Đề cương ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Vai trò, vị trí: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ bảncủa sự vận động phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cơ bản của xãhội gắn bó hữu cơ, có mối quan hệ biện chứng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC
Câu 1 :Phân tích nội dung định nghĩ vật chất của Lênin và rút ra ý nghĩa của định nghĩa?
1. Các quan niệm trước Mác về vật chất
- Theo quan điểm của triết học duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên
tinh thần nào đó, có thể là “ý chí của Thượng Đế”, “ý niệm tuyệt đối”,..
- Triết học duy vật thời cổ đại: đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể.
Ví dụ: + Các nhà triết học duy vật như Ta-let cho rằng nguồn gốc của thế giới là nước
+ A-na-xi-men-nit coi bản chất chung của tất thảy mọi vật là không khí
+ Hê-ra-clit coi bản nguyên của thế giới là lửa.
Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên
tử của Lơ-xip và học trò của ông là Đê-mô-crit.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII: đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận
động của vchất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất.
- : các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm siêu hình về vật chất.Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Nhưng lại dẫn đến sự bế tắc của quan điểm trước Mác về vật chất. Từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, Leenin đã nêu định nghĩa :
Vật chấtmột phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại kquan được đem lại cho cng trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
2.Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất Lenin
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừa tượng, vừa có tính cụ thể .
+ Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó là đăc tính
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt vật chất với khoa
học vật chất cụ thể khác.
dụ: Nhà nước phong kiến bản chất giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân
những người lao động khác để củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ, phân biệt với nhà nước
tư bản hay xã hội chủ nghĩa.
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất thông qua nghiên cứu các
sự vật hiện tượng vật chất cụ thể.
Ví dụ: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết được nước
sôi nóng ở 100 độ C
- Vât chất là “thực tại khách quan”: đặc tínhbản ( cũng đặc trưng cơ bản ) tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nthức được thì nó vẫn tồn tại.
Ví dụ: Thủy triều là htg nước biển hay nước sông lên xuống trong 1 chu kỳ tgian phụ thuộc vào biến
chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại 1 cáchTN, ko phụ thuộc vào nthức của cng.
- Vật chất có tính khách thể:cng có thể nbiết vật chất bằng các giác quan như thị giác, xúc giác,…
dụ: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau 1 thời gian nuôi dưỡng được người
chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,..
- Ý thức là sự chép lại, chụp lại, phản ánh lại thực tại khách quan. Bằng các giác quan của mình con người
thể trực tiếp hoăc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ sự vật, hiện tượng của thực tại
khách quan chưa được nhận biết , chứ không thể không biết.
dụ: Kiến thức của nhân loại kết quả của quá trình con người tiếp xúc nghiên cứu thế giới
khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
- Vật chất cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quy định ý thức. Ý thức là cáisau vật chất,
phụ thuộc vào vật chất. Như vậy vật chất nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, nguyên nhân
làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất, có tác động , thậm chí
chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào chúng và được quần chúng vận động.
Ví dụ: Trong quá trình phát triển đất nước, khi cuộc sống khó khăn, thiếu thốn về vật chất, nhưng ý
thức của con người đã vượt xa so với “vật chất hiện tại”. Điển hình là: Nguyễn Tất Thành hay những tấm
gương : Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... nghĩ lớn, quyết tâm tìm đường cứu dân tộc thoát khỏi ách đô
hộ của Thực dân Pháp,..
3.Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa này.
- Định nghĩa .đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm
giác, của ý thức . Thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới vật
chất . Thế giới duy vật biện chứng xác định được vật chất mối quan hệ của với ý thức trong lĩnh vực
xax hội đó là : tồn tại của xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị,..
Ví dụ: Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì nước đó mạnh hơn , có tầm ảnh hưởng đến các quốc gia
khác và trong khu vực sâu sắc hơn.
-Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất với ý thức. Vật chất trươc ý thức nguồn gốc quy định ý vốn của sự vật. Đồng thời
cần thấy được tính năng động , tích cực của ý thức để phát huy tính năng động, chủ quan nhưng tránh chủ
quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hóa vai trò, tác dụng của ý thức.
-Định nghĩa trong quan niệm về vật chất, bảo vệ và phátchống lại quan điểm duy tâm, siêu hình
triển chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Định nghĩa đã trong việc tìm kiếm các dạng hoặc hình thức mới củađịnh hướng khoa học cụ thể
vật thể trong thế giới.
Câu 2: Quan điểm của triết học Mác- Lênin về vận động?
1. Vận động là gì?
- Quan điểm trước Mác:
+Theo Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: vận động sự thay đổi vị trí trong không gian
theo nghĩa chung nhất, vận động mọi sự biến đổi”. Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy
+ : vận động là do cái đích của Thượng Đế. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
=> Khái niệm: Vận động một phạm trù của triết học dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật
chất đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn
giản tới phức tạp
2. Cơ sở khách quan của vận động
- Nguồn gốc của vận động là do sự biến đổi của thế giới vật chất
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất:
+Vật chất chỉ có thể tồn tại khi vận động và thông qua vận động nó BH? sự tồn tại của mình
+Vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến
3. Các hình thức vận động :Gồm 5 hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội.
Trình độ vật chất nào thì gắn với nó là một hình thức vận động mới. Vận động cao bao hàm vận động
thấp. Vận động xã hội bao hàm cả cơ học, vật lý, hóa học và sinh học.
+Cơ học: là vận động của thế giới vô cơ, sự di chuyển vị trí trong không gian (VD: Cái bàn di chuyển
từ đầu lớp xuống cuối lớp)
: quá trình vận động của các nguyên tử, các hạt bản,điện trường, từ trường (+Vật VD: Sự di
chuyển của các phân tử nước )
( +Hóa học:quá trình phân giảihóa hợp các chất VD: Cho đường vào một cốc nước, đường
hòa tan vào trong nước)
+Sinh học: vận động của thế giới sinh vật như biến đổi di truyền, sự trao đổi chất giữa thể với
môi trường ( Khi hít thở cơ thể chúng ta thực hiện quá trình trao đổi chất với môi trường)VD:
+Xã hội: là sự thay đổi thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế xã hội (hoạt động, lao
động, tư duy của con người tạo ra sự biến đổi trong xã hội)
(Phân biệt giữa vận động và phát triển:
+ Vận động có thể đi lên hoặc đi xuồng
+ Phát triển chắc chắn là đi lên
VD: Sự biến đổi công cụ lao động từ đồ đá sang kim loại; sự chuyển đổi nền kinh tế-xã hội phong kiến
sang kinh tế-xã hội theo chế độ tư bản chủ nghĩa)
4. Quan hệ giữa vận động và đứng im
- Vận động tuyệt đối, đứng im tương đối, tạm thời đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định
chứ không phải tất cả mọi mối quan hệ
VD: Khi ta đứng im ở một tư thế nào đó là đứng im trong hệ quy chiếu Trái Đất nhưng đứng ngoài
trái đất cta lại đang vận động vì TĐ luôn chuyển động quay xung quanh mặt trời.
- Đứng im chỉ xảy ra trong một hình thức vận động nhất định: vận động cơ giới
: VD Khi ta đứng im thì đó chỉ là đứng im trong vận động cơ học còn vận động hóa học và sinh học
trong cơ thể chúng ta vẫn đang vận động
- Đứng im chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định
VD: Chúng ta có thể đứng im tạm thời nhưng không thể đứng im mãi mãi vì cơ thể chúng ta không
làm được điều này
- Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động: vận động trong thăng bằng, nghĩa là những tính chất của
vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản.
VD: Sinh viên năm nhất (2019) nằm trong 1 năm học từ tháng 8/ 2019 đến 5/2020.đoạn thời gian
Như vậy trong trên, k69 vẫn là sinh viên năm nhất- Không có sự biến đổi về tính chất. Gọikhoảng thời gian
đó là vận động thăng bằng (Đứng im)
Câu 3: Phân tích nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức.
Phạm trù ý thức: Ý thức một trong những mặt bản của vấn đề triết học. mối quan hệ gắn kết
với phạm trù vật chất.Và nó chịu dưới sự quy định của phạm trù vật chất.
I.Nguồn gốc của ý thức
, nguồn gốc ra đời ý thức nguyên thể đầu tiền, tồn tại vĩnhTheo quan niệm của chủ nghĩa duy tâm
viễn, nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất. Còn theo chủ
nghĩa duy vật siêu hình, họ xuất phát từ thế giới hiện thực đểgiải nguồn gốc ý thức. Nhưng còn đó là rất
nhiều sai lầm và thiếu xót.
, ý thức được bắt nguồn từ: nguồn gốc tự nhiên Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên (Não bộ con người):
+ Não bộ con người quan vật chất đặc biệt nhất so với não của các loài động vật khác. Vì nó
khả năng sản sinh ra ý thức.
+ Ý thức kết quả của quá trình tiến hóa của thuộc tính phản ánh mọi dạng vật chất. Phản ánh
thuộc tính phổ biến của mọi vật chất, là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào 2 vật: vật
tác động và vật bị tác động.
dụ: Thanh sắt ( vật bị tác động) để lâu trong không khí ( vật tác động O2) sẽ xuất hiện hiện
tượng han gỉ.
+ Phản ánh sẽ phụ thuộc vào trình độ vật chất:
-Phản ánh thấp nhất là phản ánh vô sinh ( Thế giới vô cơ) là phản ánh thụ động
Ví dụ: Hai thanh kim loại chạm vào nhau sẽ phát ra tiếng kêu leng keng, và hiện tượng biến dạng.
-Phản ánh tiếp theo là phản ánh hữu sinh ( có sự sống) : phản ánhthực vật ;ở động vật chưa có hệ
thần kinh, não bộ và ở động vật có hệ thần kinh, trí khôn.
-Phản ánh cuối cùng là ở con người- là phản ánh cao nhất để sản sinh ra ý thức.
Như chúng ta biết, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người. Bộ óc của con
người là cơ quan phản ánh, song chỉ có bộ óc thôi thì chưa có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên
ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc đó nguồn gốc tự nhiên của ý
thức.
Ví dụ: Một người có não bộ tổn thương thì ý thức rối loạn
Một người có não bộ bị chết thì không có ý thức.
- Nguồn gốc xã hội:
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với
sự hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội
Lao động quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào thế giới tự nhiên nhằm tạo ra
những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của mình, trong đó con người đóng vai trò môi giới, điều tiết và giám
sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là hoạt động đặc thù của con người, lao động
luôn mang tính tập thể, xã hội.
Vai trò của lao động là hoàn thiện con người.
Ví dụ: Xét theo suốt quá trình tiến hóa từ Vượn cổ tới Người tối cổ tới Người hiện đại:
Con người quen với việc di chuyển tứ chi tới di chuyển bằng hai chân nhưng gù lưng, và cuối cùng là thẳng
lưng
Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của mình trong quá trình lao
động. Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ hệ thống tín hiệu, hiệu con người ta
quy ước với nhau để lưu giữ và truyền tải thông tin giữa người- người, giữa các thế hệ với nhau.
Vai trò của ngôn ngữ: Nhờ ngôn ngữ con người tổng kết được thực tiễn, đồng thời công cụ của
duy nhằm khái quát hóa, trìu tượng hóa hiện thực.
Ví dụ: Ngôn ngữ khô cứng, nghèo nàn thì tư duy cũng hạn hẹp
Ngôn ngữ linh hoạt thì tư duy thoáng
Từ đây, Não bộ là điều kiện cần, Lao độngNgôn ngữ là điều kiên đủ. Không thể thiếu một trong ba yếu
tố trên, vì nếu thiếu thì sẽ không tạo nên một ý thức hoàn chỉnh.
Ví dụ : Câu chuyện cô bé Người sói:
Đều con người bình thường, não bộ phát triển bình thường nhưng lại không sống trong môi
trường người nên cô bé không có ý thức như một con người mà là một con sói.
Vậy nguồn gốc nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động
là thực tiễn xã hội.
II.Bản chất của ý thức
- Ý thức sự phản ánh stạo của thế giới kquan vào trong não người được cải biến từ đó. hình ảnh
cquan của thế giới kquan, là qtrình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Ví dụ: H.ảnh một dòng sông dưới con mắt thẩm mỹ của người nông dân khác với thi sĩ
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất thông qua não
người, nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan còn hình thức phản ánh là chủ quan, nó phản ánh thế giới
khách quan nhưng nằm trong phạm vi chủ quan
- Ý thức mang đặc tính năng động, sáng tạo: Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh đơn lẻ thụ động
mà hoàn toàn có định hướng mục đích, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ nào người nhưng đây
là sự phản ánh đặc biệt gắn với thực tiễn và đi liền với nhu cầu của con người, trên cơ sở những cái đã có thì
ý thức thể tạo ra tri thức mới về sự vật tưởng tượng ra những cái không trong thực tế tạo ra một
thiên nhiên thứ hai” .
- Ý thức mang bản chất xã hội. Nó phụ thuộc vào từng điều kiện, HC, môi trường, xã hội quy định
(Ví dụ : ý thức của người sống trong xã hội PK khác so với con người hiện đại ngày nay:
Để duy trì giống nòi:
+ Trong hội phong kiến: Lấy anh em, chị em,...họ hàng chuyện bình thường một phần tất yếu để
dòng máu dòng tộc không bị pha loãng bởi ngoại tộc
+ Hiện đại: Loạn luân là một vấn đề xã hội đáng bị lên án gay gắt và cần phải xóa bỏ.)
Sự phản ánh ý thức là sự thống nhất ba mặt
Trao đồi thông tin giữa chủ thể và đối tượng (có định hướng, chọn lọc và mang tính hai chiều)
Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới hình ảnh tinh thần (mã hóa vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật
chất)
Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực (biến ý tưởng tinh thần phi vật chất thành vật chất)
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất ý thức
Kết quả phản ánh của ý thức phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đối tưỡng, điều kiện lịch sử hội, phẩm chất,
năng lực, kinh nghiệm,…
Ý thức hình thành và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn
Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý
thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái quát cao
Sự sáng tạo của ý thức phải dựa vào sự phản ánh của thế giới vật chất sự sáng tạo này hoàn toàn thống
nhất trên cơ sở của sự phản ánh
III.Kết cấu của ý thức
a) Các lớp cấu trúc của ý thức
Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin,lýtrí,ýchí…
trongđótrithứclàyếutốcơbản,cốtlõi.
+Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng
những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ
thống ký hiệu khác. Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Loài
người đang bước vào nền kinh tế tri thức – là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, cải tạo thế giới.
sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh đối với+Tình cảm
bản thân mình. Tình cảm một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thực tại; phản ánh quan hệ của con
người đối với nhau, cũng như đối với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con
người và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người.
b) Các cấp độ của ý thức
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm cng, ý thức bao gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
- Tự ý thức:
+ Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình.
Đó chính . Như vậy, tự ý thức tự ý thức cũng là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây
ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận
thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí
trong xã hội và có hành vi tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
+ Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của một giai cấp hay của
một tầng lớp XH về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích
chung của XH mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình.
- Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song lại có liên
quan trực tiếp đếnc hoạt động tâm đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm
thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng
nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây
ra các hoạt động tâm và nhận thứcchủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức
có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học
- Vô thức:
thức những trạng thái tâm chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con
người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán
của trí. thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi
miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác…
Mỗi hiện tượng ấy vùng hoạt động riêng, vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều một chức năng
chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất, những ham muốn bản năng
không được phép bộc lộ rathực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng.góp phần lập lại thế cân
bằng trong hoạt động tinh thần của con người không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức,
“libiđo”…
->Như vậy,thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sốnghoạt động của con người. Tuy nhiên
không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập.
Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
c) Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”
Ngày nay, với sự phát triển đột phá về khoa học công nghệ hiện đại đã những bước phát triển mạnh
mẽ, sản xuất ra nhiều lạoi máy móc không những có thể thay thế lao động cơ bắp mà còn có thể thay thế cho
1 phần lao động trí óc của con người. Ý thức được con người cài vào các robot khiến chúng có thể suy nghĩ
hành động 1 phần giống con người và tương lai sẽ thay thế khá nhiều trong ngành lao động.
Câu 4 Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chấtý thức? Ý nghĩa phương pháp luận của việc:
nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Trả lời
1. Khái niệm vật chất, ý thức
+ Vật chất và ý thức là 2 phạm trù cơ bản của triết học và có mối quan hệ biện chứng với nhau.
+ Theo quan điểm của Mác-Lenin, vật chấtmột phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác
+ Ý thức là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm duy tâm và siêu hình
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn của
con người thành một lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Coi ý thứctồn tại duy nhất, tuyệt
đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh
thần, tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Mọi con đường chủ nghĩa duy tâm mở ra đều dẫn con
người đến với thần học. Trong thực tiễn, người duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân
tố chủ quan, dẫn đến duy ý chí, hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
: Chủ nghĩa duy vật siêu hình đã tuyệt đối hóa yếu tố vật- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập
tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo,vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động
thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ đã phạm nhiều sai lầm tính nguyên tắc bởi thái độ
“khách quan chủ nghĩa”, thụ động ỷ lại, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong chủ nghĩa biện chứng duy vật
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin do lập trường duy vật, nắm vững phép biện chứng, kịp thời
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, nên đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế
của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết
học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất,ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
- Vật chất có trước sinh ra và quyết định ý thức:
+ Khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên trước con người, thế giới
vật chất là cái có trước, còn con người và ý thức của con người là cái có sau, là sản phẩm của một quá trình;
tiến hóa lâu dài trong thế giới; vật chất tính thứ nhất, còn ý thức tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người một dạng vật chất tổ chức cao
nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não
trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra
đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
dụ: Đối với giáo dục hiện nay, dựa vào sự phát triển của hội, hoàn cảnh hội tạo ra cho
con người buộc chúng ta ngày từ nhỏ đã phải tự lập có bản lĩnh tư duy để đối mặt với nhiều mặt trái của xã
hội hơn như các tệ nạn nghiện game, nói tục chửi bậy hay nguy hiểm hơn cả bắt cóc, buôn người mại
dâm. Từ vật chất hiện thực như vậy đã quyết định bản chất của ý thức là chúng ta phải dạy trẻ nhiều hơn cả,
giáo dục chú trọng đề cao việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
+ Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội- lịch sử của loài
người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh.
+ Ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Triết học Mác khẳng định: Ý thức không
bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức. Hoạt động thực tiễn trong quá trình phát triển của
cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung
của duy, ý thức. Ý thức con người đã phát triển qua các thế hệ; qua các thời đại từ mông muội tới văn
minh, hiện đại. Loài người nguyên thủy sống bầy đàn dựa vào tặng vật của thiên nhiên thì “ý thức của họ chỉ
ý thức quần đơn thuần” duy của họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi
bước phát triển của sản xuất,duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của
con người ngày càng phát triển phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, còn ý thức được
cả những vấn đề trong quá khứ dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc
bản chất, quy luật vận động, phát triền của tự nhiên, hội duy. Sự vận động, biến đổi không ngừng
của thế giới vật chất, của thực tiễn yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của duy ý thức của con
người. Khi sản xuất hội xuất hiện chế độ hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý
thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thủy. Trong nền sản xuất tư bản, tính chất xã hội hóa của sản xuất phát
triển là tiền đề để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, hình thành và phát triển không ngừng lí luận khoa học của
chủ nghĩa Mác-Lenin.
- Tính độc lập của ý thức đối với vật chất:
+ Ý thức sau khi ra đời là một thực thể tinh thần, không tồn tại thụ động mà tính độc lập tương
đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, chỉ đạo hoạt động
cải tạo thế giới trong hiện thực theo nhu cầu của con người. Vai trò của ý thức trong cải tạo thế giới khác
nhau, tuỳ thuộc vào chất lượng phản ánh hiện thực khách quan đúng đắn hay sai lầm. Ý thức phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan, tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức phản ánh
không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo hiện thực
khách quan ở mức độ và giới hạn nhất định.
+ Ý thức tác động đến vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Con người dựa trên những
tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng,
biện pháp ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Tính năng động, sáng tạo của ý
thức mặc rất to lớn, nhưng nó không thể vượt qua tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định,
phải dựa vào các điều kiện khách quan năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu tuyệt đối hoá
tính năng động chủ quan của ý thức sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu tất
nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
+ Nắm vững luận khoa học về nguồn gốc, bản chất của ý thức , mỗi quan hệ giữa vật chất ý
thức sở để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng, chống chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy
vật siêu hình trong giải quyết vấn đề bản của triết học. Trong hoạt động thực tiễn, con người biết vận
dụng sáng tạo luận khoa học đó vào giải quyết đúng đắn mối quan hệ khách quan chủ quan đem lại
hiệu quả trong công việc.
+ Khẳng định tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần, về thực chất là để khẳng định vai trò to
lớn của con người- chủ thể ý thức đó. Thế giới không thỏa mãn con người con người quyết định sự
biến đổi thế giới bằng hành động của mình. Do đó, về thực chất, sự tồn tại của đời sống hội tính
chất thực tiễn. Con người tích cực hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới, khi đó ý thức trở thành tiền đề cơ
bản hình thành mặt chủ quan của hoạt động với tính cách là mặt đối lập với khách quan. Biện chứng khách
quan- chủ quan là vấn đề mấu chốt của mối quan hệ giữa hiện thực đang được nhận thức và cải tạo theo nhu
cầu của con người với bản thân con người- chủ thể của hoạt động đó. Con người lao động sáng tạo để duy trì
sự sống với chất lượng ngày càng cao của mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về những cái tồn tại đối
diện, quy định hoạt động của mình và giới hạn sức mạnh của bản thân mình.
=> Tóm lại, giữa vật chấtý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, trong đó vật chất giữ vai
trò quyết định ý thức, điểm xuất phát sản sinh ra ý thức, còn ý thức cũng tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
(Ví dụ: Ý thức có thể phát triển vượt trước vật chất và tác động hai mặt:
+ Tích cực: Ý thức trong đường lối của đảng hiện nay rất phù hợp không ngừng thúc đẩy con người phát
triển bản thân.
+ Tiêu cực: cũng là chính sách của đảng nhưng vào giai đoạn 1985 lại kìm kẹp cng phát triển bản thân. )
4. ÝN phương pháp luận trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
- Phải có quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vì vật chất có trước ý thức,
quyết định ý thức sinh ra ý thức nên khi nhận thức hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện
tượng của thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không lấy ý muốn chủ quan của
mình làm cơ sở định ta chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
- Trong nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều
phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng hành
động theo quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực,
đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái không có. Nhận
thức, cải tạo sự vật, hiện tượng nhìn chung phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những
thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
dụ: trong một môi trường các bạn lớp hội, theo học ngành ngữ văn, các giáo viên dạy môn
toán không thể muốn là các bạn ấy giải toán nâng cao là các bạn ấy có thể giải được. Dựa vào khả năng thực
tế chúng ta nhìn nhận được khả năng của các bạn ấy chủ yếu nắm vững dạng toán cơ bản, tiếp cận từ tử từng
bước với toán nâng cao, không thể trong một thời gian ngắn mà tự suy nghĩ tìm tòi giải đc bài toán khó.
- Vì ý thức tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn nên
chúng ta cần phải phát huy vai trò của ý thức, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức.
- Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau nên chúng ta không tuyệt đối hoá vật chất,
hoặc ý thức, tránh nhìn nhận phiến diện, một chiều.
Câu 5: Trình bày nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến? Ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên
cứu nguyên lý về mối LH phổ biến trong nthức và trong hoạt động thực tiễn?
Trả lời
1.Khái niệm về mối liên hệ phổ biến:
- Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến: Các nhà siêu hình không thừa nhận mối liên hệ khách
quan của các sự vật, hiện tượng; họ cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời, động, tĩnh
lại, cái này tồn tại bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia; giữa chúng không có mối liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Nếu có liên hệ chỉ là ngẫu nhiên, bề ngoài.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ dùng để khái quát sự quy định, tác
động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng, hay
giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới.
- sở khách quan của mối liên hệ phổ biến tính thống nhất vật chất của thế giới; theo đó các sự
vật, hiện tượng đa dạng, phong phú khác nhau như thế nào đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ
những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
2.Tính chất của các mối liên hệ phổ biến:
- Tính khách quan của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng:
+ Phép biện chứng duy vật luôn khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động của bản
thân thế giới vật chất. Tuy nhiên, phép biện chứng duy tâm (kể cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan)
cũng thừa nhận về mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, song họ đi tìm nguồn gốc, cơ sở của các mối liên
hệ ở lực lượng siêu nhiên hay ý thức, cảm giác của con người.
+ Đối lập với phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật khẳng định sở khác quan của
mối liên hệ phổ biến tính thống nhất vật chất của thế giới. Nhờ mối liên hệ các sự vật, hiện tượng
được thể hiện, bộc lộ các thuộc tính của mình trong sự tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất khác.
Tính khách quan của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là thuộc tính vốn có không phụ thuộc vào ý
thức con người.
+ Chẳng hạn như : sự vận động của tự nhiên như bão, lũ, ...hay sự vận động của hội.Ngay cả
những vật vô tri vô giác chịu sự tác động của ánh sáng, nhiệt độ... con người chúng ta cũng phải chịu sự tác
động của những người xung quanh, của tự nhiên, của xã hội.
- Tính phổ biến của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
+ Mọi sự vật, hiện tượng đều mối liên hệ biến chứng tác động qua lại, quy định, phụ thuộc,
chuyển hóa lẫn nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau; không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại riêng rẽ, tách
biệt. Mối liên hệ không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà
còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
+ Chẳng hạn, mối liên hệ trong tự nhiên mối liên hệ giữa động vật thực vật, mối liên hệ trong
hội thể hiện sự tác động giữa kinh tế, chính trị, văn hóa, hội...mối liên hệ trong duy mối liên hệ
giữa các giai đoạn nhận thức trước và sau của một quá trình. Đồng thời còn có những mối liên hệ con người
chưa phát hiện ra được hoặc đã phát hiện ra nhưng chưa giải thích được dưới góc độ khoa học.
- Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ của mối liên hệ
+ Thế giới vật chất đa dạng, nhiều vẻ, nảy sinh nhiều mối liên hệ như mối liên hệ về mặt không gian
và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn
bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới, mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực,
từng sự vật hiện tượng cụ thể; mối liên hệ bên trong bên ngoài; mối liên hệ nhân quả; mối
liên hệ trực tiếp mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ tất nhiên, cũng mối liên hệ nhẫu nhiên; mối
liên hệ bản chất và không bản chất; có mối liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu v.v... chúng giữ những vai trò
khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên về mối liên hệ phổ
biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của
nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải
thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhau mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
+ Việc phân loại mối liên hệ trên chỉ mang tính tương đối, tùy theo từng quan hệ cụ thể, thậm chí các
mối liên hệ thể chuyển hóa cho nhau. Vì thế, khi xem xét về các mối liên hệ chúng ta phải duy
cách nhìn nhận linh hoạt, không nên tuyệt đối hóa chúng. Chẳng hạn, có thể là cái chung trong quan hệ này,
nhưng lại trở thành cái riêng trong quan hệ khác; hay có thể cái ngẫu nhiên khi mới xuất hiện, nhưng
lại trở thành cái tất nhiên về sau này. dụ, trao đổi hàng hóa giai đoạn cuối của thời công nguyên
thủy là ngẫu nhiên, nhưng đến những giai đoạn lịch sử sau đó lại trở thành tất nhiên.
- Tính phức tạp của mối liên hệ của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng: Mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng không chỉ mang tính đa dạng, nhiều vẻ, nó còn thể hiện sự phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực xã
hội. Như tính phức tạp trong mối quan hệ con người với con người trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, nghệ thuật... chúng đan chéo, ảnh hưởng qua lại và mang tính đa chiều, nên việc nhận diện và phân biệt
chúng là hết sức khó khăn.
4.Ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong nhận thức
trong hoạt động thực tiễn.
Từ nguyên về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc toàn diện
nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Nguyên tắc toàn diện
+ Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt,
các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng ác mối liên hệ của chúng; trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng này với sự vật, hiện tượng khác với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ
trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của
sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại dự báo tương lai của chúng. Nguyên tắc toàn diện đối lập với
quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại
xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật ngụy biện (cố ý đánh
tráo các mối liên hệ bản thành không bản hoặc ngược lại) chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép
nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
+ Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi trong nhận thức thực tiễn cũng phải trọng tâm, trọng điểm,
không dàn đều một cách chung chung.
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể: Sự vật, hiện tượng tồn tại, vận động phát triển bao giờ cũng xảy ra trong
những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều này được thể hiện mỗi sự vật xét trong những điều kiện,
hoàn cảnh, không gian thời gian khác nhau sẽ bộc lộ ra tính chất của mối liên hệ sự phát triển cũng
khác nhau. vậy, nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ cụ thể,
tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện tượng. sở luận của
ngtắc này là kgian, thời gian với vận động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến.
Câu 6: Trình bày nội dung nguyên của sự phát triển? Ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu
nguyên lý về sự phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
a. Khái niệm phát triển:
* Theo quan điểm duy tâm và siêu hình: đều không thừa nhận sự phát triển của sự vật, hiện tượng; nếu có
thì sự phát triển cũng chỉ là sự tăng hoặc giảm về lượng mà không có sự thay đổi về chất; phát triển diễn ra
theo chu kì và vòng tròn khép kín. Nguyên nhân của sự phát triển là do các yếu tố bên ngoài quyết định.
* Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Nguyên về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu với nguyên của sự phát triển, liên hệ
cũng là vận động, không có vận động sẽ không phát triển. Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết
mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa phủ định những yếu tố không còn
phù hợp và kế thừa có chọn lọc những cái cũ, cho ra đời và phát triển những cái mới.
Phát triển quá trình vận động theo chiều hướng đi lên, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt mà đặc trưng của nó là cái cũ mất đi, cái mới ra đời.
Ví dụ: Quá trình biến đổi của các giống loài từ bậc thấp lên bậc cao; quá trình thay thế lẫn nhau của
các hình thức thức tổ chức hội loài người: từ hình thức tổ chức hội thị tộc, bộ lạc còn khai thời
nguyên thuỷ lên các hình thức tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức bộ tộc, dân tộc.
- Nhưng cái chiều hướng đi lên không phải một sớm một chiều mà nhận ra được mà nó đòi hỏi phải
trải qua 1 quá trình biến đổi lớn, lâu dài thì cái xu hướng tiến lên mới thể hiện rõ.
Ví dụ: Khi ta theo dõi biểu đổ của sự biến động trên sàn chứng khoán. Nếu ta chỉ theo dõi trong một
ngày, một tuần, một tháng thì ta thể thấy xu hướng đi xuống, nhưng nếu ta theo dõi trong một thời gian
dài hơn như 6 tháng hay 1 năm thì ta có thể thấy xu hướng chung vẫn là đi lên.
- Phát triển có mối quan hệ biện chứng với vận động; phát triển là trường hợp đặc biệt của vận động.
Sự vật phát triển phải trải qua sự vận động, nhưng không đồng nhất với vận động; vận động đi xuống thì
không phải là sự phát triển.
b) Tính chất của sự phát triển:
* Tính khách quan của sự phát triển: Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật,
hiện tượng; do mâu thuẫn bên trong sự vật hiện tượng quy định. Cách thức của sự phát triển sự tích lũy
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất; khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc, cái
mới phủ định cái cũ. Vì thế, sự phát triển của sự vật là vốn có, tự thân, không phụ thuộc vào ý muốn của con
người.
dụ: Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy luật
tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận thức và làm theo
quy luật đó.
* Tính phổ biến của sự phát triển: Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong tự nhiên
biểu hiện sự biến dị, di truyền, tiến hóa, thích nghi của hệ động, thực vật. Trong hội sự giải phóng
con người, sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội, còn trongduy là khả năng chinh phục và cải tạo thế
giới của con người. Phổ biến còn là tất cả các sự vật đều phát triển.
Ví dụ: Trong giới tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ; từ vật chât chưa
có năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ thể sốngtiến hoá dần lên các cơ thể có cơ cấu sự sống phức
tạp hơn sự tiến hoá của các giống loài làm phát sinh các giống loài thực vật động vật mới đến mức có
thể làm phát sinh loài người với các hình thức tổ chức xã hội từ đơn giản đến trình độ tổ chức cao hơn; cùng
với quá trình đó cũng là quá trình không ngừng phát triển nhận thức của con người từ thấp đến cao…
* Tính kế thừa của sự phát triển:
Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự phủ định có kế thừa của sự vật, hiện tượng cũ; trong sự vật, hiện
tượng mới còn giữ lại, chọn lọc cải tạo những mặt còn thích hợp gạt bỏ những mặt đã lỗi thời, lạc
hậu của sự vật, hiện tượng cũ cản trở sự phát triển.
dụ: Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử với sự phát triển qua từng thời kì. Qua
mỗi thờiphát triển ta thể thấy chúng ta vẫn còn lưu giữ kế thừa những truyền thống tốt đẹp và vẫn
còn giá trị, phù hợp với thời đại ngày nay của cha ông tadụ như tập tục thờ cúng tổ tiên, uống nước nhớ
nguồn, tôn sư trọng đạo, v.v... nhưng đồng thời ta cũng loại bỏ những cái lỗi thời lạc hậu trong xã hội xa xưa
như quan điểm trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến hay phong tục tảo hôn, các nghi thức man rợ như
chém lợn v.v... .
* Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ:
Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực (tự nhiên, xã hộiduy), nhưng mỗi sự vật, hiện tượng
lại quá trình phát triển ko giống nhau. Tính đa dạng phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào
kgian , tgian, các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
Ví dụ: không thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới TN với sự phát triển của XH
loài người. Sự phát triển của giới TN thuần tuý tuân theo tính tự phát, còn sự phát triển của XH loài người
lại có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức
* Tính quanh co, phức tạp:
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng tắp hay vòng tròn khép kín diễn ra theo đường
xoáy ốc,bước quanh co, phức tạp, thụt lùi tạm thời. Vì vậy, trong quá trình phát triển, sự vật hiện tượng
phải kiên trì, chấp nhận sự mất mát, hi sinh để đi đến thành công.
Ví dụ: Quan sát sự phát triển của ngành giáo dục ta có thể thấy rất rõ tính quanh co, phức tạp của sự
phát triển. Nếu như tầm 5, 6 năm trở về trước ngành giáo dục thể được coi một ngành “hot” với số
lượng nguyện vọng học sinh đăng kí khổng lồ thì 2, 3 năm trở lại đây trước thực trạng dư thừa giáo viên quá
nhiều, nhiều sinh viên ra trường không việc làm hay việc làm nhưng với mức lương bèo bọt số
lượng sinh viên phạm giảm đi rất lớn. Đây thể được coi sự thụt lùi tạm thời. Nhưng trong vòng 1
năm nay số lượng sinh viên đăng kí vào ngành sư phạm đã nhiều hơn trước, như vậy ta có thể thấy rõ ngành
giáo dục lại đang phát triển, lấy lại vị trí của mình trong xã hội.
c) Tiêu chuẩn của sự phát triển:
- Cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ, nên phát triển của sự vật phải đạt tiêu chuẩn cao hơn cả về số
lượng và chất lượng của cái mới so với cái cũ. Tiêu chuẩn phát triển cuối cùng và duy nhất phải vươn tới sự
hoàn thiện và tối ưu của các sự vật, hiện tượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng được xem là phát triển hay không khi ta phải có căn cứm cơ sở để xác định
kết quả vận động đi lên của sự vật cả về lượng và chất. Nếu không có tiêu chuẩn để đánh giá sự phát triển thì
cách đánh giá sẽ rơi vào mò mẫm, áp đặt.
d) Ý nghĩa của phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức thực tiễn của con người cần phải quan điểm phát triển. Nguyên
tắc phát triển yêu cầu phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động. Trong nhận thức, khi nhận thức, đánh
giá sự vật, hiện tượng không chỉ nhận thức trong hiện tại như còn phải thấy được khuynh
hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai. Trên cơ sở đó dự báo những tình huốngthể xảy ra để
chủ động nhận thức, giải quyết.
- Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn của sự phát triển những đặc điểm, tính chất,
hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển đó.
- Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi lẽ mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới luôn vận động, biến đổi phát triển. Phát triển khó khăn, bao gồm cả sự thụt lùi, do vậy,
trong hoạt động thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai.
- Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới phải biết kế thừa những
yếu tố tích cực đã đạt được được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
- Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn; nguyên tắc
này giúp ta nhận thức được rằng muốn tìm được bản chất của sự vật, htg; nắm được khuynh hướng phát
triển của chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động (...) trong sự biến đổi của nó.
Câu 7: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa “ cái riêng” và “ cái chung”. Ý nghĩa phương pháp
luận của mối quan hệ này?
1.Khái niệm
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất
định.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ nhũng mặt, những thuộc tính chung không những có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, htg hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một sự vật, một kết
cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác
Sự phân biệt giữa cái chung và cái riêng và cái đơn nhất chỉ là tương đối.
2.Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cái chung, cái riêng, thực sự tồn tại khách quan và tồn tại trong
mối quan hệ biện chứng. Cụ thể là:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của nó. Vì thế,
không thể có cái chung thuần túy tồn tại biệt lập ngoài cái riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Bởi vậy, không có cái riêng tồn tại tuyệt đối độc
lập với cái chung.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng nhưng lại sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những
thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Còn cái riêng là cái toàn
bộ, phong phú hơn cái chung vì bất cứ cái riêng nào bên cạnh những thuộc tính được lặp lại ở các sự vật
khác mỗi cái riêng đều chứa đựng cái đơn nhất.
- Cái chung có thể chuyển hóa thành cái riêng trong quá trình phát triển của sự vật trong những điều
kiện nhất định khi cái chung lạc hậu và lỗi thời .
- Cái riêng chuyển hóa thành cái chung khi cái riêng là tốt.
=> Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc mà thoạt đầu là ở dạng đơn
nhất nhưng theo quy luật của phát triển cái đơn nhất sẽ cthắng cái cũ để trở thành cái chung. Ngược lại, cái
cũ từ chỗ là cái phổ biến, cái chung sẽ mất đi dần biến thành cái đơn nhất.
3.Ý nghĩa
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng
chứ không phải từ ý muốn chủ quan của con người hoặc bên ngoài cái riêng.
- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung, trong hoạt động thực
tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
- Phải thấy được mối quan hệ qua lại giữa cái chung và cái riêng để khi áp dụng cái chung vào những
trường hợp riêng biệt không rơi vào tả khuynh, giáo điều bằng cách cá biệt hóa, không áp dụng rập khuôn,
máy móc cái chung. Để khắc phục bệnh hữu khuynh xét lại thì phải tránh tuyệt đối hóa cái đơn nhất, xem
thường cái chung. Và để tránh khỏi tình trạng mò mẫm tùy tiện, kinh nghiệm CN thì khi giải quyết vấn đề
riêng không thể không đặt trong mối liên hệ với những vấn đề chung có liên quan đến vấn đề riêng đó
Câu 8. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa phương pháp luận của
phương pháp này?
Trong quá trình nhận thức, con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để nắm bắt
thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên hệ chung cùng cótất cả chúng. Và khi xét
đến các cặp phạm trù cơ bản thì không thể bỏ qua cặp nguyên nhân – kết quả, đây là mô hình tư tưởng phản
ảnh mối liên hệ cũng như sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên đầy tính khách quan.
Nguyên nhân được định nghĩa phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật,
hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau để rồi gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động trên sinh ra. Khi định nghĩa chúng dưới
dạng một phạm trù Triết học thì có vẻ khó để hình dung, nhưng thực chất mối liên hệ “nhân-quả” tồn tại và
mang lại cho con người cảm giác rất rõ ràng thông qua các giác quan ở đời sống thường ngày, ví dụ như do
thức khuya nên sáng mệt mỏi, ở đây đã có sự thay đổi về mặt sinh học dẫn đến việc tác động qua lại giữa hệ
thần kinh và các bộ phận khác trong cơ thể để rồi đưa ra hiện tượng kéo theorối loạn sinh học nói chung
(gây mệt mỏi). Nếu trên phương diện ghi chép thì cặp phạm trù “Nguyên nhân - kết quả” được biểu hiện
thường dưới các cặp quan hệ từ hay gặp như “vì...nên”, “do...nên”.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Quan hệ nhân - quả mối quan hệ tính tất yếu khách quan, nghĩa là: không nguyên
nhân nào không dẫn đến kết quả, và ngược lại không có kết quả nào được sinh ra mà không có nguyên nhân.
Đây quan hệ tính quy luật, trong đó nguyên nhân bao giờ cũng cáitrước quyết định kết quả.
Phép biện chứng cho rằng, một nguyên nhân nhất định trong hoàn cảnh nhất định sẽ chỉ sinh ra một kết quả
nhất định, nếu các nguyên nhân ít khác bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây ra sẽ ít khác nhau bấy nhiêu.
- Trên thực tế, MQH giữa nguyên nhânkết quả là mối quan hệ hết sức phức tạp, đa chiều. Bởi
một kết quả (một sự biến đổi nào đó) không chỉ sinh ra bởi một nguyên nhân duy nhất mà nó có thể do nhiều
nguyên nhân khác tđộng và ngược lại, một nguyên nhân có thể sinh một hoặc nhiều kết quả khác nhau. Nếu
các nguyên nhân (chủ yếu, thứ yếu, trong, ngoài...) ấy cùng chiều với nhau thì sẽ có xu hướng thúc đẩy quá
trình tạo ra kết quả nhanh hơn, còn khi các nguyên nhân tác động ngược chiều thì sẽ làm cho kết quả hthành
muộn hơn, thậm chí còn triệt tiêu vtrò của nhau. thế để nhận thức một sự vật, hiện tượng phải cái
nhìn đúng đắn, đa chiều không vội đánh giá nguyên nhân sinh ra cũng như không kết luận chính xác
khi vừa biết một chiều nguyên nhân. dụ: Phát triển công nghiệp nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi
trường, nhưng không thể kết luận tất cả sự ô nhiễm đều do phát triển nhà máy công nghiệp gây nên vì còn có
nhiều nguyên nhân khác như cng xả rác ra mtrường, hay sự phát triển của phương tiện giao thông,...
- Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối. Mối quan hệ nhân quả là một chuỗi những sự nối
tiếp giữa nguyên nhân kết quả, thể trong khoảng xác định này thì đóng vai trò là kết quả nhưng đến
mâu thuẫn tiếp theo lại trở thành nguyên nhân. Chính vì thế khi xét một mối quan hệ về cặp phạm trù nhân-
quả thì cần xét rõ ràng trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định; đồng thời khi muốn có kết luận cuối cùng về sự
vật, hiện tượng nào đó thì nên xét bao quát cả quá trình chuyển đổi vị trí lần lượt của cả hai phạm trù.
Nói tóm lại, mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất nhiên.
2.Ý nghĩa phương pháp luận
- Cần tìm ra nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng trong bản thân hiện thực thế giới khách quan để
phát triển các hiện tượng theo hướng tích cực cũng như góp phần hạn chế những nguyên nhân sinh ra hiện
tượng tiêu cực. Bên cạnh đó, mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù này đã đã đẩy lùi phép phần nào
quan điểm duy tâm, siêu hình xem “nguyên nhân” của sự biến đổi là do các yếu tố phi vật chất (siêu nhiên)
hoặc có nguồn gốc xuất phát nằm ngoài sự vật, hiện tượng đó.
- Vì mối liên hệ giữa nguyên nhânkết quả là rất đa dạng, phức tạp nên cần nhận thức phân tích
đúng đắn các loại nguyên nhân để có biện pháp xử lý phù hợp.
- Kết quả được nguyên nhân hình thành nên nhưng nó không tồn tại một cách thụ động, vì vậy cần
biết cách khai thác cũng như vận dụng kết quả để thúc đẩy sự phát triển của sự vật.
- Tìm nguyên nhân xuất hiện của một hiện tượng nào đó, phải tìm trong chính hiện tượng đó
phải tìm những sự tác động của các mặt, các mối liên hệ có trước đó.
Câu 9: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại?
Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật lượng chất trong hoạt động nthức và thực tiễn?
1.Vị trí và vai trò của quy luật:
- Quy luật lượng- chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Nóchỉ ra cách thức chung nhất củasự phát triển: sự tích lũy dầnvề lượng dẫn đến sự tđổivề chất.
- Nó chỉ ra tính chất chung của sự phát triển của sự vật, htg: vừa diễn ra từ , vừa diễn ra nhảy vọt.
2
2.Nội dung:
a.Chất:
- Là một phạm trù triết học để chỉ những thuộc tính, tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng nhằm phân
biệt nó với những sự vật, hiện tượng khác.
- Chất biểu hiện sự thống nhất, tính toàn vẹn của sự vật; được xác định bởi cấu trúcphương thức liên kết
của các yếu tố cấu thành lên nó.
- Đặc điểmbản: có tính tương đối, ổn định; khi sự vật hiện tượng này chưa chuyển hóa thành sự vật hiện
tượng khác thì chất không thay đổi.
- Một sự vật có rất nhiều chất, tùy thuộc vào từng mối quan hệ.
- Thay đổi chất là thay thế phương thức.
b.Lượng:
- Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính vốncủa sự vật, hiện tượng như: kích thước, số
lượng, quy mô,tốc độ,…
- Chất phức tạp bao nhiêu thì lượng phức tạp bấy nhiêu.
- Đặc điểm cơ bản: tính khách quan.
- Lượng chia làm 2 loại: cụ thể (định lượng được) và trừu tượng (thuộc tính: tình cảm,…)
Sự phân biệt chất và lượng chỉ mang tính tương đối.
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
+ Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
Độ: dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng; là khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến
sự thay đổi về chất
Điểm nút: lượng thay đổi đạt tới phá vỡ độ cũ dẫn đến chất thađổi; là thời điểm bđầu xảy ra bước nhảy.
Bước nhảy: là giai đoạn chuyển hóa từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác; là bước ngoặt cơ
bản trong sự biến đổi về lượng.
Các hình thức của bước nhảy:
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ:
+/ bước nhảy toàn bộ: bước nhảy làm cho tất cả các mặt của sự vật, hiện tượng thay đổi.
+/ bước nhảy cục bộ: bước nhảy chỉ làm thay đổi 1 số mặt.
Sự phân biệt 2 loại bước nhảy trên chỉ là tương đối, bởi vì dù là bước nhảy toàn bộ hay cục bộ thì cũng đều
là kết quả của quá trình thay đổi về lượng.
| 1/45

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC
Câu 1 :Phân tích nội dung định nghĩ vật chất của Lênin và rút ra ý nghĩa của định nghĩa?
1. Các quan niệm trước Mác về vật chất
- Theo quan điểm của triết học duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên
tinh thần nào đó, có thể là “ý chí của Thượng Đế”, “ý niệm tuyệt đối”,..
- Triết học duy vật thời cổ đại: đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể.
Ví dụ: + Các nhà triết học duy vật như Ta-let cho rằng nguồn gốc của thế giới là nước
+ A-na-xi-men-nit coi bản chất chung của tất thảy mọi vật là không khí
+ Hê-ra-clit coi bản nguyên của thế giới là lửa.
Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên
tử của Lơ-xip và học trò của ông là Đê-mô-crit.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII: đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận
động của vchất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất.
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm siêu hình về vật chất.
Nhưng lại dẫn đến sự bế tắc của quan điểm trước Mác về vật chất. Từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm, Leenin đã nêu định nghĩa :
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại kquan được đem lại cho cng trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
2.Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất Lenin
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừa tượng, vừa có tính cụ thể .
+ Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó là đăc tính
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt vật chất với khoa
học vật chất cụ thể khác.
Ví dụ: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân và
những người lao động khác để củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ, phân biệt với nhà nước
tư bản hay xã hội chủ nghĩa.
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất thông qua nghiên cứu các
sự vật hiện tượng vật chất cụ thể.
Ví dụ: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết được nước
sôi nóng ở 100 độ C
- Vât chất là “thực tại khách quan”: có đặc tính cơ bản ( cũng là đặc trưng cơ bản ) là tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nthức được thì nó vẫn tồn tại.
Ví dụ: Thủy triều là htg nước biển hay nước sông lên xuống trong 1 chu kỳ tgian phụ thuộc vào biến
chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại 1 cáchTN, ko phụ thuộc vào nthức của cng.
- Vật chất có tính khách thể:cng có thể nbiết vật chất bằng các giác quan như thị giác, xúc giác,…
Ví dụ: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau 1 thời gian nuôi dưỡng được người
chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,..
- Ý thức là sự chép lại, chụp lại, phản ánh lại thực tại khách quan. Bằng các giác quan của mình con người
có thể trực tiếp hoăc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có sự vật, hiện tượng của thực tại
khách quan chưa được nhận biết , chứ không thể không biết.
Ví dụ: Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới
khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại. -
Vật chất là cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quy định ý thức. Ý thức là cái có sau vật chất,
phụ thuộc vào vật chất. Như vậy vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân
làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất, có tác động , thậm chí
chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào chúng và được quần chúng vận động.
Ví dụ: Trong quá trình phát triển đất nước, khi cuộc sống khó khăn, thiếu thốn về vật chất, nhưng ý
thức của con người đã vượt xa so với “vật chất hiện tại”. Điển hình là: Nguyễn Tất Thành hay những tấm
gương : Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... nghĩ lớn, quyết tâm tìm đường cứu dân tộc thoát khỏi ách đô
hộ của Thực dân Pháp,..
3.Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa này.
- Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm
giác, của ý thức . Thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới vật
chất . Thế giới duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong lĩnh vực
xax hội đó là : tồn tại của xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị,..
Ví dụ: Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì nước đó mạnh hơn , có tầm ảnh hưởng đến các quốc gia
khác và trong khu vực sâu sắc hơn.
-Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất với ý thức. Vật chất có trươc ý thức là nguồn gốc và quy định ý vốn có của sự vật. Đồng thời
cần thấy được tính năng động , tích cực của ý thức để phát huy tính năng động, chủ quan nhưng tránh chủ
quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hóa vai trò, tác dụng của ý thức.
-Định nghĩa chống lại quan điểm duy tâm, siêu hình trong quan niệm về vật chất, bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Định nghĩa đã định hướng khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc hình thức mới của
vật thể trong thế giới.
Câu 2: Quan điểm của triết học Mác- Lênin về vận động?
1. Vận động là gì? - Quan điểm trước Mác:
+Theo Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: vận động là sự thay đổi vị trí trong không gian
mà theo nghĩa chung nhất, “ vận động là mọi sự biến đổi”. Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy
+Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: vận động là do cái đích của Thượng Đế.
=> Khái niệm: Vận động là một phạm trù của triết học dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật
chất đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản tới phức tạp
2. Cơ sở khách quan của vận động
- Nguồn gốc của vận động là do sự biến đổi của thế giới vật chất
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất:
+Vật chất chỉ có thể tồn tại khi vận động và thông qua vận động nó BH? sự tồn tại của mình
+Vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến
3. Các hình thức vận động :Gồm 5 hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội.
Trình độ vật chất nào thì gắn với nó là một hình thức vận động mới. Vận động cao bao hàm vận động
thấp. Vận động xã hội bao hàm cả cơ học, vật lý, hóa học và sinh học.
+Cơ học: là vận động của thế giới vô cơ, sự di chuyển vị trí trong không gian (VD: Cái bàn di chuyển
từ đầu lớp xuống cuối lớp)
+Vật lý: là quá trình vận động của các nguyên tử, các hạt cơ bản,điện trường, từ trường (VD: Sự di
chuyển của các phân tử nước )
+Hóa học: là là quá trình phân giải và hóa hợp các chất ( VD: Cho đường vào một cốc nước, đường
hòa tan vào trong nước)
+Sinh học: là vận động của thế giới sinh vật như biến đổi di truyền, sự trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường (
Khi hít thở cơ thể chúng ta thực hiện quá trình trao đổi chấ VD: t với môi trường)
+Xã hội: là sự thay đổi thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế xã hội (hoạt động, lao
động, tư duy của con người tạo ra sự biến đổi trong xã hội)
(Phân biệt giữa vận động và phát triển:
+ Vận động có thể đi lên hoặc đi xuồng
+ Phát triển chắc chắn là đi lên
VD: Sự biến đổi công cụ lao động từ đồ đá sang kim loại; sự chuyển đổi nền kinh tế-xã hội phong kiến
sang kinh tế-xã hội theo chế độ tư bản chủ nghĩa)
4. Quan hệ giữa vận động và đứng im
- Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định
chứ không phải tất cả mọi mối quan hệ
VD: Khi ta đứng im ở một tư thế nào đó là đứng im trong hệ quy chiếu Trái Đất nhưng đứng ngoài
trái đất cta lại đang vận động vì TĐ luôn chuyển động quay xung quanh mặt trời.
- Đứng im chỉ xảy ra trong một hình thức vận động nhất định: vận động cơ giới
VD: Khi ta đứng im thì đó chỉ là đứng im trong vận động cơ học còn vận động hóa học và sinh học
trong cơ thể chúng ta vẫn đang vận động
- Đứng im chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định
VD: Chúng ta có thể đứng im tạm thời nhưng không thể đứng im mãi mãi vì cơ thể chúng ta không
làm được điều này
- Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động: vận động trong thăng bằng, nghĩa là những tính chất của
vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản.
VD: Sinh viên năm nhất (2019) nằm trong đoạn thời gian 1 năm học từ tháng 8/ 2019 đến 5/2020.
Như vậy trong khoảng thời gian trên, k69 vẫn là sinh viên năm nhất- Không có sự biến đổi về tính chất. Gọi
đó là vận động thăng bằng (Đứng im)
Câu 3: Phân tích nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức.
Phạm trù ý thức: Ý thức là một trong những mặt cơ bản của vấn đề triết học. Nó có mối quan hệ gắn kết
với phạm trù vật chất.Và nó chịu dưới sự quy định của phạm trù vật chất.
I.Nguồn gốc của ý thức
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, nguồn gốc ra đời ý thức là nguyên thể đầu tiền, tồn tại vĩnh
viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất. Còn theo chủ
nghĩa duy vật siêu hình, họ xuất phát từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc ý thức. Nhưng còn đó là rất
nhiều sai lầm và thiếu xót.
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức được bắt nguồn từ: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên (Não bộ con người):
+ Não bộ con người là cơ quan vật chất đặc biệt nhất so với não của các loài động vật khác. Vì nó có
khả năng sản sinh ra ý thức.
+ Ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa của thuộc tính phản ánh ở mọi dạng vật chất. Phản ánh là
thuộc tính phổ biến của mọi vật chất, là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào 2 vật: vật
tác động và vật bị tác động.
Ví dụ: Thanh sắt ( vật bị tác động) để lâu trong không khí ( vật tác động là O2) sẽ xuất hiện hiện tượng han gỉ.
+ Phản ánh sẽ phụ thuộc vào trình độ vật chất:
-Phản ánh thấp nhất là phản ánh vô sinh ( Thế giới vô cơ) là phản ánh thụ động
Ví dụ: Hai thanh kim loại chạm vào nhau sẽ phát ra tiếng kêu leng keng, và hiện tượng biến dạng.
-Phản ánh tiếp theo là phản ánh hữu sinh ( có sự sống) : phản ánh ở thực vật ;ở động vật chưa có hệ
thần kinh, não bộ và ở động vật có hệ thần kinh, trí khôn.
-Phản ánh cuối cùng là ở con người- là phản ánh cao nhất để sản sinh ra ý thức.
Như chúng ta biết, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người. Bộ óc của con
người là cơ quan phản ánh, song chỉ có bộ óc thôi thì chưa có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên
ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Ví dụ: Một người có não bộ tổn thương thì ý thức rối loạn
Một người có não bộ bị chết thì không có ý thức.
- Nguồn gốc xã hội:
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với
sự hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào thế giới tự nhiên nhằm tạo ra
những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của mình, trong đó con người đóng vai trò môi giới, điều tiết và giám
sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là hoạt động đặc thù của con người, lao động
luôn mang tính tập thể, xã hội.
Vai trò của lao động là hoàn thiện con người.
Ví dụ: Xét theo suốt quá trình tiến hóa từ Vượn cổ tới Người tối cổ tới Người hiện đại:
Con người quen với việc di chuyển tứ chi tới di chuyển bằng hai chân nhưng gù lưng, và cuối cùng là thẳng lưng
Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của mình trong quá trình lao
động. Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu, kí hiệu mà con người ta
quy ước với nhau để lưu giữ và truyền tải thông tin giữa người- người, giữa các thế hệ với nhau.
Vai trò của ngôn ngữ: Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư
duy nhằm khái quát hóa, trìu tượng hóa hiện thực.
Ví dụ: Ngôn ngữ khô cứng, nghèo nàn thì tư duy cũng hạn hẹp
Ngôn ngữ linh hoạt thì tư duy thoáng
Từ đây, Não bộ là điều kiện cần, Lao động và Ngôn ngữ là điều kiên đủ. Không thể thiếu một trong ba yếu
tố trên, vì nếu thiếu thì sẽ không tạo nên một ý thức hoàn chỉnh.
Ví dụ : Câu chuyện cô bé Người sói:
Đều là con người bình thường, não bộ phát triển bình thường nhưng lại không sống trong môi
trường người nên cô bé không có ý thức như một con người mà là một con sói.
Vậy nguồn gốc nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động là thực tiễn xã hội.
II.Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh stạo của thế giới kquan vào trong não người và được cải biến từ đó. Là hình ảnh
cquan của thế giới kquan, là qtrình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Ví dụ: H.ảnh một dòng sông dưới con mắt thẩm mỹ của người nông dân khác với thi sĩ
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất thông qua não
người, nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan còn hình thức phản ánh là chủ quan, nó phản ánh thế giới
khách quan nhưng nằm trong phạm vi chủ quan
- Ý thức mang đặc tính năng động, sáng tạo: Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh đơn lẻ thụ động
mà hoàn toàn có định hướng mục đích, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ nào người nhưng đây
là sự phản ánh đặc biệt gắn với thực tiễn và đi liền với nhu cầu của con người, trên cơ sở những cái đã có thì
ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật tưởng tượng ra những cái không có trong thực tế tạo ra một “ thiên nhiên thứ hai” .
- Ý thức mang bản chất xã hội. Nó phụ thuộc vào từng điều kiện, HC, môi trường, xã hội quy định
(Ví dụ : ý thức của người sống trong xã hội PK khác so với con người hiện đại ngày nay:
Để duy trì giống nòi:
+ Trong xã hội phong kiến: Lấy anh em, chị em,...họ hàng là chuyện bình thường và một phần tất yếu để
dòng máu dòng tộc không bị pha loãng bởi ngoại tộc
+ Hiện đại: Loạn luân là một vấn đề xã hội đáng bị lên án gay gắt và cần phải xóa bỏ.)
Sự phản ánh ý thức là sự thống nhất ba mặt
 Trao đồi thông tin giữa chủ thể và đối tượng (có định hướng, chọn lọc và mang tính hai chiều)
 Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới hình ảnh tinh thần (mã hóa vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất)
 Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực (biến ý tưởng tinh thần phi vật chất thành vật chất) 
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất ý thức
 Kết quả phản ánh của ý thức phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đối tưỡng, điều kiện lịch sử xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm,…
 Ý thức hình thành và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn
 Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý
thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái quát cao
 Sự sáng tạo của ý thức phải dựa vào sự phản ánh của thế giới vật chất và sự sáng tạo này hoàn toàn thống
nhất trên cơ sở của sự phản ánh
III.Kết cấu của ý thức
a) Các lớp cấu trúc của ý thức
Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin,lýtrí,ýchí…
trongđótrithứclàyếutốcơbản,cốtlõi.
+Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng
những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ
thống ký hiệu khác. Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Loài
người đang bước vào nền kinh tế tri thức – là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, cải tạo thế giới. +Tình
cảm sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh và đối với
bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thực tại; nó phản ánh quan hệ của con
người đối với nhau, cũng như đối với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con
người và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người.
b) Các cấp độ của ý thức
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm cng, ý thức bao gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
- Tự ý thức:
+ Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình.
Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây
là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận
thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí
trong xã hội và có hành vi tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
+ Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của một giai cấp hay của
một tầng lớp XH về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích
chung của XH mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình.
- Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song lại có liên
quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm
thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng
nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây
ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức
có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học
- Vô thức:
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con
người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán
của lý trí. Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi
miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác…
Mỗi hiện tượng ấy có vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức năng
chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất, là những ham muốn bản năng
không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân
bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, “libiđo”…
->Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con người. Tuy nhiên
không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập.
Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
c) Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”
Ngày nay, với sự phát triển đột phá về khoa học và công nghệ hiện đại đã có những bước phát triển mạnh
mẽ, sản xuất ra nhiều lạoi máy móc không những có thể thay thế lao động cơ bắp mà còn có thể thay thế cho
1 phần lao động trí óc của con người. Ý thức được con người cài vào các robot khiến chúng có thể suy nghĩ
hành động 1 phần giống con người và tương lai sẽ thay thế khá nhiều trong ngành lao động.
Câu 4: Phân
tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Trả lời
1. Khái niệm vật chất, ý thức
+ Vật chất và ý thức là 2 phạm trù cơ bản của triết học và có mối quan hệ biện chứng với nhau.
+ Theo quan điểm của Mác-Lenin, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác
+ Ý thức là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm duy tâm và siêu hình
- Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn có của
con người thành một lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt
đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh
thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm mở ra đều dẫn con
người đến với thần học. Trong thực tiễn, người duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân
tố chủ quan, dẫn đến duy ý chí, hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: Chủ nghĩa duy vật siêu hình đã tuyệt đối hóa yếu tố vật
chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập
tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo,vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động
thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ
“khách quan chủ nghĩa”, thụ động ỷ lại, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong chủ nghĩa biện chứng duy vật
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin do có lập trường duy vật, nắm vững phép biện chứng, kịp thời
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, nên đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế
của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết
học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất,ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
- Vật chất có trước sinh ra và quyết định ý thức:
+ Khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người, thế giới
vật chất là cái có trước, còn con người và ý thức của con người là cái có sau, là sản phẩm của một quá trình;
tiến hóa lâu dài trong thế giới; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao
nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não
trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra
đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Ví dụ: Đối với giáo dục hiện nay, dựa vào sự phát triển của xã hội, hoàn cảnh mà xã hội tạo ra cho
con người buộc chúng ta ngày từ nhỏ đã phải tự lập có bản lĩnh tư duy để đối mặt với nhiều mặt trái của xã
hội hơn như các tệ nạn nghiện game, nói tục chửi bậy hay nguy hiểm hơn cả là bắt cóc, buôn người mại
dâm. Từ vật chất hiện thực như vậy đã quyết định bản chất của ý thức là chúng ta phải dạy trẻ nhiều hơn cả,
giáo dục chú trọng đề cao việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
+ Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội- lịch sử của loài
người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh.
+ Ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Triết học Mác khẳng định: Ý thức không
bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức. Hoạt động thực tiễn trong quá trình phát triển của
cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung
của tư duy, ý thức. Ý thức con người đã phát triển qua các thế hệ; qua các thời đại từ mông muội tới văn
minh, hiện đại. Loài người nguyên thủy sống bầy đàn dựa vào tặng vật của thiên nhiên thì “ý thức của họ chỉ
là ý thức quần cư đơn thuần” và tư duy của họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi
bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của
con người ngày càng phát triển phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được
cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc
bản chất, quy luật vận động, phát triền của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự vận động, biến đổi không ngừng
của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy ý thức của con
người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý
thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thủy. Trong nền sản xuất tư bản, tính chất xã hội hóa của sản xuất phát
triển là tiền đề để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, hình thành và phát triển không ngừng lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin.
- Tính độc lập của ý thức đối với vật chất:
+ Ý thức sau khi ra đời là một thực thể tinh thần, không tồn tại thụ động mà có tính độc lập tương
đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, chỉ đạo hoạt động
cải tạo thế giới trong hiện thực theo nhu cầu của con người. Vai trò của ý thức trong cải tạo thế giới khác
nhau, tuỳ thuộc vào chất lượng phản ánh hiện thực khách quan là đúng đắn hay sai lầm. Ý thức phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức phản ánh
không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo hiện thực
khách quan ở mức độ và giới hạn nhất định.
+ Ý thức tác động đến vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Con người dựa trên những
tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng,
biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Tính năng động, sáng tạo của ý
thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt qua tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định,
phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu tuyệt đối hoá
tính năng động chủ quan của ý thức sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất
nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
+ Nắm vững lí luận khoa học về nguồn gốc, bản chất của ý thức , mỗi quan hệ giữa vật chất và ý
thức là cơ sở để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng, chống chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy
vật siêu hình trong giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Trong hoạt động thực tiễn, con người biết vận
dụng sáng tạo lí luận khoa học đó vào giải quyết đúng đắn mối quan hệ khách quan và chủ quan đem lại
hiệu quả trong công việc.
+ Khẳng định tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần, về thực chất là để khẳng định vai trò to
lớn của con người- chủ thể có ý thức đó. Thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định sự
biến đổi thế giới bằng hành động của mình. Do đó, về thực chất, sự tồn tại của đời sống xã hội là có tính
chất thực tiễn. Con người tích cực hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới, khi đó ý thức trở thành tiền đề cơ
bản hình thành mặt chủ quan của hoạt động với tính cách là mặt đối lập với khách quan. Biện chứng khách
quan- chủ quan là vấn đề mấu chốt của mối quan hệ giữa hiện thực đang được nhận thức và cải tạo theo nhu
cầu của con người với bản thân con người- chủ thể của hoạt động đó. Con người lao động sáng tạo để duy trì
sự sống với chất lượng ngày càng cao của mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về những cái tồn tại đối
diện, quy định hoạt động của mình và giới hạn sức mạnh của bản thân mình.
=> Tóm lại, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, trong đó vật chất giữ vai
trò quyết định ý thức, là điểm xuất phát sản sinh ra ý thức, còn ý thức cũng tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
(Ví dụ: Ý thức có thể phát triển vượt trước vật chất và tác động hai mặt:
+ Tích cực: Ý thức trong đường lối của đảng hiện nay rất phù hợp không ngừng thúc đẩy con người phát triển bản thân.
+ Tiêu cực: cũng là chính sách của đảng nhưng vào giai đoạn 1985 lại kìm kẹp cng phát triển bản thân. )
4. ÝN phương pháp luận trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
- Phải có quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vì vật chất có trước ý thức,
quyết định ý thức và sinh ra ý thức nên khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện
tượng của thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không lấy ý muốn chủ quan của
mình làm cơ sở định ta chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
- Trong nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều
phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực,
đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có. Nhận
thức, cải tạo sự vật, hiện tượng nhìn chung phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những
thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
Ví dụ: trong một môi trường các bạn lớp xã hội, theo học ngành ngữ văn, các giáo viên dạy môn
toán không thể muốn là các bạn ấy giải toán nâng cao là các bạn ấy có thể giải được. Dựa vào khả năng thực
tế chúng ta nhìn nhận được khả năng của các bạn ấy chủ yếu nắm vững dạng toán cơ bản, tiếp cận từ tử từng
bước với toán nâng cao, không thể trong một thời gian ngắn mà tự suy nghĩ tìm tòi giải đc bài toán khó.
- Vì ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn nên
chúng ta cần phải phát huy vai trò của ý thức, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức.
- Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau nên chúng ta không tuyệt đối hoá vật chất,
hoặc ý thức, tránh nhìn nhận phiến diện, một chiều.
Câu 5: Trình bày nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến? Ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên
cứu nguyên lý về mối LH phổ biến trong nthức và trong hoạt động thực tiễn? Trả lời
1.Khái niệm về mối liên hệ phổ biến:
- Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến: Các nhà siêu hình không thừa nhận mối liên hệ khách
quan của các sự vật, hiện tượng; họ cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời, cô động, tĩnh
lại, cái này tồn tại bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia; giữa chúng không có mối liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Nếu có liên hệ chỉ là ngẫu nhiên, bề ngoài.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ dùng để khái quát sự quy định, tác
động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng, hay
giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới.
- Cơ sở khách quan của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới; theo đó các sự
vật, hiện tượng dù có đa dạng, phong phú và khác nhau như thế nào đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là
những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
2.Tính chất của các mối liên hệ phổ biến:
- Tính khách quan của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng:
+ Phép biện chứng duy vật luôn khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động của bản
thân thế giới vật chất. Tuy nhiên, phép biện chứng duy tâm (kể cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan)
cũng thừa nhận về mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, song họ đi tìm nguồn gốc, cơ sở của các mối liên
hệ ở lực lượng siêu nhiên hay ý thức, cảm giác của con người.
+ Đối lập với phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật khẳng định cơ sở khác quan của
mối liên hệ phổ biến ở tính thống nhất vật chất của thế giới. Nhờ có mối liên hệ mà các sự vật, hiện tượng
được thể hiện, bộc lộ các thuộc tính của mình trong sự tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất khác.
Tính khách quan của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là thuộc tính vốn có không phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Chẳng hạn như : sự vận động của tự nhiên như bão, lũ, ...hay sự vận động của xã hội.Ngay cả
những vật vô tri vô giác chịu sự tác động của ánh sáng, nhiệt độ... con người chúng ta cũng phải chịu sự tác
động của những người xung quanh, của tự nhiên, của xã hội.
- Tính phổ biến của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
+ Mọi sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ biến chứng tác động qua lại, quy định, phụ thuộc,
chuyển hóa lẫn nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau; không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại riêng rẽ, tách
biệt. Mối liên hệ không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà
còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
+ Chẳng hạn, mối liên hệ trong tự nhiên là mối liên hệ giữa động vật và thực vật, mối liên hệ trong
xã hội thể hiện sự tác động giữa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...mối liên hệ trong tư duy là mối liên hệ
giữa các giai đoạn nhận thức trước và sau của một quá trình. Đồng thời còn có những mối liên hệ con người
chưa phát hiện ra được hoặc đã phát hiện ra nhưng chưa giải thích được dưới góc độ khoa học.
- Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ của mối liên hệ
+ Thế giới vật chất đa dạng, nhiều vẻ, nảy sinh nhiều mối liên hệ như mối liên hệ về mặt không gian
và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn
bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới, có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực,
từng sự vật và hiện tượng cụ thể; có mối liên hệ bên trong và bên ngoài; có mối liên hệ nhân quả; có mối
liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp; có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ nhẫu nhiên; có mối
liên hệ bản chất và không bản chất; có mối liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu v.v... chúng giữ những vai trò
khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của
nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải
thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhau mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
+ Việc phân loại mối liên hệ trên chỉ mang tính tương đối, tùy theo từng quan hệ cụ thể, thậm chí các
mối liên hệ có thể chuyển hóa cho nhau. Vì thế, khi xem xét về các mối liên hệ chúng ta phải có tư duy và
cách nhìn nhận linh hoạt, không nên tuyệt đối hóa chúng. Chẳng hạn, có thể là cái chung trong quan hệ này,
nhưng lại trở thành cái riêng trong quan hệ khác; hay có thể là cái ngẫu nhiên khi mới xuất hiện, nhưng nó
lại trở thành cái tất nhiên về sau này. Ví dụ, trao đổi hàng hóa giai đoạn cuối của thời kì công xã nguyên
thủy là ngẫu nhiên, nhưng đến những giai đoạn lịch sử sau đó lại trở thành tất nhiên.
- Tính phức tạp của mối liên hệ của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng: Mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng không chỉ mang tính đa dạng, nhiều vẻ, nó còn thể hiện sự phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực xã
hội. Như tính phức tạp trong mối quan hệ con người với con người trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, nghệ thuật... chúng đan chéo, ảnh hưởng qua lại và mang tính đa chiều, nên việc nhận diện và phân biệt
chúng là hết sức khó khăn.
4.Ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong nhận thức và
trong hoạt động thực tiễn.
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc toàn diện và
nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Nguyên tắc toàn diện
+ Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt,
các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng ác mối liên hệ của chúng; trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ
trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của
sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và dự báo tương lai của chúng. Nguyên tắc toàn diện đối lập với
quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại
xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật ngụy biện (cố ý đánh
tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô
nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
+ Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cũng phải có trọng tâm, trọng điểm,
không dàn đều một cách chung chung.
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể: Sự vật, hiện tượng tồn tại, vận động và phát triển bao giờ cũng xảy ra trong
những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều này được thể hiện ở mỗi sự vật xét trong những điều kiện,
hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau sẽ bộc lộ ra tính chất của mối liên hệ và sự phát triển cũng
khác nhau. Vì vậy, nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ cụ thể, có
tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện tượng. Cơ sở lý luận của
ngtắc này là kgian, thời gian với vận động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Câu 6: Trình bày nội dung nguyên lí của sự phát triển? Ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu
nguyên lý về sự phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
a. Khái niệm phát triển:
* Theo quan điểm duy tâm và siêu hình: đều không thừa nhận sự phát triển của sự vật, hiện tượng; nếu có
thì sự phát triển cũng chỉ là sự tăng hoặc giảm về lượng mà không có sự thay đổi về chất; phát triển diễn ra
theo chu kì và vòng tròn khép kín. Nguyên nhân của sự phát triển là do các yếu tố bên ngoài quyết định.
* Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với nguyên lý của sự phát triển, vì liên hệ
cũng là vận động, không có vận động sẽ không có phát triển. Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết
mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa phủ định những yếu tố không còn
phù hợp và kế thừa có chọn lọc những cái cũ, cho ra đời và phát triển những cái mới.
 Phát triển là quá trình vận động theo chiều hướng đi lên, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt mà đặc trưng của nó là cái cũ mất đi, cái mới ra đời.
Ví dụ: Quá trình biến đổi của các giống loài từ bậc thấp lên bậc cao; quá trình thay thế lẫn nhau của
các hình thức thức tổ chức xã hội loài người: từ hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời
nguyên thuỷ lên các hình thức tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức bộ tộc, dân tộc.
- Nhưng cái chiều hướng đi lên không phải một sớm một chiều mà nhận ra được mà nó đòi hỏi phải
trải qua 1 quá trình biến đổi lớn, lâu dài thì cái xu hướng tiến lên mới thể hiện rõ.
Ví dụ: Khi ta theo dõi biểu đổ của sự biến động trên sàn chứng khoán. Nếu ta chỉ theo dõi trong một
ngày, một tuần, một tháng thì ta có thể thấy xu hướng đi xuống, nhưng nếu ta theo dõi trong một thời gian
dài hơn như 6 tháng hay 1 năm thì ta có thể thấy xu hướng chung vẫn là đi lên.
- Phát triển có mối quan hệ biện chứng với vận động; phát triển là trường hợp đặc biệt của vận động.
Sự vật phát triển phải trải qua sự vận động, nhưng không đồng nhất với vận động; vận động đi xuống thì
không phải là sự phát triển.
b) Tính chất của sự phát triển:
* Tính khách quan của sự phát triển: Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật,
hiện tượng; do mâu thuẫn bên trong sự vật hiện tượng quy định. Cách thức của sự phát triển là sự tích lũy
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất; khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc, cái
mới phủ định cái cũ. Vì thế, sự phát triển của sự vật là vốn có, tự thân, không phụ thuộc vào ý muốn của con người.
Ví dụ: Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy luật
tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận thức và làm theo quy luật đó.
* Tính phổ biến của sự phát triển: Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong tự nhiên
biểu hiện ở sự biến dị, di truyền, tiến hóa, thích nghi của hệ động, thực vật. Trong xã hội là sự giải phóng
con người, sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội, còn trong tư duy là khả năng chinh phục và cải tạo thế
giới của con người. Phổ biến còn là tất cả các sự vật đều phát triển.
Ví dụ: Trong giới tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ; từ vật chât chưa
có năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ thể sống và tiến hoá dần lên các cơ thể có cơ cấu sự sống phức
tạp hơn – sự tiến hoá của các giống loài làm phát sinh các giống loài thực vật và động vật mới đến mức có
thể làm phát sinh loài người với các hình thức tổ chức xã hội từ đơn giản đến trình độ tổ chức cao hơn; cùng
với quá trình đó cũng là quá trình không ngừng phát triển nhận thức của con người từ thấp đến cao…
* Tính kế thừa của sự phát triển:
Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự phủ định có kế thừa của sự vật, hiện tượng cũ; trong sự vật, hiện
tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp và gạt bỏ những mặt đã lỗi thời, lạc
hậu của sự vật, hiện tượng cũ cản trở sự phát triển.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử với sự phát triển qua từng thời kì. Qua
mỗi thời kì phát triển ta có thể thấy chúng ta vẫn còn lưu giữ và kế thừa những truyền thống tốt đẹp và vẫn
còn giá trị, phù hợp với thời đại ngày nay của cha ông ta ví dụ như tập tục thờ cúng tổ tiên, uống nước nhớ
nguồn, tôn sư trọng đạo, v.v... nhưng đồng thời ta cũng loại bỏ những cái lỗi thời lạc hậu trong xã hội xa xưa
như quan điểm trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến hay phong tục tảo hôn, các nghi thức man rợ như chém lợn v.v... .
* Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ:
Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực (tự nhiên, xã hội và tư duy), nhưng mỗi sự vật, hiện tượng
lại có quá trình phát triển ko giống nhau. Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào
kgian , tgian, các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
Ví dụ: không thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới TN với sự phát triển của XH
loài người. Sự phát triển của giới TN thuần tuý tuân theo tính tự phát, còn sự phát triển của XH loài người
lại có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức
* Tính quanh co, phức tạp:
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng tắp hay vòng tròn khép kín mà diễn ra theo đường
xoáy ốc, có bước quanh co, phức tạp, thụt lùi tạm thời. Vì vậy, trong quá trình phát triển, sự vật hiện tượng
phải kiên trì, chấp nhận sự mất mát, hi sinh để đi đến thành công.
Ví dụ: Quan sát sự phát triển của ngành giáo dục ta có thể thấy rất rõ tính quanh co, phức tạp của sự
phát triển. Nếu như tầm 5, 6 năm trở về trước ngành giáo dục có thể được coi là một ngành “hot” với số
lượng nguyện vọng học sinh đăng kí khổng lồ thì 2, 3 năm trở lại đây trước thực trạng dư thừa giáo viên quá
nhiều, nhiều sinh viên ra trường không có việc làm hay có việc làm nhưng với mức lương bèo bọt mà số
lượng sinh viên sư phạm giảm đi rất lớn. Đây có thể được coi là sự thụt lùi tạm thời. Nhưng trong vòng 1
năm nay số lượng sinh viên đăng kí vào ngành sư phạm đã nhiều hơn trước, như vậy ta có thể thấy rõ ngành
giáo dục lại đang phát triển, lấy lại vị trí của mình trong xã hội.
c) Tiêu chuẩn của sự phát triển:
- Cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ, nên phát triển của sự vật phải đạt tiêu chuẩn cao hơn cả về số
lượng và chất lượng của cái mới so với cái cũ. Tiêu chuẩn phát triển cuối cùng và duy nhất phải vươn tới sự
hoàn thiện và tối ưu của các sự vật, hiện tượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng được xem là phát triển hay không khi ta phải có căn cứm cơ sở để xác định
kết quả vận động đi lên của sự vật cả về lượng và chất. Nếu không có tiêu chuẩn để đánh giá sự phát triển thì
cách đánh giá sẽ rơi vào mò mẫm, áp đặt.
d) Ý nghĩa của phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người cần phải có quan điểm phát triển. Nguyên
tắc phát triển yêu cầu phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động. Trong nhận thức, khi nhận thức, đánh
giá sự vật, hiện tượng không chỉ nhận thức nó trong hiện tại như nó có mà còn phải thấy được khuynh
hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai. Trên cơ sở đó dự báo những tình huống có thể xảy ra để
chủ động nhận thức, giải quyết.
- Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn của sự phát triển có những đặc điểm, tính chất,
hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
- Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi lẽ mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới luôn vận động, biến đổi và phát triển. Phát triển là khó khăn, bao gồm cả sự thụt lùi, do vậy,
trong hoạt động thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai.
- Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới phải biết kế thừa những
yếu tố tích cực đã đạt được được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
- Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn; nguyên tắc
này giúp ta nhận thức được rằng muốn tìm được bản chất của sự vật, htg; nắm được khuynh hướng phát
triển của chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động (...) trong sự biến đổi của nó.
Câu 7: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa “ cái riêng” và “ cái chung”. Ý nghĩa phương pháp
luận của mối quan hệ này? 1.Khái niệm

- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ nhũng mặt, những thuộc tính chung không những có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, htg hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một sự vật, một kết
cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác
Sự phân biệt giữa cái chung và cái riêng và cái đơn nhất chỉ là tương đối.
2.Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cái chung, cái riêng, thực sự tồn tại khách quan và tồn tại trong
mối quan hệ biện chứng. Cụ thể là:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của nó. Vì thế,
không thể có cái chung thuần túy tồn tại biệt lập ngoài cái riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Bởi vậy, không có cái riêng tồn tại tuyệt đối độc lập với cái chung.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng nhưng lại sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những
thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Còn cái riêng là cái toàn
bộ, phong phú hơn cái chung vì bất cứ cái riêng nào bên cạnh những thuộc tính được lặp lại ở các sự vật
khác mỗi cái riêng đều chứa đựng cái đơn nhất.
- Cái chung có thể chuyển hóa thành cái riêng trong quá trình phát triển của sự vật trong những điều
kiện nhất định khi cái chung lạc hậu và lỗi thời .
- Cái riêng chuyển hóa thành cái chung khi cái riêng là tốt.
=> Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc mà thoạt đầu là ở dạng đơn
nhất nhưng theo quy luật của phát triển cái đơn nhất sẽ cthắng cái cũ để trở thành cái chung. Ngược lại, cái
cũ từ chỗ là cái phổ biến, cái chung sẽ mất đi dần biến thành cái đơn nhất. 3.Ý nghĩa
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng
chứ không phải từ ý muốn chủ quan của con người hoặc bên ngoài cái riêng.
- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung, trong hoạt động thực
tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
- Phải thấy được mối quan hệ qua lại giữa cái chung và cái riêng để khi áp dụng cái chung vào những
trường hợp riêng biệt không rơi vào tả khuynh, giáo điều bằng cách cá biệt hóa, không áp dụng rập khuôn,
máy móc cái chung. Để khắc phục bệnh hữu khuynh xét lại thì phải tránh tuyệt đối hóa cái đơn nhất, xem
thường cái chung. Và để tránh khỏi tình trạng mò mẫm tùy tiện, kinh nghiệm CN thì khi giải quyết vấn đề
riêng không thể không đặt trong mối liên hệ với những vấn đề chung có liên quan đến vấn đề riêng đó
Câu 8. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa phương pháp luận của
phương pháp này?
Trong quá trình nhận thức, con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để nắm bắt và
thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên hệ chung cùng có ở tất cả chúng. Và khi xét
đến các cặp phạm trù cơ bản thì không thể bỏ qua cặp nguyên nhân – kết quả, đây là mô hình tư tưởng phản
ảnh mối liên hệ cũng như sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên đầy tính khách quan.
Nguyên nhân được định nghĩa là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật,
hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau để rồi gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động trên sinh ra. Khi định nghĩa chúng dưới
dạng một phạm trù Triết học thì có vẻ khó để hình dung, nhưng thực chất mối liên hệ “nhân-quả” tồn tại và
mang lại cho con người cảm giác rất rõ ràng thông qua các giác quan ở đời sống thường ngày, ví dụ như do
thức khuya nên sáng mệt mỏi, ở đây đã có sự thay đổi về mặt sinh học dẫn đến việc tác động qua lại giữa hệ
thần kinh và các bộ phận khác trong cơ thể để rồi đưa ra hiện tượng kéo theo là rối loạn sinh học nói chung
(gây mệt mỏi). Nếu trên phương diện ghi chép thì cặp phạm trù “Nguyên nhân - kết quả” được biểu hiện
thường dưới các cặp quan hệ từ hay gặp như “vì...nên”, “do...nên”.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Quan hệ nhân - quả là mối quan hệ có tính tất yếu khách quan, có nghĩa là: không có nguyên
nhân nào không dẫn đến kết quả, và ngược lại không có kết quả nào được sinh ra mà không có nguyên nhân.
Đây là quan hệ có tính quy luật, trong đó nguyên nhân bao giờ cũng là cái có trước và quyết định kết quả.
Phép biện chứng cho rằng, một nguyên nhân nhất định trong hoàn cảnh nhất định sẽ chỉ sinh ra một kết quả
nhất định, nếu các nguyên nhân ít khác bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây ra sẽ ít khác nhau bấy nhiêu.
- Trên thực tế, MQH giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ hết sức phức tạp, đa chiều. Bởi
một kết quả (một sự biến đổi nào đó) không chỉ sinh ra bởi một nguyên nhân duy nhất mà nó có thể do nhiều
nguyên nhân khác tđộng và ngược lại, một nguyên nhân có thể sinh một hoặc nhiều kết quả khác nhau. Nếu
các nguyên nhân (chủ yếu, thứ yếu, trong, ngoài...) ấy cùng chiều với nhau thì sẽ có xu hướng thúc đẩy quá
trình tạo ra kết quả nhanh hơn, còn khi các nguyên nhân tác động ngược chiều thì sẽ làm cho kết quả hthành
muộn hơn, thậm chí là còn triệt tiêu vtrò của nhau. Vì thế để nhận thức một sự vật, hiện tượng phải có cái
nhìn đúng đắn, đa chiều không vội đánh giá nguyên nhân sinh ra nó cũng như không kết luận chính xác nó
khi vừa biết một chiều nguyên nhân. Ví dụ: Phát triển công nghiệp là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi
trường, nhưng không thể kết luận tất cả sự ô nhiễm đều do phát triển nhà máy công nghiệp gây nên vì còn có
nhiều nguyên nhân khác như cng xả rác ra mtrường, hay sự phát triển của phương tiện giao thông,...
- Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối. Mối quan hệ nhân quả là một chuỗi những sự nối
tiếp giữa nguyên nhân và kết quả, có thể trong khoảng xác định này thì đóng vai trò là kết quả nhưng đến
mâu thuẫn tiếp theo lại trở thành nguyên nhân. Chính vì thế khi xét một mối quan hệ về cặp phạm trù nhân-
quả thì cần xét rõ ràng trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định; đồng thời khi muốn có kết luận cuối cùng về sự
vật, hiện tượng nào đó thì nên xét bao quát cả quá trình chuyển đổi vị trí lần lượt của cả hai phạm trù.
Nói tóm lại, mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất nhiên.
2.Ý nghĩa phương pháp luận
- Cần tìm ra nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng trong bản thân hiện thực thế giới khách quan để
phát triển các hiện tượng theo hướng tích cực cũng như góp phần hạn chế những nguyên nhân sinh ra hiện
tượng tiêu cực. Bên cạnh đó, mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù này đã đã đẩy lùi phép phần nào
quan điểm duy tâm, siêu hình xem “nguyên nhân” của sự biến đổi là do các yếu tố phi vật chất (siêu nhiên)
hoặc có nguồn gốc xuất phát nằm ngoài sự vật, hiện tượng đó.
- Vì mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả là rất đa dạng, phức tạp nên cần nhận thức phân tích
đúng đắn các loại nguyên nhân để có biện pháp xử lý phù hợp.
- Kết quả được nguyên nhân hình thành nên nhưng nó không tồn tại một cách thụ động, vì vậy cần
biết cách khai thác cũng như vận dụng kết quả để thúc đẩy sự phát triển của sự vật.
- Tìm nguyên nhân xuất hiện của một hiện tượng nào đó, phải tìm trong chính hiện tượng đó và
phải tìm những sự tác động của các mặt, các mối liên hệ có trước đó.
Câu 9: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại?
Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật lượng chất trong hoạt động nthức và thực tiễn?
1.Vị trí và vai trò của quy luật:
- Quy luật lượng- chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Nóchỉ ra cách thức chung nhất củasự phát triển: sự tích lũy dầnvề lượng dẫn đến sự tđổivề chất.
- Nó chỉ ra tính chất chung của sự phát triển của sự vật, htg: vừa diễn ra từ , vừa diễn ra nhảy vọt. 2 2.Nội dung: a.Chất:
- Là một phạm trù triết học để chỉ những thuộc tính, tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng nhằm phân
biệt nó với những sự vật, hiện tượng khác.
- Chất biểu hiện sự thống nhất, tính toàn vẹn của sự vật; được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết
của các yếu tố cấu thành lên nó.
- Đặc điểm cơ bản: có tính tương đối, ổn định; khi sự vật hiện tượng này chưa chuyển hóa thành sự vật hiện
tượng khác thì chất không thay đổi.
- Một sự vật có rất nhiều chất, tùy thuộc vào từng mối quan hệ.
- Thay đổi chất là thay thế phương thức. b.Lượng:
- Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng như: kích thước, số
lượng, quy mô,tốc độ,…
- Chất phức tạp bao nhiêu thì lượng phức tạp bấy nhiêu.
- Đặc điểm cơ bản: tính khách quan.
- Lượng chia làm 2 loại: cụ thể (định lượng được) và trừu tượng (thuộc tính: tình cảm,…)
Sự phân biệt chất và lượng chỉ mang tính tương đối.
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
+ Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
Độ: dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng; là khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất 
Điểm nút: lượng thay đổi đạt tới phá vỡ độ cũ dẫn đến chất thađổi; là thời điểm bđầu xảy ra bước nhảy. 
Bước nhảy: là giai đoạn chuyển hóa từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác; là bước ngoặt cơ
bản trong sự biến đổi về lượng. 
Các hình thức của bước nhảy:
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ:
+/ bước nhảy toàn bộ: bước nhảy làm cho tất cả các mặt của sự vật, hiện tượng thay đổi.
+/ bước nhảy cục bộ: bước nhảy chỉ làm thay đổi 1 số mặt.
Sự phân biệt 2 loại bước nhảy trên chỉ là tương đối, bởi vì dù là bước nhảy toàn bộ hay cục bộ thì cũng đều
là kết quả của quá trình thay đổi về lượng.