




Preview text:
ĐỀ CƯƠNG MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI 4B: TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA CẠNH TRANH
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM
1. Khái niệm cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường (Phạm Thị Ánh Tuyết + Nguyễn Thị Ngọc Mai)
2. Tác động tiêu cực của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam
(Chu Thị Huệ + Đỗ Thị Thuý)
3. Nguyên nhân (Đỗ Thị Mỹ Hà)
4. Giải pháp (Lê Phương Anh)
1. Khái niệm cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh là sự ganh đua đấu tranh giữa các chủ thể kinh tế với nhau
nhằm có được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ để thu lại lợi ích tối đa.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể
trong nội bộ ngành, cũng có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc các ngành khác nhau.
Ví dụ: iPhone của Apple đang cạnh tranh trực tiếp với Galaxy của
Samsung trên thị trường điện thoại thông minh. Cả hai công ty này:
- Hoạt động trong cùng một ngành
- Cung cấp các sản phẩm tương tự
- Đáp ứng nhu cầu tương tự
- Sử dụng các kênh phân phối giống nhau
- Nhắm mục tiêu đến cùng một đối tượng là người tiêu dùng
=> Ngoài ví dụ về cạnh tranh trên thì không biết lớp mình còn ai biết hoặc có
thể lấy cho mình thêm một ví dụ nữa về cạnh tranh được không? Có thể là cạnh
tranh trong cuộc sống hoặc là cạnh tranh giữa các doang nghiệp mà bạn biết cũng được?
2. Tác động tiêu cực của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường tại VN
Cạnh tranh là yếu tố quan trọng trong việc sản xuất, phát triển và kinh
doanh. Tuy nhiên, cạnh tranh như thế nào là lành mạnh? Đó mới là mấu chốt
vấn đề. Rất nhiều người không áp dụng việc cạnh tranh lành mạnh, dẫn đến
hàng loạt những vấn đề tiêu cực. Xin mời các bạn hướng mắt lên màn hình để theo dõi.
Thứ nhất, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh
doanh. Khi chủ thể thực hiện mọi cách để cạnh tranh sẽ rất dễ sử dụng các biện
pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, các thủ đoạn xấu để tăng lợi nhuận (buôn lậu,
buôn bán hàng giả và hàng cấm…) Đây là những hành vi xấu, làm môi trường
kinh doanh sẽ ngày càng đi xuống về mặt chất lượng và làm giá trị đạo đức bị xói mòn.
Theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, tính đến hết năm 2018 đã
có khoảng 400 hồ sơ khiếu nại về các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và
con số này đang có chiều hướng gia tăng. Ngoài ra, ta có thể lấy một vài ví dụ
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã diễn ra trong những năm gần đây ở
Việt Nam: Năm 2020, lực lượng quản lý thị trường đã phát hiện, xử lí trên
66.000 vi phạm buôn lậu, hàng giả, hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ
và con số này sẽ còn tăng thêm và diễn biến phức tạp vào năm 2021, 2022.
Thứ hai, cạnh
tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội:
chiếm giữ nguồn lực để giành ưu thế cạnh tranh mà không phát huy được vai trò
của nguồn lực trong sản xuất kinh doanh cũng là một hình thức của cạnh tranh
không lành mạnh. Không chỉ thế, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
còn ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường ngày một
nghiêm trọng. Về lâu dài, đây sẽ không chỉ là vấn đề lãng phí nguồn lực xã hội,
mà còn là hủy hoại môi trường sống và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Theo như chúng ta đã biết, khá lâu trước đây công ty Formosa Hà Tĩnh đã từng
bị phạt bồi thường thiệt hại 500 triệu USD và được gọi là công ty gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng nhất Việt Nam trong nhiều năm qua khi làm ô nhiễm
môi trường biển khiến cá chết hàng loạt tại bốn tỉnh khu vực miền Trung từ Hà
Tĩnh đến Thừa Thiên – Huế. Đây chỉ là một trong rất nhiều công ty đã và đang
phá hoại môi trường để kiếm chác lợi nhuận. Nếu tình trạng này cứ mãi tiếp
diễn, liệu môi trường sống của Việt Nam sẽ đi về đâu?
Thứ ba, cạnh
tranh không lành mạnh gây tổn hại phúc lợi xã hội: cạnh
tranh không lành mạnh có thể dẫn đến phân hóa giàu nghèo và các vấn đề xã
hội. Bởi vậy, việc gây tổn hại đến phúc lợi xã hội là không tránh khỏi.
Trong giai đoạn 2016-2019, thu nhập bình quân đầu người của nhóm có
thu nhập thấp nhất là 791.000 đồng, tăng bình quân 5,7% trong khi nhóm cao
nhất là 7.800.000 đồng tăng 6,8%, điều này cho thấy sự phân hóa giàu nghèo
ngày một tăng, phúc lợi xã hội sẽ phải chi trả nhiều hơn cho người nghèo, người
thất nghiệp và những hoạt động bảo vệ môi trường.
Đó chính là những tác động tiêu cực của cạnh tranh trong nền KT thị
trường. Vậy những tác động đó là do đâu và đã bị những nhân tố nào
làm ảnh hưởng thì ta cũng tìm hiểu phần tiếp theo. 3. Nguyên nhân
- Do số lượng các doanh nghiệp hình thành hiện nay tương đối nhiều và
tăng với một tốc độ khá nhanh Chủ thể cạnh tranh tăng Ganh đua, cạnh tranh cao hơn.
- Do yêu cầu của người tiêu dùng tăng và sự dễ dàng tham gia vào thị
trường của những người bán.
- Do sự điều tiết của Nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp vẫn chịu sự
quản lý của Nhà Nước trong khuôn khổ pháp luật do Nhà nước đề ra.
- Do xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập. Sự hội nhập mở cửa nền kinh tế
khiến cho nền kinh tế trong nước phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. 4. Giải pháp
Về phía Nhà nước:
- Hoàn thiện quy định pháp luật về CTKLM:
+) Pháp điển hóa hệ thống pháp luật về CTKLM theo hướng thống nhất
các quy định giữa các văn bản và sửa đổi các quy định không còn phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay.
+) Xây dựng, ban hành Nghị định hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2018, thực
thi bằng việc bổ sung một số nội dung còn thiếu.
+) Tiếp thu các quy định của pháp luật các quốc gia có nền kinh tế phát
triển trên thế giới, hướng đến một văn bản hướng dẫn dễ hiểu, khoa học và chính xác.
+) Thống nhất các quy định về hành vi CTKLM trong các văn bản luật
chuyên ngành (VD như cụ thể hành vi CTKLM trong lĩnh vực sỡ hữu trí tuệ
trong Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi quảng cáo nhằm CTKLM trong Luật Quảng
cáo, hành vi khuyến mại trong Luật Thương mại…)
- Hoàn thiện quy định các chế tài xử lý hành vi CTKLM: Trong thời
gian tới, cần xem xét mức xử phạt và hình thức xử phạt đối với các hành vi
CTKLM. Trên thực tế, những hành vi CTKLM có thể mang lại lợi ích khổng lồ
cho DN, nhiều hơn rất nhiều so với số tiền phạt họ phải gánh chịu. Bộ luật Hình
sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã quy định việc xử lý hình sự đối với
một số hành vi CTKLM như tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192, tội đầu
cơ (Điều 196), tội quảng cáo gian dối (Điều 197), tội lừa dối khách hàng (Điều
198). Tuy nhiên, còn nhiều hành vi CTKLM mà pháp luật của nhiều quốc gia
quy định là tội phạm, nhưng Bộ Luật Hình sự của Việt Nam chưa quy định (VD
như hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, hoạt động tình báo công nghiệp…)
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
CTKLM: Về điều này, đối tượng chủ yếu nên hướng tới là cộng đồng DN. Nội
dung tuyên truyền cần giúp các DN nhận diện những hành vi CTKLM và quyền
khiếu nại, khởi kiện của DN bị xâm hại, các hình thức chế tài có thể áp dụng đối
với DN có hành vi vi phạm.
- Tăng cường công tác đào tạo cán bộ: Xử lý CTKLM là vấn đề pháp lý
rất mới ở Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới, cần có biện pháp thích hợp để
đào tạo cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng thẩm phán thích hợp để chuẩn bị kiến
thức, kinh nghiệm cần thiết khi phải xử lý các hành vi CTKLM.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật chống CTKLM: Việc tham
khảo, học tập kinh nghiệm nước ngoài trong việc xử lý các vấn đề về cạnh
tranh, đặc biệt là CTKLM là rất cần thiết. Vì vậy, cần có các chương trình hợp
tác nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với các nước để tạo điều kiện thuận lợi
cho Cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam và giúp cho các cán bộ có thêm
kiến thức, năng lực và trình độ để xử lý các vấn đề mà thực tiễn.
Về phía các doanh nghiệp
Cần tuân thủ các quy định của pháp luật về kinh doanh và các chính
sách về cạnh tranh. Việc tuân thủ pháp luật, cạnh tranh lành mạnh là một cách
thức xây dựng thương hiệu trên thị trường. Các DN cần phải quan tâm đến việc
đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp theo quy định của
Luật Sở hữu trí tuệ về các nội dung thuộc chỉ dẫn hàng hóa. Mặt khác, tự xây
dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh chuyên nghiệp và dài hạn (VD như
xây dựng những kênh phân phối mới, khai thác lợi thế cạnh tranh của riêng mình…)
Về phía người tiêu dùng
Người tiêu dùng cần có cái nhìn đúng đắn về hà
ng hóa mình sử dụng.
Tuyệt đối không sử dụng những sản phẩm kém chất lượng, vi phạm pháp luật
và có dấu hiệu CTKLM. Nếu phát hiện hành vi CTKLM, người tiêu dùng có thể
lên án và vận động người khác không sử dụng, tạo sức ép cho DN vi phạm, từ
đó đẩy lùi các hành vi CTKLM.
Kết luận: Để thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, cần có sự phối hợp giữa
các cấp, các ngành, các DN cũng như sự quan tâm của người tiêu dùng. Từ đó
tạo một cơ chế vững chắc hạn chế tối đa các hành vi CTKLM trên thị trường.