



















Preview text:
Nhóm 1: Lý thuyết
Câu 1: Nêu khái quát các cơ sở lý luận và phân tích tác động của CN MLN
đến việc hình thành tư tưởng HCM. Trả lời:
Dựa vào những giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại,
cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình
đáp ứng nhu cầu thực tiễn lịch sử từ đó hình thành nên hệ thống tư tưởng của mình.
Thứ nhất, Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: (mỗi truyền
thống phân tích từ 1 – 2 câu)
+ Chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước
tác động đến HCM như thế nào?
+ Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, “lá
lành đùm lá rách” trong hoạn nạn, khó khăn
+ Truyền thống lạc quan yêu đời
+ Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu
+ Khả năng tiếp biến văn hóa.
Thứ hai, tinh hoa văn hóa nhân loại là sự kết hợp hài hòa giữa hai nền văn hóa Đông và Tây:
- Tư tưởng và văn hóa phương Đông:
+ Nho giáo: HCM kế thừa và đổi mới tư tưởng, lựa chọn yếu tố tích cực &
phù hợp (phân tích mỗi ý 1 - 2 câu): HCM kế thừa về đạo đức, lễ nghĩa, …
+ Phật giáo: mặt tích cực đã thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc &
nhân dân lao động: tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác, chống lại phân biệt đẳng cấp
+ Tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử: tiết kiệm, … (bổ sung)
+ HCM đã kế thừa tư tưởng cốt lõi của Chủ nghĩa Tam dân - Tôn Trung
Sơn: “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” sau này trở
thành tiêu ngữ: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”
=> HCM đã khai thác những yếu tố tích cực của văn hóa phương Đông để
phục vụ sự nghiệp cách mạng của nước ta.
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây:
+ Từ nhỏ đã làm quen với văn hóa Pháp, sống và hoạt động chủ yếu ở châu
Âu => chịu ảnh hưởng rất sâu rộng nền văn hóa dân chủ và cách mạng của
phương Tây. (trình bày lại)
HCM sớm được biết đến văn hóa Pháp thông qua
nền giáo dục thực dân khi sống ở Huế
+ HCM tiếp thu tinh thần dân chủ cmts ở phương Tây.
Ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, quyền sống của con người ghi trong
“Tuyên ngôn độc lập 1776” của Mỹ đã được Người trích dẫn trong “Tuyên
ngôn độc lập 2/9/1945” của nước ta. Bác sang Anh, gia nhập công đoàn thủy
thủ, tham gia các cuộc biểu tình, đình công
Cuối 1917, Bác từ Anh về Pháp và sống tại Paris => quyết định có ý nghĩa
lịch sử, mở ra 1 thời kỳ mới trong cuộc đời Bác
Tư tưởng dân chủ trong các tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp đã ảnh
hưởng tới tư tưởng của Người.
Thứ ba, chủ nghĩa MLN là nguồn gốc lý luận quyết định bản chất khoa học
và cách mạng của tư tưởng HCM:
Mốc HCM bắt gặp CNMLN là bước ngoặt, dấu mốc quan trọng trong
quá trình hình thành hệ thống tư tưởng HCM, CNMLN cung cấp thế giới quan
và phương pháp luận cho tư tưởng HCM.
- Bác đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp
cứu nước, giải phóng dân tộc. Nghĩa là đi tìm lý luận mới để giải quyết nhiệm
vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Bác viết: “Lúc bấy giờ tôi ủng hộ cách
mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi kính yêu Lênin vì V.I.Lênin
là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình… Tôi tham gia
Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy tỏ đồng tình với tôi, với cuộc
đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.”
- Hồ Chí Minh vận dụng lập trường, thế giới quan và phương pháp luận
của CNMLN vận dụng vào điều kiện cụ thể của để tự tìm ra chủ trương, giải
pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh, thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt
Nam chứ không tìm những kết luận có sẵn. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng.
Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển sáng tạo những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp với thực tiễn
cách mạng trong nước và thế giới, hình thành 1 hệ thống các quan điểm toàn
diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam và đã vận dụng sáng tạo, bổ sung phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Câu 2: Nêu các thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh từ năm 1890 đến năm 1969 và trình bày thời kỳ hình thành cơ bản tư
tưởng về con đường cách mạng Việt Nam (1921 -1930)
* Thời kì hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890
đến 1969 gồm có 5 thời kỳ:
Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm đường cứu nước mới.
Thời kỳ năm 1911 – 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân
tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
Thời kỳ 1920 – 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ 1930 – 1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương
pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo.
Thời kỳ 1941 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
* Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930):
HCM được trang bị lý luận, bắt đầu hình thành hệ thống quan điểm, tư tưởng của mình
Đây là thời kỳ mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam từng bước được cụ thể hóa, thể hiện rõ trong các hoạt động cách
mạng và các tác phẩm quan trọng “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường kách
mệnh”; “Cương lĩnh chính trị” đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc hoạt động rất phong phú, tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về nước, chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và
tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hoạt động thực tiễn phong phú như: tích cực hoạt động trong ban nghiên
cứu thuộc địa của Đảng xã hội Pháp, các bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân
trong Người cùng khổ tờ Báo “Hội Hợp tác Người Cùng Khổ” nhằm truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923); Tại Liên-Xô, dự đại hội
Quốc tế Nông dân, dự đại hội V Quốc tế cộng sản (1923-1924); Trung Quốc:
Người về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng, mở lớp huấn
luyện cán bộ; Thái Lan (1928-1929).
Về mặt lý luận, các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như “Bản án chế độ
thực dân Pháp” (1925); “Đường Kách Mệnh” (1927); “Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt” (1930) và nhiều bài viết khác của
Người trong giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách
mạng về giải phóng dân tộc. Chỉ ra bản chất của CNTB là “ăn cướp”, “giết
người”; là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thế giới.
Những tư tưởng cơ bản được thể hiện trong giai đoạn này: Cách mạng giải
phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản và là
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít với
nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể
bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “Dân tộc cách mạng”. Cách
mạng là sự nghiệp quần chúng nhân dân. Ở các nước nông nghiệp lạc hậu, nông
dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, cần xây dựng khối công nông liên
minh làm động lực cách mạng.
Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo. Tháng
2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất và thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam. Người trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt của Đảng”, nêu rõ mục tiêu và con đường cách mạng; giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam; liên minh công nông là lực lượng nòng cốt; cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh
chính trị đúng đắn và sáng tạo đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang đầu năm 1930
Câu 3 (Nhóm 1): Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc.
Dựa trên những truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và đòi hỏi
thực tiễn của Việt Nam và thế giới Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình
về vấn đề độc lập dân tộc gồm 4 nội dung chính:
Thứ nhất, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất
cả các dân tộc. Đối với người dân mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc
thuộc địa là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đó là lẽ sống, nguồn cổ
vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc. Và dân tộc VN cũng không ngoại lệ luôn khao khát độc lập và
có truyền thống đấu tranh giành độc lập. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu những nhân tố về quyền con người
được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 như quyền bình đẳng, quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ phải không ai
chối cãi được”. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát lên chân lý bất
diệt về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”. HCM khẳng định: “Độc lập dân tộc là quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất
khả xâm phạm”. Đây là quan điểm nhất quán và mục tiêu đấu tranh của HCM.
TTHCM về độc lập dân tộc đã bổ sung cho lý luận về tự do của thế giới, bổ
sung cho lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ hai, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Trước hết, dân tộc độc lập phải gắn liền với tự do. Trong bản Yêu sách gửi đến
Hội nghị Vécxây, HCM đòi Pháp phải đảm bảo quyền tự do cho nhân dân.
Trong Chánh cưong vắn tắt của Đảng (1930): “Làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập. . dân chúng được tự do. .”. Sau khi giành độc lập cho đất nước,
“Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Không chỉ vậy, độc lập cũng phải gắn với hạnh phúc, no ấm của
nhân dân. HCM nhấn mạnh: “Có tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét,
thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám năm
1945 tronghoàn cảnh nhân dân đói, rét, mù chữ,. . Hồ Chí Minh yêu cầu Chính
phủ phải: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm
cho dân có học hành. Năm 1945, Người từng nói: “ Chúng ta đã hy sinh, đã
giành được độc lập, nhưng dân chỉ thấu giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ
ấm”, nếu không như vậy thì độc lập chẳng có nghĩa gì. Tóm lại, trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn coi độc lập gắn liền với
tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người đã từng bộc bạch đầy tâm huyết:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta aicũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”. Đó là một sự ham muốn đầy tính nhân văn và thấm đượm
tình thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu tối thượng trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Độc lập dân tộc phải gắn với quyền tự quyết, HCM giải
thích: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi,
không có sự can thiệp ở ngoài vào”, tức phải có quyền tự quyết”. Quyền tự
quyết phải được đảm bảo trên mọi phương diện, trong đó, quyền tự quyết về
chính trị là quan trọng nhất. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta
sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc
ngoài bao vây, để bảo vệ nền độc lập thực sự mới giành được, Người đã thay
mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6 – 3 –
1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của
mình, tài chính của mình”. Người còn kiên quyết đấu tranh để có chủ quyền về
ngoại giao, đây là một phương pháp biết thắng từng bước của Hồ Chí Minh và
là một minh chứng cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm
mưu chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp xâm lược nước ta đã chia VN
thành 3 kỳ với 3 chế độ cai trị khác nhau và có âm mưu tách Nam Bộ khỏi VN,
thành lập “ Nam Kỳ tự trị”. Còn đế quốc Mỹ có mưu đồ chia cắt lâu dài VN.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời
bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm
mưu chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá
không gì lay chuyển: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt
Nam là một, không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân
ta”. Đến cuối đời, Người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách
mạng trước đế quốc Mỹ tàn bạo và nhân dân VN ta đã thực hiện được điều đó.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học
đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các
dân tộc. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhận định của Ăngghen: “Những tư
tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư
tưởng quốc tế chân chính”.
Câu 4 - Nhóm 1: Nêu khái quát các quan điểm của hồ chí minh về
cách mạng giải phóng dân tộc và trình bày 1 quan điểm trong đó (nhóm 4)
* Dựa trên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa
nhân loại và chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về cách
mạng giải phóng dân tộc gồm 5 nội dung chính:
- Hồ Chí Minh nhận định: các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít
nhiều, nhưng đều chung một số phận mất nước.
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản. Cách mạng vô sản chính là con đường cách mạng triệt
để và phù hợp nhất với yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Cách mạng vô sản ở
Việt Nam nên phải đi từ giải phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải phóng
giai cấp – giải phóng con người. Phương hướng chiến lược cách mạng Việt
Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của
giai cấp công nhân vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động, kiên quyết
nhất, hăng say nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc; là Đảng
của toàn dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân
tộc. Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân tộc. Lực lượng cách mạng của cách
mạng Việt Nam là toàn dân. “Công nông là người chủ cách mệnh… là gốc cách
mệnh” vì hai giai cấp này là hai giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách
mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc là bình đẳng, không lệ thuộc,
phụ thuộc vào nhau. Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào
cách mạng ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Nhìn vào thực tiễn
Việt Nam thắng lợi năm 1945 và những thắng lợi của phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới những năm 60 của TK XX, trong khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra.
Thứ năm, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương
pháp bạo lực cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “cần dùng bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền”. Thực dân, đế quốc đã cai trị bằng bạo lực vô cùng tàn bạo, vì vậy muốn
đánh đổ chúng phải sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, chống lại phản cách mạng của kẻ thù.
* Trình bày quan điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
theo con đường cách mạng vô sản
Thứ nhất, bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước khi
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước:
Từ khi Pháp xâm lược nước ta, hàng loạt các phong trào cứu nước nổ ra,
mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm
trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình đên tối tưởng như không có đường
ra". Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới. Hồ Chí
Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy
con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì "đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa
sau”. Con đường của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng
thương”. Con đường của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn. nhưng vẫn
mang nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha,
nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm một con đưòng mới.
Thứ hai, cách mạng tư sản là không triệt để
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nuớc Mỹ. tìm hiểu thực tiễn cuộc cách
mạng tư sản Mỹ: đọc “Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền” của cách mạng
Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: “Cách mạng Pháp
cũng như cách mạng Mỹ là không triệt để. Cách mệnh không đi đến nơi, tiếng
là cộng hào và dân chủ kì thực thì nó lại bóc lột ,áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó
Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
Thứ ba, con đường giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười không chỉ là một cuộc
cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu
tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Năm 1920 sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc, con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định:
“ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp
với yêu cầu củac cách mạng VN và xu thế phát triển của thời đại. Giải phòng
dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trước hết, trên hết.
Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Câu 5: Trình bày quan điểm HCM về mục tiêu và động lực của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Dựa vào truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và theo chủ
nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình về mục tiêu và
động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. * Mục tiêu chung: * Mục tiêu CNXH ở VN:
- Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân
làm chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
=> khẳng định quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân.
Người chỉ rõ: Tất cả lợi ích đều vì dân, tất cả quyền hạn đều của dân, công
cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là
công việc của dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ chức đoàn thể do
dân tổ chức nên; “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân”; “Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
- Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn
bó mật thiết với mục tiêu về chính trị:
Phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về chính trị vì “Chế độ kinh tế và xã hội
của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên co sở
kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển”.
Để đảm bảo cho sự gắn bó này, Người xác định:
+ Kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân
+ Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động
=> Nhà nước phải đảm bảo ưu tiên cho kinh tế quốc doanh phát triển
phải đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã.
- Mục tiêu về văn hóa: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân
tộc, khoa học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại:
Hồ Chí Minh cho rằng mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là
mối quan hệ biện chứng. Chế độ chính trị và kinh tế là nền tảng và quyết
định tính chất của văn hóa; còn văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu của
chính trị và kinh tế.
Người đã từng nói: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác,
không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và “Muốn tiến lên
chủ nghĩa xã hội phải phát triển kinh tế và văn hóa. Theo Người, “để phục vụ
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì “văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về
nội dung” và “dân tộc về hình thức”; xây dựng văn hóa dân tộc phải chú ý đến:
1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường;
2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng;
3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội;
4) Xây dựng chính trị: dân quyền; 5) Xây dựng kinh tế.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới, Hồ Chí Minh cho rằng phải:
Triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc;
phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc; tiếp thu những cái
mới của văn hóa tiến bộ thế giới để nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa có
tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
Mục tiêu về các quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh
Với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước, nhân dân phải làm tròn nhiệm
vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có
quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền tự do thân thể;
có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; có quyền bầu cử, ứng cử. lược bớt
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền
tự do dân chủ cho công dân, nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để
xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân.
* Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích (vật chất – tinh thần)
của cả cộng đồng người và lợi ích của những con người cụ thể. Vì Người cho
rằng đây là một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội với
những chế độ xã hội trước nó.
Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân;
“địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Với tư cách là những động lực thúc đẩy
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của dân và dân chủ của dân không thể tách rời nhau.
Về sức mạnh đoàn kết toàn dân: Hồ Chí Minh cho rằng đây là lực lượng
mạnh nhất trong tất cả các lực lượng. CNXH chỉ có thể xây dựng được với sự
giác ngộ đầy đủ của nhân dân về quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị
dân chủ của mình và sự lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước
và các tổ chức chính trị-xã hội khác, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
giữ vai trò quyết định. Theo Hồ Chí Minh, Đảng như người cầm lái, người cầm
lái có vững thì thuyền mới chạy. Các tổ chức chính trị-xã hội với tư cách là các
tổ chức quần chúng tuy có những nội dung và phương thức hoạt động khác nhau
nhưng đều nhất quán về chính trị và tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước; hoạt động vì lợi ích của các thành viên của mình trong
sự thống nhất với lợi ích của dân tộc
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đấy là
những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa
Câu 6 Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời,
phát triển của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài làm
Dựa trên sự vận dụng sáng tạo luận điểm về vai trò của Đảng đối với cách
mạng của CNMLN vào thực tiễn CM VN, HCM đã khẳng định tính tất yếu của
Đảng về sự ra đời, phát triển cùng vai trò lãnh đạo của ĐCS VN. Các quan điểm đó gồm:
- Sự ra đời của Đảng trước hết là vì sự sống còn của dân tộc:
+ Sau khi hoàn thành quá trình xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước
ta, thực dân Pháp đã biến Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập thành nước
mang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp,
đời sống của các giai cấp tầng lớp trong xã hội vô cùng thống khổ.
=> Không cam chịu thân phận nô lệ, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy đấu tranh
giành độc lập dân tộc nhưng đều lần lượt thất bại. Lịch sử đặt ra yêu cầu phải
tìm được một đường lối cứu nước đúng đắn nhằm đánh đổ ách áp bức giành độc
lập tự do cho nhân dân. Với lòng yêu nước thương nòi và trí tuệ xuất chúng,
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước là đi theo con đường cách mạng vô sản.
+ “Muốn sống thì phải làm cách mạng, mà muốn làm cách mạng trước hết
phải có Đảng”: trong thì tổ chức và vận động dân chúng; ngoài thì liên lạc với
các dân tộc bị áp bức, vô sản giai cấp ở mọi nơi.
- HCM khẳng định sự cần thiết phải có Đảng - Đảng cộng sản là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng:
+ Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa MLN và tư tưởng HCM, vừa
mang tính cách mạng vừa có tính khoa học sâu sắc
+ Đảng có 4 vai trò rất quan trọng: giác ngộ quần chúng; tập hợp, đoàn kết,
hướng dẫn quần chúng đấu tranh; đề ra đường lối đúng đắn; thực hiện đoàn kết quốc tế.
+ Đảng viên là những thành phần ưu tú nhất của dân tộc.
+ Đảng được nhân dân tin cậy, thừa nhận là lực lượng dẫn dắt.
+ Đảng có vững, cách mạng mới thành công, như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy.
*Vai trò lãnh đạo của ĐCS VN: (cần phân tích thêm)
• Đảng lấy CNMLN làm nền tảng tư tưởng, từ đó xây dựng đường lối
chiến lược, sách lược CM
• Xác định phương pháp CM: Dùng bạo lực CM đập tan bạo lực phản CM
• Tổ chức, đoàn kết, tập hợp lực lượng CM: Muốn khỏi đi lạc phương
hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và
định phương châm cho đúng
• Đảng nhận thức và giải quyết các mối quan hệ giữa CMVN với CMTG,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
• Vai trò của ĐCS VN còn được thể hiện ở vai trò tiên phong, gương mẫu
của đội ngũ cán bộ, Đảng viên
Câu 7: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. TRẢ LỜI
- Dựa trên những giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân
loại, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của
mình về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp.
- Nhà nước của nhân dân: là nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân
dân. Người khẳng định: “Trong nhà nước VNDCCH, tất cả mọi quyền lực đều
của nhân dân”. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”.
- Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình
thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
+ Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nd trực tiếp qđ mọi vấn
đề lq đến vận mệnh QG, dt, quyền lợi của nd. Nd làm chủ trực tiếp thông qua
các cuộc trưng cầu dân ý.
+Dân chủ gián tiếp là (dân chủ đại diện) nhân dân thực thi quyền lực của
mình thông qua các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế QL mà họ lập nên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
+ Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Cán bộ
là công bộc của dân, nghĩa là gánh vác việc chung cho dân chứ ko phải để đè đầu dân
+ Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, bãi miễn
những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên.
+ Luật pháp dân chủ là công cụ quyền lực của nhân dân. - Nhà nước do nhân dân:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà
nước do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân
tộc dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”. “Dân là chủ” xác
định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, còn “dân làm chủ” nhấn
mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời
nhân dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình.
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để
nhân dân thực thi những quyền mà Hiến pháp, pháp luật quy định, hưởng dụng
đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. -Nhà nước vì nhân dân.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, không có đặc quyền lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí
Minh là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ
nhà nước đều phải vì nhân dân mà phục vụ. Theo Người, thước đo của một nhà
nước vì dân là phải được lòng dân.
Trong nhà nước vì dân, cán bộ phải vừa là đầy tớ, vừa phải là
người lãnh đạo nhân dân.
+ Là đày tớ cho nhân dân thì phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. . Đó chính là đức.
+ Là người lãnh đạo nhân dân thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn,
sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Đó chính là tài.
Để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh.
Câu 8: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng
và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất .(Nhóm 1- Chương 5) TRẢ LỜI
Dựa trên những truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, những
đòi hỏi của thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan
điểm của mình về nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt
trận dân tộc thống nhất:
Một là, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân – nông
dân – trí thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh xác định mục
đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất là nhằm tập hợp tới mức cao nhất
lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là
công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống
nhất. Người cho rằng, phải lấy liên minh công nông làm nền tảng “vì họ là
người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn
hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ
chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo
Mặt trận Đảng không có lợi ích riêng mà gắn liền với lợi ích toàn xã hội toàn
dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện
ra quy luật khách quan sự vận động của lịch sử để vạch đường lối và phương
pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ của mình là
đấu tranh giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Hoạt động của Mặt trận phải dựa theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Mọi vấn đề đều phải được đem ra để tất cả mọi thành viên cùng nhau bàn bạc
công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áo đặt hoặc dân chủ hình thức.
Những lợi ích riêng chính đáng cần được tôn trọng; những gì riêng biệt, không
phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự nhận
thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa
lợi ích chung và lợi ích riêng.
Ngoài ra, tổ chức Mặt trận cần đặc biệt quan tâm, xem xét và giải quyết
thoả đáng vấn đề này đối với các thành viên tham gia bằng việc thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ, cùng bàn bạc để đi đến nhất trí,
loại trừ mọi sự áp đặt và dân chủ hình thức.
Ba là, phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân
ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung
để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Mặt khác, Người nêu rõ rằng đoàn kết phải
gắn với đấu trang, đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết. Người thường
xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao tinh
thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt,
củng cố đoàn kết nội bộ.
Bên cạnh đó, Người nêu rõ: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải
nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí, vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những
cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường
thân ái, vì nước, vì dân.”
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển MTDTTN, Đảng luôn
đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả các lực
luợng có thể tranh thủ được, đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một
chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc xây dựng và hoạt động của
Mặt trận dân tộc thống nhất là nền tảng tư tưởng cốt lõi, là kim chỉ nam tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luôn được Đảng vận dụng để tạo nên sự
đoàn kết trong quần chúng nhân dân.
Câu 9: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. (Chương 6)
Dựa trên tư tưởng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng truyền thống của
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm sâu sắc về giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc:
Thứ nhất, bản sắc văn hoá dân tộc là những giá trị văn hoá bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là thành quả của quá trình lao động, sản xuất,
chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam.
Thứ hai, bản sắc văn hoá dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ: Về
nội dung, đó là lòng yêu nước, thương nòi; tinh thần độc lập,tự cường, tự tôn
dân tộc,… Về hình thức, cốt cách văn hoá dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong
tục, tập quán, lễ hội, truyền thống, cách cảm và nghĩ,…
Thứ ba, bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có một ý nghĩa
quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Phản ánh những nét
độc đáo, đặc tính dân tộc; là ngọn nguồn tìm đến chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ tư, trách nhiệm trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc:
Hồ Chí Minh chỉ rõ trách nhiệm của con người Việt Nam là phải trân
trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy, phát triển những giá trị của văn hóa dân tộc,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử. Theo Người:
“Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Chăm lo cốt
cách dân tộc, đồng thời cần triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô
dịch của văn hoá đế quốc, tôn trọng phong tục tập quán, văn hoá của các dân tộc ít người.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tiếp thu văn hóa nhân loại:
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cần phải
biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại “Tinh hoa văn hóa nhân loại là di sản
chung của nhân loại, là thành quả lao động, sáng tạo của các dân tộc trên thế
giới. Mọi dân tộc đều có quyền tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại". Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Văn hóa của các dân tộc khác cần phải được nghiên cứu
toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình”.
Như vậy, về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại,
Hồ Chí Minh nêu rõ: Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc và tiếp
thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở
để tiếp thu văn hóa nhân loại.
Nội dung tiếp thu là toàn diện bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh:
- Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy.
- Mục đích của việc tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa
Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.