi của xã hội, phải phản ánh đúng nhu cầu khách quan của xã hội, xuất
phát từ thực tế cuộc sống, phù hợp với thực tế cuộc sống.
Nhà làm luật không phát minh ra luật, mà chỉ ghi nhận các quy luật phát
triển của xã hội bằng quy phạm pháp luật, pháp luật luôn là sự nhận thức
chủ quan của con người đối với thế giới khách quan, con người nhận thức
tồn tại xã hội sau đó đưa ra các quy tắc cho hành vi của mình. Do vậy, nội
dung của pháp luật phải phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước
như điềư kiện kinh tế – xã hội, phong tục tập quán, nền đạo đức chính
thống, truyền thống, đặc điểm tâm lý dân tộc, trình độ dân trí, trình độ phát
triển của nền dân chủ… Có như vậy, pháp luật mới có tính khả thi, mới được
thực hiện trong thực tế, nếu không thì pháp luật chỉ tồn tại trên giấy.
Trong quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, nguyên tắc này luôn được
quán triệt song mức độ đáp ứng yêu cầu này chưa cao vì trong hệ thống
pháp luật vẫn còn một số quy định thiếu tính khả thi.
c – Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống, tính khoa học, kịp thời, tính minh
bạch của các quy định pháp luật được xây dựng
Các quy định pháp luật được xây dựng cần phải chặt chẽ, hoàn chỉnh, đầy
đủ, chính xác, dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học mới nhất, nhưng
không mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo và loại bỏ lẫn nhau. Việc ban hành
pháp luật phải kịp thời, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống, tránh
tình trạng thiếu pháp luật hoặc pháp luật có lỗ hổng.
Kế hoạch xây dựng pháp luật cần chặt chẽ và có tính khả thi, các hình thức
thu thập, xử lý thông tin, tiếp thu ý kiến góp ý trong quá trình xây dựng
pháp luật phải bảo đảm tính khách quan, khoa học… Trong mỗi văn bản quy
phạm pháp luật, bố cục, cấu trúc, cách thức trình bày các quy phạm pháp
luật… phải mang tính khoa học; các quy phạm pháp luật cần được sắp xếp
một cách logic, hợp lý. Các quy định của pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu,
phải được hiểu một cách nhất quán và phải được công bố công khai, về cơ
bản, pháp luật nước ta rõ ràng, dễ hiểu, song đôi khi vẫn còn có quy định
dẫn đến những cách hiểu khác nhau.
Ở Việt Nam, mặc dù các chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật luôn c
gắng bảo đảm nguyên tắc này song tình trạng thiếu pháp luật trong một số
lĩnh vực vẫn còn, tính khoa học chưa thực sự được đảm bảo nên có luật chưa
có hiệu lực đã phải sửa đổi, bổ sung như Luật Bảo hiểm xã hội, có luật phải
lùi thời điểm có hiệu lực thi hành như Bộ luật hình sự năm 2015…
d – Nguyên tắc dân chủ, công khai trong xây dựng pháp luật
Nguyên tắc này đòi hỏi Hiến pháp, luật phải được ban hành bằng con đường
trưng cầu ý dân hoặc bởi cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra. Các dự án
luật, các luật đã được ban hành cần phải được thông tin đầy đủ, rộng rãi đến
nhân dân, nhất là đối với các đối tượng áp dụng của luật. Việc xây dựng
pháp luật cần có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân nhằm làm
cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Đây là nguyên tắc vừa góp phần phát huy được trí tuệ của đông đảo các
tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật, vừa giúp
nhân dân hiếu được các quy định của pháp luật, qua đó góp phần nâng cao
ý thức pháp luật của nhân dân và nâng cao hiệu quả của pháp luật. .
Ở Việt Nam, mặc dù chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào được thông
qua theo thủ tục trưng cầu ý dân, song trong quá trình xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật dân sự… Nhà
nước luôn luôn lấy ý kiến, thu thập và tham khảo ý kiến của nhân dân và
các chủ thể có liên quan.
đ – Nguyên tắc chuyên nghiệp và hài hòa hóa trong xây dựng pháp luật
Nguyên tắc chuyên nghiệp trong xây dựng pháp luật đòi hỏi quá trình chuẩn
bị dự thảo các dự án luật phải có sự tham gia của các luật gia, các nhà kinh
tế, các nhà xã hội, các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Những chuyên gia nói trên phải là những người có sự hiểu biết
sâu sắc nhất về các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… liên quan
đến nội dung dự án luật và có khả năng biểu đạt chúng bằng kỹ thuật pháp
lý tiên tiến. Trong quá trình soạn thảo dự án luật cần có sự tham vấn ý kiến
nhân dân và các chuyên gia trong và ngoài nước…
Nguyên tắc hài hòa hóa trong xây dựng pháp luật đòi hỏi các quy định pháp
luật được xây dựng phải bảo đảm sự hài hoà về lợi ích giữa các lực lượng xã
hội;… phù hợp với các điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham
gia, với pháp luật của các quốc gia có quan hệ hợp tác với quốc gia mình.
Đây là nguyên tắc khá được chú trọng trong quá trình xây dựng pháp luật ở
nước ta thời gian gần đây, với sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài và
sự phát triển của trình độ nhận thức, của khoa học kỹ thuật mà trình độ và
kỹ thuật xây dựng pháp luật ở nước ta không ngừng được nâng cao, tính
chất chuyên nghiệp trong hoạt động xây dựng pháp luật được chú trọng. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của lợi ích nhóm chi phối mà sự hài hòa hóa về lợi ích
giữa các lực lượng xã hội chưa thật sự được bảo đảm.
11. 1 – Quan hệ pháp luật là gì?
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh, trong đó các
bên chủ thể tham gia quan hệ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý đuợc nhà
nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Ví dụ: Quan hệ giáo dục và đào tạo giữa sinh viên A và Trường Đại học Luật
Hà Nội, quan hệ mua bán xe máy giữa ông A và bà B…
2 – Các đặc điểm của quan hệ pháp luật
a – Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí bởi vì nó được hình thành
và được điều chỉnh theo ý chí của con người.
Tính ý chí của quan hệ pháp luật thể hiện ở những điểm sau:
– Trước tiên, quan hệ pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước thông qua việc
xác định quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật, qua việc quy định
điều kiện cho các chủ thể tham gia quan hệ và qua việc quy định quyền và
nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đó. Ví dụ:
trong quan hệ giáo dục và đào tạo giữa sinh viên A và Trường Đại học Luật
Hà Nội thì ý chí của Nhà nước được thế hiện qua việc cho phép Trường Đại
học Luật được Tổ chức tuyến sinh, đào tạo và cấp bằng cho người học, quy
định điều kiện cho thí sinh có thể tham gia vào quan hệ này, quy định quyền
và nghĩa vụ cho cơ sở giáo dục đại học, người dạy, người học trong Luật giáo
dục, Luật giáo dục đại học…
– Thứ hai, quan hệ pháp luật thể hiện ý chí của các chủ thể cụ thể tham gia
vào quan hệ đó. Chẳng hạn, quan hệ pháp luật giáo dục và đào tạo nói trên
vừa thể hiện ý chí của Trường Đại học Luật Hà Nội, vừa thể hiện ý chí của
sinh viên A.
Tuy nhiên, ý chí của các chủ thể khác luôn phải phù hợp, không được trái với
ý chí của nhà nước. Vì thế, có những quan hệ pháp luật hình thành vừa do ý
chí của nhà nước, vừa do ý chí của các chủ thể khác (ví dụ quan hệ giữa
người mua và người bán), song có những quan hệ pháp luật hình thành chỉ
do ý chí của nhà nước (Ví dụ: quan hệ về xử lý vi phạm pháp luật giữa nhà
nước với người vi phạm pháp luật).
b – Các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ
pháp lý được nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện
Khi tham gia vào bất cứ quan hệ xã hội nào, các bên chủ thể đều có quyền
và nghĩa vụ đối với nhau. Riêng trong quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ
của các bên chủ thể được quy định trong pháp luật và được bảo đảm thực
hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước như tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục, tổ chức thực hiện, động viên, khen thưởng và cưỡng chế
nhà nước.
Do vậy, các quyền và nghĩa vụ đó được gọi là quyền và nghĩa vụ pháp lý,
tức là các quyền và nghĩa vụ được nhà nước quy định hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện.
Ví dụ: trong quan hệ giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học giữa người học
và cơ sở đào tạo ở Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ của người học, người dạy
và của cơ sở giáo dục được Nhà nước quy định trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật như Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học, các nghị định của
Chính phủ, các thông tư của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo… Các quy
định đó đều được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang
tính quyền lực nhà nước.
12. 1 – Chủ thể quan hệ pháp luật là gì?
Chủ thể quan hệ pháp luật là các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện tham gia
vào QHPL, có các quyền và nghĩa vụ pháp lý do nhà nước quy định hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện.
Định nghĩa trên cho thấy, chủ thể của QHPL chỉ gồm những tổ chức và cá
nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quy định, tức là có năng lực chủ thể.
Về chủ thể của quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật gồm: Cá nhân và tổ chức. Chủ thể là cá nhân
gồm ba loại là công dân, người nước ngoài và người không quốc tịch cư trú
và làm ăn sinh sống ở nước sở tại, trong đó năng lực pháp luật của công dân
nước sở tại rộng hơn nhiều so với công dân nước ngoài, người không quốc
tịch; công dân nước sở tại có thể trở thành chủ thể của hầu hết các quan hệ
pháp luật, còn người nước ngoài, người không quốc tịch chỉ được tham gia
vào những quan hệ pháp luật nhất định khi được pháp luật cho phép.
Chủ thể là tổ chức gồm nhà nước, cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức
phi nhà nước và pháp nhân. Tổ chức là tập thế người liên kết chặt chẽ với
nhau để thực hiện các hoạt động chung nhằm đạt được những mục đích nào
đó. Trong số các tổ chức nói trên có tổ chức là pháp nhân, có tổ chức không
phải là pháp nhân. Cụ thể:
– Nhà nước: Là chủ thể đặc biệt của nhiều quan hệ pháp luật, trong đó có
những quan hệ chỉ nhà nước mới là chủ thể có quyền.
Ví dụ: đại diện chính thức cho quốc gia, dân tộc trong các quan hệ đối nội và
đối ngoại thì chỉ nhà nước mới là chủ thể có quyền.
Khách thể của quan hệ pháp luật là gì?
Khách thể của QHPL là một trong ba yếu tố cấu thành QHPL và là yếu tố
khiến cho các bên chủ thể thiết lập QHPL với nhau, yếu tố này có thể mang
lại cho các chủ thể những lợi ích nhất định về vật chất hoặc tinh thần.
Khách thể của QHPL có thể bao gồm một hoặc nhiều yếu tố, nói cách khác,
QHPL có thể có một hoặc nhiều khách thể. Chẳng hạn: Trong quan hệ pháp
luật mua bán tài sản, khách thể là quyền sở hữu tài sản, tuy nhiên, trong
quan hệ pháp luật giữa Tòa án với bị cáo, khách thể có thể bao gồm trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, lợi ích của Nhà
nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc…
Khách thể của QHPL rất đa dạng tuỳ thuộc vào từng loại QHPL khác nhau.
Chẳng hạn: Khách thể của hợp đồng khoán việc là kết quả công việc; khách
thể của quan hệ thừa kế, mua bán, tặng, cho tài sản là quyền sở hữu tài
sản; khách thể của quan hệ thuê, mượn tài sản là quyền sử dụng tài sản;
khách thể của quan hệ lao động là giá trị sức lao động…
Khách thể của QHPL phản ánh vấn đề lợi ích trong xã hội, chính vì vậy, sự
quan tâm nhiều hay ít của chủ thể đối với khách thể là động lực thúc đẩy sự
phát sinh, tồn tại hay chấm dứt QHPL. Đó có thể là lợi ích của chính các bên
trong quan hệ pháp luật, cũng có thể là lợi ích của bên thứ ba (nhà nước,
cộng đồng, cá nhân, Tổ chức khác). Chẳng hạn, trong quan hệ thuê tài sản,
quyền sử dụng tài sản là lợi ích của các bên chủ thể, còn trong quan hệ
pháp luật giữa vợ và chồng, khách thể không chỉ bao gồm lợi ích của vợ,
chồng mà có thể còn bao gồm cả lợi ích của các con…
Nội dung của quan hệ pháp luật là gì?
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể do nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể với tư cách là chủ thể của
pháp luật nói chung.
Ở góc độ này nó bao gồm tất cả những quyền và nghĩa vụ tạo nên địa vị
pháp lý của chủ thể. Ví dụ: tổng thể các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân được quy định trong Hiến pháp tạo nên địa vị pháp lý của công dân
trong mối quan hệ với nhà nước.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể với tư cách là chủ thể của
một quan hệ pháp luật cụ thể.
Ở góc độ này:
– Quyền chủ thể là cách xử sự mà chủ thể có thể tiến hành theo quy định
của pháp luật, bao gồm các khả năng sau:
+ Khả năng tự xử sự theo những cách thức nhất định mà pháp luật cho
phép.
Ví dụ: A là chủ sở hữu của chiếc xe máy thì A có thể để dùng, có thể đem
cho, đem tặng, đem bán, đem đổi… tùy theo ý muốn của mình.
+ Khả năng yêu cầu các chủ thể khác phải chấm dứt hành vi cản trở việc
thực hiện quyền của mình hoặc phải thực hiện những nghĩa vụ tương ứng
phát sinh từ quyền của mình.
Chẳng hạn, A cho B mượn xe máy của mình thì A có quyền yêu cầu B mang
trả xe đúng thời gian và địa điểm đã được hẹn trước.
+ Khả năng được bảo vệ, tức là được yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi nó bị xâm hại.
Ví dụ: nếu B không mang trả xe cho A vào đúng thời gian và thời điểm đã
được hẹn trước mặc dù A đã đòi nhiều lần thì A có quyền kiện B ra Tòa án để
Tòa án yêu cầu B trả lại xe cho A.
| 1/37

Preview text:

1. Quy phạm pháp luật là gì?
Một đất nước chỉ có thể ổn định, phát triển khi xây dựng được một hệ thống
pháp luật chặt chẽ và hiện đại. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật được
ban hành nhằm quy định tất cả các vấn đề, lĩnh vực phát sinh trong đời
sống xã hội. Và mỗi một văn bản pháp luật sẽ được cấu thành từ nhiều quy
phạm pháp luật để có thể tạo thành một thể thống nhất và hoàn chỉnh nhất.
Theo đó, quy phạm pháp luật là nội dung, là những quy tắc ứng xử, chuẩn
mực mang tính pháp lý, bắt buộc mọi cá nhân, tổ chức đều phải thực hiện vì
mục đích chung và được ban hành thông qua các văn bản pháp luật như văn
bản Luật và văn bản dưới luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.
2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật:
Một, quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành hoặc thừa nhận.
Chúng ta thường thấy hàng năm có hàng loạt các văn bản pháp luật được
ban hành với nhiều nội dung và mục đích khác nhau. Các văn bản Luật được
ban hành để sửa đổi, bổ sung cho những Luật hoặc Bộ luật cũ để phù hợp
với tình hình thực tế. Và việc ý kiến, thông qua và ban hành đều là nhiệm vụ
và chức năng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cụ thể Quốc Hội là cơ
quan có quyền lực xem xét và thông qua tất cả các văn bản Luật trước khi
được ban hành có hiệu lực và áp dụng trong thực tế. Bên cạnh đó, còn có
các cơ quan hành pháp, tư pháp cũng là những chủ thể có thẩm quyền ban
hành. Nhà nước ta cũng quy định rõ, các cơ quan nhà nước chỉ được ban
hành văn bản pháp luật trong phạm vi lĩnh vực của mình và chịu trách
nhiệm pháp lý đối với những quy phạm pháp luật được quy định trong đó.
Ngoài ra, chúng ta cần hiểu không chỉ các bộ, ngành mới được ban hành mà
người đứng đầu các cơ quan nhà nước, thủ trưởng một số đơn vị trực thuộc
các cơ quan nhà nước,…cũng được phép ban hành văn bản pháp luật trong
phạm vi quyền hạn và lĩnh vực quản lý của mình.
Tuy nhiên, không phải tất cả những văn bản do nhà nước ban hành là văn bản quy phạm pháp luật.
Hai, là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc và
được nhà nước đảm bảo thực hiện
Việc ban hành quy phạm pháp luật chỉ thực sự đạt hiệu quả khi những quy
định này được đảm bảo thực hiện trong thực tế. Chính vì vậy, nhà nước ta
bên cạnh ban hành những quy phạm pháp luật này chính là ban hành nhiều
biện pháp áp dụng khác nhau, trường hợp không thực hiện sẽ bị xử lý và cơ
quan có chức năng áp dụng biện pháp đó chính là cơ quan Công an, Tòa án,
Thi hành án…đây chính là những cơ quan thực thi pháp luật.
Ba, văn bản pháp luật được thể hiện với một hình thức nhất định do pháp luật quy định.
Hình thức thể hiện quy phạm pháp luật dưới dạng văn bản luật hoặc văn
bản dưới luật và được cấu thành dựa theo hai yếu tố là tên gọi và thể thức văn bản.
Đối với tên gọi thì quy phạm pháp luật được chứa đựng trong các văn bản
luật hoặc dưới luật với nhiều tên gọi khác nhau dựa trên các lĩnh vực khác
nhau như Hiến pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ luật hình sự, Bộ luật
dân sự, Nghị định, Thông tư, Quyết định…
Về thể thức: Quy phạm pháp luật được trình bày trong những văn bản theo
một khuôn mẫu, kết cấu nhất định, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa ình thức với
nội dung và đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước.
Tư, quy phạm pháp luật chứa đựng ý chí của chủ thể, phản ánh chức năng
điều chỉnh hành vi, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
Bởi lẽ nếu xem xét kỹ một quy phạm pháp luật nào đó chúng ta sẽ thấy
rằng trong một quy phạm pháp luật luôn có chứa đựng ý chí như cấm thực
hiện, cho phép thực hiện, bắt buộc thực hiện, có thể thực hiện hoặc không…
tất cả đều tác động đến ý chí của chủ thể.
3. Cấu thành quy phạm pháp luật:
Với mục đích không chỉ mô tả quy tắc hành vi của những người tham gia
quan hệ xã hội mà còn chỉ ra hoàn cảnh tồn tại quy tắc. Cấu trức của quy
phạm pháp luật được cấu thành từ ba yếu tố sau đây: Một, giả định
Giả định là bộ phận của quy phạm quy định địa điểm, thời gian, các chủ thể,
các hoàn cảnh thực tế mà trong đó mệnh lệnh của quy phạm được thực
hiện, tức là xác định môi trường của sự tác động của quy phạm pháp luật.
Giả định có thể chua ra giả định xác định và giả định tương đối.
Giả định xác định là sự liệt kê một cách chính xác, rõ ràng các hoàn cảnh cụ
thể mà trong hoàn cảnh đó các mệnh của quy phạm đoiì hỏi phải thực hiện.
Giả định xác định tương đối, mặc dầu cũng được gọi là điều kiện môi trường
tác động của quy phạm, nhưng lại giới thiệu cho chủ thể áp dụng pháp luật
khả năng giải quyết vấn đề trong mỗi trường hợp cụ thể có thể có mặt điều
kiện đó, hoặc vắng mặt nó. Về nguyên tắc, giả định xác định tương đối
không tồn tại trong quy phạm pháp luật một cách độc lập. Nó chỉ phần bổ
sung thêm cho giả định xác định. Hai, quy định
Quy định là yếu tố trung tâm của quy phạm pháp luật. Bởi vì, trong quy định
trình bày ý chí và lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân con người trong
việc điều chỉnh quan hệ xã hội nhất định. Quy định là bộ phận của quy
phạm pháp luật trong đó nêu quy tắc xử sự buộc mọi chủ thể phải xử sự
theo khi ở hoàn cảnh đã nêu trong giả định của quy phạm. Tùy thuộc vào
mức độ xác định của quy tắc hành vi mà bộ phận quy định có thể phân ra
quy định xác định, quy định tùy nghi và quy định mẫu.
Quy định xác định là quy định chỉ ra một cách chính xác đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện.
Quy định tùy nghi có lúc còn gọi là quy định xác định tương đối. Quy định
này nêu lên cho chủ thể một phạm vi có thể của hành vi và chủ thể có
quyền lựa chọn một phương án trong số các phương án đó của hành vi.
Quy định mẫu là quy định thiết lập quy tác của hành vi dưới dạng chung
nhất. Việc giải thích và cụ thể hóa nó có thể hiện trong một văn bản pháp
luật khác. Đặc điểm của quy định mẫu thể hiện ở chỗ nó không có quan hệ
với một quy phạm cụ thể nào đó mà chỉ quan hệ với một nhóm, một tập hợp
quy phạm. Do vậy, quy định mẫu là những quy định nguyên tắc chung hay quy định định nghĩa. Ba, chế tài
Chế tài là một bộ phận bắt buộc của quy phạm pháp luật nêu lên những
biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không
thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu trong bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
Ý nghĩa của từng bộ phận trong cơ cấu quy phạm pháp luật
1 – Ý nghĩa của bộ phận giả định
Giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những điều kiện, hoàn
cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà khi gặp thì mọi người cần phải xử sự
theo quy định của pháp luật và chỉ rõ chủ thể nào cần phải xử sự trong điều
kiện, hoàn cảnh đó. Phần này còn nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh để áp
dụng các biện pháp tác động của nhà nước và chỉ rõ chủ thể nào sẽ là đối
tượng để áp dụng chế tài hoặc các biện pháp tác động khác của nhà nước.
Vì thế, ý nghĩa của bộ phận này là cho mọi người biết quy phạm đó điều
chỉnh quan hệ xã hội nào, ai và khi nào, trong điều kiện và hoàn cảnh nào
thì cần phải xử sự theo quy phạm đó. Bộ phận này cũng cho các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền biết là khi nào thì họ cần phải áp dụng các biện
pháp tác động của nhà nước được quy định trong quy phạm, áp dụng đối với
ai, đối tượng nào và điều kiện để áp dụng các biện pháp đó là gì.
2 – Ý nghĩa của bộ phận quy định
Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên cách xử sự hay quy
tắc xử sự cho chủ thể khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả
định của quy phạm. Ý nghĩa của bộ phận này là hướng dẫn cách xử sự cho
các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do quy phạm đó điều chỉnh, chỉ
cho mọi người biết khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả
định của quy phạm thì họ được làm gì hay hành vi nào họ được phép thực
hiện; họ không được làm gì hay hành vi nào họ không được phép thực hiện;
họ phải làm gì hay hành vi nào họ bắt buộc phải thực hiện. Nói cách khác,
bộ phận quy định của quy phạm chỉ cho mọi người biết các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của họ khi tham gia vào quan hệ xã hội do quy phạm điều chỉnh;
đồng thời, nó cũng chỉ cho mọi người biết ý chí, mong muốn, mục đích của
nhà nước khi điều chỉnh quan hệ đó.
3 – Ý nghĩa của bộ phận chế tài
Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên các biện pháp cưỡng
chế mang tính chất trừng phạt mà nhà nước dự kiến có thể áp dụng đối với
các chủ thể được nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật khi họ vi
phạm pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ
những nghĩa vụ pháp lý đã được nêu trong bộ phận quy định của quy phạm
pháp luật. Ý nghĩa của bộ phận này là chỉ cho mọi người biết những biện
pháp cưỡng chế nhà nước nào hay những hậu quả pháp lý bất lợi nào họ có
thể phải gánh chịu nếu tham gia vào quan hệ xã hội do quy phạm điều
chỉnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các
nghĩa vụ pháp lý được nêu trong phần quy định của quy phạm, tức là thực
hiện không đúng những yêu cầu, mệnh lệnh của nhà nước đối với họ. Vì thế,
phần chế tài của quy phạm pháp luật được đặt ra nhằm răn đe, phòng ngừa
sự vi phạm pháp luật và nhằm trừng phạt các chủ thể vi phạm pháp luật để
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh hay bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật. Do vậy, có thể nói, trong số các biện pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật thì chế tài là biện pháp quan trọng nhất, có tác
dụng lớn nhất và có hiệu quả nhất.
2. Phân biệt quy phạm pháp luật với quy phạm xã hội khác và rút ra đặc điểm của quy phạm pháp luật: Sự giống nhau đó là:
Điểm giống nhau được thể hiện với tính quy tắc và xác định chuẩn mực
chung cho một nhóm người. Cả hai quy phạm này đều là những quy tắc xử
sự chung được hình thành và thừa nhận trong đời sống con người. Được một
bộ phận những cá nhân, tổ chức công nhận và đảm bảo tuân thủ trong hoạt
động của họ. Gắn với đời sống sinh hoạt, lao động, tham gia vào các mối quan hệ,…
Mọi người định hướng những hành vi của họ theo những quy tắc này. Khi
thực hiện hoạt động, phải cân nhắc hướng đến ý nghĩa trong chuẩn mực
chung đã được xây dựng. Hướng toàn bộ cộng đồng đó phải tuân theo
những quy tắc định sẵn đó. Tính đồng bộ và hiệu quả thực hiện tập thể sẽ
loại bỏ ra các đối tượng không tuân thủ quy phạm chung. Và có các hình
thức xử lý đối với các vi phạm đó, để các chủ thể khác có bài học nhận thức sâu sắc.
3. Phân biệt quy phạm pháp luật và xã hội:
Để phân biệt các quy phạm này, phải dựa trên các tiêu chí khác nhau: 3.1. Khái niệm: Quy phạm pháp luật:
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Phải đảm bảo thực hiện trong tính bắt
buộc chung, trong quyền lực nhà nước. Mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội
đều phải đảm bảo tuân thủ.
Nhằm mục đích để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo những định
hướng, đạt được mục đích đề ra trong quản lý nhà nước. Tiếp cận các công
bằng và bình đẳng trong xã hội, cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân. Quy phạm xã hội:
Quy phạm xã hội là những quy tắc xử sự chung trong xã hội. Được xây dựng
và tồn tại lâu đời, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con
người trong một cộng đồng, một khu vực nhất định. Các quy phạm này được
thực hiện với phạm vi xã hội nhất định, có giới hạn người tham gia và tuân
thủ. Mọi người tham gia vì tính hợp lý, bảo đảm cho các nhu cầu hay quyền
lợi nhất định của họ. 3.2. Nguồn gốc: Quy phạm pháp luật:
Là kết quả của cả quá trình tư duy sáng tạo. Thực hiện với hoạt động của
các cơ quan nhà nước về Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp. Bộ máy nhà nước
phân công và phối hợp để mang đến hiệu quả quản lý chung trên toàn xã
hội. Thể hiện ý chí của nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.
Khi được quy định là quy phạm pháp luật sẽ được ghi nhận trong luật và các
văn bản có giá trị pháp lý khác. Quy phạm xã hội:
Được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội, từ đó áp dụng trong thời gian
dài. Bắt nguồn từ các quan niệm về đạo đức, lối sống. Hình thành nên các
quy tắc chung cho nhóm người trong cân bằng các quyền và lợi ích. 3.3. Phạm vi: Quy phạm pháp luật:
Áp dụng rộng rãi trên toàn lãnh thổ đất nước, quốc gia và toàn bộ người
dân.Thực hiện quy định với tất cả các khía cạnh, lĩnh vực trong tiếp cận hoạt
động của con người. Mang đến quy tắc, chuẩn mực đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quy phạm xã hội:
Phạm vi hẹp hơn, chỉ áp dụng trong một tổ chức hay một cộng đồng nhất
định. Thực hiện với quy phạm xã hội do người dân nhất chí thực hiện. Mang
đến các thống nhất, thỏa thuận thành lập nguyên tắc chung. 3.4. Mục đích: Quy phạm pháp luật:
Để điều chỉnh mối quan hệ xã hội dựa theo ý chí của nhà nước. Trong đó,
nguyên tắc quản lý nhà nước là tìm kiếm quyền và lợi ích cho người dân khi
tham gia vào xã hội. Cũng như cấm các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi
ích của chủ thể khác được pháp luật bảo vệ. Quy phạm xã hội:
Để điều chỉnh mối quan hệ xã hội giữa con người với con người. Thông
thường gắn với yếu tố tình cảm, cảm xúc trong một nhóm người, một cộng đồng. 3.5. Hình thức: Quy phạm pháp luật:
Thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành, có hiệu lực thi hành trên toàn quốc. Các chủ
thể liên quan bắt buộc tuân thủ quy định này. Quy phạm xã hội:
Bằng hình thức truyền miệng, quy tắc ngầm trong cuộc sống. Được duy trì
khi thường xuyên sử dụng tạo thành nguyên tắc chung. Các cá nhân hay tổ
chức quản lý với uy tín được công nhận, tạo ra sức ảnh hưởng với cộng đồng. 3.6. Nội dung: Quy phạm pháp luật:
– Là quy tắc xử sự với việc được làm, việc phải làm, việc không được làm. Từ
đó hình thành các quyền, nghĩa vụ phải tuân thủ.
– Mang tính chất bắt buộc chung đối với tất cả mọi người trong xã hội. Như
pháp luật nước ta được áp dụng cho tất cả người dân Việt nam và người
nước ngoài sinh sống trên lãnh thổ Việt nam.
– Được thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Từ giáo dục,
thuyết phục đến cưỡng chế là biện pháp mạnh nhất. Nhà nước có sức mạnh
của quyền lực, cùng các chế tài tạo nên uy quyền.
– Mang tính quy phạm chuẩn mực, có giá trị pháp lý cao nhất. Có giới hạn,
các chủ thể buộc phải xử sự trong phạm vi pháp luật cho phép. Từ đó mang
đến hiệu quả thống nhất trong tổ chức, hoạt động xã hội.
– Thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị. Ngoài ra cũng
thực hiện các đại diện quyền lực quản lý. Trong đó, quyền lực tối cao thuộc
về nhân dân, nhà nước là đại diện thống nhất quyền lực. Quy phạm xã hội:
– Là các quan điểm chuẩn mực đối với đời sống tinh thần, tình cảm của con
người. Được thừa nhận trong các giá trị chuẩn mực mang lại cho nhận thức
và tư duy của con người.
– Không mang tính bắt buộc thực hiện. Tuy nhiên có thể mất uy tín trong
cộng đồng, không nhận được sự tôn trọng từ nhóm người của cộng đồng.
– Không được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế. Được thực hiện
bằng 1 cách tự nguyện, tự giác.
– Không có sự thống nhất, không rõ ràng, cụ thể như quy phạm pháp luật.
Chỉ mang tính chất thừa nhận vì tính hợp lý trong tổ chức.
– Thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi cho đông đảo tầng lớp và tất cả mọi
người. Mang đến các ý nghĩa nhận thức, phát triển tư duy. Giúp con người
tiếp cận với các chuẩn mực đạo đức, cũng như thúc đẩy hiệu quả tuân thủ
pháp luật. Các quy phạm này không được trái với quy phạm pháp luật. 3.7. Đặc điểm: Quy phạm pháp luật:
– Dễ thay đổi, làm sao phù hợp với thực tiễn nhu cầu tiếp cận của con người.
Cũng như điều chỉnh để mang đến chặt chẽ của quy định.
– Có sự tham gia của Nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận.
-Cứng rắn, không tình cảm, thể hiện sự răn đe. Quy phạm xã hội:
– Không dễ thay đổi, thường mang đến hiệu quả ứng dụng và áp dụng thường xuyên.
– Do tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo quy định hay tự hình thành trong xã
hội. Tạo thành nguyên tắc chung trên địa bàn, hay trong một nhóm người.
– Là những quy tắc xử sự không có tính bắt buộc chỉ có hiệu lực đối với
thành viên tổ chức. Là những người mong muốn nhận được các lợi ích từ tổ chức.
3.8. Phương thức tác động: Quy phạm pháp luật:
Thuyết phục, cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước. Quy phạm xã hội:
Chịu tác động từ dư luận xã hội. Như các nhận xét, đánh giá và cái nhìn của
xã hội về hành vi thực hiện.
5. Trình bày cách thức thể hiện quy phạm pháp luật trong văn bản quy
phạm pháp luật. Cho ví dụ?
Trình bày cách thức thể hiện quy phạm pháp luật trong văn bản quy phạm pháp luật. Cho ví dụ
Quy phạm pháp luật có thể có các bộ phận như giả định, quy định, chế tài
hoặc biện pháp tác động của nhà nước, song trong quá trình xây dựng pháp
luật, do yêu cầu của kỹ thuật xây dựng pháp luật đòi hỏi các quy phạm phải
được trình bày một cách ngắn gọn, chặt chẽ, không trùng lặp, chồng chéo
nên trong các văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm có thể được trình
bày theo nhiều cách khác nhau mà cơ bản có 05 cách sau:
1 – Cách thứ nhất: Tất cả các bộ phận của một quy phạm pháp luật có thể
được trình bày trong cùng một điều, một khoản của một văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ: khoản 1 Điều 63 Luật giáo dục đại học năm 2012 quy định: ‘Người học
chương trình giảo dục đại học nêu được hưởng học bổng và chi phí đào tạo
do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo Hiệp định ký kết với Nhà
nước Việt Nam, thì sau khỉ tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động làm việc
của Nhà nước trong thời gian ít nhất là gấp đôi thời gian được hưởng học
bong và chi phí đào tạo, nếu không chấp hành thì phải bồi hoàn học bổng,
chi phí đào tạo”. Với quy phạm trên, cả ba bộ phận giả định, quy định và chế
tài của nó đuợc trình bày trong cùng một khoản của một điều của một văn
bản quy phạm pháp luật là Luật giáo dục đại học năm 2012.
2 – Cách thứ hai: Trong một điều của một văn bản quy phạm pháp luật có
thể trình bày một hoặc nhiều quy phạm pháp luật.
Ví dụ: trong Điều 63 Luật giáo dục đại học năm 2012 đã trình bày nhiều quy
phạm pháp luật. Còn trong Điều 50 Luật giao thông đường bộ năm 2008 chỉ
trình bày một quy phạm pháp luật với nội dung: “Việc xây dựng đoạn đường
giao nhau cùng mức giữa đường bộ với đường sắt phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép; có thiết kế bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật và
điều kiện an toàn giao thông được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ”.
3 – Cách thứ ba: Các bộ phận của một quy phạm pháp luật có thể được trình
bày trong các điều, khoản khác nhau của cùng một văn bản quy phạm pháp luật
Ví dụ: khoản 1 Điều 301 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 quy định về tội bắt cóc con tin như sau: “Người nào bắt, giữ hoặc giam
người khác làm con tin nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức
quốc tế hoặc cơ quan, tồ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như
một điều kiện để thả con tin, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
113 và Điều 299 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 nấm đền 05 năm”. Quy
định này cho thấy, bộ phận giả định của quy phạm pháp luật được trình bày
trong 03 điều luật là các Điều 301, 113 và 229 của cùng một văn bản quy
phạm pháp luật là Bộ luật hình sự năm 2015.
4 – Cách thứ tư: Các bộ phận mang nội dung của một quy phạm pháp luật
có thể được trình bày trong các điều, khoản khác nhau của các văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau.
Ví dụ: khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cấm các hành vi sau đây:
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khảc hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kêt hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.
Và Điều 182 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội vi phạm chế độ một
vợ, một chồng như sau: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ
là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.”
Mặc dù hai điều luật trên trình bày hai quy phạm pháp luật khác nhau, song
nếu ghép hai quy phạm đó với nhau thì có thể tạo thành một quy phạm
pháp luật hoàn chỉnh có đủ ba bộ phận cấu thành là giả định, quy định và
chế tài. Trong quy phạm ở Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì
trình bày hai bộ phận là giả định và quy định, còn trong quy phạm ở Điều
182 Bộ luật hình sự năm 2015 thì trình bày hai bộ phận là giả định và chế tài.
Đây là cách trình bày khá phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay.
5 – Cách thứ năm: Trật tự sắp xếp các bộ phận trong quy phạm pháp luật
không nhất thiết phải theo đúng thứ tự: Giả định, quy định, chế tài hay biện
pháp tác động của nhà nước mà có thể trình bày các bộ phận đó theo cách
đảo lộn hoặc đan xen nhau.
Ví dụ: Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Cấm các hành vi sau đây:
… Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.
Trong quy phạm này, các bộ phận giả định và quy định đã được trình bày theo cách đan xen vào nhau.
6. T rang chủ » Xây dựng pháp luật là gì? Phân tích khái niệm xây dựng pháp luật?
Xây dựng pháp luật là gì? Phân tích khái niệm xây dựng pháp luật?
Khái niệm xây dựng pháp luật có thể hiểu theo các nghĩa khác nhau:
1 – Theo nghĩa rộng – Xây dựng pháp luật là hoạt động của tất cả tổ chức và
cá nhân (các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền, các Tổ chức
xã hội và các cá nhân trong xã hội) tham gia vào quá trình tạo lập pháp luật
Quá trình tạo lập pháp luật rất phức tạp, bao gồm rất nhiều hoạt động kế
tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều tổ chức và cá nhân có vị trí,
vai trò, chức năng, quyền hạn khác nhau cùng tiến hành, nhằm chuyến hoá
ý chí nhà nước thành những quy định pháp luật dựa trên những nguyên tắc
nhất định và được thể hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định, đặc biệt
là hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
2 – Theo nghĩa hẹp – Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ
quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục
do pháp luật quy định nhằm ban hành các quy phạm pháp luật để điều
chỉnh quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước
Theo nghĩa này, xây dựng pháp luật có đặc điểm sau:
– Xây dựng pháp luật là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước
hoặc nhà chức trách có thẩm quyền ban hành pháp luật theo quy định của
pháp luật. Pháp luật của các nước thường qưy định cụ thể các chủ thể có
thẩm quyền sáng tạo ra pháp luật.
– Hoạt động xây dựng pháp luật được tiến hành theo những trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định. Do đó, xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính tổ
chức rất chặt chẽ, được diễn ra theo quy trình nhất định với những bước cơ bản sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những nhu cầu về sự cần thiết phải xây dựng hoặc
sửa đổi pháp luật, loại văn bản cần xây dựng (luật, pháp lệnh, nghị định hay
án lệ…), xác định đối tượng áp dụng, phạm vi áp dụng và phương pháp điều
chỉnh pháp luật đối với quan hệ xã hội đó;
Thứ hai, công nghệ sáng tạo ra quy phạm pháp luật: Xác định những nội
dung cơ bản, nội dung của từng chương, mục, điều, khoản, điểm cụ thể của văn bản.
Nhìn chung, các nhà nước thường có những quy định rất chặt chẽ về thẩm
quyền, tên gọi, nội dung, nguyên tắc và trình tự, thủ tục ban hành đối với
mỗi loại hình thức (nguồn) pháp luật nhất định trong Hiến pháp hoặc luật
hoặc văn bản dưới luật…
7. Xây dựng pháp luật là gì? (theo nghĩa hẹp)
Theo nghĩa hẹp: Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ quan
nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do
pháp luật quy định nhằm ban hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh
quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước.
Theo nghĩa này, xây dựng pháp luật có đặc điểm sau:
– Xây dựng pháp luật là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước
hoặc nhà chức trách có thẩm quyền ban hành pháp luật theo quy định của
pháp luật. Pháp luật của các nước thường qưy định cụ thể các chủ thể có
thẩm quyền sáng tạo ra pháp luật.
– Hoạt động xây dựng pháp luật được tiến hành theo những trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định. Do đó, xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính tổ
chức rất chặt chẽ, được diễn ra theo quy trình nhất định với những bước cơ bản sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những nhu cầu về sự cần thiết phải xây dựng hoặc
sửa đổi pháp luật, loại văn bản cần xây dựng (luật, pháp lệnh, nghị định hay
án lệ…), xác định đối tượng áp dụng, phạm vi áp dụng và phương pháp điều
chỉnh pháp luật đối với quan hệ xã hội đó;
Thứ hai, công nghệ sáng tạo ra quy phạm pháp luật: Xác định những nội
dung cơ bản, nội dung của từng chương, mục, điều, khoản, điểm cụ thể của văn bản.
Nhìn chung, các nhà nước thường có những quy định rất chặt chẽ về thẩm
quyền, tên gọi, nội dung, nguyên tắc và trình tự, thủ tục ban hành đối với
mỗi loại hình thức (nguồn) pháp luật nhất định trong Hiến pháp hoặc luật
hoặc văn bản dưới luật…
– Kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật là làm hình thành nên các quy
định pháp luật mới để bổ sung vào hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành
hoặc sửa đổi, loại bỏ những quy định pháp luật đã lỗi thời, không còn phù
hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hiện tại, không đáp ứng được nhu
cầu phát triển của đất nước. Do vậy, xây dựng pháp luật là hoạt động mang
tính sáng tạo, là một quá trình sáng tạo ra các quy định pháp luật.
Việc tạo ra các quy phạm pháp luật có thể tiến hành thông qua hoạt động
xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, thông qua việc thừa nhận các
quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán… hoặc qua việc đưa ra các án lệ được thừa nhận.
2 – Thế nào là nguyên tắc xây dựng pháp luật?
Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo, là cơ sở cho toàn
bộ quá trình xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào
quá trình này phải nghiêm chỉnh tuân theo.
3 – Các nguyên tắc xây dựng pháp luật
a – Nguyên tắc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong xây dựng pháp luật (nguyên tắc pháp chế)
Nguyên tắc này thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, trong quá trình xây dựng pháp luật, các cơ quan nhà nước và các
nhà chức trách có thẩm quyền phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp
luật về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục. Chẳng hạn, trong Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của nước ta đã quy định cụ thể trình tự,
thủ tục ban hành từng loại văn bản quy phạm pháp luật như luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của
Chính phủ… Hoặc trong Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quy định cụ thể về quy trình lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ ở nước ta.
Hai là, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là phải tôn trọng tính tối
cao của hiến pháp và luật.
Ví dụ: ở nước ta, nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền khi xây
dựng và ban hành pháp luật phải bảo đảm cho các quy định trong văn bản
luật phải phù hợp với Hiến pháp và không mâu thuẫn với nhau, quy định
trong văn bản dưới luật phải phù hợp với quy định trong văn bản luật, quy
định trong văn bản của cấp dưới phải phù hợp với văn bản của cấp trên và
văn bản của địa phương phải phù hợp với văn bản của trung ương.
b – Nguyên tắc tôn trọng quy luật khách quan trong xây dựng pháp luật, bảo
đảm tính phù hợp và khả thi của pháp luật
Pháp luật là hiện tượng có tính khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu đòi
hỏi của xã hội, phải phản ánh đúng nhu cầu khách quan của xã hội, xuất
phát từ thực tế cuộc sống, phù hợp với thực tế cuộc sống.
Nhà làm luật không phát minh ra luật, mà chỉ ghi nhận các quy luật phát
triển của xã hội bằng quy phạm pháp luật, pháp luật luôn là sự nhận thức
chủ quan của con người đối với thế giới khách quan, con người nhận thức
tồn tại xã hội sau đó đưa ra các quy tắc cho hành vi của mình. Do vậy, nội
dung của pháp luật phải phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước
như điềư kiện kinh tế – xã hội, phong tục tập quán, nền đạo đức chính
thống, truyền thống, đặc điểm tâm lý dân tộc, trình độ dân trí, trình độ phát
triển của nền dân chủ… Có như vậy, pháp luật mới có tính khả thi, mới được
thực hiện trong thực tế, nếu không thì pháp luật chỉ tồn tại trên giấy.
Trong quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, nguyên tắc này luôn được
quán triệt song mức độ đáp ứng yêu cầu này chưa cao vì trong hệ thống
pháp luật vẫn còn một số quy định thiếu tính khả thi.
c – Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống, tính khoa học, kịp thời, tính minh
bạch của các quy định pháp luật được xây dựng
Các quy định pháp luật được xây dựng cần phải chặt chẽ, hoàn chỉnh, đầy
đủ, chính xác, dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học mới nhất, nhưng
không mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo và loại bỏ lẫn nhau. Việc ban hành
pháp luật phải kịp thời, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống, tránh
tình trạng thiếu pháp luật hoặc pháp luật có lỗ hổng.
Kế hoạch xây dựng pháp luật cần chặt chẽ và có tính khả thi, các hình thức
thu thập, xử lý thông tin, tiếp thu ý kiến góp ý trong quá trình xây dựng
pháp luật phải bảo đảm tính khách quan, khoa học… Trong mỗi văn bản quy
phạm pháp luật, bố cục, cấu trúc, cách thức trình bày các quy phạm pháp
luật… phải mang tính khoa học; các quy phạm pháp luật cần được sắp xếp
một cách logic, hợp lý. Các quy định của pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu,
phải được hiểu một cách nhất quán và phải được công bố công khai, về cơ
bản, pháp luật nước ta rõ ràng, dễ hiểu, song đôi khi vẫn còn có quy định
dẫn đến những cách hiểu khác nhau.
Ở Việt Nam, mặc dù các chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật luôn cố
gắng bảo đảm nguyên tắc này song tình trạng thiếu pháp luật trong một số
lĩnh vực vẫn còn, tính khoa học chưa thực sự được đảm bảo nên có luật chưa
có hiệu lực đã phải sửa đổi, bổ sung như Luật Bảo hiểm xã hội, có luật phải
lùi thời điểm có hiệu lực thi hành như Bộ luật hình sự năm 2015…
d – Nguyên tắc dân chủ, công khai trong xây dựng pháp luật
Nguyên tắc này đòi hỏi Hiến pháp, luật phải được ban hành bằng con đường
trưng cầu ý dân hoặc bởi cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra. Các dự án
luật, các luật đã được ban hành cần phải được thông tin đầy đủ, rộng rãi đến
nhân dân, nhất là đối với các đối tượng áp dụng của luật. Việc xây dựng
pháp luật cần có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân nhằm làm
cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Đây là nguyên tắc vừa góp phần phát huy được trí tuệ của đông đảo các
tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật, vừa giúp
nhân dân hiếu được các quy định của pháp luật, qua đó góp phần nâng cao
ý thức pháp luật của nhân dân và nâng cao hiệu quả của pháp luật. .
Ở Việt Nam, mặc dù chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào được thông
qua theo thủ tục trưng cầu ý dân, song trong quá trình xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật dân sự… Nhà
nước luôn luôn lấy ý kiến, thu thập và tham khảo ý kiến của nhân dân và
các chủ thể có liên quan.
đ – Nguyên tắc chuyên nghiệp và hài hòa hóa trong xây dựng pháp luật
Nguyên tắc chuyên nghiệp trong xây dựng pháp luật đòi hỏi quá trình chuẩn
bị dự thảo các dự án luật phải có sự tham gia của các luật gia, các nhà kinh
tế, các nhà xã hội, các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Những chuyên gia nói trên phải là những người có sự hiểu biết
sâu sắc nhất về các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… liên quan
đến nội dung dự án luật và có khả năng biểu đạt chúng bằng kỹ thuật pháp
lý tiên tiến. Trong quá trình soạn thảo dự án luật cần có sự tham vấn ý kiến
nhân dân và các chuyên gia trong và ngoài nước…
Nguyên tắc hài hòa hóa trong xây dựng pháp luật đòi hỏi các quy định pháp
luật được xây dựng phải bảo đảm sự hài hoà về lợi ích giữa các lực lượng xã
hội;… phù hợp với các điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham
gia, với pháp luật của các quốc gia có quan hệ hợp tác với quốc gia mình.
Đây là nguyên tắc khá được chú trọng trong quá trình xây dựng pháp luật ở
nước ta thời gian gần đây, với sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài và
sự phát triển của trình độ nhận thức, của khoa học kỹ thuật mà trình độ và
kỹ thuật xây dựng pháp luật ở nước ta không ngừng được nâng cao, tính
chất chuyên nghiệp trong hoạt động xây dựng pháp luật được chú trọng. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của lợi ích nhóm chi phối mà sự hài hòa hóa về lợi ích
giữa các lực lượng xã hội chưa thật sự được bảo đảm.
11. 1 – Quan hệ pháp luật là gì?
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh, trong đó các
bên chủ thể tham gia quan hệ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý đuợc nhà
nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Ví dụ: Quan hệ giáo dục và đào tạo giữa sinh viên A và Trường Đại học Luật
Hà Nội, quan hệ mua bán xe máy giữa ông A và bà B…
2 – Các đặc điểm của quan hệ pháp luật
a – Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí bởi vì nó được hình thành
và được điều chỉnh theo ý chí của con người.
Tính ý chí của quan hệ pháp luật thể hiện ở những điểm sau:
– Trước tiên, quan hệ pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước thông qua việc
xác định quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật, qua việc quy định
điều kiện cho các chủ thể tham gia quan hệ và qua việc quy định quyền và
nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đó. Ví dụ:
trong quan hệ giáo dục và đào tạo giữa sinh viên A và Trường Đại học Luật
Hà Nội thì ý chí của Nhà nước được thế hiện qua việc cho phép Trường Đại
học Luật được Tổ chức tuyến sinh, đào tạo và cấp bằng cho người học, quy
định điều kiện cho thí sinh có thể tham gia vào quan hệ này, quy định quyền
và nghĩa vụ cho cơ sở giáo dục đại học, người dạy, người học trong Luật giáo
dục, Luật giáo dục đại học…
– Thứ hai, quan hệ pháp luật thể hiện ý chí của các chủ thể cụ thể tham gia
vào quan hệ đó. Chẳng hạn, quan hệ pháp luật giáo dục và đào tạo nói trên
vừa thể hiện ý chí của Trường Đại học Luật Hà Nội, vừa thể hiện ý chí của sinh viên A.
Tuy nhiên, ý chí của các chủ thể khác luôn phải phù hợp, không được trái với
ý chí của nhà nước. Vì thế, có những quan hệ pháp luật hình thành vừa do ý
chí của nhà nước, vừa do ý chí của các chủ thể khác (ví dụ quan hệ giữa
người mua và người bán), song có những quan hệ pháp luật hình thành chỉ
do ý chí của nhà nước (Ví dụ: quan hệ về xử lý vi phạm pháp luật giữa nhà
nước với người vi phạm pháp luật).
b – Các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ
pháp lý được nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện
Khi tham gia vào bất cứ quan hệ xã hội nào, các bên chủ thể đều có quyền
và nghĩa vụ đối với nhau. Riêng trong quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ
của các bên chủ thể được quy định trong pháp luật và được bảo đảm thực
hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước như tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục, tổ chức thực hiện, động viên, khen thưởng và cưỡng chế nhà nước.
Do vậy, các quyền và nghĩa vụ đó được gọi là quyền và nghĩa vụ pháp lý,
tức là các quyền và nghĩa vụ được nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Ví dụ: trong quan hệ giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học giữa người học
và cơ sở đào tạo ở Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ của người học, người dạy
và của cơ sở giáo dục được Nhà nước quy định trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật như Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học, các nghị định của
Chính phủ, các thông tư của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo… Các quy
định đó đều được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang
tính quyền lực nhà nước.
12. 1 – Chủ thể quan hệ pháp luật là gì?
Chủ thể quan hệ pháp luật là các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện tham gia
vào QHPL, có các quyền và nghĩa vụ pháp lý do nhà nước quy định hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện.
Định nghĩa trên cho thấy, chủ thể của QHPL chỉ gồm những tổ chức và cá
nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quy định, tức là có năng lực chủ thể.
Về chủ thể của quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật gồm: Cá nhân và tổ chức. Chủ thể là cá nhân
gồm ba loại là công dân, người nước ngoài và người không quốc tịch cư trú
và làm ăn sinh sống ở nước sở tại, trong đó năng lực pháp luật của công dân
nước sở tại rộng hơn nhiều so với công dân nước ngoài, người không quốc
tịch; công dân nước sở tại có thể trở thành chủ thể của hầu hết các quan hệ
pháp luật, còn người nước ngoài, người không quốc tịch chỉ được tham gia
vào những quan hệ pháp luật nhất định khi được pháp luật cho phép.
Chủ thể là tổ chức gồm nhà nước, cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức
phi nhà nước và pháp nhân. Tổ chức là tập thế người liên kết chặt chẽ với
nhau để thực hiện các hoạt động chung nhằm đạt được những mục đích nào
đó. Trong số các tổ chức nói trên có tổ chức là pháp nhân, có tổ chức không
phải là pháp nhân. Cụ thể:
– Nhà nước: Là chủ thể đặc biệt của nhiều quan hệ pháp luật, trong đó có
những quan hệ chỉ nhà nước mới là chủ thể có quyền.
Ví dụ: đại diện chính thức cho quốc gia, dân tộc trong các quan hệ đối nội và
đối ngoại thì chỉ nhà nước mới là chủ thể có quyền.
Khách thể của quan hệ pháp luật là gì?
Khách thể của QHPL là một trong ba yếu tố cấu thành QHPL và là yếu tố
khiến cho các bên chủ thể thiết lập QHPL với nhau, yếu tố này có thể mang
lại cho các chủ thể những lợi ích nhất định về vật chất hoặc tinh thần.
Khách thể của QHPL có thể bao gồm một hoặc nhiều yếu tố, nói cách khác,
QHPL có thể có một hoặc nhiều khách thể. Chẳng hạn: Trong quan hệ pháp
luật mua bán tài sản, khách thể là quyền sở hữu tài sản, tuy nhiên, trong
quan hệ pháp luật giữa Tòa án với bị cáo, khách thể có thể bao gồm trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, lợi ích của Nhà
nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc…
Khách thể của QHPL rất đa dạng tuỳ thuộc vào từng loại QHPL khác nhau.
Chẳng hạn: Khách thể của hợp đồng khoán việc là kết quả công việc; khách
thể của quan hệ thừa kế, mua bán, tặng, cho tài sản là quyền sở hữu tài
sản; khách thể của quan hệ thuê, mượn tài sản là quyền sử dụng tài sản;
khách thể của quan hệ lao động là giá trị sức lao động…
Khách thể của QHPL phản ánh vấn đề lợi ích trong xã hội, chính vì vậy, sự
quan tâm nhiều hay ít của chủ thể đối với khách thể là động lực thúc đẩy sự
phát sinh, tồn tại hay chấm dứt QHPL. Đó có thể là lợi ích của chính các bên
trong quan hệ pháp luật, cũng có thể là lợi ích của bên thứ ba (nhà nước,
cộng đồng, cá nhân, Tổ chức khác). Chẳng hạn, trong quan hệ thuê tài sản,
quyền sử dụng tài sản là lợi ích của các bên chủ thể, còn trong quan hệ
pháp luật giữa vợ và chồng, khách thể không chỉ bao gồm lợi ích của vợ,
chồng mà có thể còn bao gồm cả lợi ích của các con…
Nội dung của quan hệ pháp luật là gì?
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể do nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể với tư cách là chủ thể của pháp luật nói chung.
Ở góc độ này nó bao gồm tất cả những quyền và nghĩa vụ tạo nên địa vị
pháp lý của chủ thể. Ví dụ: tổng thể các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân được quy định trong Hiến pháp tạo nên địa vị pháp lý của công dân
trong mối quan hệ với nhà nước.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể với tư cách là chủ thể của
một quan hệ pháp luật cụ thể. Ở góc độ này:
– Quyền chủ thể là cách xử sự mà chủ thể có thể tiến hành theo quy định
của pháp luật, bao gồm các khả năng sau:
+ Khả năng tự xử sự theo những cách thức nhất định mà pháp luật cho phép.
Ví dụ: A là chủ sở hữu của chiếc xe máy thì A có thể để dùng, có thể đem
cho, đem tặng, đem bán, đem đổi… tùy theo ý muốn của mình.
+ Khả năng yêu cầu các chủ thể khác phải chấm dứt hành vi cản trở việc
thực hiện quyền của mình hoặc phải thực hiện những nghĩa vụ tương ứng
phát sinh từ quyền của mình.
Chẳng hạn, A cho B mượn xe máy của mình thì A có quyền yêu cầu B mang
trả xe đúng thời gian và địa điểm đã được hẹn trước.
+ Khả năng được bảo vệ, tức là được yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi nó bị xâm hại.
Ví dụ: nếu B không mang trả xe cho A vào đúng thời gian và thời điểm đã
được hẹn trước mặc dù A đã đòi nhiều lần thì A có quyền kiện B ra Tòa án để
Tòa án yêu cầu B trả lại xe cho A.