Đề cương ôn tập nhập môn quan hệ quốc tế | Trường Cao Đẳng Lương thực - Thực phẩm
Đề cương ôn tập nhập môn quan hệ quốc tế | Trường Cao Đẳng Lương thực - Thực phẩm. Tài liệu gồm 34 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
ĐỀ CƢƠNG ÔN TẬP NHẬP MÔN QHQT THẦY NGUYỄN TUẤN KHANH
Giảng viên: Nguyễn Tuấn Khanh khanhnguyen@hcmussh.edu.vn nguyentuankhanh.ir@gmail.com 0973709813
Giữa kỳ dưới trung bình giữa kỳ = cuối kỳ - 1 điểm
Giữa kỳ đạt trung bình giữa kỳ = cuối kỳ
Giữa kỳ trên trung bình giữa kỳ = cuối kỳ + 1 điểm
1. Khái niệm và quá trình phát triển của QHQT
1.1. Khái niệm QHQT (International relations) Chủ thể QHQT
Thứ nhất, các công ty đa/xuyên quốc gia: những tập đoàn khổng lồ len lỏi đến
từng ngõ ngách của cuộc sống nhiều vô số như Coca Cola, Pepsi, Star Bucks, cuộc
sống con người mang tính quốc tế vô cùng cao.
Thứ hai, các tổ chức quốc tế: ASEAN, EU, APEC, PBEC, EC, ECC, …
Thứ ba, các quốc gia mà nguyên thủ quốc gia là đại diện của toàn thể quốc gia,
phát ngôn của nguyên thủ quốc gia trên trường quốc tế là tiếng nói của toàn dân tộc
sinh sống trên lãnh thổ của nguyên thủ quốc gia đó quản lý. Cái bắt tay của anh Sang
(Trương Tấn Sang) chị Huệ (Park Kurn Hee) là cái bắt tay biểu tượng thể hiện sự hợp
tác chiến lược của nhân dân 2 quốc gia Việt Nam – Nam Triều Tiên/Hàn Quốc, cái bắt
tay tượng trưng được biểu hiện cụ thể thành văn thông qua hàng loạt thỏa thuận, hiệp
ước, hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau giữa hai quốc gia.
Các công ty đa/xuyên quốc gia và các tổ chức quốc tế là các chủ thể QHQT phi
quốc gia theo quan điểm chủ thể QHQT gồm chủ thể quốc gia và chủ thể phi quốc gia.
QHQT là sự tương tác giữa các chủ thể vượt qua biên giới quốc gia, là môi
trường chi phối hoạt động của quốc gia và con người, là nơi chứa đựng những lợi ích
cơ bản nhất, trong đó có lợi ích quốc gia. Tính quốc tế
Cuộc sống hàng ngày của con người đều sử dụng những sản phẩm dịch vụ mang
tính quốc tế, do sự phân công lao động chuyên môn hóa quốc tế vô cùng sâu sắc.
Môi trường sinh sống làm việc cư trú của con người vì vậy là một môi trường
mang tính quốc tế sâu sắc.
Vd: Giá xăng dầu VN biến đổi theo giá xăng dầu thế giới.
Những nguồn cung dầu mỏ chủ yếu của thế giới Syria Lybia Nigieria gặp khủng
hoảng, bạo loạn cung về dầu mỏ giảm giá về dầu mỏ tăng giá xăng dầu VN
tăng theo. giá vận chuyển mọi mặt hàng hóa VN sử dụng xăng dầu đều tăng
Ở ngay tại những nơi cung dầu mỏ chủ yếu của thế giới sẽ gia tăng tích trữ đầu
cơ, lựa chọn đầu tư có lợi
QHQT là môi trường mà mỗi quốc gia đang sống và không thể tránh khỏi,
không thể quyết định có tham gia hay không được.
3 lý do cơ bản phải nghiên cứu QHQT
QHQT là môi trường không thể tránh khỏi, mỗi cá nhân con người và các quốc
gia không có quyền lựa chọn nào khác, buộc phải tham gia vào môi trường này. Môi
trường chứa đựng vô số lợi ích kinh tế - chính sách – tiềm lực quốc gia - …
Khi con người, quốc gia tham gia môi trường QHQT, phải thích nghi, thích ứng,
hiểu rõ môi trường QHQT đó, cũng như những lợi ích chứa đựng trong môi trường QHQT đó.
Tham gia vào môi trường QHQT là 1 chức năng cơ bản, hành vi mang tính chức
năng cơ bản bắt buộc của mỗi quốc gia
Do đó, phải biết ta đang ở đâu, ta đang làm gì, ta là ai, các quốc gia phải tham gia và nghiên cứu QHQT.
1.2. Qúa trình phát triển của QHQT (International relations)
QHQT là sự tương tác xuyên qua biên giới giữa các chủ thể QHQT
Nhân loại bắt đầu có sự xuất hiện của QHQT theo định nghĩa trên
QHQT chỉ xuất hiện khi hội tụ đủ sự xuât hiện của hai yếu tố Đường biên giới
phân định giữa các quốc gia hiện đại từ sau trật tự Westphalia và chủ quyền bình đẳng
giữa các quốc gia hiện đại. Như vậy, QHQT chỉ thực sự xuất hiện vào khoảng thế kỷ
17 ở châu Âu và thế kỷ 20 ở châu Á. 1648 1918 1991 1815 1945
Từ 1648–1815: trật tự Westphalia
Từ 1918 – 1945: trật tự Vessaile
Từ 1815 – 1918: trật tự Vienne Washington
Từ 1945 – 1991: trật tự Yalta
Từ 1991 – nay: trật tự đa cực, đa trung tâm
Trước 1648 tình trạng vô chính phủ châu Âu hỗn độn
Từ 1648 bắt đầu có trật tự Westphalia vẫn còn lỏng lẻo
Đến khoảng đầu thế kỷ XIX, xuất hiện nhà nước độc tài và xu hướng bành
trướng bá quyền ra toàn châu Âu của Bonaparte Napoleon
Trật tự Westphalia bị đảo lộn, điên đảo suy thoái, biến chất bởi nhà nước độc tài
của Napoleon ra đời 1 tổ chức, 1 trật tự như dáng dấp nhẹ, thoáng nhẹ của 1 chính
phủ siêu nhà nước: trật tự Vienne
Phấn khởi vì từ giờ sẽ không còn nước nào nổi dậy, chạy đua vũ trang đấu tranh
chống lại trật tự này An tâm, hào hứng thích thú với mô hình này đến khi một thành
viên nọ (Phổ sau này là nước Đức thống nhất) sau một thời gian thực hiện các bước
tiến cải cách, thống nhất sức mạnh đất nước, vượt qua các điều kiện lý tưởng về sức
mạnh kinh tế - quân sự - văn hóa giáo dục - … so với 5 nước lãnh đạo trụ cột và
muốn/cảm thấy/tự tin đã đầy đủ các tiêu chí thậm chí hơn cả 5 nước lãnh đạo, nên ấm
ức, tức tối, hậm hực và chạy đua vũ trang để phá vỡ trật tự này.
Tranh giành thuộc địa giữa những nước đế quốc già nắm vai trò bá chủ nhờ sức
mạnh hàng đầu về hàng hải – siêu cường quốc biển (Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha), có vô số thuộc địa “Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh”
nhưng nền kinh tế đang ngày càng suy yếu, đi xuống với những đế quốc trẻ mới nổi
(Đức, Áo Hung, Bungary, Thổ Nhĩ Kỳ), kinh tế tăng trưởng mãnh liệt, cần thị trường
rộng lớn hơn để tiêu thụ khối sản lượng sản phẩm hàng hóa làm ra ngày càng nhiều
xung đột, mâu thuẫn lợi ích về kinh tế, thuộc địa, phân chia thị trường trên thế giới
chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. cuộc chiến tranh phi nghĩa chỉ giành lợi ích kinh tế của bên mình.
Các nước đế quốc già giữ thị trường, các nước đế quốc trẻ giành thị trường
cuộc chiến giành và giữ thị trường thuộc địa trên thế giới Các nước đế quốc trẻ
mong muốn xóa bỏ trật tự mang lại quá nhiều lợi ích vô tận cho các nước đế quốc già.
Điên đảo bởi sự trỗi dậy của Đức mô hình hòa hợp quyền lực trật tự Vienne
trong gần 100 năm liên tiếp, dần suy thoái, biến chất, giãy chết kèm theo thời gian
hình thái KTXH thế giới thay đổi, tiến hóa, 1 số nước thực hiện CM TBCN, 1 số nước
vẫn còn trong tình trạng phong kiến, làm nảy sinh nhiều vấn đề KTXH Giai đoạn
phát triển đỉnh cao của CNTB là giai đoạn CNĐQ mặc dù các nước đế quốc cũ giành
chiến thắng, Đức bị đánh bại.
Concert of power
Để tránh 1 Napoleon thứ 2, quyết định chọn ra 1 ban lãnh đạo, quyết định đi
quyết định lại, chọn ra 5 người (5 quốc gia thành viên). Nguyên tắc hoạt động của ban
lãnh đạo đó: Hòa hợp quyền lực (Concert of powers) Tất cả phải phối hợp, hòa hợp
nhịp nhàng, hòa quyện với nhau, không phân biệt bản chất bên trong của mỗi quyền
lực thành viên, không phân biệt những mâu thuẫn, xung đột tồn tại giữa các quyền lực
thành viên, miễn quyết định cuối cùng phải đạt sự thống nhất giữa các quyền lực thành
viên. Năm nước này phải đạt được sự thỏa thuận 100% mới ra được 1 quyết định. Nếu
một quyết định được đưa ra bởi 1 trong 5 thành viên thì nghĩa là quyết định đó đã
được thống nhất đưa ra bởi cả 5 thành viên.
Ngày 21/10/1945, ngày thông qua Hiến chương LHQ
Hội đồng Bảo an LHQ, 5 ủy viên thường trực không bao giờ thay đổi được (Anh
Pháp Nga Trung Mỹ), 6 ủy viên ko thường trực, sau tăng dần lên thành 10 ủy viên ko
thường trực, nhiệm kỳ 2 năm, phân bổ theo vị trí địa lý
Tương tự như mô hình hòa hợp quyền lực của trật tự hòa hợp quyền lực Vienne
Mỹ là nước đứng không hẳn ngoài cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất,
Do vị trí địa lý biệt lập, cô lập vs thế giới chủ nghĩa biệt lập, không can thiệp
và cũng ko thể trở thành chiến trường của bất kỳ cuộc chiến tranh thế giới nào.
Do đó có thể lợi dụng khoa học kĩ thuật đi đầu để thu lợi từ mua bán vũ khí quân
sự cho cả 2 phe trong chiến tranh thế giới thứ nhất
Lợi dụng ưu thế chủ nợ của CTTG 1, Mỹ đưa ra Tuyên bố 14 điểm Wilson tại
hội nghị Vessaile, nhưng ko được nắm vai trò chủ chốt, quan trọng gì trong hội nghị
Hội nghị Washington 8 nước Mỹ làm rõ các khái niệm bàn về vấn đề Trung
Quốc: quốc gia phong kiến nửa thuộc địa, chia lại theo kiểu các đế quốc phải được
cạnh tranh bình đẳng thị phần, khẳng định lại sức mạnh hải quân của Anh có còn xứng
đáng hải quân mạnh nhất thế giới gấp đôi nước đứng thứ hai, với số lượng thuộc địa
nhiều nhất trên thế giới hay không, quy định tỉ lệ hải quân mới
5(Anh):5(Mỹ):3.5(Nhật):1,75 (Ý):1,75(Pháp)
Lịch sử QHQT gắn liền với bài học về quốc gia biển, cường quốc biển. Từ trong
lịch sử đã cho thấy cứ quốc gia nào mạnh về sức mạnh biển hơn nổi lên sẽ trở thành
cường quốc thắng thế mới của khu vực và nhân loại. Vd: La Mã bá chủ châu Âu với ao
nhà Địa Trung Hải, Anh đánh bại Tây Ban Nha, Tây Ban Nha đánh bại Hà Lan, Mỹ
đánh bại Anh, Nhật đánh bại Đại Thanh, Đại Việt thắng Đại Nguyên, v.v đều đánh bại
nhờ vào sức mạnh biển của quốc gia. Riêng La Mã, Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh, Nhật
lần lượt trở thành cứ nước sau là cường quốc biển mạnh hơn cường quốc biển trước đó,
và trở thành những bá chủ của các đại dương trên khắp thế giới.
Dòng chảy tư tưởng chính trị Hoa Kỳ luôn đấu tranh kịch liệt giữa hai luồng tư
tưởng biệt lập (Donald Trump chỉ can thiệp trực tiếp và sâu sắc vào những điều khoản
kinh tế có lợi cho Mỹ, không cần mở rộng sức mạnh mềm, sức mạnh văn hóa, sức
mạnh thông minh, tập trung phát triển sức mạnh cứng, nội lực quốc gia, tiềm lực kinh
tế - quân sự trong nước, qua đó khẳng định quyền lực quốc gia chỉ đơn giản bằng tổng
sức mạnh kinh tế - quân sự - khoa học công nghệ quốc gia) và tư tưởng hội nhập/tư
tưởng quốc tế (Barack Obama hội nhập sâu sắc vào càng nhiều để lãnh đạo càng mở
rộng khu vực ảnh hưởng của Mỹ càng tốt, qua đó gia tăng cường sức mạnh mềm và
sức mạnh thông minh của Mỹ, quyền lực quốc gia ngoài tổng sức mạnh cứng từ kinh
tế - quân sự - khoa học công nghệ nội tại của quốc gia gồm cả sức mạnh thông minh là
tầm ảnh hưởng, quy mô ảnh hưởng, tác động của Mỹ tới số lượng khu vực quan trọng
trên bản đồ thế giới)
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, khai tử
chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, xã hội xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Câu chuyện chiến tranh thế giới thứ hai
Phương án 1: dụng công quá nhiều, đổ quá nhiều sức lực của bản thân (lực lượng
quá mỏng) cho quá nhiều đối thủ (lực lượng quá dày)
Phương án 2: mất quá nhiều sức để dụ cho 2 con hổ đánh nhau (tình báo, tình
nhân, tình nghĩa, tình các loại v.v) cho mình “tọa sơn quan hổ đấu”, làm “ngư ông đắc lợi”
Phương án 3: liên minh để đánh kẻ thù chung, xong đem sức lực đã tích lũy được
thêm sau thời gian tranh thủ lực lượng đó để tiêu diệt kẻ đã liên minh với mình luôn.
Vì là một đế quốc trẻ, dồi dào sức lực, Đức đã quyết định một mình “cân cả thế
giới” cả Nga Xô viết XHCN và các đế quốc già Anh Pháp. Vì là những đế quốc già,
nhà nước non trẻ đều không đủ sức lực nên Nga Xô viết và các đế quốc già chọn
phương án 3. Tuy nhiên, Đức biết mong muốn thực sự đằng sau của Nga Xô viết và
các đế quốc già đều là muốn tiêu diệt mình. Nên Đức biết mình là người bị nhắm đến
nhiều nhất, là diễn viên chính trên trường quốc tế lúc này, từ đó đã lợi dụng lợi thế đó
trở thành người điều khiển luật chơi của cuộc chiến này, trở thành nhân tố điều khiển
ngược trở lại Nga Xô Viết và các đế quốc già mà 2 phe này cuối cùng không thể duy
trì luật chơi, thế cờ ban đầu theo ý mình là lợi dụng Đức để tiêu diệt phe còn lại.
Để đạt được mục tiêu trở thành người điều khiển cuộc chơi, điều khiển cả 2 phe,
buộc 2 phe muốn lợi dụng mình phải tuân theo luật chơi của mình; Đức đã ký Hiệp
ước không xâm phạm lẫn nhau với Nga Xô viết để dẹp bỏ một mối lo. (1) Đồng thời,
Đức tuyên bố với các đế quốc già sẽ đứng vào hàng ngũ CNTB đánh chống trả lại LX,
cùng ký kết vào Hiệp ước chống chủ nghĩa cộng sản, và đạt những thỏa thuận kinh tế
để Đức phát triển đất nước với mục đích đủ giàu mạnh để đánh lại Nga Xô viết. (2)
(1) + (2) tâm lý ai cũng nghĩ nó chừa mình ra, ko ai nghĩ sẽ bị Đức tấn công.
Đức tiếp tục bày tỏ ý nguyện muốn xây dựng các căn cứ quân sự ngấm ngầm tại
các nước Đông Âu dọc biên giới giữa châu Âu với Nga Xô viết dưới sự hỗ trợ của Anh
Pháp. Sau đó, lấy cớ đó, dưới sự hậu thuẫn từ trước của Anh Pháp (2 nước bảo hộ
chính các nước Đông Âu), Đức đem quân kéo vào sâu trong tận lãnh thổ chủ quyền
các nước Đông Âu mà không đổ một viên đạn. Nhận ra âm mưu, thủ đoạn thực sự
muốn chiếm đóng toàn bộ châu Âu của Đức, các nước Anh – Pháp quyết định tuyên
chiến với Đức, hình thức đỉnh cao, đỉnh điểm của xung đột không thể giải quyết được
giữa những đế quốc già (Anh – Pháp) và Đức.
Nguyên nhân cuộc chiến tranh kỳ quặc (Funny war (chơi chữ từ cách đọc của từ KỲ QUẶC là Phonny))
Anh Pháp lúc này vẫn còn nuôi dưỡng hi vọng Đức sẽ đánh Liên Xô
Đức đã chi phối gần hết châu Âu, kiểm soát được rồi, nên bắt đầu chín muồi lên
kế hoạch tấn công tất cả các mặt trận trên thế giới: kế hoạch Barbarossa, kế hoạch
500 tàu ngầm vượt Đại Tây Dương tấn công Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, ở mặt trận Thái
Bình Dương, kết quả sau 50 năm cải cách đất nước Minh Trị duy tân 1868, Nhật Bản
đã đánh bại cường quốc khu vực Đông Á suốt hàng ngàn năm là Đại Thanh, trở thành
ngôi vị bá chủ Đông Á, phe lính trẻ trong quân đội Nhật đã quyết định xây dựng bộ
máy chính quyền quân phiệt, lên kế hoạch Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á.
Philippines, Việt Nam, Đài Loan bị quân đội Nhật cướp bóc, giết người cướp của nhiều đến đó.
Cùng lúc đó, Nhật Bản cũng lên kế hoạch tấn công Mỹ tại trận chiến Trân Châu
cảng. Đó là lần đầu tiên Mỹ bị tấn công bởi thế lực nước ngoài (cho đến mãi cuộc căng
thẳng xung đột đỉnh điểm Xô Mỹ tại chiến trường Cuba năm 1962 là lần 2 và lần ba
chính là chủ nghĩa khủng bố tấn công ngay trên lãnh thổ đất nước Mỹ ngày 11/9/2001).
Tất cả đã phải lật hết lá bài của mình lên. Phe phát xít tạm chiếm ưu thế trên cả 2
chiến trường châu Âu và Thái Bình Dương. Mỹ nhảy vào chiến tranh thế giới thứ hai,
buộc phải đồng ý từ bỏ chủ nghĩa biệt lập, cho quân tham chiến ở mặt trận Thái Bình
Dương. Bản thân Đức – Ý – Nhật cũng muốn ghép cả 2 mũi tên tiêu diệt vào 1 (các
nước đế quốc già+Nga Xô viết+Mỹ). Mỹ - Xô khép đôi mi trên cùng một giường,
đồng sàng dị mộng, giấc mơ cộng sản chủ nghĩa chôn luôn Mỹ đang nằm trên cùng
một giường, cũng như giấc mộng tư bản chủ nghĩa chôn luôn LX đang nằm trên cùng
một giường, 1 cuộc hôn nhân đầy toan tính, vụ lợi, nhằm mục tiêu chung hướng
đến chủ nghĩa phát xít (phát xít Đức + quân phiệt Nhật)
Như vậy, 2 phe (Anh-Pháp vs Đức) (CTTG 1) 3 phe (Anh-Pháp vs Đức vs
Nga Xô viết) (Đầu CTTG 2) 2 phe (Anh – Pháp – Mỹ - Nga Xô viết vs Đức) (Cuối
CTTG 2) 3 phe (Mỹ - Anh – Pháp vs Đức vs Liên Xô) (hậu CTTG 2)
Chia tay xong xem nhau như kẻ thù tình yêu mãnh liệt
Chia tay xong xem nhau như bạn bè không iu nhau đừng nói lời cay đắng
Chia tay xong xem nhau như người lạ
Yêu nhau vì vụ lợi, sẽ có xu hướng xu thế chung là đều cùng cố gắng sắm vai
nạn nhân, đẩy đối phương vào vai ác quỷ, ai cũng cho mình là chân lý của cuộc đời.
Nhu cầu chứng minh kẻ thù của mình càng lớn. Thay vì xảy ra tiếp chiến tranh thế giới
thứ 3, đã chỉ xảy ra một cuộc chiến tranh mà không chiến tranh, chỉ là đỉnh cao của xung đột
Theo mức độ tăng dần trong QHQT, Chiến tranh quốc gia
Xung đột lợi ích quốc gia
Mâu thuẫn lợi ích quốc gia
Bất đồng lợi ích quốc gia
Giữa Xô – Mỹ bất đồng lớn nhất là ý thức hệ, tất cả mọi quan điểm, lý tưởng, lý
lẽ sống, quyết định thể chế chính trị, chính sách văn hóa – chính trị - giáo dục – y tế -
kinh tế … Ý thức hệ quốc gia quyết định ý thức hệ trong từng cá nhân, con người,
chính sách của quốc gia đó. Đó có thể là điểm mấu chốt dẫn đến xung đột mâu thuẫn
lẫn nhau. Ở đây, LX cho rằng nhân loại tất yếu sẽ tiến thẳng lên chế độ xã hội chủ
nghĩa, chế độ cộng sản chủ nghĩa. Mỹ lại cho rằng cộng sản chủ nghĩa là bạo lực, cách
mạng là bạo lực quần chúng, là sự kết hợp bạo lực quần chúng đấu tranh với bạo lực
chính trị (câu nói chỉ xuất hiện từ thời Lenin, chưa hề có vào thời Marx Angel) Tư
tưởng thù địch Đối đầu nhau về mọi mặt
Những mảng thuộc địa của các nước thực dân xâu xé vì thuộc địa rồi thua trận bị
xé vỡ thành từng mảng vụn, phần lớn đều chưa thể tự vươn mình từ một nước chỉ có
biên cương (bất định) chưa có biên giới quốc gia (cố định) và theo chế độ phong
kiến/quân chủ chuyên chế thành một quốc gia hiện đại đúng nghĩa có biên giới quốc
gia – chủ quyền lãnh thổ và để lại một khoảng trống quyền lực tạm thời trong một
khoảng thời gian không dài lắm. Do đó, chúng được chia lại thành các khu vực thuộc
phạm vi ảnh hưởng của các nước thực dân phương Tây truyền thống, thuộc phạm vi
ảnh hưởng của Liên Xô hoặc của Mỹ thông qua hàng loạt hội nghị, đàm phán khác
nhau từ hội nghị San Francisco đến hội nghị Yalta (thuộc bán đảo Crưm/Crimea của
Ukraina). Trung Quốc cũng là một nước Đồng minh tham gia giải giáp quân đội Nhật
tại các nước ĐNÁ và không bên nào muốn sẽ có một nước thống nhất thuần XHCN
hay thuần TBCN ngay sát cạnh 1 nước XHCN hùng mạnh lớn nhất là LX, TQ hay sát
cạnh 1 nước TBCN hùng mạnh hàng đầu là Nhật Bản, nên đã ra sức quyết định chia
cắt các quốc gia nổi dậy tuyên bố độc lập thành hai miền trong đó có cả ở Việt Nam,
Triều Tiên. Song cũng có 1 quốc gia kiên quyết không tuyên bố giành độc lập, thoát
khỏi sự phụ thuộc vào mẫu quốc.
Tại Đông Âu, những quốc gia được Liên Xô giúp giải phóng quân phát xít khỏi
lãnh thổ quốc gia đã được Liên Xô giúp thành lập Đảng Cộng sản, đưa lên nắm quyền
lãnh đạo đất nước, thành lập các chính quyền do các Đảng Cộng sản lãnh đạo, đi theo
nền kinh tế định hướng XHCN bình quân chủ nghĩa. Do đó hình thành nên trật tự
Đông – Tây trong QHQT ở châu Âu.
Sau đó, mỗi bên đều tranh thủ tập hợp lực lượng đông đảo về phe của mình. Vì
vậy, cả thế giới bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh Lạnh, bị chia thành hai cực đối đầu
trong QHQT. Dưới sự lãnh đạo của hai siêu cường đối đầu nhau nhưng đều quyết
không nổ súng vào nhau do khoảng cách địa lý đan cài, đan xen lẫn nhau, do cùng sở
hữu sức mạnh ngang nhau về vũ khí hạt nhân hủy diệt cao, cùng nằm trong tình trạng
“bị hủy diệt đồng thời một cách chắc chắn”.
Hàng loạt sự đáp trả, nhân đôi tổ chức, kế hoạch, chương trình hành động, tổ
chức quốc tế v.v trên thế giới giữa 2 phe: TBCN XHCN NATO WASAWAW Marshall SEV
Tom & Jerry Hãy đợi đấy
đưa người lên Mặt trăng đưa động vật lên vũ trụ bom A bom H bom H bom B
1958 gắn bệ phóng 7 tên lửa tại Thổ Nhĩ 1959 gắn bệ phóng 7 tên lửa tại Cuba Kỳ
Chỗng phòng vệ theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, tránh trường hợp bị quy cho
là hành động tấn công khiêu khích tàu Liên Xô trên hải phận nước khác, Mỹ quyết
định rải thảm ngư lôi khóa dọc đường bờ biển đi vào Caribe, đi vào Cuba, và thông
báo nếu Liên Xô vẫn quyết tâm đi vào đường bờ biển giữa Mỹ và Cuba và bị tổn thất
thì Liên Xô sẽ phải tự chịu trách nhiệm cho hành động của mình.
Một cuộc đàm phán bí mật về việc Liên Xô rút 22 chiếc tàu chở tên lửa về,
không cập cảng Cuba để đổi lấy việc Mỹ rút khỏi Thổ Nhĩ Kỳ và Anh Quốc (đàm
phán bí mật để giữ quốc thể cho cả 2 nước siêu cường Xô – Mỹ).
Sau đó, giai đoạn 1975 – 1989 hàng loạt đàm phán thể hiện xu thế hòa hoãn, sẵn
sàng đối thoại để lấy lại vị thế kinh tế bị suy sụp do tập trung chạy đua vũ trang suốt
thời gian dài gần nửa thế kỷ, trong khi Nhật Bản và Tây Âu đã nổi lên trở thành 2
trung tâm kinh tế tài chính mới của thế giới cạnh tranh gay gắt với 2 siêu cường quân sự Xô – Mỹ.
Sự trỗi dậy của CHND Trung Hoa
Giai đoạn 1: Nhất biên đảo (1949 – 1959)
Ngả hẳn về phía Liên Xô, anh cả của phong trào cộng sản chủ nghĩa quốc tế
Giai đoạn 2: Nhất điều tuyến (1959 – 1969)
Ngả hẳn về phía Mỹ, do mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, quan trọng
mèo nào bắt được chuột, đồng thời thực hiện 20 năm “kinh hoàng” đại cách mạng văn
hóa, đại nhảy vọt, xỉ thép nhiều vô kể còn gang thép ít trên đầu ngón tay, 3 ngọn cờ
hồng, hồng vệ binh, “Mao tuyển” giắt túi áo, túi quần, v.v và tiêu diệt Liên Xô thành
công, trở thành anh cả của khối các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Việt Nam trở thành lá bài, quân cờ đắc lực nhất của Trung Hoa trước Hoa Kỳ,
không thể thống nhất được, nếu Việt Nam thống nhất Mỹ sẽ mất 1 nguồn thuế, Trung
Hoa sẽ mất 1 lá bài, 1 quân cờ hữu hiệu trên bàn đàm phán trả treo với Mỹ về những
lợi ích khác nữa. Đó là một hợp đồng mua bán trắng trợn mà theo đó, Mỹ ngồi yên cho
Trung Hoa chiếm hoàn toàn dứt điểm đảo Đài Loan và phần còn lại của quần đảo
Hoàng Sa năm 1974, còn Trung Hoa ngồi yên và rút hết chuyên gia cố vấn quân sự
cho Mỹ ném bom rải thảm miền Bắc VN DCCH năm 1972.
Giai đoạn 3: Lưỡng biên phản (1969 – nay)
Tạo dựng chế độ Pol Pot Iengxeri, dạy cho đàn em bất trị Vietnam 1 bài học về
việc dám thống nhất đất nước, đánh bại hoàn toàn gót chân Mỹ ra khỏi lãnh thổ Vietnam.
Sự trỗi dậy của Nhật Bản
Sau khi được “ngọn gió thần kỳ” thổi vào nền kinh tế Nhật Bản đạt vị trí thứ hai
thế giới TBCN vào năm 1982, và vị trí thứ ba thế giới sau Mỹ - Trung từ sau khủng
hoảng kinh tế 2008 tới nay.
Trật tự thế giới mới “Nhất siêu đa cường” cơ bản được sắp xếp trên thứ bậc
phát triển chưa định hình rõ ràng như trật tự vô chính phủ (tự do không ràng buộc)
Westphalia (1648 – 1815), trật tự hòa hợp quyền lực Concept of powers Viene (1815 –
1914), trật tự thắng thua Vessaile – Washington (tự do có ràng buộc) (1918 – 1945),
trật tự lưỡng cực đối đầu Yalta (1945 – 1991)
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU QUAN HỆ QUỐC TẾ
Hiện tượng QHQT có thể có từ khi các chủ thể quốc gia có chủ quyền lãnh thổ
và biên cương biên ải quốc gia vào khoảng 2000 năm trước, hay từ khi xuất hiện
những quốc gia hiện đại đầu tiên trên thế giới theo mô hình trật tự Westphalia vào thế
kỷ XVII nhưng lịch sử nghiên cứu QHQT chỉ bắt đầu từ khi CTTG 1- cuộc chiến
tranh tốn kém nhất, tổn thất nhất, tàn khốc nhất, khốc liệt nhất, ảnh hưởng lên quy mô
lớn nhất trong lịch sử nhân loại kết thúc
Những người thực hành QHQT: Nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo ngoại giao, cán
bộ ngoại giao, viên chức ngoại giao, v.v là những người làm nên QHQT nhưng lại
không có nhu cầu tìm hiểu kĩ chú ý về QHQT.
Những người học tập, nghiên cứu QHQT
CHỦ NGHĨA LÝ TƢỞNG
Giải quyết 2 câu hỏi
Nguyên nhân và cách ngăn chặn nguy cơ chiến tranh
Càng rõ nguyên nhân càng dễ ngăn chặn chiến tranh.
Bằng chứng thất bại: sự ra đời của chiến tranh thế giới thứ hai
Một số tác gia đóng góp vào ý tưởng trả lời cho 2 câu hỏi
Nghiên cứu lịch sử, triết học, không phải quan hệ quốc tế
Đem lại nguồn tư liệu cho người nghiên cứu QHQT
Hugo Grotius: cha đẻ của công pháp quốc tế
Xã hội cần được quản lý bằng luật tự nhiên và luật con người
Con người có quyền thở, ăn, mặc, ở, đi lại
Quyền tự nhiên của con người
Immanuel Kant “Hòa bình vĩnh cửu: nền hòa bình có thể được xây dựng và
hưởng thụ là đích đến của nhân loại”
Một trong những người đầu tiên trả lời 2 câu hỏi đó:Tổng thống Mỹ Wilson, tổng
thống học giả của Mỹ, từng là giảng viên đại học trước và sau khi làm Tổng thống.
Đề xuất Chương trình hành động 14 điểm dành cho các quốc gia trên thế giới
Mang tư tưởng giáo dục, đạo lý, những điều hay lẽ phải vào chính trị, cho những
người dân thực hiện dễ dàng hơn, giúp thế giới hòa bình và ổn định hơn. Do đó phải
thúc đẩy đào tạo đạo đức QHQT trong dân chúng.
Môn QHQT cũng là lần đầu tiên đc giảng dạy tại viện của ông sau CTTG 1.
Về cơ bản, câu trả lời cho 2 vấn đề này gồm luận điểm chính sau:
Quyền tự nhiên của con người luôn cao hơn chủ quyền của quốc gia
Quyền nhân loại (quyền được sống trong môi trường tự nhiên trong lành) phải
luôn được đảm bảo, đề cao hơn chủ quyền quốc gia.
Đề xuất của Wilson thành lập Hội Quốc Liên là đề xuất lần đầu tiên có một tổ
chức tất cả các quốc gia cùng ngồi lại với nhau.
Niềm tin chủ yếu của chủ nghĩa tự do lý tưởng
Quốc gia cũng là một cá thể con người
Hành vi của quốc gia cũng như hành vi của con người
Hành vi của quốc gia là một tập hợp hành vi của nhiều người
Mà bản chất con người là tính bản thiện, hiền lành, thánh thiện, trung thực,
khiêm tốn, dũng cảm
Nên hành vi của quốc gia cũng có bản chất thật thà, lương thiện
Nhưng chiến tranh, viện trợ ODA là hành vi xấu, không thật thà, lương thiện như
bản chất của quốc gia, của mỗi con người (ODA là vốn viện trợ không hoàn lại của
nước ngoài dành cho 1 quốc gia, đó là sản phẩm ý tưởng của Nhật Bản, sau sự thất bại
của sáng kiến Đàn sếu bay những năm 1990 với ý định sẽ chuyển giao vốn – khoa học
công nghệ và trình độ kĩ thuật quản lý dần dần từ con sếu đầu đàn là Nhật Bản tới các
nước công nghiệp mới như Singapore, Đài Loan, Indonesia, rồi tới các nước cấp độ 2
như Thái Lan, Malaysia, Brunei, rồi mới tới các nước cấp độ 3 như Việt Nam, Lào,
Campuchia để tiết kiệm vốn – công nghệ - kĩ thuật kinh nghiệm quản lý mà vẫn được
tiếng hỗ trợ phát triển các nước thế giới thứ 3. Vì vậy, giải pháp đầu tư ODA thâm
thúy hơn ở chỗ nó mang lại lợi ích kinh tế nhiều hơn cho Nhật, Đàn sếu bay không
mang lại lợi ích kinh tế nhiều cho Nhật, nó chỉ giúp Nhật ko thâm hụt ngân sách mà
duy trì hòa vốn, tiết kiệm chi phí đầu tư cho khoa học kĩ thuật công nghệ, ODA tiến bộ
hơn là mang lại được lợi ích kinh tế thêm cho cả Nhật Bản và nước được hỗ trợ. Và
quan trọng hơn, nó giúp sự can thiệp của Nhật vào thị trường ĐNÁ sâu rộng và toàn
diện, chặt chẽ hơn là chỉ về 1 mảng duy nhất KHKT như sáng kiến Đàn sếu bay. ODA
tuy trên danh nghĩa là viện trợ ko hoàn lại, nhưng nó mang lại lợi ích kinh tế cho Nhật
Bản ở chỗ: Nhật sẽ đem những nhân công thất nghiệp của mình sang các nước ĐNÁ
giúp xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các nước ĐNÁ hoàn thiện kết cấu phất triển kinh
tế phù hợp, và những người này sẽ được Việt Nam trả tiền lương, sẽ dùng các dịch vụ,
tiện ích của Việt Nam, mua sắm hàng hóa của Việt Nam trong thời gian làm việc tại
Việt Nam, và họ cũng sẽ có những khoản tiết kiệm gửi về cho cha mẹ già ở Nhật Bản,
do dân số Nhật đang già hóa, nên lượng tiền gửi về cho cha mẹ hoàn toàn không ít, vì
vậy đó là lý do Nhật Bản cho VN vốn ODA mà không cần hoàn lại cho Nhật, bởi Nhật
đã lấy tiền lại được từ chính những người công nhân Nhật Bản tại Việt Nam. Chưa kể
nhờ đó còn giải quyết được tình trạng thất nghiệp dễ dẫn đến rối loạn, bất ổn xã hội tại
Nhật, khi điều động họ đi làm chân tay tại nước ngoài, đương nhiên tỉ lệ thất nghiệp sẽ
tăng, kiều hối gửi về nước tăng, tổng khối tài sản của nền kinh tế Nhật sẽ tăng theo, xh
sẽ tiếp tục ổn định và phát triển, do đó mà Nhật Bản không ngần ngại cho các nước
vay vốn viện trợ ODA không hoàn trả như một phương cách vừa giúp bạn vừa giúp
mình. Vì vậy, trên phương diện nào đó, đây cũng là một hành động vì lợi ích quốc gia
của Nhật, không hoàn toàn vì lý tưởng nghĩa cử đạo đức cao đẹp gì cả! )
Vậy tại sao con người/các quốc gia (tập hợp nhóm người) lại thực hiện hành vi không lương thiện này?
Mỗi người, mỗi quốc gia đều muốn trở thành những cá nhân, quốc gia tốt đẹp,
gương mẫu, nhưng đều không thể trở thành những cá nhân, quốc gia tốt đẹp 100% trong QHQT được.
Do môi trường, cuộc sống đưa đẩy, con người, quốc gia mới buộc lòng phải nói
dối, phải làm những hành vi xấu xa để bảo vệ những nhu cầu tối thiểu, lợi ích chính đáng của mình.
Do vậy, để thay đổi những hành vi của con người, quốc gia cần phải thay đổi
chính môi trường, cuộc sống chứa đựng những con người, quốc gia đó, giúp những
nhu cầu tối thiểu, lợi ích chính đáng của họ được bảo đảm tốt hơn, từ đó, họ sẽ hạn
chế những hành vi xấu xa, tội lỗi của mình.
Muốn tạo ra được môi trường lý tưởng như vậy, phải đi kèm với việc tạo dựng
niềm tin giữa các con người, quốc gia, muốn có được cả 2 điều đó phải có điều kiện
giáo dục tốt, ý thức tự giác tốt giữa các con người, quốc gia.
Nhưng những điều kiện giáo dục tốt, ý thức tự giác tốt đó không thể đi cùng nhau
khi có sự xen kẽ của bản tính ích kỷ, sự hấp dẫn của lợi ích, đặc biệt là lợi ích quốc gia.
Do đó, chiến tranh thế giới thứ hai đã xảy ra, nổ ra, bùng nổ mạnh mẽ hơn.
Như vậy, chủ nghĩa lý tưởng ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phát triển
mạnh và chứng kiến xu hướng độc lập hơn của QHQT dần trở thành một khoa học độc
lập. Cũng trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tự do lý tưởng, đào tạo QHQT bắt
đầu được triển khai, chủ nghĩa lý tưởng dần nổi trỗi dậy lên hơn. CHỦ NGHĨA TỰ DO
Tự do (Liberalism) (tự do có ràng buộc, theo một luật chơi nhất định, trong
khuôn khổ và ràng buộc) # Tự do (Freedom) (tự do không có ràng buộc, luật chơi,
khuôn khổ j cả giống như hồ cá trật tự vô chính phủ Westphalia, tự tiện, tự do đến nỗi
quyền tự do bơi lội của các con cá nhỏ bị xâm phạm bởi các con cá lớn, tình trạng cá lớn nuốt cá nhỏ)
Như vậy, những giá trị về sự hợp tác và giá trị về niềm tin cũng như môi trường
lý tưởng của chủ nghĩa Lý Tưởng đã sụp đổ là điều kiện tiền đề dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa Tự Do
Thứ nhất, con người cũng có bản ngã tốt đẹp, nhưng con người không bao giờ
có thể tự giác thực hiện những lý tưởng tốt đẹp, con người luôn nhận thức được đúng
sai trong hành vi của mình nhưng dưới áp lực cạnh tranh của xã hội, con ngời vẫn
quyết định đi theo đoạt lấy, giữ lấy lợi ích của riêng mình, hiếm khi vì lợi ích chung
của cộng đồng. Do đó, phải cưỡng bức con người thực hiện những hành vi tốt đẹp.
Thứ hai, tự do vì vậy phải luôn được đặt trong khuôn khổ quy định, nhằm đảm
bảo hài hòa lợi ích của từng cá nhân, quốc gia. Do đó, phải đưa ra những trật tự có tính
trật tự hơn, ràng buộc, cưỡng chế và răn đe các cá nhân, quốc gia phải thực hiện những
hành vi tốt đẹp, đó là tự do thương mại, tự do cộng hòa, và tự do thể chế. Tự do thƣơng mại
Adam Smith đề cao chủ nghĩa trọng thương là hoạt động mang lại lợi ích kinh tế
cao nhất bên cạnh các hoạt động sản xuất. Do đó, hoạt động thương mại phải được
thúc đẩy. Các nhà nghiên cứu QHQT lý giải, hoạt động tự do thương mại giữa các
quốc gia sẽ giúp tạo ra ổn định, hòa bình trên thế giới.
Nguyên nhân kinh tế: tranh giành các lợi ích, nguồn lực kinh tế để gia tăng sức
mạnh/quyền lực quốc gia là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xung đột và chiến tranh
trong QHQT. Mà sự phát triển kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới không bao giờ
đồng đều, mỗi nền kinh tế lại chỉ phát triển một số mũi nhọn kinh tế nhất định. Nếu
không mở rộng thúc đẩy tự do thương mại giữa các quốc gia sẽ dẫn đến tình trạng an
ninh quốc gia bất ổn, cạnh tranh xung đột gay gắt, căng thẳng, dẫn đến chiến tranh
tranh giành hàng hóa, thị phần, v.v Do đó, cần phải thành lập các tổ chức quốc tế ràng
buộc luật chơi tự do thương mại giữa các quốc gia, buộc các quốc gia phải tuân thủ,
thúc đẩy tự do thương mại, giảm nhu cầu về tranh giành gay gắt các nguồn tài nguyên
cạn kiệt (vd: GATT, WTO, ASEAN, G7, G20, Marshall, Colombo, v.v). Đồng thời, tự
do thương mại cũng giúp điều động lực lượng lao động, tăng tính chuyên môn hóa
trong phân công lao động, cân đối lại cơ cấu các thành phần kinh tế của các quốc gia.
Song tự do thương mại hóa cũng góp phần làm gia tăng tính ràng buộc, gắn kết chặt
chẽ giữa các nền kinh tế, lệ thuộc chặt chẽ vào nhau hơn, các nền kinh tế trở nên phụ
thuộc, sống còn vào nhau. Vì vậy, nền kinh tế này có thể bảo vệ nền kinh tế khác trước
sự tấn công, cấm vận của một nền kinh tế thứ ba thực chất vì lợi ích quốc gia của
chính nó (cái nền kinh tế đi bảo vệ) Tự do cộng hòa
Immanuel Kant “Hòa bình vĩnh cửu: nền hòa bình có thể được xây dựng và
hưởng thụ là đích đến của nhân loại”
Chiến tranh chỉ xảy ra giữa các quốc gia phi dân chủ. Giữa các quốc gia dân chủ
không bao giờ gây chiến với nhau. Nền tảng của học thuyết Hòa bình dân chủ. Các
thể chế chính trị mang tính chuyên chế, chuyên chính là nguyên nhân gây ra chiến
tranh. Một quyết định ở một quốc gia dân chủ sẽ là một quyết định chung của cả cộng
đồng, quyết định tuyên bố đất nước trong tình trạng chiến tranh hay hòa bình cũng như vậy.
Các quốc gia dân chủ đều chia sẻ một hệ thống giá trị chung: GIÁ TRỊ DÂN
CHỦ sẽ cùng tôn trọng công pháp quốc tế. Cả thế giới phải được thúc đẩy quá
trình dân chủ hóa thể chế chính trị của mình
Một quốc gia muốn làm việc gì đó phải được sự đồng thuận của hơn 2/3 dân số
trong nước, đồng thời phải được bỏ phiếu thông qua bởi cả 193 quốc gia thành viên
Đại hội đồng LHQ để CÓ DÂN CHỦ SẼ CÓ HÒA BÌNH.
Song trên thực tế, CTTG 1 & CTTG 2 đều bắt nguồn từ những quốc gia có nền
dân chủ lâu đời như Anh, Pháp, Mỹ mà không bắt nguồn từ những quốc gia có thể chế
chính trị mang tính chuyên chế - chuyên chính như Liên bang CHXHCN Xô viết,
CHND Trung Hoa, CH DCND Triều Tiên, CHXHCN Việt Nam. Do đó, chiến tranh
không có mối liên hệ ràng buộc hữu cơ chặt chẽ với tính dân chủ trong thể chế chính trị của các quốc gia.
“Tôn trọng chúng tôi hoặc sẽ bị bọn tôi mang dân chủ đến nhà” = “ Tôn trọng
Mỹ hoặc sẽ bị xâm lược để xây dựng một thể chế chính trị dân chủ hơn”
Dân chủ hóa mang tính chủ quan, do một nước dân chủ tự xưng áp đặt lên các
nước khác, dần trở thành nguồn cơn mới của các cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới.
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
Sau chiến tranh thế giới thứ hai mới xuất hiện
Thycydides (471 – 401 TCN) là nhà nghiên cứu lịch sử cổ đại: “Lịch Sử Chiến Tranh Peloponese”
Cuộc chiến đối thoại thành bang Aten – Melos
Trong tác phẩm này, ông mô tả một trận đánh phần thắng sẽ luôn thuộc về phe có
thần linh phù trợ, người dẫn đầu là con cháu của thần linh phù trợ, mỗi người 1 điểm
yếu 1 sức mạnh vô song. Ông không như vậy, ông giải thích thằng vì mạnh hơn phe
kia. Ông mô tả cuộc đối thoại Melos của Atene với 1 thành bang cực nhỏ trong thệ
thống thành bang, rằng trong cuộc chiến vs Sparta hãy liên minh vs Aten để đánh lại
Sparta, Melos đáp Không có thù với Sparta nên ko việc j phải đánh Sparta. Aten đáp
lại rằng CÁC ANH PHẢI LIÊN MINH VS ATEN vì các anh ko có quyền lựa chọn,
chỉ kẻ mạnh có quyền lựa chọn, làm những điều mình muốn còn kẻ yếu CHỈ CÓ THỂ
LÀM NHỮNG ĐIỀU MÌNH PHẢI LÀM!
Đề cao vai trò của sức mạnh trong QHQT
QHQT dựa trên quan hệ cường quyền
Tác phẩm Quân vương của Nicollo Machievali (1469 – 1527) dạy thuật trị quốc
dùng để dâng lên vua dịp sinh nhật, quốc gia nọ ko dịch tác phẩm này ra tiếng Việt và
cũng rất ít người đọc.
Để thành một vị vua tốt, hãy quên mình là người, luôn phải có phần con lớn hơn
hoặc bằng phần người. Hãy kết hợp vừa ranh ma như một con cáo vừa dữ tợn như một sư tử.
CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN
Học thuyết này cho rằng lịch sử nhân loại quá đề cao nam giới, tính hiếu chiến
bản năng trong nam giới được quá đề cao làm cho chiến tranh thường xuyên xảy ra
hơn trong lịch sử nhân loại.
Không thuần túy đề cao vai trò của phụ nữ
Quan niệm rằng nhân loại luôn có hai tính: tính nam và tính nữ. Đối với nam giới,
tính nam trội hơn tính nữ, do áp lực xã hội buộc giới nam phải dẹp bỏ tính nữ, buộc
giới nữ dẹp bỏ tính nam. Đối với nữ giới, tính nữ trội hơn tính nam. Đối với giới tính
thứ ba, tính nam và tính nữ cân bằng nhau. Lịch sử được gọi là His story không phải
Her story!!! Gới tính Nam chỉ cần gọi một chữ Man, Male, nữ là Phi Nam Woman,
Female, chỉ có Nam và Phi Nam, không có cái gọi là nữ.
Giữa các lãnh đạo nguyên thủ quốc gia phải luôn cư xử cứng rắn với nhau không
được mềm dẻo, ẻo lả khiến cho tình trạng căng thẳng, chiến tranh
Từ bình đẳng về mặt sinh học sẽ dần tiến đến đạt được bình đẳng về mặt tư
tưởng. Từ sự bình đẳng đó sẽ làm cho thế giới hài hòa hơn.
Một cách hiểu sai lầm là cố gắng đưa nữ giới càng lên vị trí lãnh đạo cao càng
càng cao càng tốt. Trong khi trên thực tế, nữ giới lên vị trí lãnh đạo vẫn phải điều
khiển theo thể hiện tính nam trên ghế lãnh đạo, mà bản năng của phụ nữ lại là hành
động duy tâm, khác nam giới luôn hành động duy lý. Cho họ lên làm lãnh đạo nhưng
bắt họ không được làm chính họ nên việc nữ giới nắm quyền chưa thực sự hiệu quả
trên thế giới. Vd: tổng thống Miamar Aung San Suu Kyi, thủ tướng Thái Lan Yingluck
Shinawatra, nữ tổng thống Indonesia Megawati Sukarnoputri
Thuyết Hòa bình xanh
Nguyên nhân chủ yếu của các cuộc chiến tranh trong lịch sử nhân loại là do cạnh
tranh, tranh giành tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng cạn kiệt, khan hiếm
Cách ngăn chặn chiến tranh: Nâng cao nhận thức về vai trò và tầm quan trọng
của tài nguyên thiên nhiên, hệ động thực vật, để từ đó các nước
Phát triển chủ yếu ở những quốc gia có tỉ lệ ô nhiễm không khí âm như Bhutan,
Sau Chiến tranh Lạnh (1947 – 1991)
Lịch sử hiện tượng QHQT đã có từ rất lâu nhưng lịch sử nghiên cứu QHQT thì
chỉ mới hơn 100 năm nay (1918 – 2018). Lịch sử nghiên cứu QHQT của VN chủ yếu
ở Học viện QHQT (nay là Học viện Ngoại giao), Khoa Quốc tế học ĐH KHXH&NV
ĐHQG Hà Nội, Khoa Quốc tế học ĐHSP TPHCM, Khoa Quốc tế học ĐH
KHXH&NV ĐHQG TPHCM. Trong khi đó, các ngành Đất nước học thuộc nhánh
Khu vực học của khoa học nghiên cứu QHQT, nhu cầu nghiên cứu QHQT rất lớn, do
QHQT là môi trường chứa đựng nhiều lợi ích nhất, lợi ích căn bản nhất của quốc gia,
của cuộc sống, của con người, trong đó có quan trọng nhất là lợi ích quốc gia. Qua
môn học hiểu được nền tảng xây dựng quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại, chính
sách ngoại giao của khu vực, đất nước đang theo học, theo nghiên cứu.
“Việt Nam sẵn sàng làm bạn, đối tác tin cậy của các quốc gia trên thế giới”
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các quốc gia trên thế giới” “Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy của các quốc gia trên thế giới”. Từ sau Chiến tranh Lạnh,
thế giới không còn chạy đua vũ trang, đối đầu ý thức hệ tư tưởng, chuyển sang tập
trung cải cách mở cửa – phát triển kinh tế (Trung Quốc 1978, Liên Xô 1985, Việt Nam 1986, v.v)
Một nhóm hoà hợp là "một thể chế quốc tế hay một thiết chế an ninh được hình thành giữa tất
cả các cường quốc nhằm phối hợp về ngoại giao ở mức độ cao. Nó là một khuôn khổ hợp tác được thể
chế hoá tương đối lâu dài, phạm vi rộng, bàn đến nhiều vấn đề. Hình thức này là kết quả của sự song
trùng về cách tiếp cận hoặc chiến lược mang tính lâu dài, có cân nhắc và hợp tác của các cường
quốc". Nhóm hoà hợp tập hợp một số cường quốc nhằm điều hành quan hệ giữa họ, thúc đẩy các hình
thức hợp tác và ngăn chặn xung đột từ các quốc gia khác có thể gây ra chiến tranh. Một điều kiện cơ
bản để một nhóm hoà hợp hoạt động là sự nhất trí giữa các thành viên của nhóm là không được hành
động đơn phương. Điều kiện tiên quyết thứ hai để thành lập hệ thống này là các cường quốc hay quốc
gia thành viên phải chấp nhận một số những quy tắc ứng xử chung; có cùng quan điểm về một trật tự
quốc tế ổn định; phải công nhận lợi ích an ninh của nhau và tôn trọng công việc nội bộ của nhau;
không được đơn phương dùng vũ lực chống lại nhau, hoặc không tham khảo ý kiến lẫn nhau. Do mang
tính chất không chính thức, nhóm hoà hợp có thêm lợi thế là không cần các cơ chế hành chính phức
tạp để hoạt động. Mục tiêu cơ bản của hệ thống nhóm hoà hợp là duy trì ổn định, trên thực tế là duy
trì nguyên trạng một trật tự quốc tế. Nhóm hoà hợp các cường quốc châu Âu thành lập sau khi các
cuộc chiến tranh dưới thời Napoleon kết thúc và hoạt động trong khoảng thời gian 1815 - 1854. Các
quốc gia thành viên là: Phổ, A'o, Anh, Nga và Pháp (tham gia 1818). Napoleon Bonaparte bị thua
trong trận chiến Waterloo năm 1815. Hệ thống mới được hình thành gắn liền với Hội nghị tại Viên
sau cuộc chiến tranh chống Napoleon. Đó là một hệ thống hòa hợp quyền lực giữa các cường quốc
châu Âu là Anh, Nga, Đức, Pháp. Trong suốt khoảng một thế kỷ, châu Âu đã luôn thích thú với mục
tiêu thống trị toàn cầu. Các quốc gia lãnh đạo châu Âu mở rộng sự kiểm soát của mình đối với hầu hết
các khu vực trên thế giới, đạt được sự thống trị về kinh tế và phát triển quân sự mạnh nhất.
Trong thập niên của cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cùng với sự trung tâm hóa sức mạnh quốc
gia và sự tăng trưởng mạnh mẽ sức mạnh quân sự và thương mại lại càng được phát triển bởi cách
mạng công nghiệp, Châu Âu dường như ở đỉnh cao của thịnh vượng và ảnh hưởng. Nhưng nền tảng
cơ bản của sự thay đổi sâu sắc đã đang được hình thành ở Đức. Năm 1871, Otto von Bismarck, Toàn
quyền của Phổ - lãnh thổ có quyền lực và có sức mạnh quân sự lớn nhất trong các khu vực của Đức
đã hợp nhất các khu vực nói tiếng Đức của châu Âu lại ra một quốc gia đông dân nhất, có nền kinh tế
phát triển và sức mạnh quân sự lớn nhất ở Tây và Trung Âu. Dưới sự cai trị của Hoàng đế Wihelm II,
Đức đã khởi động một cuộc chạy đua vũ trang trong những năm sau năm 1900. Một sự phân cực sâu
sắc về quyền lực ở châu Âu đã bắt đầu hình thành. Sau hàng thế kỷ, châu Âu đã chứng kiến sự cân
bằng nhảy vọt mạnh mẽ giữa các quốc gia có sức cạnh tranh. Và các liên minh thường xuyên phát
triển nhằm đối trọng với bất kỳ quyền lực nào có thể đe dọa nhằm đạt vị trị lãnh đạo lục địa. Từ 1905
đến 1914, châu Âu đã chứng kiến không chỉ cuộc chạy đua vũ trang rộng lớn tại lục địa mà còn tham
gia vào hàng loạt khủng hoảng chính trị trên thế giới đặc biệt là Morocco và Balkans. Xung đột ở
Balkans đã châm ngòi cho Chiến tranh thế giới I cùng với sự sụp đổ 4 đế chế (Đức, Áo, Nga và Thổ
Nhĩ Kỳ) và sự hủy hoại trật tự châu Âu bị xé ra từng mảng. Điều này đồng nghĩa với chủ thể quan hệ
quốc tế có sự thay đổi về chế độ chính trị. Hệ thống quan hệ quốc tế mới được thành lập dựa trên Hội
nghị Versaille và sự ra đời của tổ chức chính trị - an ninh lớn là Hội Quốc Liên.