Đề cương ôn thi 2024 - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Theo triết học Mác - Lênin, biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tưởng tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của sự vật hiện tượng quá trình trong tự nhiên, xã hội có tư duy. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Câu 1: Khái niệm phép biện chứng và các hình thức trong lịch sử
Theo triết học Mác - Lênin, biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tưởng
tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của sự vật hiện tượng quá trình trong tự
nhiên, xã hội có tư duy. Có phép biện chứng chủ quan và khách quan. Biện chứng khách
quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng
khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành
các nguyên lí, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các quy tác phương pháp luật của
nhận thức và thực tiễn
Các hình thức cơ bản của phép biện chứng:
- Phép biện chứng chất phác thời đại có thể hiện nét trong triết học phương Đông và
phương Tây cổ đại. Trong triết học Trung Quốc, trong thuyết Âm - Dương, Âm và Dương
tồn tại trong mối liên hệ quy định lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái bất biến với cái biển
đổi ...; trong thuyết Ngũ hành, năm yếu tố Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ tồn tại trong mối
liên hệ tương sinh, tương khắc với nhau. Các yếu tố đó tác động, chuyển đổi lẫn nhau, ràng
buộc, quy định lẫn nhau, tạo ra sự thay đổi trong vạn vật.… Trong triết học Hi Lạp, Ăngghen
đã từng nhận xét “các nhà triết học Hi Lạp cổ đại, hầu hết họ là những nhà biện chứng bẩm
sinh”, tiêu biểu là: Hêraclit, Platôn, đặc biệt là Arixtốt. Chằng hạn Hêraclit coi sự vận
chuyển, sự biến đổi của thế giới cũng giống như sự chuyển động, đều trôi đi, chạy đi của một
con sông, người ta "không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông", v.v ... Đặc trưng cơ
bản chung của phép chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ. Mặc dù còn hạn chế nhưng nhìn
chung, phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là chỉnh thể thống nhất, giữa các bộ phận của
thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động, quy định lẫn nhau; thế giới không ngừng
vận động, biến đổi.
- Phép chứng duy vật cổ điển Đức (bắt đầu từ Cantơ và phát triển đến đỉnh cao trong
phép chứng duy tâm của Hêghen): Heghen đã nghiên cứu và phát triển các tư tưởng biện
chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ lý luận sâu sắc và có tính hệ thống chặt chẽ,
trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển. Tuy nhiên, PBC trong triết học Heghen là
phép biện chứng được xây dựng trên lập trường duy tâm khách quan (coi biện pháp chính là
quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của
biện chứng khách quan. Theo Heghen, "ý tưởng tuyệt đối" là điểm khởi đầu của tồn tại, tự
"tha hóa" thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. Thực chất biện
chứng của Heghen là biện chứng của "ý niệm tuyệt đối" hay biện chứng của lĩnh vực tinh
thần, tư duy nên hệ thống lý luận này chưa phản ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các
mối liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ph.Ăngghen đã từng
nhận xét: Hêghen là nhà triết học vĩ đại nguời Đức, ông là người đầu tiên trong lịch sử, trình
bày phép biện chứng một cách đầy đủ nhất, sâu sắc nhất và súc tích nhất. Tuy nhiên, phép
biện chứng lại bị Hêghen trình bày một cách duy tâm, lộn ngược và không triệt để
- Phép biện chứng duy vật: Mang tính khoa học và cách mạng do C.Mác và Ph.
Ăngghen sáng lập, trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý trong lịch sử PBC, đặc biệt là kế
thừa và cải tạo phép biện chứng của Hêghen, đồng thời phát triển PBC trên cơ sở thực hiện
mới.
Câu 2: Định nghĩa vật chất, nguồn gốc ra đời của ý thức
Định nghĩa: là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được Vật chất
đem lại cho con người qua cảm giác, được cảm giác của chúng chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Phân tích định nghĩa:
- Thứ nhất: khái niệm VC dưới góc độ triết học dùng để chỉ VC nói chung, vô hạn,
không sinh ra, không mất đi. Các dạng VC mà các nhà KH cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn,
có sinh ra, có mất đi, chuyển hoá thành cái khác.
- Thứ hai: thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng VC là thuộc tính tồn tại
khách quan.
- Thứ ba: VC dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở con
người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người, do đó, VC là cái
có trước; cảm giác, ý thức của con người có sau. Ý tức là sự phản ánh đối với VC, VC là cái
được ý thức phản ánh.
Ý nghĩa:
- Phân biệt được sự khác nhau giữa khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học
với vật chất với tư cách là phạm trù của các khoa học chuyên ngành, khắc phục hạn chế trong
quan niệm về vật chất của CNDV cũ.
- Giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường DVBC, khắc phục được
quan điểm duy vật siêu hình trước đó, chống CNDT, thuyết bất khả trí ....
- Khắc phục được cuộc khủng hoảng trong KHTN, mở đường cho khoa học tự nhiên
phát triển → Triết học và khoa học tự nhiên có mối quan hệ biện chứng với nhau: thành tựu
của KHTN giúp triết học khái quát, tổng kết thế giới một cách chính xác hơn, ngược lại, triết
học duy vật biện chứng định hướng về thế giới quan khoa học cho các nhà khoa học tự
nhiên...
- Với định ghĩa này, phạm trù vật chất không chỉ dừng lại ở lĩnh vực tự nhiên mà còn
mở rộng sang cả lĩnh vực xã hội, khẳng định đâu là vật chất/ý thức trong lĩnh vực xã hội
→Định nghĩa này là cơ sở lý luận khoa học để khẳng định rằng, trong lĩnh vực xã hội, vật
chất biểu hiện dưới dạng tồn tại xã hội, yếu tố quan trọng nhất tạo nên tồn tại xã hội là lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .... nó đã làm sáng tỏ quan điểm duy vật về lịch sử.
Nguồn gốc ra đời của ý thức:
Nguồn tự nhiên của ý thức: Các yếu tố tạo thành các nguồn tự nhiên của ý thức là bộ
óc của con người và hoạt động của nó cùng với mối quan hệ của con người với thế giới quan.
Trong mối quan hệ này, thế giới quan tác động đến bộ óc của con người từ đó tạo ra khả năng
hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản
ánh của con người về thế giới khách quan.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính tất cả các dạng
vật chất, nó được hiển thị dưới nhiều hình thức, trình độ: phản ánh vật chất, hóa học; phản
ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức). Những
hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của các dạng vật chất tự nhiên.
- Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ
óc người. Nó được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não con người
khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có chủ
động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của
thông tin.
- Các phản hồi hình thức: Phản ánh vật lý, hóa học; Phản ánh sinh học; Phản ánh tâm
lý; Phản ánh ý thức (hình thức phản ánh cao nhất, chỉ có ở con người). (Lấy ví dụ).
Nguốc gốc xã hội của ý thức: Yếu tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất hình thành nên ý
thức là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động:
+ Lao động là hoạt động có mục tiêu của con người, sử dụng công cụ lao động tá động vào
giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của
con người.
+ Vai trò của lao động:
→Làm thay đổi cơ thể sinh học của con người (bộ óc tiếp tục phát triển cả về lượng và chất;
do sử dụng công cụ lao động nên đã giải phóng hai chi trước, tạo thế đứng thẳng cho con
người; cơ quan phát âm phát triển...).
→Giúp cho con người hiểu biết hơn về giới tự nhiên (làm cho thế giới quan bộc lộ những
thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của mình) ... Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt
động của các giác quan, tác động đến bộ óc con người và bằng hoạt động của bộ óc, tri thức
nói riêng, ý thức nói chung về thế giới khách quan được hình thành và phát triển.
→Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh ở họ nhu cầu phải
có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng → Cơ sở để xuất hiện ngôn ngữ
- Ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức, là cái vỏ
vật chất của tư duy
+ Vai trò của ngôn ngữ:
→Là công cụ để con người tư duy trừu tượng, khái quát bản chất của sự vật, hiện tượng.
→Là phương tiện để giao tiếp, biểu đạt tư duy, ý thức
→Là phương tiện giúp con người lưu trữ thông tin, truyền đạt kinh nghiệm, tư tưởng từ thế
hệ này sang thế hệ khác→Khong có ngôn ngữ, ý thức không thể hình thành, phát triển, không
thể thể hiện ra bên ngoài
Yếu tố tự nhiên quyết định sự hình thành YT
Yếu tố xã hội quyết định sự pt của YT
Câu 3: Khái niệm thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức
Khái niệm: là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính mục đích của con Thực tiễn
người mang tính lịch sử xh nhằm cải tạo tự nhiên, xh, tư duy
- Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì hoạt động VC mang tính mục đích khác nhau
- Tính chất của hoạt động thực tiễn:
+ Là hoạt động có tính cộng đồng xã hội.
+ Là hoạt động có tính lịch sử cụ thể.
+ Là hoạt động có tính sáng tạo, có mục đích cải tạo tự nhiên, hoàn thiện con ng.
- Các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: quá trình của con người sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, tạo ra của cải vật chất cho xã hội ( ví dụ: dung cuốc đi cuốc đất trồng cây vải,
trồng mít,…)
+ Hoạt động chính trị-xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị-xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. ( ví
dụ: đoàn thanh niên, hội sinh viên)
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành
trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của
tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên
cứu
Các hoạt động trên có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó hoạt
động sản xuất vc đóng vai trò quyết định nhất.
Vai trò của nó đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức:
+Đối tượng nhận thức là thế giới khách quan, nhưng nó không tự bộc lộ các thuộc tính, nó
chỉ hoạt động khi con người tác động vào bằng hoạt động thực tiễn, tức là thực tiễn phải là
điểm xuất phát, cơ sở trực tiếp hình thành nên quá trình nhận thức.
+ Thế giới khách quan luôn vận động, để nhận thức kịp tiến trình vận động của nó, con người
bắt buộc phải thông qua hoạt động thực tiễn.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Những tri thức con người đạt được trong quá
trình nhận thức phải áp dụng vào hiện thực và cải tạo hiện thực, sự áp dụng đó thông qua
thực tiễn. Đó là sự vật chất hóa những quy luật, tính tất yếu đã nhận thức được. Do đó, thực
tiễn là mục đích chung của các ngành khoa học.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra những chân lý, tức là kiểm tra đúng sai của các tri
thức mới: Những tri thức mới, thông qua nhận thức con người có được, để kiểm tra tính đúng
đắn của nó, phải dựa vào thực tiễn. Thực tiễn chính là thước đo giá trị những tri thức mới đó,
đồng thời thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Câu 4: Hai nguyên lý: mối liên hệ phổ biến và sự phát triển
1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
Khái niệm:
- Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tuợng hoặc giữa các mặt, các yều tố của mỗi sự vật, hiện tượng
trong thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ: Tính phổ biến của các mối liên hệ; chỉ
những mối liên hệ tồn tại (đuợc thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới → Như vậy,
khái niệmn MLHPB được dùng với hai nghĩa cơ bản đó là dùng để chỉ tính phổ biến của các
mối liên hệ; dùng để chỉ sự khái quát những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất như mối
liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả, bản chất vfa hiện tượng... Với tư cách là một nguyên lý
triết học thì nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật bao hàm cả hai
nghĩa trên.
- Tóm tắt nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Không có sự vật, hiện tượng nào
tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tại khác mà chúng luôn nằm trong mối liên hệ
đa dạng trong quá trình tồn tại và chuyển hóa của mình.
Tính chất của mối liên hệ
- Tính khách quan của các mối liên hệ: Mối liên hệ (sự quy dịnh, tác động và chuyển
hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản chúng) là cái vốn có của các sự vật,
hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay do đấng siêu nhiên
tạo ra. Chỉ có liên hệ với nhau, sự vật, hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát triển. Con
nguời chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ trong hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ như mối liên hệ trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng hóa và dị hóa); mối
liên hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường, v.v. .
- Tính phổ biến của các mối liên hệ
+ Không chỉ có các sự vật, hiện tượng liên kết với nhau, mà các yếu tố, bộ phận cấu thành
chúng cũng liên hệ với nhau. Không phải chỉ có các thời kỳ trong một giai đoạn, các giai
đoạn trong một quá trình liên hệ với nhau, mà giữa các quá trình cũng liên hệ với nhau trong
sự vận động và phát triển của thế giới.
+ Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, tư duy, các sự vật, hiện tượng cũng liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình
khác nhau thì các mối liên hệ khác nhau; một sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác
nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ
yếu...), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện tượng
đó; một mối liên hệ trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trò cũng khác
nhau...
Ý nghĩa phương pháp luận
- Quan điểm toàn diện
Trong hoạt động nhận thức và xử lý các tình huống thực tiến:
+ Cần xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố ... của
chính sự vật, hiện tượng đó và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự
vật, hiện tượng khác, đồng thời, xem xét mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
các yếu tố, các mặt của chính bản thân sự vật, hiện tượng ấy. Chặng hạn, muốn hiểu được
triết học Mác - Lênin chúng ta phải nắm được các nguyên lý, phạm trù, quay luật cơ bản và
mối liên hệ của chúng; tìm ra được mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức của các khoa
học khác; mối liên hệ với đời sống thực tiễn và ngược lại...
+ Xem toàn diệnnhưng không có nghĩa là dàn trải mà cần phải phân biệt được từng mối liên
hệ, phải rút ra được các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, chủ yếu... để hiểu rõ bản
chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả. Ví dụ, trong
kháng chiên chống Pháp, Mỹ có nhiều lĩnh vực, nhiều yếu tố... mà Đảng ta cần phải giải
quyết nhưng cần phải tập trung vào lĩnh vực chính. Hiện nay, muốn phát triển đất nước cần
phát triển toàn diện nhiều mặt, lĩnh vực, nhưng phải tập trung vào lĩnh vực chủ yếu, tạo động
lực giúp đất nước phát triển.
+ Thực hiện quan điểm toàn diện sẽ giúp con người tránh được hoặc hạn chế được sự phiến
diện, siêu hình trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn.
Chẳng hạn, đánh giá thành tựu và hạn chế trong công cuộc đổi mới đất nước như thế nào mới
đúng, văn hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam cần xử lý như thế nào? ...
- Quan điểm lịch sử - cụ thể
+ Khi nhận thức và tác động vào sự vật, hiện tượng phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh, môi
trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
+ Xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ
thể để từ đó có những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực
tiễn. Chẳng hạn, từ quan điểm này có thể trà lời cho câu hỏi vì sao từ khi thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta lại xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; tại sao đổi
mới toàn diện đất nước.nhưng lại trọng tâm vào đổi mới kinh tế...
+ Vận dụng quan điểm này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn sẽ tránh được quan điểm
chiết trung, ngụy biện... Chẳng hạn, trong cuộc sống có khi nào mà một cá nhân, tập thể mắc
lỗi dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nhưng không chịu trách nhiên mà lại đổ lỗi cho khách quan
hay không? Chất lượng đào tạo đại học của Việt Nam rất thấp người ta lại thường đổ lỗi cho
đầu tư của Nhà nước còn ít, cơ sở vật chất ở các trường còn lạc hậu...
2. Nguyên lý về sự phát triển
Khái niệm phát triển
- Khái quát quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng về sự phát triển.
- Khái niện phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng
tiến lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn.
- Tóm tắt nội dung nguyên liệu về sự phát triển: Mọi sự vật, hiện tượng không ngừng
vận động trong khuynh hướng chung là phát triển. Nguồn gốc của sự vận động, phát triển là
mâu thuẫn của sự vật. Cách thức của sự vận động, phát triển là lượng của sự vật đổi dẫn đến
chất của sự vậy đổi và ngược lại. Khuynh hướng của sự vận động, phát triển diễn ra quanh
co, phức tạp qua quá trình phủ định của phủ định, được biểu hiện bằng hình xoáy ốc đi lên.
- Khái niệm “phát triển” không đồng nhất với khái niệm “vận động”.
Tính chất của sự phát triển
- Tính khách hàquan của sự phát triển: Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong
bản thân sự vật, đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại
và vận động của sự vật, hiện tượng, nhờ đó sự vật luôn phát triển. Chẳng hạn, quá trình phát
sinh một giống, loài mới diễn ra một cách khách quan theo quy luật tiến hóa của giới tự
nhiên, con người muốn sáng tạo ra một giống loài mới thì cũng phải nhận thức và làm theo
quy luật đó, vv...
- Tính phổ biến của sự phát triển: Phát triển không phải là đặc tính riêng của một lĩnh
vực nào đó mà phát triển là khuynh hướng chung của thế giới, diễn ra trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy; trong mọi sự vật, hiện tượng, quá trình → Trong mỗi quá trình biến
đổi có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
Chẳng hạn, sự phát triển của giới động vật thể hiện ở khả năng nghi của nó trước sự biến đổi
phức tạp của môi trường, v.v...
- Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có sự khác nhau trong sự phát
triển; bản thân mỗi sự vật cũng có sự phát triển không giống nhau...→Nguyên nhân là do:
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong không gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác động của
nhiều sự vật, hiện tượng, yếu tố khác nhau...→ Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần phải có quan điểm phát triển:
- Khi xem xét sự vật phải đặt chúng theo khuynh hướng đi lên, tức là trong sự vận
động, phát tiển không ngừng, vạch ra được xu hướng biến đổi và chuyển hóa của sự vật, hiện
tượng. Chẳng hạn, quan điểm về nghề nghiệp và lựa chọn nghề của giới trẻ hiện nay có gì
khác so với truyền thông hoặc những ngành nghề hiện nay như kinh tế, tài chính ... thừa
nhiều nhưng người học, gia đình, các trường vẫn tuyển sinh nhiều.
- Nhận thức được con đường của sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp (là
một quá trình biện chứng), do đó, giúp con người lạc quan, tin tưởng vào sự tất thắng, sự ra
đời của cái mới, tiến bộ, hợp quy luật ...
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, chúng ta phải phân chia quá trình phát triển của
chúng ra thành các thời kỳ, giai đoạn khác nhau. Trên cơ sở đó để tìm ra phương pháp nhận
thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng tiến triển nhanh hơn hoặc
kìm hãm sự phát triển của nó. Chẳng hạn, thời kỳ sinh viên đang trong quá trình phát triển về
mọi mặt, đặc biệt là trí tuệ nên mỗi sinh viên cần tận dụng mọi điều kiện để học tập tốt, làm
nền tảng cho sự phát triển trong tương lai (xin được làm việc tốt, thu nhập cao, cơ hội thăng
tiến, du học ...)
- Khi vận dụng quan điểm phát triển, phải sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp
quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải khắc phục và chống lại
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến , đối lập với sự phát triển. Chẳng hạn, tư tưởng khoán
trong nông nghiệp ở Việt Nam trước đây được sinh ra từ sự trì trệ của mô hình hợp tác xã và
đời sống kinh tế hết sức khó khăn của Việt Nam...
Câu 5: 6 Cặp phạm trù:
1. Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất
Định nghĩa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
- Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những
quan hệ ... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
- Phạm trù cái đơn nhất dùng để chỉ những đặc tính, những tính chất ... chỉ tồn tại ở một
sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Mỗi người là một cái riêng; các mặt, thuộc tính, yếu tố, quá trình được lặp lại ở tất cả
mọi người như đồng hóa, dị hóa, hệ thống thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa.…; sinh, lão, bệnh,
tử ... (cái chung); ở mỗi người lại có những đặc tính không lặp lại như gen, cấu hình, vân tay,
tính cách, năng lực khác nhau (đơn nhất).
Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung: Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
đều tồn tại khách quan, thể hiện:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của
nó, nó không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng (Tức là cái chung không tách rời từng sự vật,
hiện tượng, quá trình riêng lẻ).
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc
lập tuyệt đối tách rời cái chung
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ
phận nhung sâu sắc, bản chất hơn cái riêng.
- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện xác
định.
+ Cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn
nhất. Nhưng cái mới đó trong quá trình tồn tại, phát triển, nó là cái mới, tiến bộ, phù hợp với
quy luật khách quan nên sẽ dần thay thế cái cũ và trở thành cái chung, phổ biến.
+ Cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới
nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là
biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên chúng ta chỉ có thể
tìm cái chung trong cái riêng chứ không thể ở bên ngoài cái riêng. Để phát hiện cái chung cần
xuất phát từ những cái riêng chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người ...
- Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn
đến cái chung nên để giải quyết cái riêng có hiệu quả thì không thể lảng tránh giải quyết cái
chung, không làm được điều đó sẽ rơi vào mò mẫm, tùy tiện, kinh nghiệm, chủ nghĩa.
- Cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, khắc phục bệnh
giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung để giải
quyết từng trường hợp cụ thể.
- Vì cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và người lại nên cần phát hiện, tạo
điều kiện cho cái đơn nhất tích cực phát triển, phổ biến thành cái chung; đồng thời cần hạn
chế, loại bỏ, thủ tiêu những cái chung lạc hậu, tạo điều kiện cho cái mới, tích cực phát triển.
1. Nguyên nhân và kết quả
Định nghĩa nguyên nhân, kết quả:
- Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong mội sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định.
- Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt,
các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tuợng với nhau.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có trước
kết quả, kết quả chỉ xuất hiện khi nguyên nhân gây ra tác động (luu ý, không phải sự nối tiếp
trước sau nào về mặt thời gian của các sự vật, hiện tượng đều biều hiện mối quan hệ nhân -
quả). Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả và một kết quả có thể do một
hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên. Nguyên nhân có nhiều loại, như bên trong và bên ngoài;
chủ yếu và thứ yếu, v.v. mỗi loại có vị trí, vai trò khác nhau đối với kết quả, do đó, trong thực
tiễn, phải nhận dạng được chúng để có thái độ ứng xử đúng đắn.
- Thứ hai: Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Kết quả sau khi ra đời nó không thụ
động, trái lại nó tác động trở lại nguyên nhân đã sinh ra nó.
- Thứ ba: Nguyên nhân và kết quả chuyển hóa lẫn nhau. Liên hệ nhân quả là một chuỗi
vô tận, do đó, không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối liên hệ
nhân quả, không được lấy ý muốn chủ quan thay cho quan hệ nhân - quả.
- Muốn cho sự vật, hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo ra những nguyên nhân, cùng
những điều kiện cho những nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn cho hiện
tượng nào đó mất đi thì phải làm mất nguyên nhân tồn tại của nó, cũng như những điều kiện
để các nguyên nhân ấy phát huy tác dụng.
- Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên
nhân có vai trò không như nhau; trước những thành công hay thất bại, yêu cầu phải khách
quan nhìn vào sự thật, chỉ rõ nguyên nhân để rút ra bài hoc kinh nghiệm, phát huy ưu điểm,
sửa chữa sai lầm, có như vậy mới tiến bộ...
- Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có thể do
nhiều nguyên nhân tác động nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cái nhìn toàn diện
và lịch sử - cụ thể trong phân tích, giải quyết và vận dụng quan hệ nhân- quả.
2. Tất nhiên và ngầu nhiên
Định nghĩa tất nhiên, ngẫu nhiên
- Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết
cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, không thể
khác.
- Phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp
của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện,
có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
Ví dụ: Gieo một đồng xu sẽ có một mặt sấp và một mặt ngủa là cái tất nhiên nhưng mặt nào
sấp, mặt nào ngừa ở mỗi lần gieo lại là cái ngẫu nhiên.
Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự
vận động, phát triển của sự vật, trong đó cái tất nhiên đóng vai trò quyết định, còn cái ngẫu
nhiên làm cho sự biểu hiện của cái tất nhiên trở nên phong phú.
- Không có cái tất nhiên và ngẫu nhiên thuần túy tách rời nhau. Cái tất nhiên bao giờ
cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình
thức biểu hiện, là cái bổ sung cho cái tất nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay
đổi, phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào cái tất nhiên, tuy nhiên,
không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa lẫn nhau, do đó, cần tạo ra những điều
kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.
3. Khả năng và hiện thực
Định nghĩa khả năng và hiện thực
- Phạm trù khả năng dùng để chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trong thực tế, nhưng
sẽ xuất hiện và tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng.
- Phạm trù hiện thực dùng để chỉ những cái đang tồn tại trong thực tế và trong tư duy.
Ví dụ : Xét về mặt hiện thực thì một quốc gia nào đó vẫn đang ở tình trạng là một nước
nghèo nhưng khả năng trong tương lai quốc gia đó có thể trở thành một quốc gia giàu có khi
nó phát huy được những lợi thế hiện tại.
Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ thống nhất , không tách rời nhau:
Khả năng chuyển hóa thành hiện thực và hiện thực lại chứa đựng những khả năng mới; khả
năng mới, trong những điều kiện nhất định, lại chuyển hóa thành hiện thực.
- Trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng, có thể tồn tại một
hoặc nhiều khả năng: khả năng thực tế, khả năng tất nhiên, khả năng gần, khả năng xa...
- Trong đời sống xã hội, khả năng chuyển hóa thành hiện thực phải có điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan.
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn , cần phải dụa vào
hiện thực để xác lập nhận thức và hành động. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức toàn diện
các khả năng từ trong hiện thực để có được phương pháp hoạt động thực tiễn phù hợp với sự
phát triển trong những hoàn cảnh nhất định; tích cực phát huy nhân tố chủ quan trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục đích nhất định.
4. Nội dung và hình thức
ĐN:
- Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố, những quá
trình tạo nên sự vật, hiện tượng.
- Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Ví dụ: Nội dung của 1 cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tó vật chất như tế bào, các khí quan
cảm giác, các hệ thống, các quá trình hoạt động của các hệ thống,.. để tạo nên cơ thể đó. Hình
thức của 1 cơ thể động vật là trình tự sắp xếp, liên kết các tế bào, các hệ thống,.. tương đối
bền vững trong cơ thể. Hay mỗi phân tử nước: các yếu tố vật chất àm cơ sở cấu thành nên nó
là 2 nguyên tử hidro và 1 nguyên tử oxi (nội dung), cách thức liên kết hóa học của chúng là
H-O-H (hình thức),…
Quan hệ biện chứng giữa nội dung và ý thức
- Nội dung và hình thức là 2 phương diện cấu thành nên mỗi sự vật, hiện tượng:
không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại mà chỉ có nội dung mà không có hình thức
nhất định.
- Cùng 1 nội dung nhưng có thể có những phương thức kết hợp khác nhau, ngược lại,
các nội dung khác nhau nhưng có thể có sự đồng dạng về phương thức kết hợp giữa
chúng.
- Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung thì dẽ thúc đẩy nội dung phát
triển và ngược lại.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình
thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong 2 mặt đó.
- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết phải
căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội
dung của nó.
- Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung trên
cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác, cũng cần phải thực
hiện những thay đổi đối với những hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở
sự phát triển của nội dung.
6. Bản chất và hiện tượng
ĐN:
- Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự tồn tại, vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng đó.
- Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của những mặt, những
mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
Ví dụ: Một trong những đặc tính bản chaastcura ánh sáng là tính sóng. Hiện tượng biểu hiện
của nó (qua thực nghiệm) là sự giao thoa bước sóng ( có thể quan sát được). Hay, trong xã
hội có giai cấp, ban chất của nhà nước là công cụ hống trị giai cấp, bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị nhưng tùy theo tương quan giai cấp và địa vị của giai cấp trong lịch sử mà sự thống
trị đó được thể hiện dưới hình thức khác nhau.
Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
- Sự tống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự
biểu hiện của 1 bản chất nhất định. Không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện
tượng, cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của 1 bản chất nào đó.
+ Khi nào bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi bản chất mất đi
thì hiện tượng cũng mất theo.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng thể hiện:
+Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt, phong phú và đa
dạng.
+ Bản chất là cái bên trong, còn hiện tượng là cái bên ngoài.
+ Bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài
mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức
đúng và đầy đủ bản chất.
- Trong nhận thức và thực tiễn, cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào
hiện tượng thì mới có thể đáng giá 1 cách chính xác về sự vật, hiện tượng đó và mới
có thể cải tạo căn bản sự vật, hiện tượng.
Câu 6: Hai quy luật: mâu thuẫn, lượng chất
1. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về của
chất và nguợc lại
Khái niệm chất và khái niệm lượng
- Khái niệm chất : Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các
sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự
vật, hiện tượng khác.
+ Tạo thành chất của sự vật , hiện tượng chính là các thuộc tính khách quan vốn có của nó .
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chỉ có thuộc tính cơ
bản mới tạo thành chất của sự vật, hiện tượng, khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất
của nó thay đổi. Cùng một thuộc tính , trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có
thể là không cơ bản . Chẳng hạn , Lênin đã đưa ra ví dụ về cái cốc, trong quan hệ với người
uống nước thì cái đáy cốc có lành hay không , đó là thuộc tính cơ bản . Trong mối quan hệ
với người dùng cốc để úp con bướm thì thuộc tính cơ bản là tính chất trong suốt của thủy tinh
, v.v ..
+ Sự phân biệt giữa chất và thuộc tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối . Một chất có nhiều
thuộc tính nhưng mỗi thuộc tính , với tư cách là một sự vật hay hiện tượng thì cũng được coi
là một chất vì nó lại bao gồm nhiều thuộc tính khác cấu thành nó . Chẳng hạn , mỗi nguyên tố
hóa học là một chất bao gồm nhiều loại nguyên tử khác nhau nhưng mỗi nguyên tử lại được
coi là một chất khác nhau , đi sâu vào kết cấu của các nguyên tử , những hạt có điện tích khác
nhau cũng là những chất khác nhau .
+ Mỗi sự vật , hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn . Mỗi giai
đoạn phát triển của sự của sự vật , hiện tượng lại có những chất khác . Mỗi sự vật , hiện tượng
không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất . Chẳng hạn , những mức độ trưởng thành của
cá nhân : ấu thơ → mầm non → nhi đồng → thiếu niên → thanh niên V.V ..
+ Chất của sự vật , hiện tượng còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa
các yếu tố cấu thành sự vật đó , do đó , chất của sự vật không chỉ thay đổi khi thay đổi những
yếu tố cấu thành mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó.
Ví dụ: than chì và kim cương...
+ Chất là mặt tương đối ổn định ( ít thay đổi), chẳng hạn , trạng thái của nước rắn, lỏng, khí
( chất ) , sự thay đổi về lượng của nhiệt độ ( lượng ) từ 40 đến 50 độ C chưa làm cho trạng
thái lỏng của nước thay đổi.
- Khái niệm lượng : Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật , hiện tượng về các phương diện : số lượng các yếu tố cấu thành , quy mô của sự tồn tại
, tốc độ , nhịp điệu của các quá trình vận động , phát triển của sự vật , hiện tượng .
+ Lượng cũng mang tính quy định khách quan . Bởi vì , sự vật , hiện tượng nào cũng có
lượng vì nó là một dạng của vật chất chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại
trong một thời gian nhất định ...
+ Lượng có nhiều loại khác nhau , có những lượng được diễn tả bằng những con số chính xác
có thể đo , đếm được như chiều cao , cân nặng của một người , một vật v.v .. ; có những
lượng khó đo lường được bằng những con số cụ thể mà chỉ có thể nhận thức được bằng khả
năng trừu tượng hóa như ý thức tham gia giao thông của người Việt Nam kém , phong trào
học tập , văn nghệ của một tập thể nào đó cao , v.v .. ; có những lượng là nhân tố quy định
bên trong nhưng cũng có những lượng nói lên những nhân tố bên ngoài , vv ..
+ Lượng là mặt thường xuyên biến đổi của sự vật , hiện tượng .
+ Sự phân biệt chất và lượng cũng chỉ là tương đối , cái trong mối quan hệ này được coi là
chất thì trong mối quan hệ khác được coi là lượng . Chẳng hạn , con số là một sự quy định về
lượng nhưng những con số khác nhau lại là những chất khác nhau , con số 7 chỉ sự phát triển
của lượng từ 1 đến 7 nhưng 7 lại là một chất khác với 6 , v.v
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
+ Chất và lượng của sự vật là hai mặt của cùng một sự vật , chúng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và
ngược lại . Chẳng hạn , tương ứng với cấu tạo H – O – H ( cấu tạo liên kết 2 nguyên tử hyđrô
và 1 nguyên tử ôxy ) thì một phân tử nước được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản ,
khách quan , vốn có của nó là không màu , không mùi không vị , có thể hòa tan muối , axít ...
Vì giữa chúng có mối quan hệ quy định lẫn nhau như vậy nên những biến đổi về lượng sẽ tất
yếu có khả năng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại . Chẳng hạn , quy định nên trạng thái
thể lỏng của nước chính là lượng nhiệt độ của nó (chứ không phải là số lượng nguyên tử H và
O), do đó khi lượng nhiệt độ này biến thiên thì tất yếu có khả năng dẫn đến sự biến đổi về
trạng thái của nước sang thể rắn, lỏng, khí.
+ Giới hạn mà trong đó , sự thay đổi về lượng ( tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm thay đổi về
chất được gọi là độ . Nói cách khác , độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa lượng và
chất , là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng ( tăng lên hoặc giảm đi ) chưa làm
thay đổi căn bản về chất của sự vật .
+ Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất , giới hạn
đó chính là điểm nút . Điểm nút dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ
làm thay đổi về chất của sự vật .
+ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy . Bước
nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn
phát triển mới . Bước nhảy rất đa dạng ( bước nhảy nhanh và chậm , lớn và nhỏ , toàn bộ và
cục bộ ... ) tùy theo mâu thuẫn , tính chất , điều kiện của mỗi sự vật .
+ Lưu ý : “ Độ ” , “ điểm núi ” , “ bước nhảy ” không phải là bất biến mà nó có thể thay đổi
tùy từng sự vật , hiện tượng , từng điều kiện , hoàn cảnh cụ thể ... Để làm rõ các khái niệm
trên , xét ví dụ : Nước nguyên chất , trong điều kiện 1 atmophe ở trạng thái thể lỏng ( chất )
được quy định bởi lượng nhiệt độ ( lượng ) từ 0 độ C đến 100 độ C ( độ ) . Khi lượng nhiệt độ
biến thiên đến ngưỡng 0 độ C hoặc 100 độ C đó ( điểm nút ) thì tất yếu xảy ra quá trình biến
đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí ( bước nhảy ).
- Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng: Chất mới ra đời sẽ tác
động trở lại tới sự thay đổi về lượng mới ( làm thay đổi quy mô , nhịp điệu , tốc độ phát triển
của sự vật ) . Như vậy , không chỉ sự thay đổi về lượng gây nên những thay đổi về chất mà cả
sự thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi về lượng . Chẳng hạn , nhịp điệu vận động ,
phát triển của xã hội dưới cơ chế thị trường nhanh hơn nhịp điệu vận động của xã hội dưới cơ
chế tập trung quan liêu , bao cấp , hay khi trở thành cử nhân thì tốc độ đọc , hiểu , giải quyết
một vấn đề sẽ tốt hơn khi còn là sinh viên ...
Tóm lại , sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành “ độ ” của sự vật .
Những thay đổi về lượn g dần dần đến giới hạn nhất định thì xảy ra “ bước nhảy ” , chất cũ bị
phá vỡ , chất mới ra đời cùng với độ mới . Đó chính là cách thức phát triển của sự vật , quá
trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động , biến đổi.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đó cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong
tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực
tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng , từ đó mới nhận thức
toàn diện về sự vật , hiện tượng
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật , hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa
thành những thay đổi về chất của sự vật , hiện tượng và ngược lại , do đó , trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn , tùy theo mục đích cụ thể , cần từng bước tích lũy về lượng để có thể
làm thay đổi về chất ; đồng thời , có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay
đổi về lượng của sự vật , hiện tượng .
- Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rơi vào “ tả khuynh ” – nhấn mạnh bước nhảy khi
chưa đủ sự tích luỹ về lượng ; bởi lẽ , khi ấy rất dễ rơi vào phiêu lưu , mạo hiểm . Đồng thời ,
phải tránh “ hữu khuynh ” – tuyệt đối hoá sự tích luỹ về lượng , không dám thực hiện bước
nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng , khi ấy dễ rơi vào bảo thủ , trì trệ , ngại khó . Khi tích luỹ về
lượng đã đủ thì phải thực hiện bước nhảy .
- Vì bước nhảy của sự vật đa dạng , phong phú cho nên trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn phải vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện ,
lĩnh vực cụ thể .
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm mâu thuẫn, mặt đối lập
- Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật , dùng để chỉ mối khái niệm mâu thuẫn
liên hệ thống nhất , đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật , hiện tượng
hoặc giữa các sự vật , hiện tượng với nhau .
Chẳng hạn , mối liên hệ thống nhất , đấu tranh và chuyển hóa giữa đồng hóa và dị hóa
trong cơ thể sinh vật . Đồng hóa là quá trình tổng hợp chất sống đặc trưng của cơ thể từ
những chất đơn giản , đồng thời tích lũy năng lượng ( như quá trình làm mới lại , tái tạo lại
các loại tế bào và mô của cơ thể đã bị phân hủy trong quá trình sống ) . Dị hóa là quá trình
phân hủy một phần các chất sống phức tạp trong cơ thể thành các sản phẩm đơn giản , đồng
thời và giải phóng năng lượng như quá trình oxy hóa , chuyển hóa các hợp chất hữu cơ phức
tạp để sinh ra năng lượng , cung cấp cho tất cả các hoạt động sống của cơ thể . Đồng hoá và
dị hoá vừa thống nhất , đấu tranh và chuyển hóa với nhau trong quá trình trao đổi chất của cơ
thể . Trong mỗi tế bào chúng xảy ra đồng thời và liên quan mật thiết với nhau . Nghĩa là trong
tế bào vừa có quá trình tổng hợp xây dựng cấu trúc tế bào , vừa có quá trình phân giải các
chất để cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của tế bào. Năng lượng giải phóng trong
quá trình dị hoá được sử dụng trong quá trình tổng hợp . Không có đồng hoá thì không có dị
hóa. Ngược lại không có dị hóa thì sẽ không có năng lượng để thực hiện quá trình đồng hoá.
- Khái niệm mặt đối lập dùng chỉ những mặt , những thuộc tính , những khuynh hướng
vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện , tiền đề tồn tại của nhau . Ví dụ ,
như điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử ; chân lý và sai lầm trong quá trình
phát triển nhận thức , vv ..
- Các tính chất chung của mâu thuẫn
+ Tính khách quan và tính phổ biến : Do mối liên hệ , sự chuyển hóa , sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa các mặt đối lập là cái vốn có và phổ biến trong mỗi sự vật , hiện tượng .
+ Tính đa dạng , phong phú : Mỗi sự vật , hiện tượng đều có thể bao hàm nhiều loại mâu
thuẫn khác nhau , biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau ; mỗi
mâu thuẫn giữ vị trí , vai trò khác nhau đối với sự tồn tại , vận động và phát triển của sự vật ,
hiện tượng ; trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất
khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn .
Quá trình vận động của mâu thuẫn
- Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ , ràng buộc , không
tách rời nhau , quy định lẫn nhau của các mặt đối lập , mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại.
Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất . Ví dụ , trong sinh vật có quá
trình đồng hóa thì phải có quá trình dị hóa , nếu chỉ có một quá trình thì sinh vật sẽ chết ,
v.v ..
- Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại ,
bài trừ , phủ định nhau của các mặt đối lập . Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc và
động lực của sự vận động và phát triển . Lênin khẳng định , “ sự phát triển là một cuộc “ đấu
tranh ” giữa các mặt đối lập ” . Ví dụ , sự đấu tranh giữa các tích âm và dương trong nguyên
tử ; giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị trong xã hội có đối kháng giai cấp , v.v ..
- Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa
của các mặt đối lập . Lênin khẳng định : “ Không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối
lập , mà còn là những chuyển hóa của mỗi quy định , chất , trưng , mặt , thuộc tỉnh sang mỗi
cái khác , sang cái đối lập với nó ” . Tuy nhiên , sự chuyển hóa của các mặt đối lập thường
không diễn ra đơn giản theo kiểu mặt đối lập này chuyển thành mặt đối lập kia một cách trực
tiếp và ngay lập tức. Mà sự chuyển hóa này diễn ra rất phức tạp, trải qua nhiều khâu trung
gian. Cũng không nên hiểu sự chuyển hóa của các mặt đối lập là một mặt còn , một mặt mất .
Vì các sự vật và hiện tượng trên thế giới muôn hình muôn vẻ , nên sự chuyển hóa của các mặt
đối lập cũng rất khác nhau. Ph . Ăngghen đã từng chỉ ra rằng “ thông qua sự đấu tranh thường
xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập
kia , hoặc lên những hình thức cao hơn , đã quy định sự sống của giới tự nhiên ” .
- Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập , sự đấu tranh giữa chúng là
tuyệt đối , còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối , có điều kiện , tạm thời ; trong sự thống
nhất đã có sự đấu tranh đấu tranh trong tính thống nhất của chúng .
- Các giai đoạn của quá trình vận động của mâu thuẫn : Khi mâu thuẫn mới xuất hiện ,
nó biểu hiện ở sự khác biệt không bản chất , mâu thuẫn sau đó chuyển sang giai đoạn khác
biệt bản chất . Những khác biệt bản chất trong những điều kiện phù hợp đều phát triển thành
sự đối lập . Tiếp tục phát triển , chúng chuyển thành các thái cực xung đột với nhau trong
mâu thuẫn , “ chuyển hóa vào nhau ” , và bằng cách nào đó đòi hỏi được giải quyết . Sau sự
giải quyết mâu thuẫn , đối tượng chuyển sang trạng thái chất mới với các mâu thuẫn mới .
Ví dụ , mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản đã nảy sinh từ thời kỳ hợp tác giản đơn , sản xuất
công xưởng và tồn tại ở đó lúc đầu dưới dạng khác biệt không bản chất , giữa một bên , là thợ
cả và bên kia , là những thợ bạn và người học việc . Trên thực tế , người học việc , khi trải
qua thời gian học nhất định , có thể trở thành thợ bạn , còn thợ bạn , sau khi tích lũy được
kinh nghiệm nhất định , có thể trở thành thợ cả - chủ xưởng . Nhưng trong quá trình phát triển
của sản xuất công xưởng , trình tự quan hệ đó giữa thợ cả với thợ bạn không thể tự dung
thành thợ cả , mà luôn dừng lại ở địa vị của người phải phục tùng , của người làm thuê . Sự
khác biệt không bản chất giữa thợ cả , thợ bạn và người học việc giờ đây chuyển thành sự
khác biệt bản chất . Tiếp theo với sự thay thế sản xuất công xưởng bằng công trường thủ công
, quan hệ đó đã chuyển từ sự khác biệt bản chất sang sự đối lập . Nếu trước đó , trong công
xưởng , chủ xưởng còn đích thân làm việc cùng thợ bạn và người học việc , thì ở công trường
thủ công , chủ không trực tiếp tham gia sản xuất nữa mà đã sống trên lao động của công nhân
làm thuê . Lợi ích của người chủ và công nhân làm thuê đã trực tiếp đối lập nhau Sản xuất
TBCN càng phát triển , thì mâu thuẫn đó càng gia tăng gay gắt và đạt tới điểm chín muồi, đòi
hỏi được giải quyết thông qua cách mạng vô sản. Sau cách mạng, vô sản từ giai cấp bị áp bức
trở thành giải cấp nắm quyền, còn tư sản bị loại khỏi quyền lực và chuyển sang vị thế giai cấp
phục tùng . Kết quả là thủ tiêu trạng thái xã hội cũ , hình thành trạng thái mới và cùng với nó
là những mâu thuẫn mới .
Một số loại mâu thuẫn: Dựa vào các căn cứ khác nhau , người ta chia ra thành các loại
mâu thuẫn khác nhau như mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài ; mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn không cơ bản ; mâu thuẫn đầu yếu và mâu thuẫn không chủ yếu , mâu thuẫn
đối kháng và mẫu thuẫn không đối kháng , vv ..
Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan , tính phổ biến và là nguồn gốc , động lực của sự
vận động , phát triển do đó trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn , phát
hiện mâu thuẫn , phân tích đầy đủ các mặt đối lập , nắm được bản chất , nguồn gốc , khuynh
hướng của sự vận động và phát triển .
- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng , phong phú do đó , trong việc nhận thức và giải quyết
mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể , tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu
thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp .
3. Quy luật phủ định của phủ định
KN:
-Phủ định là khái niệm chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá
trình vận động và phát triển .
-Có hai loại khái niệm khác nhau về phủ định, là phủ định siêu hình và phủ định
biện chứng:
+Phủ định siêu hình là sự phủ định chấm dứt sự phát triển
+Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật. Chẳng hạn, quá trình “hạt giống nảy mầm”, trong trường hợp
này, cái mầm ra đời từ cái hạt, sự ra đời của nó là sự phủ định biện chứng đối
với cây hạt nhờ đó giống loài này tiếp tục quá trình tồn tại và phát triển.
Phủ định biện chứng có đặc điểm: mang tính khách quan vì nguyên nhân của
phủ định nằm bên nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết quả của quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong của bản thân nó, tạo ra
khả năng cái mới ra đời thay thế cái cũ. Vì thế phủ định biện chứng là sự thân
phủ định, mang tính kế thừa. Kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ
nhân tố trái quy luật, cái mới ra đời trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ
tạo nên tính liên tục của sự phát triển.
Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
-Tính chu kỳ của sự phát triển: Từ một điểm xuất phát, trải qua một số lần phủ
định, sự vật dường như quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn.
+Cơ chế của quá trình phủ định của phủ định:
Cái khẳng định → Cái phủ định → Phủ định của phủ định
A (PD lần 1) B (PD lần 2) A
+Số lần phủ định đối với mỗi chu kì của từng sự vật cụ thể có thể khác nhau.
→ Phủ định lần thứ nhất: Làm cho sự vật trở thành cái đối lập với chính nó,
tức là chuyển từ kế khẳng định sang phủ định.
→ Phủ định lần thứ hai (phủ định cái phủ định): Sự vật mới ra đời, đối lập với
cái đối lập nên sự vật dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, đó
là đặc điểm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định. Ph. Ăngghen viết: “ Hãy
lấy ví dụ một hạt thóc. Có hàng nghìn triệu hạt thóc giống nhau được xảy ra, nấu
chín và đem làm rượu, rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt thóc như thế gặp
những điều kiện bình thường đối với nó, nếu nó rơi vào miếng đất thích hợp, thì
nhờ ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm, trong mình nó sẽ xảy ra một sự biến
hóa riêng, nó nảy mầm: hạt thóc biến đi không còn là hạt thóc nữa, nó bị phủ
định, bị thay thế bởi một cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ định hạt thóc. Nhưng
cuộc sống bình thường của cây này như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn
và cuối cùng sinh ra những hạt thóc mới, và khi hạt thóc đã chín thì thân cây chết
đi,bản thân nó bị phủ định. Kết quả của sự phủ định của phủ định này là chúng ta
lại có hạt thóc ban đầu, nhưng không phải chỉ là một hạt mà nhiều gấp 10, 20, 30
lần”
+Nguyên lý tính chu kỳ của sự phát triển có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng: nếu nắm được chu kỳ phát triển của sự vật,hiện tượng, tất yếu dự báo
được tương lai của nó .
-Khuynh hướng của sự phát triển (theo đường “xoáy ốc”): Phép biện chứng duy
vật thừa nhận, vận động phát triển đi lên là xu hướng chung của thế giới nhưng
không diễn ra theo đường thẳng mà diễn ra theo đường “xoáy ốc” quanh co,
phức tạp. Lênin đã từng khẳng định:” Nếu quan niệm lịch sử thế giới phát triển
đều đặn, không có vấp váp, quanh co, không có thụt lùi, là không biện chứng,
không khoa học, không đúng về mặt lý luận”, sở dĩ như vậy là vì: trong điều kiện
nhất định, cái cũ tuy đã cũ nhưng còn khó những yếu tố, mặt, bộ phận vẫn mạnh
hơn cái mới. Cái mới vì là mới nên còn non nớt, chưa có khả năng thắng ngay
cái cũ. Do đó, có lúc ,có nơi cái mới hợp quy luật của sự phát triển nhưng vẫn bị
cái cũ tác động trở lại ,gây khó khăn, cản trở, cái mới phải tạm thời thụt lùi. Vì
vậy, sự phát triển của tính quanh co, phức tạp ra theo diễn ra theo đường “xoáy
ốc”.
Ý nghĩa phương pháp luận :
-Khi xem xét sự vận động phát triển của sự vật, phải xem xét nó trong quan hệ
đối lập: cái mới ra đời từ cái cũ, cái lạc hậu, cái phủ định ra đời từ cái khẳng
định. Có như vậy, mới thấy được những nhân tố tích cực ở cái cũ mà cái mới
cần phải kế thừa trong sự phát triển đi lên.
-Sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc”, do vậy phải kiên trì, chờ đợi ,không
được nôn nóng, vội vàng nhưng phải theo hướng bảo vệ cái mới, ủng hộ cái
mới, tin tưởng cái mới, hợp quy luật nhất định sẽ chiến thắng; cần khắc phục tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới.
-Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ
phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán; kế thừa những nhân tố hợp quy luật
và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật, hiện
tượng phát triển theo hướng tiến bộ.
Câu 7: QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển LLSX, biện
chứng giữa tồn tại XH và ý thức xh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
tượng tầng
1. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
a) Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất
- Quan niệm : Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành
sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn , phát triển của con người .
Xét về thực chất , khái niệm LLSX dùng để chỉ sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên của
con người . Sức mạnh đó được tạo ra trong đời sống hiện thực bằng sự kết hợp giữa sức lao
động ( sức lực vật chất và tinh thần – đặc biệt là tri thức ) của con người với những tư liệu sản
xuất trong quá trình lao động của họ .
- Kết cấu của LLSX: Các yếu tố tạo thành LLSX gồm có TLSX ( trong đó , công cụ sản
xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người ) và người
lao động ( kỹ năng , kỹ xảo , năng lực sáng tạo ... ) . Trong hai yếu tố đó , TLSX ( công cụ
lao động ) là yếu tố “ động ” nhất của LLSX , còn người lao động là nhân tố quan trọng nhất (
bởi vì , tư liệu sản xuất có nguồn gốc tử lao động của con người và được sử dụng bởi người
lao động ) .
- Hiện nay , trong sự phát triển của LLSX , khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn . Sự
phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát
triển . Ngày nay khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều
biến đổi to lớn trong sản xuất , đời sống và trở thành “ lực lượng sản xuất trực tiếp ” như dự
báo của C.Mác . Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất đã làm cho LLSX có
bước phát triển nhảy vọt , tạo thành cuộc cách mạnh khoa học và công nghệ hiện đại .
Quan hệ sản xuất
- Khái niệm: Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức và quản lý sản xuất , quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra . Có thể định
nghĩa vắn tắt QHSX là mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người nảy sinh trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội .
+ Quan hệ sở hữu về TLSX giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ khác . Địa vị của các
tập đoàn người trong lao động sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm đều do chế độ sở hữu
và hình thức chiếm hữu đối với TL.SX quy định . Trong lịch sử xã hội , đã có hai kiểu sở hữu
TLSX đó là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng . Hiện nay , ở các quốc gia phát triển kinh tế
thị trường hiện đại có sự tồn tại của nhiều loại hình sở hữu đan xen hỗn hợp tạo thành một hệ
thống cơ cấu sở hữu thống nhất trong tính đa dạng của nó . sở hữu tư nhân tư bản , sở hữu tư
nhân của những người sản xuất nhỏ , sở hữu Nhà nước , sử hữu tập thể , sở hữu hỗn hợp
trong các tập đoàn kinh tế , v … v ..
+ Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất , đến việc tổ
chức , điều khiển quá trình sản xuất , nó có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình của
sản xuất .
+ Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của
con người do đó , nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất nên nó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển .
Như vậy , quan hệ tổ chức và quản lý và quan hệ phân phối có thể góp phần củng cố
và phát triển quan hệ sở hữu hoặc làm xói mòn , biến dạng quan hệ sở hữu , làm cho quan hệ
sở hữu trở thành hình thức , không thể hiện được trên thực tế . Do đó , không thể coi nhẹ vai
trò và tác dụng của quan hệ tổ chức và quản lý và quan hệ phân phối trong chinh thể của
QHSX . Đại hội VI của Đảng ( 1986 ) đã khẳng định trong quá trình cải tạo XHCN , Đảng đã
mắc khuyết điểm : “ thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà
không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối ” .
b) Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng , trong đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX .
- Sự thống nhất giữa LLSX và QHSX : LLSX và QHSX là hai phương diện cơ bản , tất
yếu của mỗi phương thức sản xuất – mỗi quá trình sản xuất nhất định , do đó , chúng tồn tại
trong tính quy định lẫn nhau , chi phối lẫn nhau trong quá trình sản xuất của xã hội . Nói cách
khác, PTSX hay mỗi quá trình sản xuất không thể tiến hành được nếu như thiếu một trong hai
phương diện đó, trong đó LLSX chính là nội dung vật chất kỹ thuật , công nghệ của quá trình
này, còn QHSX đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó .
- Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX :
Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX , LLSX đóng vai trò quyết định đối với QHSX .
Nói cách khác , QHSX phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát triển của LLSX . Tính quyết định
của LLSX đối với QHSX được thể hiện trên hai nội dung : LLSX nào thì QHSX ấy và cũng
do đó , khi LLSX có những thay đổi thì cũng tất yếu sẽ đòi hỏi phải có những thay đổi nhất
định đối với QHSX trên các phương diện sở hữu , tổ chức và quản lý , phân phối . Sự thay
đổi này diễn ra nhanh chậm khác nhau , mức độ khác nhau , phạm vi khác nhau ... nhưng tất
yếu sẽ diễn ra những thay đổi nhất định bởi vì những QHSX chỉ là hình thức kinh tế của quá
trình sản xuất , còn LLSX đóng vai trò là nội dung vật chất của quá trình đó . Biểu hiện :
+ Sự phát triển của LLSX bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội là phải
không ngừng phát triển sản xuất , nâng cao năng suất lao động →Muốn vậy , con người
không ngừng cải tiến đổi mới công cụ lao động ; đồng thời trình độ của người lao động cũng
không ngừng nâng cao , phân công lao động xã hội ngày càng sâu →LLSX không ngừng
phát triển
→ Sự phát triển của LLSX được đánh dấu bằng trình độ của LLSX : Biểu hiện ở trình độ của
công cụ lao động , trình độ của người lao động , trình độ tổ chức và phân công lao động xã
hội trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất .
→ Tính chất của LLSX : Khi LLSX là công cụ thủ công , phân công lao động xã hội kém
phát triển thì LLSX chủ yếu có tính chất cá nhân ; khi LLSX đạt tới trình độ cơ khí , hiện
đại , phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa .
+ Sự vận động , phát triển của LLSX làm cho QHSX biến đổi phù hợp với nó
→ Một PTSX mới ra đời , khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX , sự phù
hợp này thể hiện ở chỗ , tất cả các mặt của QHSX đều “ tạo địa bàn đầy đủ cho LLSX phát
triển , nghĩa là QHSX tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
với TLSX → Thúc đẩy LLSX phát triển
→ Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở
thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX → QHSX trở thành “ xiềng xích ” của
LLSX , kìm hãm LLSX phát triển →Yêu cầu khách quan phải thay thế QHSX cũ bằng
QHSX mới, phù hợp trình độ phát triển mới của LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển → PTSX
mới ra đời thay thế cho PTSX cũ
- Vai trò tác động trở lại của QHSX đối với LLSX : QHSX luôn có khả năng tác động
trở lại, ảnh hưởng trở lại đối với việc bảo tồn , khai thác , sử dụng , tái tạo và phải triển LLSX
. Quá trình tác động trở lại của QHSX đối với LLSX có thể diễn ra với hai khả năng :
+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó là điều
kiện là địa bàn trong đó có thể kết hợp tối ưu những yếu tố của LLSX làm cho năng suất và
hiệu quả tăng lên , thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển .
+ Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , tức là
khi các quan hệ sở hững , tổ chức hay phân phối đã lỗi thời , hoặc “ tiên tiến ” một cách giả
tạo thì nó sẽ gây cản trở cho việc phát huy những năng lực của LLSX , kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất .
- Sự vận động của mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX – nguồn gốc , động lực cơ bản của
sự vận động , phát triển các PTSX trong lịch sử .
+ Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng , tức là mối quan
hệ thống nhất của hai xu hướng có khả năng vận động trái ngược nhau . Sự vận động của mâu
thuẫn biện chứng này là đi từ sự thống nhất đến khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột
giữa nhu cầu phát triển của LLSX với QHSX kìm hãm sự phát triển đó , khi đó bắt đầu nhu
cầu của những cuộc cải cách , hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng , nhằm thực hiện sự cải
biến những QHSX hiện thời theo hướng làm cho nó phù hợp với nhu cầu phát triển của
LLSX , nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của QHSX với LLSX .
+ Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập là vì tính
chất biến đổi của LLSX và QHSX khác nhau : LLSX có xu hướng " động " , còn QHSX thì
lại có xu hướng " tĩnh
→ Xu hướng động và tĩnh của hai phương diện này đều là khách quan .
Ý nghĩa phương pháp luận :
- Để xác lập , hoàn thiện hệ thống QHSX của xã hội , cần phải căn cứ vào thực trạng
( tình hình thực tế ) phát triển của LLSX hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ không phải
căn cứ vào ý muốn chủ quan.
- Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của LLSX với QHSX đang kìm
hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến ( cải cách , đổi mới...) mà cao hơn là
một cuộc cách mạng xã hội để có thể giải quyết được mâu thuẫn này
Nhận thức và vận dụng qui luật này ở Việt Nam
- Thời kỳ trước đổi mới năm 1986
- Từ đổi mới ( 1986 ) đến nay
2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Khái niệm cơ sở hạ tầng
- Khái niệm CSHT dùng để chỉ toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội Như vậy , thực chất đề cập đến CSHT là đề cập đến cơ sở kinh tế của xã hội ( không phải
đề cập đến kết cấu hạ tầng kỹ thuật của xã hội vì đó là cái thuộc về LLSX ) .
- Kết cấu của CSHT của một xã hội gồm : Quan hệ sản xuất thống trị ( chính thống ) ;
quan hệ sản xuất tàn dư ( của PTSX cũ ) ; quan hệ sản xuất mới ( tồn tại dưới hình thái mầm
mống ) →Trong đó QHSX thống trị chiếm vị trí chủ đạo , chi phối các quan hệ sản xuất
khác , định hướng sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho
chế độ kinh tế của một xã hội nhất định . Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất cấu
thành CSHT của một xã hội phản ánh tính chất vận động , phát triển liên tục của LLSX với
các tính chất kế thừa , phát huy và phát triển . đang và mà
Ví dụ , cơ sở hạ tầng ( hay cơ sở kinh tế ) ở Việt Nam hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều
thành phần ( kinh tế Nhà nước , tập thể , tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ) , trong đó , thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo . Kết cấu kinh tế đó được
xác lập trên cơ sở hệ thống ba loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất : sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý , sở hữu tập thể của những người lao động , sở hữu tư nhân với
nhiều hình thức cụ thể khác nhau , trên cơ sở đó hình thành nên nhiều hình thức tổ chức kinh
doanh đan xen hỗn hợp với nhiều loại hình phân phối đa dạng .
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì CSHT cũng mang tính đối kháng giai cấp ( đề
cập đến CSHT của một xã hội là đề cập đến QHSX thống trị ) , giai cấp thống trị nắm trong
tay TLSX , giai cấp bị trị không có TLSX , lợi ích cơ bản đối lập nhau ... nên tất yếu mâu
thuẫn với nhau .
Kiến trúc thượng tầng
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ của bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý
thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị, xã hội tương ứng được hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.
- Kết cấu của KTTT : Bao gồm hệ thống các hình thái ý thức xã hội ( chính trị , pháp
luật , đạo đức ... ) và các thiết chế chính trị - xã hội trong ứng ( nhà nước , đảng phái đoàn thể
xã hội ... ) .
- Trong xã hội có giai cấp , đặc biệt là trong các xã hội hiện đại , hình thái ý thức chính
trị và pháp quyền cùng với hệ thống thiết chế tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết
chế , tổ chức quan trọng trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội .
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp , KTTT có đặc điểm cũng mang tính đối kháng
giai cấp vì KTTT được hình thành từ CSHT , CSHT xu thế nào thì KTTT cũng như thế đó ,
đo đó , CSHT mang tính đối kháng giai cấp thì KTTT cũng mang tính đối kháng giải cáp
b) Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Khái quái mối quan hệ giữa CSHT và KTTT : CSHT và KTTT là hai phương diện cơ
bản của đời sống xã hội ( phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội ) , chúng tồn
tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau , tác động lẫn nhau , trong đó , CSHT
đóng vai trò quyết định đối với KTTT , đồng thời , KTTT thường xuyên có sự tác động trở lại
( theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cục ) đối với CSHT.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
- Thứ nhất , tương ứng với một CSHT nhất định sẽ sản sinh ra một KTTT phù hợp , có
tác dụng bảo vệ CSHT đó , điều đó có nghĩa là CSHT nào thì KTTT ấy .
- Thứ hai , tính chất mâu thuẫn trong CSHT được phản ánh thành mâu thuẫn trong
KTTT , sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã
hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế
của xã hội .
- Thứ ba , giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội , đồng thời cũng là
giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong KTTT , còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác
ở vào địa vị phụ thuộc .
- Thứ tư , những biến đổi trong CSHT tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi
ứng trong KTTT ( cơ sở kinh tế thay đổi thì chính trị , tư tưởng , thần của xã hội cũng thay
đổi theo ) . Tuy nhiên , sự thay đổi của KTTT diễn ra phức tạp :
+ Có yếu tố của KTTT biến đổi nhanh như nhà nước, pháp luật... khi giai cấp mới lên nắm
quyền → tác động →thay đổi →bảo vệ CSKT mới .
+ Có yếu tố của KTTT biến đổi chậm như đạo đức , tôn giáo , phong tục, tập quán ..
| 1/28

Preview text:

Câu 1: Khái niệm phép biện chứng và các hình thức trong lịch sử
Theo triết học Mác - Lênin, biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tưởng
tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của sự vật hiện tượng quá trình trong tự
nhiên, xã hội có tư duy. Có phép biện chứng chủ quan và khách quan. Biện chứng khách
quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng
khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành
các nguyên lí, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các quy tác phương pháp luật của
nhận thức và thực tiễn
Các hình thức cơ bản của phép biện chứng: -
Phép biện chứng chất phác thời đại có thể hiện nét trong triết học phương Đông và
phương Tây cổ đại. Trong triết học Trung Quốc, trong thuyết Âm - Dương, Âm và Dương
tồn tại trong mối liên hệ quy định lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái bất biến với cái biển
đổi ...; trong thuyết Ngũ hành, năm yếu tố Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ tồn tại trong mối
liên hệ tương sinh, tương khắc với nhau. Các yếu tố đó tác động, chuyển đổi lẫn nhau, ràng
buộc, quy định lẫn nhau, tạo ra sự thay đổi trong vạn vật.… Trong triết học Hi Lạp, Ăngghen
đã từng nhận xét “các nhà triết học Hi Lạp cổ đại, hầu hết họ là những nhà biện chứng bẩm
sinh”, tiêu biểu là: Hêraclit, Platôn, đặc biệt là Arixtốt. Chằng hạn Hêraclit coi sự vận
chuyển, sự biến đổi của thế giới cũng giống như sự chuyển động, đều trôi đi, chạy đi của một
con sông, người ta "không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông", v.v ... Đặc trưng cơ
bản chung của phép chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ. Mặc dù còn hạn chế nhưng nhìn
chung, phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là chỉnh thể thống nhất, giữa các bộ phận của
thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động, quy định lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi. -
Phép chứng duy vật cổ điển Đức (bắt đầu từ Cantơ và phát triển đến đỉnh cao trong
phép chứng duy tâm của Hêghen): Heghen đã nghiên cứu và phát triển các tư tưởng biện
chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ lý luận sâu sắc và có tính hệ thống chặt chẽ,
trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển. Tuy nhiên, PBC trong triết học Heghen là
phép biện chứng được xây dựng trên lập trường duy tâm khách quan (coi biện pháp chính là
quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của
biện chứng khách quan. Theo Heghen, "ý tưởng tuyệt đối" là điểm khởi đầu của tồn tại, tự
"tha hóa" thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. Thực chất biện
chứng của Heghen là biện chứng của "ý niệm tuyệt đối" hay biện chứng của lĩnh vực tinh
thần, tư duy nên hệ thống lý luận này chưa phản ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các
mối liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ph.Ăngghen đã từng
nhận xét: Hêghen là nhà triết học vĩ đại nguời Đức, ông là người đầu tiên trong lịch sử, trình
bày phép biện chứng một cách đầy đủ nhất, sâu sắc nhất và súc tích nhất. Tuy nhiên, phép
biện chứng lại bị Hêghen trình bày một cách duy tâm, lộn ngược và không triệt để -
Phép biện chứng duy vật: Mang tính khoa học và cách mạng do C.Mác và Ph.
Ăngghen sáng lập, trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý trong lịch sử PBC, đặc biệt là kế
thừa và cải tạo phép biện chứng của Hêghen, đồng thời phát triển PBC trên cơ sở thực hiện mới.
Câu 2: Định nghĩa vật chất, nguồn gốc ra đời của ý thức
Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người qua cảm giác, được cảm giác của chúng chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.  Phân tích định nghĩa: -
Thứ nhất: khái niệm VC dưới góc độ triết học dùng để chỉ VC nói chung, vô hạn,
không sinh ra, không mất đi. Các dạng VC mà các nhà KH cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn,
có sinh ra, có mất đi, chuyển hoá thành cái khác. -
Thứ hai: thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng VC là thuộc tính tồn tại khách quan. -
Thứ ba: VC dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở con
người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người, do đó, VC là cái
có trước; cảm giác, ý thức của con người có sau. Ý tức là sự phản ánh đối với VC, VC là cái
được ý thức phản ánh.  Ý nghĩa: -
Phân biệt được sự khác nhau giữa khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học
với vật chất với tư cách là phạm trù của các khoa học chuyên ngành, khắc phục hạn chế trong
quan niệm về vật chất của CNDV cũ. -
Giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường DVBC, khắc phục được
quan điểm duy vật siêu hình trước đó, chống CNDT, thuyết bất khả trí .... -
Khắc phục được cuộc khủng hoảng trong KHTN, mở đường cho khoa học tự nhiên
phát triển → Triết học và khoa học tự nhiên có mối quan hệ biện chứng với nhau: thành tựu
của KHTN giúp triết học khái quát, tổng kết thế giới một cách chính xác hơn, ngược lại, triết
học duy vật biện chứng định hướng về thế giới quan khoa học cho các nhà khoa học tự nhiên... -
Với định ghĩa này, phạm trù vật chất không chỉ dừng lại ở lĩnh vực tự nhiên mà còn
mở rộng sang cả lĩnh vực xã hội, khẳng định đâu là vật chất/ý thức trong lĩnh vực xã hội
→Định nghĩa này là cơ sở lý luận khoa học để khẳng định rằng, trong lĩnh vực xã hội, vật
chất biểu hiện dưới dạng tồn tại xã hội, yếu tố quan trọng nhất tạo nên tồn tại xã hội là lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .... nó đã làm sáng tỏ quan điểm duy vật về lịch sử. 
Nguồn gốc ra đời của ý thức:
Nguồn tự nhiên của ý thức: Các yếu tố tạo thành các nguồn tự nhiên của ý thức là bộ
óc của con người và hoạt động của nó cùng với mối quan hệ của con người với thế giới quan.
Trong mối quan hệ này, thế giới quan tác động đến bộ óc của con người từ đó tạo ra khả năng
hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản
ánh của con người về thế giới khách quan. -
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính tất cả các dạng
vật chất, nó được hiển thị dưới nhiều hình thức, trình độ: phản ánh vật chất, hóa học; phản
ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức). Những
hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của các dạng vật chất tự nhiên. -
Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ
óc người. Nó được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não con người
khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có chủ
động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. -
Các phản hồi hình thức: Phản ánh vật lý, hóa học; Phản ánh sinh học; Phản ánh tâm
lý; Phản ánh ý thức (hình thức phản ánh cao nhất, chỉ có ở con người). (Lấy ví dụ).
Nguốc gốc xã hội của ý thức: Yếu tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất hình thành nên ý
thức là lao động và ngôn ngữ. - Lao động:
+ Lao động là hoạt động có mục tiêu của con người, sử dụng công cụ lao động tá động vào
giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người. + Vai trò của lao động:
→Làm thay đổi cơ thể sinh học của con người (bộ óc tiếp tục phát triển cả về lượng và chất;
do sử dụng công cụ lao động nên đã giải phóng hai chi trước, tạo thế đứng thẳng cho con
người; cơ quan phát âm phát triển...).
→Giúp cho con người hiểu biết hơn về giới tự nhiên (làm cho thế giới quan bộc lộ những
thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của mình) ... Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt
động của các giác quan, tác động đến bộ óc con người và bằng hoạt động của bộ óc, tri thức
nói riêng, ý thức nói chung về thế giới khách quan được hình thành và phát triển.
→Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh ở họ nhu cầu phải
có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng → Cơ sở để xuất hiện ngôn ngữ - Ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức, là cái vỏ vật chất của tư duy + Vai trò của ngôn ngữ:
→Là công cụ để con người tư duy trừu tượng, khái quát bản chất của sự vật, hiện tượng.
→Là phương tiện để giao tiếp, biểu đạt tư duy, ý thức
→Là phương tiện giúp con người lưu trữ thông tin, truyền đạt kinh nghiệm, tư tưởng từ thế
hệ này sang thế hệ khác→Khong có ngôn ngữ, ý thức không thể hình thành, phát triển, không
thể thể hiện ra bên ngoài
 Yếu tố tự nhiên quyết định sự hình thành YT
 Yếu tố xã hội quyết định sự pt của YT
Câu 3: Khái niệm thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức  Khái niệm:
là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính mục đích của Thực tiễn con
người mang tính lịch sử xh nhằm cải tạo tự nhiên, xh, tư duy -
Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì hoạt động VC mang tính mục đích khác nhau -
Tính chất của hoạt động thực tiễn:
+ Là hoạt động có tính cộng đồng xã hội.
+ Là hoạt động có tính lịch sử cụ thể.
+ Là hoạt động có tính sáng tạo, có mục đích cải tạo tự nhiên, hoàn thiện con ng. -
Các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: quá trình của con người sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, tạo ra của cải vật chất cho xã hội ( ví dụ: dung cuốc đi cuốc đất trồng cây vải, trồng mít,…)
+ Hoạt động chính trị-xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị-xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. ( ví
dụ: đoàn thanh niên, hội sinh viên)
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành
trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của
tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu
 Các hoạt động trên có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó hoạt
động sản xuất vc đóng vai trò quyết định nhất. 
Vai trò của nó đối với nhận thức -
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức:
+Đối tượng nhận thức là thế giới khách quan, nhưng nó không tự bộc lộ các thuộc tính, nó
chỉ hoạt động khi con người tác động vào bằng hoạt động thực tiễn, tức là thực tiễn phải là
điểm xuất phát, cơ sở trực tiếp hình thành nên quá trình nhận thức.
+ Thế giới khách quan luôn vận động, để nhận thức kịp tiến trình vận động của nó, con người
bắt buộc phải thông qua hoạt động thực tiễn. -
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Những tri thức con người đạt được trong quá
trình nhận thức phải áp dụng vào hiện thực và cải tạo hiện thực, sự áp dụng đó thông qua
thực tiễn. Đó là sự vật chất hóa những quy luật, tính tất yếu đã nhận thức được. Do đó, thực
tiễn là mục đích chung của các ngành khoa học. -
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra những chân lý, tức là kiểm tra đúng sai của các tri
thức mới: Những tri thức mới, thông qua nhận thức con người có được, để kiểm tra tính đúng
đắn của nó, phải dựa vào thực tiễn. Thực tiễn chính là thước đo giá trị những tri thức mới đó,
đồng thời thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Câu 4: Hai nguyên lý: mối liên hệ phổ biến và sự phát triển
1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
 Khái niệm: -
Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tuợng hoặc giữa các mặt, các yều tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. -
Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ: Tính phổ biến của các mối liên hệ; chỉ
những mối liên hệ tồn tại (đuợc thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới → Như vậy,
khái niệmn MLHPB được dùng với hai nghĩa cơ bản đó là dùng để chỉ tính phổ biến của các
mối liên hệ; dùng để chỉ sự khái quát những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất như mối
liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả, bản chất vfa hiện tượng... Với tư cách là một nguyên lý
triết học thì nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật bao hàm cả hai nghĩa trên. -
Tóm tắt nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Không có sự vật, hiện tượng nào
tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tại khác mà chúng luôn nằm trong mối liên hệ
đa dạng trong quá trình tồn tại và chuyển hóa của mình. 
Tính chất của mối liên hệ -
Tính khách quan của các mối liên hệ: Mối liên hệ (sự quy dịnh, tác động và chuyển
hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản chúng) là cái vốn có của các sự vật,
hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay do đấng siêu nhiên
tạo ra. Chỉ có liên hệ với nhau, sự vật, hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát triển. Con
nguời chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ trong hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ như mối liên hệ trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng hóa và dị hóa); mối
liên hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường, v.v. . -
Tính phổ biến của các mối liên hệ
+ Không chỉ có các sự vật, hiện tượng liên kết với nhau, mà các yếu tố, bộ phận cấu thành
chúng cũng liên hệ với nhau. Không phải chỉ có các thời kỳ trong một giai đoạn, các giai
đoạn trong một quá trình liên hệ với nhau, mà giữa các quá trình cũng liên hệ với nhau trong
sự vận động và phát triển của thế giới.
+ Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, tư duy, các sự vật, hiện tượng cũng liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau. -
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình
khác nhau thì các mối liên hệ khác nhau; một sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác
nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ
yếu...), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện tượng
đó; một mối liên hệ trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trò cũng khác nhau... 
Ý nghĩa phương pháp luận -
Quan điểm toàn diện
Trong hoạt động nhận thức và xử lý các tình huống thực tiến:
+ Cần xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố ... của
chính sự vật, hiện tượng đó và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự
vật, hiện tượng khác, đồng thời, xem xét mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
các yếu tố, các mặt của chính bản thân sự vật, hiện tượng ấy. Chặng hạn, muốn hiểu được
triết học Mác - Lênin chúng ta phải nắm được các nguyên lý, phạm trù, quay luật cơ bản và
mối liên hệ của chúng; tìm ra được mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức của các khoa
học khác; mối liên hệ với đời sống thực tiễn và ngược lại...
+ Xem toàn diệnnhưng không có nghĩa là dàn trải mà cần phải phân biệt được từng mối liên
hệ, phải rút ra được các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, chủ yếu... để hiểu rõ bản
chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả. Ví dụ, trong
kháng chiên chống Pháp, Mỹ có nhiều lĩnh vực, nhiều yếu tố... mà Đảng ta cần phải giải
quyết nhưng cần phải tập trung vào lĩnh vực chính. Hiện nay, muốn phát triển đất nước cần
phát triển toàn diện nhiều mặt, lĩnh vực, nhưng phải tập trung vào lĩnh vực chủ yếu, tạo động
lực giúp đất nước phát triển.
+ Thực hiện quan điểm toàn diện sẽ giúp con người tránh được hoặc hạn chế được sự phiến
diện, siêu hình trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn.
Chẳng hạn, đánh giá thành tựu và hạn chế trong công cuộc đổi mới đất nước như thế nào mới
đúng, văn hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam cần xử lý như thế nào? ... -
Quan điểm lịch sử - cụ thể
+ Khi nhận thức và tác động vào sự vật, hiện tượng phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh, môi
trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
+ Xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ
thể để từ đó có những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực
tiễn. Chẳng hạn, từ quan điểm này có thể trà lời cho câu hỏi vì sao từ khi thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta lại xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; tại sao đổi
mới toàn diện đất nước.nhưng lại trọng tâm vào đổi mới kinh tế...
+ Vận dụng quan điểm này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn sẽ tránh được quan điểm
chiết trung, ngụy biện... Chẳng hạn, trong cuộc sống có khi nào mà một cá nhân, tập thể mắc
lỗi dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nhưng không chịu trách nhiên mà lại đổ lỗi cho khách quan
hay không? Chất lượng đào tạo đại học của Việt Nam rất thấp người ta lại thường đổ lỗi cho
đầu tư của Nhà nước còn ít, cơ sở vật chất ở các trường còn lạc hậu...
2. Nguyên lý về sự phát triển  Khái niệm phát triển -
Khái quát quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng về sự phát triển. -
Khái niện phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng
tiến lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. -
Tóm tắt nội dung nguyên liệu về sự phát triển: Mọi sự vật, hiện tượng không ngừng
vận động trong khuynh hướng chung là phát triển. Nguồn gốc của sự vận động, phát triển là
mâu thuẫn của sự vật. Cách thức của sự vận động, phát triển là lượng của sự vật đổi dẫn đến
chất của sự vậy đổi và ngược lại. Khuynh hướng của sự vận động, phát triển diễn ra quanh
co, phức tạp qua quá trình phủ định của phủ định, được biểu hiện bằng hình xoáy ốc đi lên. -
Khái niệm “phát triển” không đồng nhất với khái niệm “vận động”. 
Tính chất của sự phát triển -
Tính khách hàquan của sự phát triển: Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong
bản thân sự vật, đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại
và vận động của sự vật, hiện tượng, nhờ đó sự vật luôn phát triển. Chẳng hạn, quá trình phát
sinh một giống, loài mới diễn ra một cách khách quan theo quy luật tiến hóa của giới tự
nhiên, con người muốn sáng tạo ra một giống loài mới thì cũng phải nhận thức và làm theo quy luật đó, vv... -
Tính phổ biến của sự phát triển: Phát triển không phải là đặc tính riêng của một lĩnh
vực nào đó mà phát triển là khuynh hướng chung của thế giới, diễn ra trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy; trong mọi sự vật, hiện tượng, quá trình → Trong mỗi quá trình biến
đổi có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
Chẳng hạn, sự phát triển của giới động vật thể hiện ở khả năng nghi của nó trước sự biến đổi
phức tạp của môi trường, v.v... -
Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có sự khác nhau trong sự phát
triển; bản thân mỗi sự vật cũng có sự phát triển không giống nhau...→Nguyên nhân là do:
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong không gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác động của
nhiều sự vật, hiện tượng, yếu tố khác nhau...→ Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. 
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần phải có quan điểm phát triển: -
Khi xem xét sự vật phải đặt chúng theo khuynh hướng đi lên, tức là trong sự vận
động, phát tiển không ngừng, vạch ra được xu hướng biến đổi và chuyển hóa của sự vật, hiện
tượng. Chẳng hạn, quan điểm về nghề nghiệp và lựa chọn nghề của giới trẻ hiện nay có gì
khác so với truyền thông hoặc những ngành nghề hiện nay như kinh tế, tài chính ... thừa
nhiều nhưng người học, gia đình, các trường vẫn tuyển sinh nhiều. -
Nhận thức được con đường của sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp (là
một quá trình biện chứng), do đó, giúp con người lạc quan, tin tưởng vào sự tất thắng, sự ra
đời của cái mới, tiến bộ, hợp quy luật ... -
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, chúng ta phải phân chia quá trình phát triển của
chúng ra thành các thời kỳ, giai đoạn khác nhau. Trên cơ sở đó để tìm ra phương pháp nhận
thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng tiến triển nhanh hơn hoặc
kìm hãm sự phát triển của nó. Chẳng hạn, thời kỳ sinh viên đang trong quá trình phát triển về
mọi mặt, đặc biệt là trí tuệ nên mỗi sinh viên cần tận dụng mọi điều kiện để học tập tốt, làm
nền tảng cho sự phát triển trong tương lai (xin được làm việc tốt, thu nhập cao, cơ hội thăng tiến, du học ...) -
Khi vận dụng quan điểm phát triển, phải sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp
quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải khắc phục và chống lại
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến , đối lập với sự phát triển. Chẳng hạn, tư tưởng khoán
trong nông nghiệp ở Việt Nam trước đây được sinh ra từ sự trì trệ của mô hình hợp tác xã và
đời sống kinh tế hết sức khó khăn của Việt Nam...
Câu 5: 6 Cặp phạm trù:
1. Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất
Định nghĩa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất -
Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định. -
Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những
quan hệ ... lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng. -
Phạm trù cái đơn nhất dùng để chỉ những đặc tính, những tính chất ... chỉ tồn tại ở một
sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Mỗi người là một cái riêng; các mặt, thuộc tính, yếu tố, quá trình được lặp lại ở tất cả
mọi người như đồng hóa, dị hóa, hệ thống thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa.…; sinh, lão, bệnh,
tử ... (cái chung); ở mỗi người lại có những đặc tính không lặp lại như gen, cấu hình, vân tay,
tính cách, năng lực khác nhau (đơn nhất). 
Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung: Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
đều tồn tại khách quan, thể hiện: -
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của
nó, nó không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng (Tức là cái chung không tách rời từng sự vật,
hiện tượng, quá trình riêng lẻ). -
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc
lập tuyệt đối tách rời cái chung -
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ
phận nhung sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. -
Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện xác định.
+ Cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn
nhất. Nhưng cái mới đó trong quá trình tồn tại, phát triển, nó là cái mới, tiến bộ, phù hợp với
quy luật khách quan nên sẽ dần thay thế cái cũ và trở thành cái chung, phổ biến.
+ Cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới
nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là
biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. 
Ý nghĩa phương pháp luận -
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên chúng ta chỉ có thể
tìm cái chung trong cái riêng chứ không thể ở bên ngoài cái riêng. Để phát hiện cái chung cần
xuất phát từ những cái riêng chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người ... -
Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn
đến cái chung nên để giải quyết cái riêng có hiệu quả thì không thể lảng tránh giải quyết cái
chung, không làm được điều đó sẽ rơi vào mò mẫm, tùy tiện, kinh nghiệm, chủ nghĩa. -
Cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, khắc phục bệnh
giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung để giải
quyết từng trường hợp cụ thể. -
Vì cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và người lại nên cần phát hiện, tạo
điều kiện cho cái đơn nhất tích cực phát triển, phổ biến thành cái chung; đồng thời cần hạn
chế, loại bỏ, thủ tiêu những cái chung lạc hậu, tạo điều kiện cho cái mới, tích cực phát triển.
1. Nguyên nhân và kết quả
Định nghĩa nguyên nhân, kết quả:
- Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong mội sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định.
- Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt,
các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tuợng với nhau. 
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả -
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có trước
kết quả, kết quả chỉ xuất hiện khi nguyên nhân gây ra tác động (luu ý, không phải sự nối tiếp
trước sau nào về mặt thời gian của các sự vật, hiện tượng đều biều hiện mối quan hệ nhân -
quả). Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả và một kết quả có thể do một
hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên. Nguyên nhân có nhiều loại, như bên trong và bên ngoài;
chủ yếu và thứ yếu, v.v. mỗi loại có vị trí, vai trò khác nhau đối với kết quả, do đó, trong thực
tiễn, phải nhận dạng được chúng để có thái độ ứng xử đúng đắn. -
Thứ hai: Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Kết quả sau khi ra đời nó không thụ
động, trái lại nó tác động trở lại nguyên nhân đã sinh ra nó. -
Thứ ba: Nguyên nhân và kết quả chuyển hóa lẫn nhau. Liên hệ nhân quả là một chuỗi
vô tận, do đó, không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. 
Ý nghĩa phương pháp luận -
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối liên hệ
nhân quả, không được lấy ý muốn chủ quan thay cho quan hệ nhân - quả. -
Muốn cho sự vật, hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo ra những nguyên nhân, cùng
những điều kiện cho những nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn cho hiện
tượng nào đó mất đi thì phải làm mất nguyên nhân tồn tại của nó, cũng như những điều kiện
để các nguyên nhân ấy phát huy tác dụng. -
Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên
nhân có vai trò không như nhau; trước những thành công hay thất bại, yêu cầu phải khách
quan nhìn vào sự thật, chỉ rõ nguyên nhân để rút ra bài hoc kinh nghiệm, phát huy ưu điểm,
sửa chữa sai lầm, có như vậy mới tiến bộ... -
Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có thể do
nhiều nguyên nhân tác động nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cái nhìn toàn diện
và lịch sử - cụ thể trong phân tích, giải quyết và vận dụng quan hệ nhân- quả.
2. Tất nhiên và ngầu nhiên
Định nghĩa tất nhiên, ngẫu nhiên -
Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết
cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, không thể khác. -
Phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp
của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện,
có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
Ví dụ: Gieo một đồng xu sẽ có một mặt sấp và một mặt ngủa là cái tất nhiên nhưng mặt nào
sấp, mặt nào ngừa ở mỗi lần gieo lại là cái ngẫu nhiên. 
Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên -
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự
vận động, phát triển của sự vật, trong đó cái tất nhiên đóng vai trò quyết định, còn cái ngẫu
nhiên làm cho sự biểu hiện của cái tất nhiên trở nên phong phú. -
Không có cái tất nhiên và ngẫu nhiên thuần túy tách rời nhau. Cái tất nhiên bao giờ
cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình
thức biểu hiện, là cái bổ sung cho cái tất nhiên. -
Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, phát triển. 
Ý nghĩa phương pháp luận -
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào cái tất nhiên, tuy nhiên,
không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. -
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa lẫn nhau, do đó, cần tạo ra những điều
kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.
3. Khả năng và hiện thực
Định nghĩa khả năng và hiện thực -
Phạm trù khả năng dùng để chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trong thực tế, nhưng
sẽ xuất hiện và tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng. -
Phạm trù hiện thực dùng để chỉ những cái đang tồn tại trong thực tế và trong tư duy.
Ví dụ : Xét về mặt hiện thực thì một quốc gia nào đó vẫn đang ở tình trạng là một nước
nghèo nhưng khả năng trong tương lai quốc gia đó có thể trở thành một quốc gia giàu có khi
nó phát huy được những lợi thế hiện tại. 
Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực -
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ thống nhất , không tách rời nhau:
Khả năng chuyển hóa thành hiện thực và hiện thực lại chứa đựng những khả năng mới; khả
năng mới, trong những điều kiện nhất định, lại chuyển hóa thành hiện thực. -
Trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng, có thể tồn tại một
hoặc nhiều khả năng: khả năng thực tế, khả năng tất nhiên, khả năng gần, khả năng xa... -
Trong đời sống xã hội, khả năng chuyển hóa thành hiện thực phải có điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan. 
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn , cần phải dụa vào
hiện thực để xác lập nhận thức và hành động. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức toàn diện
các khả năng từ trong hiện thực để có được phương pháp hoạt động thực tiễn phù hợp với sự
phát triển trong những hoàn cảnh nhất định; tích cực phát huy nhân tố chủ quan trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục đích nhất định.
4. Nội dung và hình thức  ĐN:
- Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố, những quá
trình tạo nên sự vật, hiện tượng.
- Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Ví dụ: Nội dung của 1 cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tó vật chất như tế bào, các khí quan
cảm giác, các hệ thống, các quá trình hoạt động của các hệ thống,.. để tạo nên cơ thể đó. Hình
thức của 1 cơ thể động vật là trình tự sắp xếp, liên kết các tế bào, các hệ thống,.. tương đối
bền vững trong cơ thể. Hay mỗi phân tử nước: các yếu tố vật chất àm cơ sở cấu thành nên nó
là 2 nguyên tử hidro và 1 nguyên tử oxi (nội dung), cách thức liên kết hóa học của chúng là H-O-H (hình thức),… 
Quan hệ biện chứng giữa nội dung và ý thức
- Nội dung và hình thức là 2 phương diện cấu thành nên mỗi sự vật, hiện tượng:
không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại mà chỉ có nội dung mà không có hình thức nhất định.
- Cùng 1 nội dung nhưng có thể có những phương thức kết hợp khác nhau, ngược lại,
các nội dung khác nhau nhưng có thể có sự đồng dạng về phương thức kết hợp giữa chúng.
- Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung thì dẽ thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại. 
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình
thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong 2 mặt đó.
- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết phải
căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.
- Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung trên
cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác, cũng cần phải thực
hiện những thay đổi đối với những hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở
sự phát triển của nội dung.
6. Bản chất và hiện tượng  ĐN:
- Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của những mặt, những
mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.
Ví dụ: Một trong những đặc tính bản chaastcura ánh sáng là tính sóng. Hiện tượng biểu hiện
của nó (qua thực nghiệm) là sự giao thoa bước sóng ( có thể quan sát được). Hay, trong xã
hội có giai cấp, ban chất của nhà nước là công cụ hống trị giai cấp, bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị nhưng tùy theo tương quan giai cấp và địa vị của giai cấp trong lịch sử mà sự thống
trị đó được thể hiện dưới hình thức khác nhau. 
Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
- Sự tống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự
biểu hiện của 1 bản chất nhất định. Không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện
tượng, cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của 1 bản chất nào đó.
+ Khi nào bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi bản chất mất đi
thì hiện tượng cũng mất theo.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng thể hiện:
+Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt, phong phú và đa dạng.
+ Bản chất là cái bên trong, còn hiện tượng là cái bên ngoài.
+ Bản chất là cái tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi. 
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài
mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức
đúng và đầy đủ bản chất.
- Trong nhận thức và thực tiễn, cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào
hiện tượng thì mới có thể đáng giá 1 cách chính xác về sự vật, hiện tượng đó và mới
có thể cải tạo căn bản sự vật, hiện tượng.
Câu 6: Hai quy luật: mâu thuẫn, lượng chất
1. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về của
chất và nguợc lại
Khái niệm chất và khái niệm lượng -
Khái niệm chất : Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các
sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
+ Tạo thành chất của sự vật , hiện tượng chính là các thuộc tính khách quan vốn có của nó .
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chỉ có thuộc tính cơ
bản mới tạo thành chất của sự vật, hiện tượng, khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất
của nó thay đổi. Cùng một thuộc tính , trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có
thể là không cơ bản . Chẳng hạn , Lênin đã đưa ra ví dụ về cái cốc, trong quan hệ với người
uống nước thì cái đáy cốc có lành hay không , đó là thuộc tính cơ bản . Trong mối quan hệ
với người dùng cốc để úp con bướm thì thuộc tính cơ bản là tính chất trong suốt của thủy tinh , v.v ..
+ Sự phân biệt giữa chất và thuộc tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối . Một chất có nhiều
thuộc tính nhưng mỗi thuộc tính , với tư cách là một sự vật hay hiện tượng thì cũng được coi
là một chất vì nó lại bao gồm nhiều thuộc tính khác cấu thành nó . Chẳng hạn , mỗi nguyên tố
hóa học là một chất bao gồm nhiều loại nguyên tử khác nhau nhưng mỗi nguyên tử lại được
coi là một chất khác nhau , đi sâu vào kết cấu của các nguyên tử , những hạt có điện tích khác
nhau cũng là những chất khác nhau .
+ Mỗi sự vật , hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn . Mỗi giai
đoạn phát triển của sự của sự vật , hiện tượng lại có những chất khác . Mỗi sự vật , hiện tượng
không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất . Chẳng hạn , những mức độ trưởng thành của
cá nhân : ấu thơ → mầm non → nhi đồng → thiếu niên → thanh niên V.V ..
+ Chất của sự vật , hiện tượng còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa
các yếu tố cấu thành sự vật đó , do đó , chất của sự vật không chỉ thay đổi khi thay đổi những
yếu tố cấu thành mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó.
Ví dụ: than chì và kim cương...
+ Chất là mặt tương đối ổn định ( ít thay đổi), chẳng hạn , trạng thái của nước rắn, lỏng, khí
( chất ) , sự thay đổi về lượng của nhiệt độ ( lượng ) từ 40 đến 50 độ C chưa làm cho trạng
thái lỏng của nước thay đổi. -
Khái niệm lượng : Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật , hiện tượng về các phương diện : số lượng các yếu tố cấu thành , quy mô của sự tồn tại
, tốc độ , nhịp điệu của các quá trình vận động , phát triển của sự vật , hiện tượng .
+ Lượng cũng mang tính quy định khách quan . Bởi vì , sự vật , hiện tượng nào cũng có
lượng vì nó là một dạng của vật chất chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại
trong một thời gian nhất định ...
+ Lượng có nhiều loại khác nhau , có những lượng được diễn tả bằng những con số chính xác
có thể đo , đếm được như chiều cao , cân nặng của một người , một vật v.v .. ; có những
lượng khó đo lường được bằng những con số cụ thể mà chỉ có thể nhận thức được bằng khả
năng trừu tượng hóa như ý thức tham gia giao thông của người Việt Nam kém , phong trào
học tập , văn nghệ của một tập thể nào đó cao , v.v .. ; có những lượng là nhân tố quy định
bên trong nhưng cũng có những lượng nói lên những nhân tố bên ngoài , vv ..
+ Lượng là mặt thường xuyên biến đổi của sự vật , hiện tượng .
+ Sự phân biệt chất và lượng cũng chỉ là tương đối , cái trong mối quan hệ này được coi là
chất thì trong mối quan hệ khác được coi là lượng . Chẳng hạn , con số là một sự quy định về
lượng nhưng những con số khác nhau lại là những chất khác nhau , con số 7 chỉ sự phát triển
của lượng từ 1 đến 7 nhưng 7 lại là một chất khác với 6 , v.v 
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng -
Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
+ Chất và lượng của sự vật là hai mặt của cùng một sự vật , chúng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và
ngược lại . Chẳng hạn , tương ứng với cấu tạo H – O – H ( cấu tạo liên kết 2 nguyên tử hyđrô
và 1 nguyên tử ôxy ) thì một phân tử nước được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản ,
khách quan , vốn có của nó là không màu , không mùi không vị , có thể hòa tan muối , axít ...
Vì giữa chúng có mối quan hệ quy định lẫn nhau như vậy nên những biến đổi về lượng sẽ tất
yếu có khả năng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại . Chẳng hạn , quy định nên trạng thái
thể lỏng của nước chính là lượng nhiệt độ của nó (chứ không phải là số lượng nguyên tử H và
O), do đó khi lượng nhiệt độ này biến thiên thì tất yếu có khả năng dẫn đến sự biến đổi về
trạng thái của nước sang thể rắn, lỏng, khí.
+ Giới hạn mà trong đó , sự thay đổi về lượng ( tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm thay đổi về
chất được gọi là độ . Nói cách khác , độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa lượng và
chất , là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng ( tăng lên hoặc giảm đi ) chưa làm
thay đổi căn bản về chất của sự vật .
+ Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất , giới hạn
đó chính là điểm nút . Điểm nút dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ
làm thay đổi về chất của sự vật .
+ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy . Bước
nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn
phát triển mới . Bước nhảy rất đa dạng ( bước nhảy nhanh và chậm , lớn và nhỏ , toàn bộ và
cục bộ ... ) tùy theo mâu thuẫn , tính chất , điều kiện của mỗi sự vật .
+ Lưu ý : “ Độ ” , “ điểm núi ” , “ bước nhảy ” không phải là bất biến mà nó có thể thay đổi
tùy từng sự vật , hiện tượng , từng điều kiện , hoàn cảnh cụ thể ... Để làm rõ các khái niệm
trên , xét ví dụ : Nước nguyên chất , trong điều kiện 1 atmophe ở trạng thái thể lỏng ( chất )
được quy định bởi lượng nhiệt độ ( lượng ) từ 0 độ C đến 100 độ C ( độ ) . Khi lượng nhiệt độ
biến thiên đến ngưỡng 0 độ C hoặc 100 độ C đó ( điểm nút ) thì tất yếu xảy ra quá trình biến
đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí ( bước nhảy ). -
Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng: Chất mới ra đời sẽ tác
động trở lại tới sự thay đổi về lượng mới ( làm thay đổi quy mô , nhịp điệu , tốc độ phát triển
của sự vật ) . Như vậy , không chỉ sự thay đổi về lượng gây nên những thay đổi về chất mà cả
sự thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi về lượng . Chẳng hạn , nhịp điệu vận động ,
phát triển của xã hội dưới cơ chế thị trường nhanh hơn nhịp điệu vận động của xã hội dưới cơ
chế tập trung quan liêu , bao cấp , hay khi trở thành cử nhân thì tốc độ đọc , hiểu , giải quyết
một vấn đề sẽ tốt hơn khi còn là sinh viên ...
 Tóm lại , sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành “ độ ” của sự vật .
Những thay đổi về lượn g dần dần đến giới hạn nhất định thì xảy ra “ bước nhảy ” , chất cũ bị
phá vỡ , chất mới ra đời cùng với độ mới . Đó chính là cách thức phát triển của sự vật , quá
trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động , biến đổi. 
Ý nghĩa phương pháp luận -
Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đó cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong
tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực
tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng , từ đó mới nhận thức
toàn diện về sự vật , hiện tượng -
Vì những thay đổi về lượng của sự vật , hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa
thành những thay đổi về chất của sự vật , hiện tượng và ngược lại , do đó , trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn , tùy theo mục đích cụ thể , cần từng bước tích lũy về lượng để có thể
làm thay đổi về chất ; đồng thời , có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay
đổi về lượng của sự vật , hiện tượng . -
Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rơi vào “ tả khuynh ” – nhấn mạnh bước nhảy khi
chưa đủ sự tích luỹ về lượng ; bởi lẽ , khi ấy rất dễ rơi vào phiêu lưu , mạo hiểm . Đồng thời ,
phải tránh “ hữu khuynh ” – tuyệt đối hoá sự tích luỹ về lượng , không dám thực hiện bước
nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng , khi ấy dễ rơi vào bảo thủ , trì trệ , ngại khó . Khi tích luỹ về
lượng đã đủ thì phải thực hiện bước nhảy . -
Vì bước nhảy của sự vật đa dạng , phong phú cho nên trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn phải vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện , lĩnh vực cụ thể .
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm mâu thuẫn, mặt đối lập -
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật , khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối
liên hệ thống nhất , đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật , hiện tượng
hoặc giữa các sự vật , hiện tượng với nhau .
Chẳng hạn , mối liên hệ thống nhất , đấu tranh và chuyển hóa giữa đồng hóa và dị hóa
trong cơ thể sinh vật . Đồng hóa là quá trình tổng hợp chất sống đặc trưng của cơ thể từ
những chất đơn giản , đồng thời tích lũy năng lượng ( như quá trình làm mới lại , tái tạo lại
các loại tế bào và mô của cơ thể đã bị phân hủy trong quá trình sống ) . Dị hóa là quá trình
phân hủy một phần các chất sống phức tạp trong cơ thể thành các sản phẩm đơn giản , đồng
thời và giải phóng năng lượng như quá trình oxy hóa , chuyển hóa các hợp chất hữu cơ phức
tạp để sinh ra năng lượng , cung cấp cho tất cả các hoạt động sống của cơ thể . Đồng hoá và
dị hoá vừa thống nhất , đấu tranh và chuyển hóa với nhau trong quá trình trao đổi chất của cơ
thể . Trong mỗi tế bào chúng xảy ra đồng thời và liên quan mật thiết với nhau . Nghĩa là trong
tế bào vừa có quá trình tổng hợp xây dựng cấu trúc tế bào , vừa có quá trình phân giải các
chất để cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của tế bào. Năng lượng giải phóng trong
quá trình dị hoá được sử dụng trong quá trình tổng hợp . Không có đồng hoá thì không có dị
hóa. Ngược lại không có dị hóa thì sẽ không có năng lượng để thực hiện quá trình đồng hoá. -
Khái niệm mặt đối lập dùng chỉ những mặt , những thuộc tính , những khuynh hướng
vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện , tiền đề tồn tại của nhau . Ví dụ ,
như điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử ; chân lý và sai lầm trong quá trình
phát triển nhận thức , vv .. -
Các tính chất chung của mâu thuẫn
+ Tính khách quan và tính phổ biến : Do mối liên hệ , sự chuyển hóa , sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa các mặt đối lập là cái vốn có và phổ biến trong mỗi sự vật , hiện tượng .
+ Tính đa dạng , phong phú : Mỗi sự vật , hiện tượng đều có thể bao hàm nhiều loại mâu
thuẫn khác nhau , biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau ; mỗi
mâu thuẫn giữ vị trí , vai trò khác nhau đối với sự tồn tại , vận động và phát triển của sự vật ,
hiện tượng ; trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất
khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn . 
Quá trình vận động của mâu thuẫn -
Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ , ràng buộc , không
tách rời nhau , quy định lẫn nhau của các mặt đối lập , mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại.
Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất . Ví dụ , trong sinh vật có quá
trình đồng hóa thì phải có quá trình dị hóa , nếu chỉ có một quá trình thì sinh vật sẽ chết , v.v .. -
Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại ,
bài trừ , phủ định nhau của các mặt đối lập . Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc và
động lực của sự vận động và phát triển . Lênin khẳng định , “ sự phát triển là một cuộc “ đấu
tranh ” giữa các mặt đối lập ” . Ví dụ , sự đấu tranh giữa các tích âm và dương trong nguyên
tử ; giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị trong xã hội có đối kháng giai cấp , v.v .. -
Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa
của các mặt đối lập . Lênin khẳng định : “ Không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối
lập , mà còn là những chuyển hóa của mỗi quy định , chất , trưng , mặt , thuộc tỉnh sang mỗi
cái khác , sang cái đối lập với nó ” . Tuy nhiên , sự chuyển hóa của các mặt đối lập thường
không diễn ra đơn giản theo kiểu mặt đối lập này chuyển thành mặt đối lập kia một cách trực
tiếp và ngay lập tức. Mà sự chuyển hóa này diễn ra rất phức tạp, trải qua nhiều khâu trung
gian. Cũng không nên hiểu sự chuyển hóa của các mặt đối lập là một mặt còn , một mặt mất .
Vì các sự vật và hiện tượng trên thế giới muôn hình muôn vẻ , nên sự chuyển hóa của các mặt
đối lập cũng rất khác nhau. Ph . Ăngghen đã từng chỉ ra rằng “ thông qua sự đấu tranh thường
xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập
kia , hoặc lên những hình thức cao hơn , đã quy định sự sống của giới tự nhiên ” . -
Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập , sự đấu tranh giữa chúng là
tuyệt đối , còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối , có điều kiện , tạm thời ; trong sự thống
nhất đã có sự đấu tranh đấu tranh trong tính thống nhất của chúng . -
Các giai đoạn của quá trình vận động của mâu thuẫn : Khi mâu thuẫn mới xuất hiện ,
nó biểu hiện ở sự khác biệt không bản chất , mâu thuẫn sau đó chuyển sang giai đoạn khác
biệt bản chất . Những khác biệt bản chất trong những điều kiện phù hợp đều phát triển thành
sự đối lập . Tiếp tục phát triển , chúng chuyển thành các thái cực xung đột với nhau trong
mâu thuẫn , “ chuyển hóa vào nhau ” , và bằng cách nào đó đòi hỏi được giải quyết . Sau sự
giải quyết mâu thuẫn , đối tượng chuyển sang trạng thái chất mới với các mâu thuẫn mới .
Ví dụ , mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản đã nảy sinh từ thời kỳ hợp tác giản đơn , sản xuất
công xưởng và tồn tại ở đó lúc đầu dưới dạng khác biệt không bản chất , giữa một bên , là thợ
cả và bên kia , là những thợ bạn và người học việc . Trên thực tế , người học việc , khi trải
qua thời gian học nhất định , có thể trở thành thợ bạn , còn thợ bạn , sau khi tích lũy được
kinh nghiệm nhất định , có thể trở thành thợ cả - chủ xưởng . Nhưng trong quá trình phát triển
của sản xuất công xưởng , trình tự quan hệ đó giữa thợ cả với thợ bạn không thể tự dung
thành thợ cả , mà luôn dừng lại ở địa vị của người phải phục tùng , của người làm thuê . Sự
khác biệt không bản chất giữa thợ cả , thợ bạn và người học việc giờ đây chuyển thành sự
khác biệt bản chất . Tiếp theo với sự thay thế sản xuất công xưởng bằng công trường thủ công
, quan hệ đó đã chuyển từ sự khác biệt bản chất sang sự đối lập . Nếu trước đó , trong công
xưởng , chủ xưởng còn đích thân làm việc cùng thợ bạn và người học việc , thì ở công trường
thủ công , chủ không trực tiếp tham gia sản xuất nữa mà đã sống trên lao động của công nhân
làm thuê . Lợi ích của người chủ và công nhân làm thuê đã trực tiếp đối lập nhau Sản xuất
TBCN càng phát triển , thì mâu thuẫn đó càng gia tăng gay gắt và đạt tới điểm chín muồi, đòi
hỏi được giải quyết thông qua cách mạng vô sản. Sau cách mạng, vô sản từ giai cấp bị áp bức
trở thành giải cấp nắm quyền, còn tư sản bị loại khỏi quyền lực và chuyển sang vị thế giai cấp
phục tùng . Kết quả là thủ tiêu trạng thái xã hội cũ , hình thành trạng thái mới và cùng với nó
là những mâu thuẫn mới . 
Một số loại mâu thuẫn: Dựa vào các căn cứ khác nhau , người ta chia ra thành các loại
mâu thuẫn khác nhau như mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài ; mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn không cơ bản ; mâu thuẫn đầu yếu và mâu thuẫn không chủ yếu , mâu thuẫn
đối kháng và mẫu thuẫn không đối kháng , vv .. 
Ý nghĩa phương pháp luận -
Vì mâu thuẫn có tính khách quan , tính phổ biến và là nguồn gốc , động lực của sự
vận động , phát triển do đó trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn , phát
hiện mâu thuẫn , phân tích đầy đủ các mặt đối lập , nắm được bản chất , nguồn gốc , khuynh
hướng của sự vận động và phát triển . -
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng , phong phú do đó , trong việc nhận thức và giải quyết
mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể , tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu
thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp .
3. Quy luật phủ định của phủ định  KN:
-Phủ định là khái niệm chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá
trình vận động và phát triển .
-Có hai loại khái niệm khác nhau về phủ định, là phủ định siêu hình và phủ định biện chứng:
+Phủ định siêu hình là sự phủ định chấm dứt sự phát triển
+Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật. Chẳng hạn, quá trình “hạt giống nảy mầm”, trong trường hợp
này, cái mầm ra đời từ cái hạt, sự ra đời của nó là sự phủ định biện chứng đối
với cây hạt nhờ đó giống loài này tiếp tục quá trình tồn tại và phát triển.
Phủ định biện chứng có đặc điểm: mang tính khách quan vì nguyên nhân của
phủ định nằm bên nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết quả của quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong của bản thân nó, tạo ra
khả năng cái mới ra đời thay thế cái cũ. Vì thế phủ định biện chứng là sự thân
phủ định, mang tính kế thừa. Kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ
nhân tố trái quy luật, cái mới ra đời trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ
tạo nên tính liên tục của sự phát triển. 
Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
-Tính chu kỳ của sự phát triển: Từ một điểm xuất phát, trải qua một số lần phủ
định, sự vật dường như quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn.
+Cơ chế của quá trình phủ định của phủ định:
Cái khẳng định → Cái phủ định → Phủ định của phủ định
A (PD lần 1) B (PD lần 2) A
+Số lần phủ định đối với mỗi chu kì của từng sự vật cụ thể có thể khác nhau.
→ Phủ định lần thứ nhất: Làm cho sự vật trở thành cái đối lập với chính nó,
tức là chuyển từ kế khẳng định sang phủ định.
→ Phủ định lần thứ hai (phủ định cái phủ định): Sự vật mới ra đời, đối lập với
cái đối lập nên sự vật dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, đó
là đặc điểm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định. Ph. Ăngghen viết: “ Hãy
lấy ví dụ một hạt thóc. Có hàng nghìn triệu hạt thóc giống nhau được xảy ra, nấu
chín và đem làm rượu, rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt thóc như thế gặp
những điều kiện bình thường đối với nó, nếu nó rơi vào miếng đất thích hợp, thì
nhờ ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm, trong mình nó sẽ xảy ra một sự biến
hóa riêng, nó nảy mầm: hạt thóc biến đi không còn là hạt thóc nữa, nó bị phủ
định, bị thay thế bởi một cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ định hạt thóc. Nhưng
cuộc sống bình thường của cây này như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn
và cuối cùng sinh ra những hạt thóc mới, và khi hạt thóc đã chín thì thân cây chết
đi,bản thân nó bị phủ định. Kết quả của sự phủ định của phủ định này là chúng ta
lại có hạt thóc ban đầu, nhưng không phải chỉ là một hạt mà nhiều gấp 10, 20, 30 lần”
+Nguyên lý tính chu kỳ của sự phát triển có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng: nếu nắm được chu kỳ phát triển của sự vật,hiện tượng, tất yếu dự báo
được tương lai của nó .
-Khuynh hướng của sự phát triển (theo đường “xoáy ốc”): Phép biện chứng duy
vật thừa nhận, vận động phát triển đi lên là xu hướng chung của thế giới nhưng
không diễn ra theo đường thẳng mà diễn ra theo đường “xoáy ốc” quanh co,
phức tạp. Lênin đã từng khẳng định:” Nếu quan niệm lịch sử thế giới phát triển
đều đặn, không có vấp váp, quanh co, không có thụt lùi, là không biện chứng,
không khoa học, không đúng về mặt lý luận”, sở dĩ như vậy là vì: trong điều kiện
nhất định, cái cũ tuy đã cũ nhưng còn khó những yếu tố, mặt, bộ phận vẫn mạnh
hơn cái mới. Cái mới vì là mới nên còn non nớt, chưa có khả năng thắng ngay
cái cũ. Do đó, có lúc ,có nơi cái mới hợp quy luật của sự phát triển nhưng vẫn bị
cái cũ tác động trở lại ,gây khó khăn, cản trở, cái mới phải tạm thời thụt lùi. Vì
vậy, sự phát triển của tính quanh co, phức tạp ra theo diễn ra theo đường “xoáy ốc”. 
Ý nghĩa phương pháp luận :
-Khi xem xét sự vận động phát triển của sự vật, phải xem xét nó trong quan hệ
đối lập: cái mới ra đời từ cái cũ, cái lạc hậu, cái phủ định ra đời từ cái khẳng
định. Có như vậy, mới thấy được những nhân tố tích cực ở cái cũ mà cái mới
cần phải kế thừa trong sự phát triển đi lên.
-Sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc”, do vậy phải kiên trì, chờ đợi ,không
được nôn nóng, vội vàng nhưng phải theo hướng bảo vệ cái mới, ủng hộ cái
mới, tin tưởng cái mới, hợp quy luật nhất định sẽ chiến thắng; cần khắc phục tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới.
-Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ
phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán; kế thừa những nhân tố hợp quy luật
và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật, hiện
tượng phát triển theo hướng tiến bộ.
Câu 7: QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển LLSX, biện
chứng giữa tồn tại XH và ý thức xh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc tượng tầng

1. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
a) Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất  Lực lượng sản xuất -
Quan niệm : Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành
sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn , phát triển của con người .
Xét về thực chất , khái niệm LLSX dùng để chỉ sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên của
con người . Sức mạnh đó được tạo ra trong đời sống hiện thực bằng sự kết hợp giữa sức lao
động ( sức lực vật chất và tinh thần – đặc biệt là tri thức ) của con người với những tư liệu sản
xuất trong quá trình lao động của họ . -
Kết cấu của LLSX: Các yếu tố tạo thành LLSX gồm có TLSX ( trong đó , công cụ sản
xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người ) và người
lao động ( kỹ năng , kỹ xảo , năng lực sáng tạo ... ) . Trong hai yếu tố đó , TLSX ( công cụ
lao động ) là yếu tố “ động ” nhất của LLSX , còn người lao động là nhân tố quan trọng nhất (
bởi vì , tư liệu sản xuất có nguồn gốc tử lao động của con người và được sử dụng bởi người lao động ) . -
Hiện nay , trong sự phát triển của LLSX , khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn . Sự
phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát
triển . Ngày nay khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều
biến đổi to lớn trong sản xuất , đời sống và trở thành “ lực lượng sản xuất trực tiếp ” như dự
báo của C.Mác . Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất đã làm cho LLSX có
bước phát triển nhảy vọt , tạo thành cuộc cách mạnh khoa học và công nghệ hiện đại .  Quan hệ sản xuất -
Khái niệm: Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức và quản lý sản xuất , quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra . Có thể định
nghĩa vắn tắt QHSX là mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người nảy sinh trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội .
+ Quan hệ sở hữu về TLSX giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ khác . Địa vị của các
tập đoàn người trong lao động sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm đều do chế độ sở hữu
và hình thức chiếm hữu đối với TL.SX quy định . Trong lịch sử xã hội , đã có hai kiểu sở hữu
TLSX đó là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng . Hiện nay , ở các quốc gia phát triển kinh tế
thị trường hiện đại có sự tồn tại của nhiều loại hình sở hữu đan xen hỗn hợp tạo thành một hệ
thống cơ cấu sở hữu thống nhất trong tính đa dạng của nó . sở hữu tư nhân tư bản , sở hữu tư
nhân của những người sản xuất nhỏ , sở hữu Nhà nước , sử hữu tập thể , sở hữu hỗn hợp
trong các tập đoàn kinh tế , v … v ..
+ Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất , đến việc tổ
chức , điều khiển quá trình sản xuất , nó có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình của sản xuất .
+ Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của
con người do đó , nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất nên nó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển .
Như vậy , quan hệ tổ chức và quản lý và quan hệ phân phối có thể góp phần củng cố
và phát triển quan hệ sở hữu hoặc làm xói mòn , biến dạng quan hệ sở hữu , làm cho quan hệ
sở hữu trở thành hình thức , không thể hiện được trên thực tế . Do đó , không thể coi nhẹ vai
trò và tác dụng của quan hệ tổ chức và quản lý và quan hệ phân phối trong chinh thể của
QHSX . Đại hội VI của Đảng ( 1986 ) đã khẳng định trong quá trình cải tạo XHCN , Đảng đã
mắc khuyết điểm : “ thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà
không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối ” .
b) Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng , trong đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX . -
Sự thống nhất giữa LLSX và QHSX : LLSX và QHSX là hai phương diện cơ bản , tất
yếu của mỗi phương thức sản xuất – mỗi quá trình sản xuất nhất định , do đó , chúng tồn tại
trong tính quy định lẫn nhau , chi phối lẫn nhau trong quá trình sản xuất của xã hội . Nói cách
khác, PTSX hay mỗi quá trình sản xuất không thể tiến hành được nếu như thiếu một trong hai
phương diện đó, trong đó LLSX chính là nội dung vật chất kỹ thuật , công nghệ của quá trình
này, còn QHSX đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó . -
Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX :
Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX , LLSX đóng vai trò quyết định đối với QHSX .
Nói cách khác , QHSX phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát triển của LLSX . Tính quyết định
của LLSX đối với QHSX được thể hiện trên hai nội dung : LLSX nào thì QHSX ấy và cũng
do đó , khi LLSX có những thay đổi thì cũng tất yếu sẽ đòi hỏi phải có những thay đổi nhất
định đối với QHSX trên các phương diện sở hữu , tổ chức và quản lý , phân phối . Sự thay
đổi này diễn ra nhanh chậm khác nhau , mức độ khác nhau , phạm vi khác nhau ... nhưng tất
yếu sẽ diễn ra những thay đổi nhất định bởi vì những QHSX chỉ là hình thức kinh tế của quá
trình sản xuất , còn LLSX đóng vai trò là nội dung vật chất của quá trình đó . Biểu hiện :
+ Sự phát triển của LLSX bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội là phải
không ngừng phát triển sản xuất , nâng cao năng suất lao động →Muốn vậy , con người
không ngừng cải tiến đổi mới công cụ lao động ; đồng thời trình độ của người lao động cũng
không ngừng nâng cao , phân công lao động xã hội ngày càng sâu →LLSX không ngừng phát triển
→ Sự phát triển của LLSX được đánh dấu bằng trình độ của LLSX : Biểu hiện ở trình độ của
công cụ lao động , trình độ của người lao động , trình độ tổ chức và phân công lao động xã
hội trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất .
→ Tính chất của LLSX : Khi LLSX là công cụ thủ công , phân công lao động xã hội kém
phát triển thì LLSX chủ yếu có tính chất cá nhân ; khi LLSX đạt tới trình độ cơ khí , hiện
đại , phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa .
+ Sự vận động , phát triển của LLSX làm cho QHSX biến đổi phù hợp với nó
→ Một PTSX mới ra đời , khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX , sự phù
hợp này thể hiện ở chỗ , tất cả các mặt của QHSX đều “ tạo địa bàn đầy đủ cho LLSX phát
triển , nghĩa là QHSX tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
với TLSX → Thúc đẩy LLSX phát triển
→ Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở
thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX → QHSX trở thành “ xiềng xích ” của
LLSX , kìm hãm LLSX phát triển →Yêu cầu khách quan phải thay thế QHSX cũ bằng
QHSX mới, phù hợp trình độ phát triển mới của LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển → PTSX
mới ra đời thay thế cho PTSX cũ -
Vai trò tác động trở lại của QHSX đối với LLSX : QHSX luôn có khả năng tác động
trở lại, ảnh hưởng trở lại đối với việc bảo tồn , khai thác , sử dụng , tái tạo và phải triển LLSX
. Quá trình tác động trở lại của QHSX đối với LLSX có thể diễn ra với hai khả năng :
+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó là điều
kiện là địa bàn trong đó có thể kết hợp tối ưu những yếu tố của LLSX làm cho năng suất và
hiệu quả tăng lên , thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển .
+ Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , tức là
khi các quan hệ sở hững , tổ chức hay phân phối đã lỗi thời , hoặc “ tiên tiến ” một cách giả
tạo thì nó sẽ gây cản trở cho việc phát huy những năng lực của LLSX , kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất . -
Sự vận động của mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX – nguồn gốc , động lực cơ bản của
sự vận động , phát triển các PTSX trong lịch sử .
+ Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng , tức là mối quan
hệ thống nhất của hai xu hướng có khả năng vận động trái ngược nhau . Sự vận động của mâu
thuẫn biện chứng này là đi từ sự thống nhất đến khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột
giữa nhu cầu phát triển của LLSX với QHSX kìm hãm sự phát triển đó , khi đó bắt đầu nhu
cầu của những cuộc cải cách , hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng , nhằm thực hiện sự cải
biến những QHSX hiện thời theo hướng làm cho nó phù hợp với nhu cầu phát triển của
LLSX , nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của QHSX với LLSX .
+ Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập là vì tính
chất biến đổi của LLSX và QHSX khác nhau : LLSX có xu hướng " động " , còn QHSX thì lại có xu hướng " tĩnh
→ Xu hướng động và tĩnh của hai phương diện này đều là khách quan . 
Ý nghĩa phương pháp luận : -
Để xác lập , hoàn thiện hệ thống QHSX của xã hội , cần phải căn cứ vào thực trạng
( tình hình thực tế ) phát triển của LLSX hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ không phải
căn cứ vào ý muốn chủ quan. -
Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của LLSX với QHSX đang kìm
hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến ( cải cách , đổi mới...) mà cao hơn là
một cuộc cách mạng xã hội để có thể giải quyết được mâu thuẫn này 
Nhận thức và vận dụng qui luật này ở Việt Nam -
Thời kỳ trước đổi mới năm 1986 -
Từ đổi mới ( 1986 ) đến nay
2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 
Khái niệm cơ sở hạ tầng -
Khái niệm CSHT dùng để chỉ toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội Như vậy , thực chất đề cập đến CSHT là đề cập đến cơ sở kinh tế của xã hội ( không phải
đề cập đến kết cấu hạ tầng kỹ thuật của xã hội vì đó là cái thuộc về LLSX ) . -
Kết cấu của CSHT của một xã hội gồm : Quan hệ sản xuất thống trị ( chính thống ) ;
quan hệ sản xuất tàn dư ( của PTSX cũ ) ; quan hệ sản xuất mới ( tồn tại dưới hình thái mầm
mống ) →Trong đó QHSX thống trị chiếm vị trí chủ đạo , chi phối các quan hệ sản xuất
khác , định hướng sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho
chế độ kinh tế của một xã hội nhất định . Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất cấu
thành CSHT của một xã hội phản ánh tính chất vận động , phát triển liên tục của LLSX với
các tính chất kế thừa , phát huy và phát triển . đang và mà
Ví dụ , cơ sở hạ tầng ( hay cơ sở kinh tế ) ở Việt Nam hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều
thành phần ( kinh tế Nhà nước , tập thể , tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ) , trong đó , thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo . Kết cấu kinh tế đó được
xác lập trên cơ sở hệ thống ba loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất : sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý , sở hữu tập thể của những người lao động , sở hữu tư nhân với
nhiều hình thức cụ thể khác nhau , trên cơ sở đó hình thành nên nhiều hình thức tổ chức kinh
doanh đan xen hỗn hợp với nhiều loại hình phân phối đa dạng . -
Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì CSHT cũng mang tính đối kháng giai cấp ( đề
cập đến CSHT của một xã hội là đề cập đến QHSX thống trị ) , giai cấp thống trị nắm trong
tay TLSX , giai cấp bị trị không có TLSX , lợi ích cơ bản đối lập nhau ... nên tất yếu mâu thuẫn với nhau .  Kiến trúc thượng tầng -
Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ của bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý
thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị, xã hội tương ứng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. -
Kết cấu của KTTT : Bao gồm hệ thống các hình thái ý thức xã hội ( chính trị , pháp
luật , đạo đức ... ) và các thiết chế chính trị - xã hội trong ứng ( nhà nước , đảng phái đoàn thể xã hội ... ) . -
Trong xã hội có giai cấp , đặc biệt là trong các xã hội hiện đại , hình thái ý thức chính
trị và pháp quyền cùng với hệ thống thiết chế tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết
chế , tổ chức quan trọng trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội . -
Trong xã hội có đối kháng giai cấp , KTTT có đặc điểm cũng mang tính đối kháng
giai cấp vì KTTT được hình thành từ CSHT , CSHT xu thế nào thì KTTT cũng như thế đó ,
đo đó , CSHT mang tính đối kháng giai cấp thì KTTT cũng mang tính đối kháng giải cáp
b) Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Khái quái mối quan hệ giữa CSHT và KTTT : CSHT và KTTT là hai phương diện cơ
bản của đời sống xã hội ( phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội ) , chúng tồn
tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau , tác động lẫn nhau , trong đó , CSHT
đóng vai trò quyết định đối với KTTT , đồng thời , KTTT thường xuyên có sự tác động trở lại
( theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cục ) đối với CSHT. 
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng -
Thứ nhất , tương ứng với một CSHT nhất định sẽ sản sinh ra một KTTT phù hợp , có
tác dụng bảo vệ CSHT đó , điều đó có nghĩa là CSHT nào thì KTTT ấy . -
Thứ hai , tính chất mâu thuẫn trong CSHT được phản ánh thành mâu thuẫn trong
KTTT , sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã
hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội . -
Thứ ba , giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội , đồng thời cũng là
giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong KTTT , còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác
ở vào địa vị phụ thuộc . -
Thứ tư , những biến đổi trong CSHT tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi
ứng trong KTTT ( cơ sở kinh tế thay đổi thì chính trị , tư tưởng , thần của xã hội cũng thay
đổi theo ) . Tuy nhiên , sự thay đổi của KTTT diễn ra phức tạp :
+ Có yếu tố của KTTT biến đổi nhanh như nhà nước, pháp luật... khi giai cấp mới lên nắm
quyền → tác động →thay đổi →bảo vệ CSKT mới .
+ Có yếu tố của KTTT biến đổi chậm như đạo đức , tôn giáo , phong tục, tập quán ..