Đề cương tâm lý giáo dục tiểu học | Phương pháp nghiên cứu | môn Tâm lý học giáo dục | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Đề cương tâm lý giáo dục tiểu học | Phương pháp nghiên cứu | môn Tâm lý học giáo dục | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40387276
ĐỀ CƯƠNG TÂM LÝ GIÁO DỤC HỌC SINH TIỂU HỌC
VẤN ĐỀ 1: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Lựa chọn và trình bày 1 phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu tâm
lý học giáo dục tiểu học. Lấy ví dụ minh họa (K.Huyền)
a. Đặc điểm của pp thực nghiệm -
Thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu chủ động gây ra các hiện tượng
tâm lý cần nghiên cứu sau khi đã tạo ra các điều kiện cần thiết và loại trừ các yếu tố ngẫu nhiên. -
Thực nghiệm gồm có nhiều loại. Có thực nghiệm trong phòng thí nghiệm
và thực nghiệm tự nhiên.
+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: Là loại thực nghiệm được tiến hành
trong điều kiện khống chế một cách nghiêm ngặt các ảnh hưởng bên ngoài
tác động đến hiện tượng được nghiên cứu. Loại thực nghiệm này thường
được sử dụng nhiều để nghiên cứu các quá trình tâm lý, ít dùng nghiên cứu
các thuộc tính tâm lý người; nó mang tính chủ động cao hơn thực nghiệm tự
nhiên. + Thực nghiệm tự nhiên: Là loại thực nghiệm được tiến hành trong
điều kiện bình thường của cuộc sống và hoạt động. Trong thực nghiệm tự
nhiên bao hàm cả quan sát, Nếu trong quan sát nhà nghiên cứu chỉ thay đổi
các yếu tố riêng rẽ của hoàn cảnh . trong thực nghiệm tự nhiên nhà nghiên
cứu có thể chủ động gây ra hành vi biểu hiện và diễn biến của hiện tượng tâm
lý cần nghiên cứu bằng cách khống chế các nhân tố không cần thiết cho việc
nghiên cứu, làm nổi bật các yếu tố cần thiết trong hoàn cảnh giúp cho việc
khai thác, tìm hiểu hiện tượng tâm lý được nghiên cứu bằng thực nghiệm. -
Thực nghiệm nghiên cứu tâm lý có thể bao gồm: Thực nghiệm điều tra
và thực nghiệm hình thành.
+ Thực nghiệm điều tra: Nhằm mục đích dựng nên một bức tranh về thực
trạng hiện tượng tâm lý được nghiên cứu ở một thời điểm cụ thể. + Thực
nghiệm hình thành: Còn gọi là thực nghiệm giáo dục với mục đích khẳng
định ảnh hưởng của tác động giáo dục đến sự hình thành phát triển hiện tượng
tâm lý nào đó ở con người.
Thực nghiệm hình thành thông thường gồm 3 giai đoạn: Đo thực trạng hiện
tượng tâm lý trước thực nghiệm, thiết kế biện pháp tác động giáo dục mới và
áp dụng vào trong thực tiễn. Sau một thời gian tác động đo lại sự biến đổi của
hiện tượng tâm lý, từ đó khẳng định vai trò, ảnh hưởng, mối quan hệ của biện lOMoAR cPSD| 40387276
pháp tác động giáo dục đó đến sự hình thành và phát triển hiện tượng tâm lý được nghiên cứu.
Thực nghiệm nghiên cứu tâm lý dù là loại hình thực nghiệm nào cũng khó có
thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị
thực nghiệm, đặc biệt dễ bị căng thẳng tâm lý, thần kinh khi làm thực nghiệm,
vì vậy khi sử dụng thực nghiệm nghiên cứu tâm lý cần chú ý tạo ra trạng thái
tự nhiên và có sự phối hợp giữa thực nghiệm với các phương pháp nghiên cứu khác.
b. Nghiên cứu tâm lý hsth bằng thực nghiệm dạy học
Thực nghiệm dạy học không nhằm tìm hiểu trẻ em tiểu học như một cứ liệu
đã có mà là đang phát triển dưới tác động được tổ chức của nhà giáo dục. Tất
nhiên, trong quá trình thực nghiệm, các nhà nghiên cứu vẫn có thể và cần
thiết sử dụng các phương pháp khác (quan sát, phỏng vấn, kiểm tra...).
Một thực nghiệm dạy học thường gồm ba bước:
– Thực nghiệm trước dạy học.
– Thực nghiệm trong quá trình dạy học.
– Thực nghiệm sau dạy học.
+ Mục đích của bước một là dựng lên “bức tranh” tâm lí của học sinh tiểu học
ở một thời điểm nào đó.
+ Bước hai nghiên cứu thiết kế các bài dạy, ghi biên bản giờ dạy học. Ngoài
ra, phải tiến hành đo nghiệm (cả lớp hay cá nhân) nhằm tìm hiểu, đánh giá,
điều chỉnh quy trình tổ chức dạy học... và thu thập số liệu về sự phát triển của học sinh.
+ Bước thứ ba nhằm đánh giá hiệu quả của dạy học thực nghiệm, thông qua
đó tìm hiểu sự phát triển tâm lý học sinh. Để đánh giá hiệu quả thực nghiệm
dạy học phải soạn thảo các bài tập đo nghiệm. Bài đo nghiệm phải được xây
dựng trên cơ sở mục đích của nghiên cứu và nội dung môn học.
Chỉ có điều cần lưu ý, trong khi nghiên cứu hiện tượng tâm lý phải chú ý đánh
giá cả định tính và định lượng. Xu hướng chung của Tâm lý học là dùng các
phương pháp toán học để xử lí số liệu định lượng trước khi chuyển sang
những kết luận định tính.
Tóm lại, nghiên cứu tâm lý trẻ em nói chung và học sinh tiểu học nói riêng
phải tiến hành ngay trên hiện trường dạy học và giáo dục, ở đó có trẻ em, ở đó
có các quy luật giáo dục tác động đến trẻ em một cách hiện thực. Phải tìm
hiểu các quy luật ở nơi các quy luật đó đang diễn ra (lớp học, nhà trường, gia
đình) ở nơi cuộc sống thực của các em đang được tiến hành. lOMoAR cPSD| 40387276
VD: Nghiên cứu về đề tài: “Nghiên cứu sự ảnh hưởng của dạy học đến hứng
thú học tập môn toán ở học sinh tiểu học” bằng phương pháp thực nghiệm
dạy học sẽ trải qua ba bước cơ bản:
+ Bước 1: Đo thực trạng về hứng thú học tập môn toán với đối tượng nghiên
cứu là học sinh tiểu học, có thể đánh giá thông qua việc cho hs điền vào bảng đánh giá dưới:
+ Bước 2: Nghiên cứu, thiết kế bài dạy để tạo hứng thú học tập môn toán cho
hsth theo hướng dạy học tích cực à Ghi biên bản giờ dạy à Tiến hành đo
nghiệm để điều chỉnh quy trình tổ chức giảng dạy và thu thập số liệu về sự
phát triển của học sinh (hs đã chú ý, hào hứng và thích thú về bài giảng hay chưa?)
+ Bước 3: Đo mức độ biến đổi của mức độ hứng thú đối với môn toán của
hsth dưới ảnh hưởng của dạy học tích cực. (so sánh số liệu trước và sau khi
thực hiện bằng việc sờ vào bảng tiêu chí ở bước 1)
+ Rút ra kết luận về ảnh hưởng của dạy học tích cực đến hứng thú học tập môn toán ở hsth:
Dạy học tích cực tác động trực tiếp tới hứng thú học tập môn toán ở
hsth. Dạy học tích cực làm cho các em hứng thú, say mê hơn trong tiết học,
kết quả học tập của các em cũng được nâng cao.
VẤN ĐỀ 2: HOẠT ĐỘNG HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG HỌC
2. Phân biệt “học” và “hoạt động học”? Lấy ví dụ minh hoạ a. Khái niệm -
Học là khái niệm chỉ việc học một cách tự nhiên không chủ định, diễn ra
theo phương thức thường ngày trong một hoạt động khác.
+ Ví dụ: Một cháu bé, lần đầu tiên thấy cốc nước nóng đang bốc hơi, không
biết đó là nước nóng, nó sờ tay vào cốc nước và bị nóng. Sau vài lần như vậy,
khi thấy cốc nước bốc hơi, cháu chỉ sờ một ngón thôi, có tính chất thăm dò. Ở
đây cháu bé đã thu được một kinh nghiệm, dẫn đến thay đổi hành vi của mình. -
Hoạt động học là hoạt động có ý thức của con người nhằm lĩnh hội tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo và biến đổi bản thân chủ thể hoạt động.
+ Ví dụ: Em học sinh chưa biết cách tính diện tích hình vuông, hình chữ nhật,
hình bình hành v.v…Sau thời gian tìm hiểu lý thuyết trên lớp và làm bài tập,
dưới sự hướng dẫn của giáo viên, em đã biết cách tính diện tích các hình trên.
b. Phân biệt Tiêu chí Học Hoạt động học lOMoAR cPSD| 40387276 Thời Xuất hiện rất sớm,
Xuất hiện một cách đúng nghĩa điểm xuất ngay từ khi được
chỉ khi hs vào cấp tiểu học hiện sinh ra Mục đích Mục đích không
Mục đích được xác định trước, được xác định
người học có thể ý thức mục trước, thường là từ đích này thật rõ ràng. các tình huống ngẫu nhiên
Nội dung Những tri thức Các tri thức khoa học đã được mang tính tiền kiểm
chứng, có tính khái quát, khoa học, rời rạc, có hệ thống. ngẫu nhiên, thường đơn giản và không khái quát
Phương Ít cần đến phương Cần áp dụng các phương pháp, pháp, pháp, phương tiện
sử dụng phương tiện phù hợp. phương hỗ trợ tiện
Chủ thể Bất kỳ người nào Không giới hạn tuổi nhưng có (trẻ em, người danh
xưng là học sinh, sinh trưởng thành). viên, gọi chung là “người học”.
Thời Mọi lúc, mọi nơi Có quy định thời điểm, diễn ra gian, trong nhà trường. không gian
Kết quả Hình thành ở Hình thành ở người học hệ người học những thống tri
thức lý luận làm nền kinh nghiệm gắn tảng, tạo ra năng lực
thực tiễn, với tình huống cụ tạo ra cơ sở cho sự xuất hiện
thể, giúp thích của sự xuất hiện của những nghi trong cuộc
phẩm chất tâm lý mới đặc trưng sống. cho lứa tuổi và giúp họ sáng tạo.
3. Trình bày đặc điểm của hoạt động học tập? -
Khái niệm: Hoạt động học
là hoạt động có ý thức của con người nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
và biến đổi bản thân chủ thể hoạt động. lOMoAR cPSD| 40387276
1. Đặc điểm chung của hoạt động học
- Đối tượng của hoạt động học là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương
ứng của môn học hay một khoa học.
- Mục đích của việc học là giúp cho con người chiếm lĩnh toàn bộ những
trithức kỹ năng, kỹ xảo và hình thành nên thái độ của mình, giúp con người có
khả năng, năng lực làm việc mới → Làm thay đổi chính bản thân mình.
- Cơ chế của hoạt động học: Bằng hệ thống việc làm của mình tương tác
với đối tượng học → Cấu tạo lại đối tượng bên ngoài và chuyển vào trong đầu
→ Hình thành phát triển cấu trúc tâm lý → phát triển bản thân.
- Hoạt động học bao gồm cả việc học cách học: hoạt động học không
những giúp người học tiếp thu những tri thức lý luận, kỹ năng, kỹ xảo mà còn
tiếp thu tri thức của bản thân hoạt động tức là tiếp thu về phương pháp hoạt
động, hay nói cách khác là cách tìm hiểu, khám phá sự vật hiện tượng.
- Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của học sinh: Mọi chức năng tâm lý
cơ bản của học sinh đều được quy định dưới tác động mạnh mẽ của hoạt động học tập của các em.
→ học tập là một quá trình căng thẳng, là quá trình người học phải vận dụng
tích cực những chức năng tâm lý của mình như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư
duy, tưởng tượng… để lĩnh hội tri thức.
2. Đặc điểm hoạt động học của hsth
a. Là hoạt động xuất hiện lần đầu tiên trong đời sống của trẻ
- Là hoạt động xuất hiện lần đầu tiên trong đời sống của trẻ
+ Nhiều trẻ đã được “học” ở trường mầm non nhưng hoạt động học theo
đúng nghĩa chỉ được hình thành khi trẻ bước vào trường tiểu học – trở thành học sinh.
Ví dụ: Ở trường Mầm non, trẻ được chơi trò chơi xếp hình theo mẫu của giáo
viên, khi đó, trẻ mới chỉ là bước đầu biết nhận diện và nói tên các hình. Dần
dần, khi bước vào trường Tiểu học, ở lớp Một, các em sẽ được làm quen với
từng hình cụ thể, sau đó lên các lớp cao hơn, các em sẽ được học về cách tính
chu vi, diện tích các hình đó.
+ Mầm mống của hoạt động học đã được nảy sinh trong lòng hoạt động
chủ đạo của lứa tuổi mầm non. Vì:
· Trẻ tri thức được về mối quan hệ giữa người với người; người với đồ vật
và tri thức về đối tượng đó.
· Trẻ thắc mắc về thế giới xung quanh nhưng hoạt động vui chơi không thể giải đáp
= > nguồn gốc nảy sinh nhu cầu nhận thức khoa học
=> động lực để trẻ tới trường và tiến hành hoạt động học lOMoAR cPSD| 40387276
· “Hoạt động học” có chủ định ở trường mầm non chính là sự tập dượt để trẻ
thích nghi với hoạt động học tập khi gia nhập trường tiểu học.
Ví dụ: Trong trò chơi cướp cờ ở học sinh mầm non (cô giáo chuẩn bị các lá cờ
có những chữ cái khác nhau mà các con đã được học; chia lớp thành 2 đội và
hô hiệu lệnh để các con lên cướp cờ). Trong hoạt động vui chơi này các con
được rèn luyện khả năng nhận biết các chữ cái đã được học, rèn luyện tính kỷ
luật (trong trò chơi yêu cầu: khi cướp cờ không được chạm vào người nhau, ai
cướp được cờ trước thì nhanh chóng chạy về đích); rèn luyện phản xạ nhanh
nhẹn đối với sự vật, hiện tượng.
Đây chính là yếu tố ban đầu giúp các em hình thành những phẩm chất để thích
nghi với kỷ luật học tập ở trường Tiểu học sau này.
b. Là hoạt động được hình thành nhờ phương pháp nhà trường -
Hoạt động học lần đầu tiên xuất hiện và hình thành nhờ phương pháp
nhà trường - bao gồm xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung và phương pháp
chiếm lĩnh tri thức lẫn tổ chức việc lĩnh hội một cách chuyên nghiệp.
- Mục tiêu hoạt động học của học sinh tiểu học không dừng lại ở việc lĩnh
hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,... mà còn là sự biến đổi trong bản thân học
sinh (sự hình hình thành các năng lực và phẩm chất mới, mà trước hết là
các cấu tạo tâm lý mới đặc trưng cho lứa tuổi)
- Hoạt động học của học sinh tiểu học là hoạt động có đối tượng (hệ
thống các khái niệm khoa học và hệ thống tri thức có tính lý luận), có
phương pháp. Đây là hoạt động có đối tượng lần đầu tiên trong tiến trình
phát triển của trẻ em - tri thức khoa học => Chỉ được hình thành bằng
phương pháp nhà trường, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của giáo viên.
- Qua quan điểm về hoạt động học trên đây, nhà giáo dục cần tìm cách tổ
chức hoạt động học của học sinh tiểu học trực tiếp trên đối tượng (khái
niệm khoa học, những chuẩn mực của đời sống xã hội đương thời)
- Nếu thừa nhận quan điểm này thì trong dạy học ở tiểu học, thầy phải tổ
chức, trò phải hoạt động - biến toàn bộ quá trình giáo dục thành một hệ
thống việc làm như một quy trình công nghệ.
- Ta có công thức sau:
Thầy cô tổ chức, hướng dẫn
A (đối tượng) —-------------------------------------------> a (sản phẩm giáo dục)
Trò thực hiện, thi công và phát triển
VD: Khi mới bước vào lớp Một, trẻ được tiếp cận với những con số, bài toán đơn
giản, nhưng khi lên các lớp cao hơn, nhờ vào những nội dung tri thức, khái niệm lOMoAR cPSD| 40387276
khoa học đã được tinh chế, chắt lọc và dưới sự tổ chức, hướng dẫn của thầy trẻ sẽ
thực hiện và dần hình thành được năng lực toán học, kỹ năng làm toán và chiếm
lĩnh những tri thức toán học cao hơn.
c. Là hoạt động chủ đạo của hsth
Hoạt động chủ đạo là hoạt động quyết định những biến đổi chủ yếu nhất
trong các quá trình tâm lý và trong đặc điểm nhân cách của con người ở
một giai đoạn phát triển nhất định.
• Hoạt động học tập theo học sinh suốt quãng đời đi học, ở học sinh tiểu
học thì vai trò được thể hiện rõ nhất. Nhà tâm lý học Enconhin đã
khẳng định: “Vai trò chủ đạo của hoạt động này chỉ tồn tại một cách đầy
đủ nhất trong thời kì nó bắt đầu được hình thành. Lứa tuổi học sinh tiểu
học chính là giai đoạn mà các hoạt động học tập hình thành một cách
tích cực nhất”. Tròn 6 tuổi, trẻ có những biến đổi cơ bản ( trí tuệ, năng
lực, động cơ, hứng thú…).
• Hoạt động học của học sinh tiểu học có đầy đủ các dấu hiệu của một
hoạt động chủ đạo: đối tượng là các tri thức khoa học ( khái niệm, tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo) và các cách thức lĩnh hội tri thức một cách khoa học
và hệ thống. Là hoạt động có đối tượng đầu tiên xuất hiện trong tiến
trình phát triển của trẻ; khi hoạt động học được hình thành, sẽ không
tự thủ tiêu; có thể quy định sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý, nhân cách của trẻ.
• Bị lôi cuốn vào hoạt động học tập, HSTH được tiếp xúc với những điều
mới mẻ cả về nội dung và yêu cầu của nó, từ đó tạo cơ sở cho sự xuất
hiện những phẩm chất tâm lý đặc trưng cho lứa tuổi và từ đó tạo ra sự
biến đổi mới trong đời sống tâm lý, nhân cách của trẻ.
• Các phẩm chất tâm lí mới :
• Tính chủ định: khả năng xác định được mục đích của hành động và
tập trung sức lực để đạt nó.( Ví dụ: bước vào trường tiểu học các em sẽ
phải tuân thủ quy định đi học đầy đủ và đúng giờ, nếu không thực hiện
đúng sẽ bị phạt. Trước tiên cần phải có sự nhắc nhở, giúp đỡ của cha mẹ,
thầy cô nhưng sau khi tuân theo thường xuyên như vậy là điều kiện để
hình thành tính chủ định đi học đúng giờ cho các em, để không bị phạt,
phê bình, các em tự giác hơn, cố gắng đi học đầy đủ đúng giờ)n/ Điều này
được biểu hiện rõ trong quá trình nhận thức, đời sống tình cảm và ý
chí của trẻ, ở kỹ năng nhận thức mục đích hành động, tìm kiếm lựa
chọn phương tiện để thực hiện chúng
• Kĩ năng làm việc trí óc: khả năng lập kế hoạch và thực hiện hành
động cho mình ở bên trong. Khi tiến hành hoạt động học tập và giải lOMoAR cPSD| 40387276
quyết các nhiệm vụ học tập của các môn học, trẻ phải so sánh, tìm kiếm,
so sánh và lựa chọn các phương án hành động và phương tiện thực hiện
phù hợp. → Cơ sở hình thành tư duy lý luận.
( Ví dụ: đề bài: tả cảnh của cánh đồng lúa. Các em sẽ hình thành trong suy
nghĩ của các em về các bước thực hiện viết đoạn văn hay bài văn tả cảnh. Sau
đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ này thì các em sẽ phải chọn lựa cho mình cách
thức, phương pháp phù hợp ( quan sát trực tiếp nếu có hoặc quan sát gián tiếp qua tranh ảnh, phim…)
• Sự phản tỉnh: khả năng phân tích một cách hợp lý và khách quan
những phán đoán và hành vi của mình có phù hợp với ý định và điều
kiện hoạt động hay không. Một trong những yêu cầu của hoạt động học
là trẻ phải lập luận một cách đầy đủ, tỉ mỉ sự đúng đắn của các ý kiến
hành động của mình. Đó chính là cơ sở của sự phản tỉnh.
(vd: Trước khi chưa tham gia hoạt động học tập môn Đạo đức ở lớp 4 bài Tôn
trong đám tang, khi gặp đám tang trên đường thì các em hay tò mò, chỉ trỏ,
cười đùa, nhưng sau hoạt động hoc Đạo đức thì các em sẽ có sự đánh giá hành
động trước kia của mình là không đúng, cần phải sửa chữa thay đổi như sau
này gặp đám tang thì phải nhường đường, không cười nói to…sau đó các em
sẽ biết điều chỉnh hành vi của mình trở nên phù hợp và đúng đắn.)
3. Kết luận sư phạm
- Chú trọng tri thức khoa học và tri thức cuộc sống.
- Tổ chức hoạt động tạo hứng thú cho hs nhằm thu hút sự tham gia tích cực
tạo nên sự biến đổi trong bản thân trẻ.
- Giáo viên cần phải làm cho đối tượng cần chiếm lĩnh xuất hiện trong ý
thức của người học. Sự tiếp thu lĩnh hội này là sự tiếp thu có tính tự giác
cao, được chủ thể biến thành nhiệm vụ của mình và tích cực chiếm lĩnh.
- Người dạy cần phải tổ chức học tập phát huy được tính tích cực của người
học, làm nảy sinh nhu cầu nhận thức và phát hiện được đối tượng của chính việc nhận thức
- Giáo viên cần phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc hình thành
cách học cho người học và đây sẽ là công cụ hàng ngày không thể thiếu
được của họ. Nội dung và tính chất của cách học sẽ quyết định chất lượng
của việc lĩnh hội tri thức và đến một lúc nào đó tri thức lại đủ sức trở thành
công cụ phục vụ cho việc tiếp thu tri thức mới nên cần tiến hành hai hoạt động này song song. lOMoAR cPSD| 40387276
4. Bày tỏ ý kiến về quan điểm sau: “Người giáo viên cần phải chú trọng
hình thành phương pháp học tập cho học sinh tiểu học”
- Hình thành phương pháp học tập cho học sinh là hướng dẫn, giúp đỡ
học sinh tự hình thành cách thức, lộ trình cụ thể cho hoạt động học tập của mình.
- Giáo viên cần chú trọng bởi vì:
+ Đặc điểm của giáo dục tiểu học là: Giáo dục tiểu học đặt nền móng cho hệ
thống giáo dục phổ thông để đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện,
đồng thời đặt nền móng cho sự sáng tạo ở trẻ. Như vậy, nếu trẻ có phương
pháp học tập đúng đắn ngay từ cấp học này thì chúng sẽ trở thành công cụ,
phương tiện để tiếp tục chiếm lĩnh các khái niệm khoa học ở các lớp trên. Bên
cạnh đó phương pháp giáo dục tiểu học còn phải lấy học sinh làm trung tâm,
không dựa trên sự cưỡng chế từ bên ngoài và từ bên trên và triệt để tôn trọng
nhân cách của trẻ. Nên việc hình thành cho hsth phương pháp học tập chính là
hình thành cho các em công cụ để tự tìm tòi, tự khám phá những tri thức mới,
nhờ đó mà việc lĩnh hội tri thức ở các em trở nên chủ động hơn không cần đến sự thúc ép của gv.
+ Trong dạy học ở tiểu học, phương pháp học tập được coi là đối tượng để lĩnh hội.
+ Nội dung và tính chất của phương pháp học tập sẽ quyết định chất
lượng của việc lĩnh hội tri thức và đến một lúc nào đó tri thức lại đủ sức trở
thành công cụ phục vụ cho việc tiếp thu tri thức mới nên cần tiến hành hai
hoạt động này song song.
+ Thông qua việc hình thành phương pháp học tập giúp trẻ phát triển tư duy,
tạo cho trẻ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, bên
cạnh đó còn giúp trẻ biết tự cập nhật cho mình những kĩ năng, năng lực mới.
Liên hệ: Trong các trường tiểu học hiện nay, một hiện tượng xuất hiện khá
phổ biến là gv nhồi nhét kiến thức, không chú trọng hướng dẫn các em
hình thành phương pháp học tập làm cho trẻ mất hứng thú, say mê đối với
việc học, cảm thấy đến trường như một cực hình. Nhưng những năm gần
đây với sự tích cực học hỏi, trau dồi nền giáo dục nước ta đang ngày càng
đi lên theo chiều hướng tích cực, tại một số trường tiểu học đã xuất hiện
những phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm, chú
trọng hình thành cho hs pp học tập, gv thay vì nhồi nhét kiến thức đã
hướng dẫn, giúp đỡ học sinh hình thành và lĩnh hội tri thức, nhờ đó mà
hiệu quả học tập cũng tăng cao. lOMoAR cPSD| 40387276
VẤN ĐỀ 3: ĐẶC ĐIỂM HỌC TẬP CỦA HSTH
5. Tại sao nói hoạt động học giữ vai trò chủ đạo trong việc lĩnh hội tri thức ở học sinh tiểu học.
- Hoạt động học là hoạt động có ý thức của con người nhằm lĩnh hội tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo và biến đổi bản thân chủ thể hoạt động,
- Nói hoạt động học giữ vai trò chủ đạo trong việc lĩnh hội tri thức ở học sinh tiểu học vì:
+ Nội dung cơ bản của hoạt động học là līnh hội một cách có hệ thống và
khoa học những tri thức khoa học và các kī nǎng tưong ứng vói chúng.Nếu ở
các hoạt động khác (giao tiếp, vui chơi, lao động...), việc lĩnh hội diễn ra như
là kết quả phụ, không có tính hệ thống và không chắc đảm bảo tính khoa học,
thì ở hoạt động học việc lĩnh hội là kết quả chính của hoạt động và được diễn
ra một cách có hệ thống, mang tính khoa học.
+ Đặc điểm của hoạt động học là hoạt động chủ đạo của hsth:
· Hoạt động học tập theo học sinh suốt quãng đời đi học, ở học sinh tiểu
học thì vai trò được thể hiện rõ nhất. Nhà tâm lí học Elconhin đã khẳng
định: “Vai trò chủ đạo của hoạt động này chỉ tồn tại một cách đầy đủ nhất
trong thời kì nó bắt đầu được hình thành. Lứa tuổi học sinh tiểu học chính là
giai đoạn mà các hoạt động học tập hình thành một cách tích cực nhất”.
Tròn 6 tuổi, trẻ có những biến đổi cơ bản ( trí tuệ, năng lực, động cơ, hứng thú…).
· Hoạt động học của học sinh tiểu học có đầy đủ các dấu hiệu của một
hoạt động chủ đạo: đối tượng là các tri thức khoa học ( khái niệm, tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo) và các cách thức lĩnh hội tri thức một cách khoa học và hệ thống.
Là hoạt động có đối tượng đầu tiên xuất hiện trong tiến trình phát triển
của trẻ; khi hoạt động học được hình thành, sẽ không tự thủ tiêu; có thể
quy định sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý, nhân cách của trẻ.
· Bị lôi cuốn vào hoạt động học tập, HSTH được tiếp xúc với những điều
mới mẻ cả về nội dung và yêu cầu của nó, từ đó tạo cơ sở cho sự xuất hiện
những phẩm chất tâm lý đặc trưng cho lứa tuổi và từ đó tạo ra sự biến đổi
mới trong đời sống tâm lý, nhân cách của trẻ. Các phẩm chất tâm lý mới đó
chính là: tính chủ định, kĩ năng làm việc trí óc, sự phản tỉnh.
- Kết luận sư phạm:
+ Chú trọng tri thức khoa học và tri thức cuộc sống.
+ Tổ chức hoạt động tạo hứng thú cho hs nhằm thu hút sự tham gia tích cực
tạo nên sự biến đổi trong bản thân trẻ. lOMoAR cPSD| 40387276
+ Giáo viên cần phải làm cho đối tượng cần chiếm lĩnh xuất hiện trong ý thức
của người học. Sự tiếp thu lĩnh hội này là sự tiếp thu có tính tự giác cao, được
chủ thể biến thành nhiệm vụ của mình và tích cực chiếm lĩnh.
+ Người dạy cần phải tổ chức học tập phát huy được tính tích cực của người
học, làm nảy sinh nhu cầu nhận thức và phát hiện được đối tượng của chính việc nhận thức
+ Giáo viên cần phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc hình
thành cách học cho người học và đây sẽ là công cụ hàng ngày không thể thiếu
được của họ. Nội dung và tính chất của cách học sẽ quyết định chất lượng của
việc lĩnh hội tri thức và đến một lúc nào đó tri thức lại đủ sức trở thành công
cụ phục vụ cho việc tiếp thu tri thức mới nên cần tiến hành hai hoạt động này song song.
VẤN ĐỀ 4: CẤU TRÚC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
6. Để thực hiện nhiệm vụ học tập, HSTH sử dụng những hành động học nào?
Phân tích các hành động học đó. Lấy VD minh hoạ 1. Khái niệm
- Nhiệm vụ học tập: là hình thức cụ thể hóa nội dung học thành mục đích và
phương tiện đạt mục đích đó trong hoạt động học của trẻ.
Nhiệm vụ học tập bao giờ cũng hướng vào việc tạo năng lực mới ở học sinh.
Đây là điều để phân biệt nhiệm vụ học với nhiệm vụ thực hành cụ thể.
Học sinh tiểu học thường không ý thức được về nhiệm vụ học.
- Hành động học là quá trình chủ định tạo ra sản phẩm học tập của học sinh (tức
là quá trình đi giải quyết các nhiệm vụ học tập).
2. Để thực hiện nhiệm vụ học tập, HSTH sử dụng những hành động học:
a. Hành động phân tích:
- Hành động phân tích là quá trình học sinh phân giải đối tượng học thành
các yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Mục tiêu của phân tích là phát
hiện ra nguồn gốc xuất phát của khái niệm cũng như cấu tạo lôgic của nó. Bởi
vậy, hành động phân tích là hành động tiên quyết trong việc lĩnh hội tri thức
khoa học của học sinh tiểu học.
- Hành động này như mọi hành động nói chung có thể được thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau của đối tượng: vật chất hay vật chất hoá bằng kí
hiệu hoặc ngôn ngữ và trong đẩu. Hành động vật chất (hay vật chất hoá) có
đối tượng là các vật thật hay các vật thay thế (công thức, sơ đồ, hình vẽ) sao
cho mỗi học sinh tiểu học có thể hoạt động bằng tay: viết, vẽ, đánh mũi tên,
tẩy,xoá... Nhờ vậy, học sinh phải hành động thực sự (chứ không chỉ quan sát
hay theo dõi hoặc nghe kể...) mà làm biến đổi đối tượng lĩnh hội, nhờ đó phát lOMoAR cPSD| 40387276
hiện được lôgic của đối tượng nghiên cứu, phát hiện ra mối quan hệ chung
của hệ thống đối tượng cần khảo sát. Mọï hành động lại bao gồm một chuỗi
thao tác nhất định. Nó là phần lõi kĩ thuật của hành động. Thao tác khác động
tác ở tính chuẩn xác.Dù người hay máy thực hiện thao tác đều phải như nhau.
Các nhà tâm lí học cho rằng có các loại thao tác sau:
+Thao tác vật chất được thực hiện một cách vật chất bằng tay, bằng sức mạnh cơ
bắp ở bên ngoài trí óc.
+ Thao tác tinh thần đối lập với thao tác vật chất.
+Thao tác trí óc là thao tác tinh thần, nhưng ở người lại không phải thao tác
tinh thần nào cũng là thao tác trí óc. Thao tác trí óc đòi hỏi chuẩn xác cao, đòi hỏi một sự rạch ròi.
Ví dụ: Phép trừ trong phạm vi 10, hướng dẫn hs hình thành công thức: 10 -1 = 9 và 10 -9 =1
+ Hs có thể sử dụng thao tác vật chất bằng tay, sức mạnh cơ bắp bên ngoài trí óc
(hs có thể dùng tay, que tính, hình vẽ để hoàn thành phép tính)
+ Hoặc tùy vào khả năng của trẻ có thể sử dụng thao tác trí óc (tư duy) để đưa ra
kết quả. Thao tác trí óc đòi hỏi sự chính xác cao và sự rạch ròi.
b.Hành động mô hình hóa
- Khái niệm: là hành động hướng vào việc ghi lại tiến trình và kết quả của
hành động phân tích dưới dạng mô hình và kí hiệu. Nhờ hoạt động này
hsth ghi lại được tiến trình và kết quả thực hiện hành động phân tích dưới
dạng mô hình và kí hiệu.
- Chức năng: Diễn đạt một cách trực quan những mối quan hệ cơ bản của
đối tượng mà ta không thể nhìn thấy một cách trực tiếp.
- Mô hình hóa lúc đầu là sản phẩm của hoạt động, sau đó trở thành công cụ
tư duy. Mối quan hệ trong khái niệm đều được trải ra dưới dạng vật chất bề
ngoài rồi sau đó mới chuyển vào dạng tinh thần trong đầu óc.
- Một cách ước lệ có thể phân mô hình thành các loại sau:
+ Mô hình tương đồng, là loại mô hình gần giống với vật thật. Loại mô hình
này nói chung có ít tác dụng đối với sự phát triển trí tuệ và tư duy lí luận của
hs. VD: các que tính, khối nhựa trong phép tính số học; mô hình các bộ phận cơ thể.
+ Mô hình biểu trưng, có nét hao hao như nguyên mẫu, đồng thời có những
nét không hẳn như vậy. VD: Mô hình bài toán tổng tỉ lớp 4:
Mô hình này biểu thị các mối quan hệ giữa các giá trị trong bài bằng các đoạn thẳng. lOMoAR cPSD| 40387276
- Mô hình võ đoán là loại mô hình có tính chất quy ước, diễn đạt thuần khiết
logic của khái niệm. Loại mô hình này thường được diễn đạt bằng công
thức hay kí hiệu. VD: Tính diện tích hình vuông: S=a x a với a là độ dài của cạnh. - Kết luận:
+ Mô hình là sản phẩm của tư duy phân tích, đồng thời là phương tiện đặc biệt của tư duy.
+ Trong dạy học ở tiểu học, việc giáo viên sử dụng các mô hình dạy cho hs
biết cách thiết lập các mô hình để phân tích đối tượng là việc làm cần thiết để
phát triển trí tuệ của hs.
c.Hành động cụ thể hóa
- Hành động cụ thể hóa là hành động mà nhờ nó hs biết sử dụng các phương
pháp chung đã được hình thành để giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn, cụ
thể. Hành động này vừa có tác dụng củng cố, khắc sâu các phương pháp
chung đã được hình thành, vừa giúp xác định mức độ hình thành của các phương pháp chung trên.
- Trong dạy học ở bậc tiểu học, phải xem việc hình thành ở học sinh phương
pháp chung của việc giải quyết nhiệm vụ mới là việc làm quan trọng.
Những nhiệm vụ thực tiễn thì vô cùng phong phú và cực kì phức tạp. Vì
thế, dạy học ở tiểu học phải làm cho học sinh biết dùng phương pháp
chung đã được hình thành để giải quyết những trường hợp cụ thể như là
biểu hiện riêng của tình huống chung được lựa chọn ban đầu. Nhờ vậy, mà
các en nhanh chóng phân biệt được mối quan hệ trong đó và biết sử dụng
phương pháp chung đã được hình thành để giải quyết những tình huống mới.
- VD: Gv hướng dẫn cách làm và làm mẫu một bài 10 – 1 = 9, các cột khác
gọi hs làm để củng cố, ghi nhớ bảng trừ trong phạm vi 10 d.Hành động
kiểm tra và đánh giá
- Hành động kiểm tra là hành động mà ở đó diễn ra sự đối chiếu những hành
động học tập và kết quả của chúng với mẫu đã cho. Nó có vai trò tự điều
chỉnh trong hoạt động học. Việc kiểm tra thường thấy nhất trong nhà
trưòng là kiểm tra kết quả của hành động, sau đó mới bắt đầu kiểm tra theo
từng bước và theo quy trình. Việc kiểm tra có giá trị nhất và tương đối
hoàn thiện là kiểm tra theo kế hoạch và hướng về tương lai, tức là đưa sự
thực hiện một cách rút gọn và liên kết các hành động trước các tình huống vào kết quả mong muốn.
VD: Trong tiết toán, gv dạy cho hs các bước giải toán có lời văn, trong quá
trình hs thực hiện gv cần kiểm tra xem các em đã làm đúng các bước để đi lOMoAR cPSD| 40387276
đến kết quả cuối cùng là tính ra đáp số chưa, nếu chưa gv cần hướng dẫn các
em điều chỉnh hoạt động học của mình để có thể giải đúng bài toán.
- Hành động đánh giá: là hành động mà ở đó diễn ra việc xác định sự phù
hợp hay không phù hợp của các kết quả đã līnh hội được với những yêu
cầu của nhiệm vụ học. Ở trường tiểu học chủ yếu là đánh giá theo kết quả
đã dạt được và đánh giá theo khả năng thực hiện đến mức nào việc cần
làm. Trong đó đánh giá theo khả năng rất có ưu thế cho sự phát trịển tâm
lí, nhân cách nói chung và trí tuệ nói riêng.
VD: Bằng cách thực hiện lại hành động ở tất cả các khâu theo trật tự thuận
hoặc ngược lại thay quá trình này bằng quá trình khác, giải bài tập cùng dạng.
Sau khi học xong bài cách tính diện tích hình chữ nhật, gv có hể cho hs làm
lại các dạng bài, từ biết độ dài các cạnh hay chu vi để tính diện tích hoặc dạng
bài ngược lại từ biết diện tích tính độ dài cạnh để đánh giá xem hs đã thực
hiện tuần thục hết các dạng bài chưa.
- Mục đích của các hành động kiểm tra và đánh giá là rà soát lại chất lượng
của hành động thực hiện (tính khái quát, trình tự). Việc rà soát lại này có
thể thực hiện theo các cách thức khác nhau. Ví dụ bằng cách thực hiện lại
hành động ở tất cả các khâu theo trật tự thuận hoặc ngược lại, thay quá
trình này bằng quá trình khác,giải các bài tập cùng dạng.
- Trong dạy học không nên xem nhẹ việc kiểm tra kết quả.
- Trong thực nghiệm dạy học, chú ý đến việc tổ chức cho học sinh tiểu học
biết cách kiểm tra, hình thức thường làm là giao cho học sinh những bài
toán “điển hình” (thuật ngữ chỉ tình huống có chất liệu mới được phát hiện
hay hình thành) để học sinh giải quyết. Nhờ cách này, có thể xem xét học
sinh xử trí như thế nào trong những giây phút gay cấn trước một tình
huống chưa quen biết, thông qua đó cũng kiểm tra được quá trình hành
động của học sinh đã diễn ra như thế nào? Nhờ vậy, giáo viên có thể biết
được thực tế học sinh đã līnh hội được gì? có chắc chắn không? có đáng
tin cậy không? có khókhǎn gì? Tất nhiên, hiệu quả của kiểm tra con tùy
thuộc vào các yếu tố khác nữa.Vì vậy, nên coi đây là sự đánh giá gần đúng,
có giá trị định hướng hơn là sự chính xác hoá tuyệt đối. Trong dạy học cân
hình thành ở học sinh tiểu học thói quen tự kiểm tra và tự đánh giá không
chỉ kết quả mà còn cả quá trình đi đến kết quả của hành động nào đó.
7. Tại sao nói: hành động phân tích là hành động tiên quyết trong việc lĩnh
hội tri thức của học sinh tiểu học a. Khái niệm lOMoAR cPSD| 40387276
Hành động phân tích là quá trình học sinh phân giải đối tượng học thành
các yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Mục tiêu của phân tích là
phát hiện ra nguồn gốc xuất phát của khái niệm cũng như cấu tạo lôgic của
nó. Bởi vậy, hành động phân tích là hành động tiên quyết trong việc lĩnh
hội tri thức khoa học của học sinh tiểu học.
b. Hành động phân tích là hành động tiên quyết trong việc lĩnh hội tri
thức của học sinh tiểu học
• Hành động này như mọi hành động nói chung có thể được thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau của đối tượng: vật chất hay vật chất hoá bằng
kí hiệu hoặc ngôn ngữ và trong đẩu. Hành động vật chất (hay vật chất
hoá) có đối tượng là các vật thật hay các vật thay thế (công thức, sơ đồ,
hình vẽ) sao cho mỗi học sinh tiểu học có thể hoạt động bằng tay: viết, vẽ,
đánh mũi tên, tẩy,xoá... Nhờ vậy, học sinh phải hành động thực sự (chứ không
chỉ quan sát hay theo dõi hoặc nghe kể...) mà làm biến đổi đối tượng lĩnh
hội, nhờ đó phát hiện được lôgic của đối tượng nghiên cứu, phát hiện ra
mối quan hệ chung của hệ thống đối tượng cần khảo sát.
• Trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội một tri thức nào đó hs nhất định phải
xuất phát từ hành động phân tích - phát hiện đối tượng lĩnh hội, cấu trúc
logic; từ đó hs trên cơ sở kết quả vừa phân tích được thực hiện mô hình
hóa chúng; tiếp theo hs mới có thể vận dụng những tri thức đã có được từ
hai hành động trước vào giải quyết các vấn đề thực tiễn hay nói cách khác
là thực hiện hành động cụ thể hóa.
• Đặc điểm nổi bật trong tư duy của hsth là sự chuyển từ tính trực quan, cụ
thể sang trừu tượng, khái quát. Các em chuyển từ việc lấy các đối tượng
cụ thể thay cho định nghĩa hoặc liệt kê tất cả những gì thấy được ở đối
tượng để làm thành định nghĩa về nó sang hiểu khái niệm dựa vào dấu
hiệu bản chất của chúng. Muốn thực hiện thành công quá trình chuyển
biến trong tư duy này hsth nhất thiết phải có hành động phân tích để có
thể phát hiện ra nguồn gốc xuất phát của khái niệm cũng như cấu tạo lôgic
của nó từ đó thấy được bản chất của khái niệm, như vậy hsth mới có thể
Hãy đưa ra các kết luận sư phạm trong việc tổ chức các hoạt động hình
thành hành động học cho học sinh tiểu học
hiểu được khái niệm một cách đúng đắn và sâu sắc. 8.
• Hành động học là là quá trình chủ định tạo ra sản phẩm học tập của học
sinh (tức là quá trình đi giải quyết các nhiệm vụ học tập). lOMoAR cPSD| 40387276
• Trong dạy học, các hành động học được hình thành và phát triển trong
quá trình hình thành khái niệm khoa học. Hành động học được hình thành
ngay từ lớp 1 và dần dần định hình qua cơ chế “thầy tổ chức - trò hoạt
động” Kết luận sư phạm:
• Phải có sự đồng bộ về nội dung dạy học, phương pháp và tổ chức dạy học.
Mọi sự cải cách nửa vời trong dạy học sē không đem lại hiệu quả mong
muốn. Nếu chỉ hiện đại hoá nội dung sách giáo khoa mà không có phương
pháp và tổ chức dạy học tương ứng thì việc học của học sinh sẽ gặp khó
khăn. Đó chính là sự quá tải. Ngược lại, nếu chỉ cải tiến phương pháp mà
không xây dựng (cấu trúc lại) nội dung dạy học thì không tạo ra được điều
kiện tối ưu cho học sinh, vì nội dung dạy học ở nhà trường được các nhà
tâm lí học xem như là “thức ăn của trí tuệ”.
• Cần phải hình thành hành động học cho hs ngay từ lớp đầu cấp. Bởi khi
đã được hình thành thì chúng trở thành công cụ, phương tiện để tiếp tục
chiếm lĩnh các khái niệm khoa học ở các lớp trên.
• Trong dạy học ở tiểu học, thầy phải tổ chức, trò phải hoạt động, chứ
không phải thầy đọc, trò chép, hoặc thành giảng trò ghi nhớ. Bởi các hành
động học chỉ có thể được hình thành trong quá trình hs tự khám phá ra
những cái mới chưa từng có trong cuộc sống trước đó.
• Khi tổ chức hoạt động học tập cho hs thì gv không chỉ dạy tri thức khoa
học, kĩ năng, kĩ xảo mà còn dạy hs cách học, con dường chiếm lĩnh tri thức đó như thế nào.
• Hình thành động cơ học tập ở hsth, thúc đẩy bản thân hs liên tục trau dồi
kiến thức, từ đó gặt hái thành tích cao trong quá trình học tập sau này.
• Phải chú trọng vào hoạt động trải nghiệm, vì đặc điểm của hsth là tư duy
trực quan nên khi thực hành trải nghiệm các em có thể tiếp thu kiến thức
Tại sao nói hình thành các hành động học tập là vấn đề mấu chốt của việc
hình thành hoạt động học tập ở học sinh tiểu học (K. Huyền)
một cách dễ dàng hơn. 9. a. Khái niệm
• Hành động học là là quá trình chủ định tạo ra sản phẩm học tập của học sinh
(tức là quá trình đi giải quyết các nhiệm vụ học tập).
• Hình thành hoạt động học là hình thành tri thức về bản thân hoạt động học (cách học).
b. Hình thành các hành động học tập là vấn đề mấu chốt của việc hình
thành hoạt động học tập ở hsth vì: lOMoAR cPSD| 40387276
• Cấu trúc của hoạt động học bao gồm: nhiệm vụ học tập và hành động học
tập. Trong đó, nhiệm vụ học tập là hình thức cụ thể hóa nội dung học thành
mục đích và phương tiện đạt mục đích đó trong hoạt động học của trẻ.
Nhiệm vụ học tập hướng vào việc tạo ra năng lực mới thể hiện ở kết quả
học tập, bởi vậy nó chính là nhân tố quan trọng trong hoạt động học tập
không có nó hoạt động học không được cụ thể hóa và như vậy sẽ không
thể đạt tới kết quả. Nhiệm vụ học tập chỉ bắt đầu được hình thành khi chủ
thể bắt tay vào thực hiện hành động học tập, lúc này chủ thể bắt đầu xâm
nhập vào đối tượng, nội dung của nhiệm vụ học tập ngày càng được hiện
hình, lại càng định hướng cho hành động và nhờ đó chủ thể chiếm lĩnh
được tri thức mới, năng lực mới. Như vậy có thể nói, nếu không có hành
động học thì cũng sẽ không hoàn thành được nhiệm vụ học tập.
• Hành động học tập được xem là cơ sở cho sự phát triển tâm lí của học
sinh, thông qua ba hình thức của hành động học tập, đã chuyển cái vật chất
thành cái tinh thần, cái bên ngoài thành cái bên trong tâm lý con người.
• Đối tượng của hoạt động học là các tri thức khoa học, bao gồm cả tri thức
khoa học về thế giới lẫn tri thức khoa học về chiếm lĩnh tri thức. Đối tượng
học đã xuất hiện sự phức tạp hơn so với cấp mầm non, các em không thể
chỉ dựa trên những hình ảnh trực quan để tư duy mà đòi hỏi phải phân tích
được đối tượng mà không cần đến những hành động thực
tiễn đối với đối tượng đó. Mà để thực hiện được việc này nhất thiết các
em phải có được các hành động học tập: để phát hiện ra nguồn gốc và
lôgic của khái niệm cẩn có hành động phân tích; để diễn đạt một cách vật
chất và cảm tính khái niệm, cẩn có hành động mô hình hóa; để sử dụng và
cụ thể hoá khái niệm, cân có hoạt động cụ thể hoá; để kiểm soát và điều
chỉnh kịp thời cần có hành động kiểm tra và đánh giá. Có thực hiện được
các hành động học này thì hs mới có thể lĩnh hội được tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo và biến đổi bản thân mình. Như vậy, việc hình thành hành động
học tập là vấn đề mấu chốt của việc hình thành hoạt động học tập ở hsth.
VẤN ĐỀ 5: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHÁI NIỆM
Nêu các mức độ lĩnh hội khái niệm của học sinh tiểu học. Cho ví dụ minh hoạ (Thu Huyền) 10.
• Khái niệm của khái niệm: Khái niệm khoa học là những kiến thức về
những dấu hiệu, những thuộc tính bản chất của sự vật, về những mối liên
hệ và quan hệ bản chất của sự vật hiện tượng trong thực tế khách quan.
• Khái niệm có ba chức năng cơ bản: lOMoAR cPSD| 40387276 • Chức năng ơrixtíc • Chức năng phân tích • Chức năng tổng hợp
• Các mức độ lĩnh hội khái niệm của học sinh Tiểu học:
a. Mức độ mô tả - tái hiện (hiểu dấu hiệu bên ngoài, chưa vận dụng được) Ví
Dụ: Học sinh khi được hỏi “cái cây là gì?” thì các em đơn thuần chỉ liệt kê ra
những đặc điểm bên ngoài mà các em nhìn thấy “cái cây có thân màu nâu, có
lá, có hoa, có quả”, nhưng khi hỏi các em “xương rồng có phải cây không?”
thì các em sẽ trả lời “không phải, vì nó không có thân, có lá như những loại
cây các em thấy thường ngày”.
b. Mức độ giải thích - vận dụng (hiểu được dấu hiệu bản chất và vận dụng vào tình huống quen thuộc)
Ví dụ: Trong môn khoa học lớp 5, khi được học về khái niệm “vật tự phát
sáng và vật được chiếu sáng” thì các em có thể chỉ ra những vật khác nhau có
thể tự phát sáng như: Mặt trời, bóng đèn,... và một vài vật được chiếu sáng
như: cái bàn, cái ghế, quyển vở,...
c. Mức độ chỉ dẫn - biến hóa (hiểu dấu hiệu bản chất và vận dụng: sáng tạo vào tình huống mới)
Ví dụ: Trong môn Tiếng Việt, khi các em được học về khái niệm “từ láy” thì
có thể vận nó để thực hiện các yêu cầu như tô đậm từ láy xuất hiện trong đoạn
văn, đoạn thơ; phân biệt từ nào là từ láy từ nào là từ ghép và có thể lấy ví dụ
các câu có sử dụng từ láy.
11.Phân tích bản chất tâm lí của quá trình hình thành khái niệm cho HSTH
• Bản chất tâm lý của quá trình hình thành khái niệm là quá trình học sinh
hiểu và vận dụng được khái niệm
• Có nhiều mức độ khác nhau của việc hiểu: Sâu sắc hay hời hợt, toàn diện hay
phiến diện. Hiểu là phải nắm được bản chất của khái niệm về sự vật, hiện tượng nào đó.
• Hiểu là một quá trình tư duy tích cực. Bởi nếu như hoạt động tư duy của con
người không tích cực thì không thể hiểu được bản chất của khái niệm và làm
sao có thể gắn khái niệm đó với vốn kinh nghiệm riêng của bản thân
VD1: Khi học sinh nắm được, hiểu được công thức tính vận tốc là phải vận
dụng được nó khi học sinh gặp bất cứ bài toán nào yêu cầu tính vận tốc. Hiểu
được công thức tính vận tốc tức là các em đã “khớp” nó với công thức tính
quãng đường và thời gian.
VD2: Khi học sinh nắm được, hiểu được công thức tính diện tích xung quanh
của hình lập phương là phải vận dụng được nó khi các em gặp bất kì bài toán
nào yêu cầu tính diện tích xung quanh của hình lập phương. Hiểu được công lOMoAR cPSD| 40387276
thức đó tức là các em đã “khớp” nó với công thức tính diện tích xung quanh
của hình hộp chữ nhật, hình lăng trụ đứng tam giác/ tứ giác,....
• Hiểu là kết quả của một quá trình tư duy có khi diễn ra nhanh chóng, có khi
lâu dài, có khi càng nghĩ càng hiểu, có khi càng nghĩ càng rối rắm, có khi nghĩ
mãi không hiểu sau đó đột ngột mới “vỡ lẽ” ra. Học sinh muốn hiểu cái gì đó
thì phải có kinh nghiệm.
VD: Nếu trong kinh nghiệm trẻ chưa nhìn thấy hoặc chưa được người khác kể
chuyện về con khỉ thì khi nhìn con khỉ trong tranh nói không hiểu là con gì cả.
Nhưng nếu nó đã nhiều lần nhìn thấy con khỉ thật trong vườn thú hoặc được bố
mẹ chỉ vào bức tranh cho nó xem thì khi nhìn thấy con khỉ nó nhận ra ngay và
hiểu đấy là con khỉ, nói ra được từ “con khỉ”.
• Cao hơn một chút, học sinh có thể kể ra được dấu hiệu và thuộc tính của một
số sự vật mà các em biết nhưng chưa phân biệt được các dấu hiệu thuộc tính
bản chất, chung với riêng. Sau đó trong quá trình lĩnh hội khái niệm, học sinh
có thể tách ra và khái quát hoá các dấu hiệu và thuộc tính chung, bản chất của
một số sự vật mà các em đã quan sát, do đó mà các em tiếp thu được những tri
thức nhất định có tính chất khái niệm. Trong quá trình học tập sau này, những
tri thức có tính chất khái niệm dần dần trở nên xúc tích, sâu sắc và có tính chất
khái quát hơn cũng như liên hệ với các khái niệm khác.
• Có nhiều mức độ hiểu khác nhau. Có khi học sinh chỉ nắm được những thuộc
tính bề ngoài ứng với một vài kinh nghiệm của bản thân và giai đoạn này chủ
yếu diễn ra ở các em học sinh nhỏ.
VD: Khi được hỏi “thế nào là nóng?”, em trả lời “nóng rất khó chịu”; hay
“bông hoa là gì?”, em trả lời là “bông hoa rất đẹp”
• Do chưa hiểu được bản chất khái niệm nên không thể dùng lời nói để diễn đạt
nội dung khái niệm. Do đó, để xem học sinh có hiểu được vấn đề nào đó không
thì ta yêu cầu chúng nói lại, trình bày lại vấn đề đó bằng lời nói của mình.
VD1: Một học sinh ghép một cách đúng đắn tàu thuỷ, ô tô, tàu hoả, máy bay
(VD2: cam, quýt, bưởi, thanh long, chuối, dưa hấu) vào một nhóm nhưng lại
không thể đặt cho các vật này một tên gọi chung và không giải thích được hành
Đưa ra kết luận sư phạm từ việc nghiên cứu bản chất tâm lí của sự hình
thành khái niệm cho học sinh tiểu học. động của mình. 12. lOMoAR cPSD| 40387276 -
Xác định chính xác đối tượng cần chiếm lĩnh, phương tiện và công
cụ cần thiết để chiếm lĩnh đối tượng. Giáo viên là người quyết định khái
niệm nào cần dạy và dạy như thế nào, khái niệm nào cần học và học như
thế nào. Việc xác định đúng đối tượng cần lĩnh hội có tác dụng định
hướng toàn bộ hoạt động lĩnh hội khái niệm của học sinh. -
GV cần dẫn dắt học sinh chi tiết, cẩn thận một cách có ý thức qua
tất cả các giai đoạn của hành động chiếm lĩnh khái niệm. -
GV cần dạy học lấy học sinh làm trung tâm bởi khi đó, học sinh có
thể vừa là chủ thể nghiên cứu và chính vì thế, các em có thể dễ dàng ghi nhớ khái niệm. -
GV cần phải coi khâu luyện tập vận dụng khái niệm đã nắm được
cho học sinh là một khâu quan trọng bởi khi được luyện tập vận dụng, các
em sẽ có kinh nghiệm và chính nhờ những kinh nghiệm thực tế đó mà khi
gặp các khái niệm khoa học, các em sẽ dễ dàng tiếp thu, dễ hiểu bản chất của khái niệm hơn. -
Tổ chức tốt giai đoạn chiếm lĩnh cái tổng quát và giai đoạn chuyển
cái tổng quát vào các trường hợp cụ thể -
Trong dạy học muốn hình thành khái niệm cho học sinh thì GV
phải tổ chức những hành động cho HS, tác động vào đối tượng theo đúng
quy trình hình thành khái niệm mà các nhà khoa học đã phát hiện ra,
chuyển logic của đối tượng vào trong đầu người học.
Đề xuất các biện pháp hình thành khái niệm một cách vững chắc cho HSTH. 12.
• Xây dựng hoạt động khởi động đầu giờ có liên kết chặt chẽ với nội dung bài
học, vừa tạo được hứng thú cho các em, vừa có thể khiến cho học sinh tập
trung vào bài nhanh hơn. Từ đó tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn.
VD: Khi xây dựng hoạt động khởi động đầu giờ cho bài “Làm đồ dùng học tập”
(Công nghệ lớp 3), giáo viên có thể tổ chức trò chơi “Tôi vẽ bạn đoán”, chia lớp
thành 4 nhóm, giáo viên sẽ vẽ một vài đồ dùng lên bảng trong 5 phút để các em
đoán, đội nào đoán được nhanh nhất sẽ được 1 điểm và đến cuối cùng, đội nào
được nhiều điểm nhất sẽ giành chiến thắng và có một phần quà nhỏ.
• Khi bắt đầu cho học sinh tiếp cận với khái niệm khoa học, GV cần phải đưa ra
những ví dụ thực tiễn, những gì gần gũi với các em để từ đó, học sinh có thể
phát hiện ra dấu hiệu, đặc điểm của khái niệm mà các em cần tiếp cận đến.
VD: Khi học bài “Từ đồng âm” (Tiếng Việt lớp 5), GV có thể đưa ra một từ như lOMoAR cPSD| 40387276
“câu” sau đó đặt trong hai câu khác nhau là: “Đoạn văn này gồm có sáu câu.”,
“Hôm nay, bố dẫn em đi câu cá.” và để các em chỉ ra sự khác biệt của từ trong
mỗi câu và bước đầu để các em thấy được đó là đó cùng là một từ nhưng khi đặt ở
trong ngữ cảnh khác nhau thì sẽ có nghĩa hoàn toàn khác nhau và từ đó rút ra khái
niệm từ đồng âm là từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa.
• Sau khi dẫn dắt học sinh tự tìm tòi, phát hiện ra dấu hiệu, đặc điểm của khái
niệm khoa học thì GV có thể tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động để củng
cố lại khái niệm khoa học đó bằng cách cho các em vẽ sơ đồ tư duy, hay làm mô hình.
VD: Khi học bài “Hình lập phương, hình hộp chữ nhật” (Toán lớp 5), sau khi phân
biệt rõ cho các em về hai hình, GV có thể chia lớp làm các nhóm nhỏ, giao nhiệm
vụ cho các em tạo một hình lập phương, hoặc hình hộp chữ nhật từ đồ dùng mà
giáo viên chuẩn bị sẵn từ trước (que kem/que tính/que gỗ nhỏ/giấy, keo dán, hồ dán,...).
• Sau khi giúp học sinh hình thành khái niệm khoa học, GV nên đưa ra bài tập
theo các mức độ (từ cơ bản đến vận dụng cao) để vừa giúp các em củng cố lại
khái niệm, vừa giúp các em tư duy, mở rộng khái niệm đó ra hơn nữa nếu các em đã nắm vững rồi.
• Quan trọng nhất là GV phải cho học sinh nhắc lại kiến thức đồng thời lấy ví
dụ về khái niệm các em đã học vào cuối giờ học, điều này có thể được thực
hiện bằng nhiều hình thức nhưng phổ biến và dễ dàng nhất đối với hsth là cho
các em tham gia trò chơi cuối giờ, trả lời các câu hỏi trắc nghiệm đơn giản.
VD: Sau tiết học “Từ đồng âm”, GV có thể đưa một số câu hỏi như sau vào trò
chơi “Có thể các bạn đã biết!?”: “Từ đồng âm là từ … về âm, nhưng … về nghĩa”;...
• Cuối cùng là GV nên giao cho học sinh phiếu bài tập về nhà, điều này không
chỉ giúp các em củng cố, luyện tập tại nhà mà còn có thể giúp giáo viên đánh
giá được học sinh đã nắm vững bài đến đâu để có thể có những phương pháp dạy học phù hợp hơn.
Thực hành phân tích các mức độ hình thành, các bước và các lưu ý khi
hình thành các khái niệm KH cho HSTH 14.
Bài: Luyện từ và câu: TỪ ĐỒNG NGHĨA (Tiếng Việt 5) lOMoAR cPSD| 40387276
1. Các mức độ lĩnh hội khái niệm của hsth a.
Mức độ mô tả - tái hiện: Các em có khả năng hiểu, ghi nhớ và trình
bày lại được khái niệm “từ đồng nghĩa” nhưng chưa thể vận dụng vào giải
quyết các bài tập, tình huống cụ thể.
Ví dụ dạng bài tập: Các câu hỏi lí thuyết về “từ đồng nghĩa” b.
Mức độ giải thích - vận dụng: Học sinh có thể vận dụng khái niệm
và bản chất của khái niệm vào giải quyết các câu hỏi đơn giản về “từ đồng
nghĩa” đồng thời là giải thích tại sao các em lại trả lời như vậy.
Ví dụ dạng bài tập: Tìm từ đồng nghĩa với từ “hạnh phúc”, “chăm chỉ”, “gọn gàng”,... c.
Mức độ chỉ dẫn - biến hóa: Học sinh biết vận dụng kiến thức các
em đã học về “từ đồng nghĩa” để giải quyết các bài tập, vấn đề mới và sáng tạo hơn.
Ví dụ dạng bài tập: Tìm các từ cùng nghĩa chỉ màu đen và điền vào chỗ
chấm thích hợp (bảng màu đen gọi là bảng…; ngựa màu đen gọi là
ngựa…; mèo màu đen gọi là mèo…; chó màu đen gọi là chó…; ...)
2. Các bước hình thành khái niệm cho hsth
BƯỚC 1: Tạo nhu cầu nhận thức cho HS bằng các tình huống có vấn đề.
Đặt câu hỏi: “Các em có biết vì sao để nói về các chết của một người
có lúc thì người ta dùng từ “khuất”, có lúc lại dùng từ “hi sinh”, “qua
đời”,... không?” => câu hỏi đã tạo ra sự mâu thuẫn giữa các từ học sinh
đã biết và các từ các em chưa biết và tự hỏi tại sao lại có thể sử dụng
chúng thay thế nhau như vậy. Từ đó kích thích sự tò mò, tạo sự hứng thú
để học sinh tích cực tham gia xây dựng bài để giải quyết mâu thuẫn này.
BƯỚC 2: Tổ chức cho học sinh hoạt động làm bật ra các dấu hiệu, đặc
điểm của khái niệm khoa học.
Cho hai câu thơ: “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu
hờn kém xanh” - nhận xét, so sánh về nghĩa của hai từ in đậm trong câu
thơ trên? => giúp học sinh bước đầu nắm được đặc điểm của các từ đồng
nghĩa (có nghĩa giống nhau/ gần giống nhau) từ đó tạo cơ sở hình thành
khái niệm từ đồng nghĩa.
BƯỚC 3: Tổ chức cho học sinh phát hiện ra các dấu hiệu bản chất của khái niệm khoa học.
Tổ chức trò chơi: “Tiếp sức tìm từ” cho các em chia thành các đội và từng
đội sẽ tìm các từ theo chủ đề được cho (những từ chỉ cái đẹp/ niềm vui/ sự lOMoAR cPSD| 40387276
chăm chỉ/sự to lớn) => bước đầu giúp các em hình thành đầy đủ các dấu
hiệu và đặc điểm của từ đồng nghĩa (các em nhận ra được sự giống nhau
về nghĩa hay đơn đơn giản hơn là những từ các em tìm được đều liên quan
đến một chủ đề từ mà các em được giao)
BƯỚC 4: Tổ chức cho học sinh ghi lại ra các dấu hiệu bản chất của khái
niệm khoa học bằng các mô hình hoặc kí hiệu. -
Tổ chức cho học sinh ghi lại các dấu hiệu bản chất của từ đồng
nghĩa: có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau; cùng liên quan đến một chủ đề từ vựng. -
Cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy các đặc điểm giúp tăng sự hứng thú
của học sinh đối với bài học, tránh nhàm chán, giúp các em ghi nhớ lâu hơn.
BƯỚC 5: Tổ chức cho học sinh luyện tập củng cố khái niệm. -
Bài tập: Điền tiếp các từ đồng nghĩa vào mỗi nhóm từ đã cho: +
siêng năng, cần cù,... -> điền: chăm chỉ, cần mẫn, chịu khó,...
+ vui vẻ, hạnh phúc,... -> điền: vui sướng, sung sướng,...
=> giúp học sinh củng cố thêm các dấu hiệu bản chất của từ đồng nghĩa, từ đó
có thể khái quát thành khái niệm từ đồng nghĩa dễ dàng hơn.
BƯỚC 6: Tổ chức cho học sinh khái quát khái niệm -
Nêu khái niệm từ đồng nghĩa và đưa ra ví dụ: “Từ đồng nghĩa là
những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau” - VD1: siêng năng,
chăm chỉ, cần cù, cần mẫn,.../ VD2: vui vẻ, hạnh phúc, vui sướng, sung sướng,...
3. Yêu cầu tâm lí sư phạm
a. Lựa chọn hiện tượng, sự vật, các ví dụ điển hình để hình thành khái niệm. -
Khi đưa ra các chủ đề từ vựng, các ví dụ để tổ chức hoạt động cần
chú ý chọn từ ngữ tiêu biểu, gần gũi với đời sống thường ngày của học sinh. -
Sau khi học sinh đã nắm được khái niệm từ đồng nghĩa, cần đưa ra
các chủ đề từ vựng mới được xây dựng đa dạng trong các bài luyện tập để
cho học sinh mở rộng, sáng tạo.
b. Phải tổ chức cho học sinh quan sát, phân tích sự vật để tìm ra những đặc
điểm chủ yếu, bản chất, so sánh với những nét không bản chất. lOMoAR cPSD| 40387276
- Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh đi qua từng bước hình thành khái
niệm, phải quan sát, tư duy, phân tích, so sánh, khái quát để rút ra được khái
niệm cuối cùng chứ không chỉ đưa ra khái niệm và học thuộc. - Ở đây giáo
viên là người tổ chức các hoạt động còn học sinh dưới sự chỉ dẫn của giáo
viên mới là người tự rút ra những nét bản chất và không bản chất để hình
thành khái niệm khoa học. Các hoạt động được tổ chức cần đơn giản, dễ hiểu,
phù hợp với khả năng của học sinh và có tính liên kết logic xây dựng từ dễ đến khó.
c. Cần chú ý đến trình độ nắm khái niệm của học sinh.
- Giáo viên cần quan sát từ các hoạt động để nhận ra mức độ nắm khái niệm
của từng học sinh. Từ đó đưa ra yêu cầu đúng lúc và phù hợp với các học sinh
của mình để các em thuận lợi hơn trong việc nắm vững khái niệm.
d. Cần rèn luyện để học sinh biết vận dụng khái niệm đã học.
- Giáo viên cần chú ý đến việc xây dựng hoạt động rèn luyện khái niệm
khoa học cho học sinh vận dụng khái niệm vào để giải quyết các tình huống
trong bài tập, trong đời sống hàng ngày.
- Hệ thống bài tập cần được xây dựng từ dễ đến khó phù hợp với mức độ
nắm khái niệm của học sinh và phải bao quát các khía cạnh khác nhau của khái niệm.
- Xây dựng thêm các bài tập chuyên biệt để mở rộng thêm tri thức cho học sinh.
e. Cần phải giúp học sinh hệ thống hóa khái niệm.
- Giáo viên cần đưa khái niệm từ đồng nghĩa vào hệ thống những khái niệm
đã học trước đó như khái niệm “Từ” , “Từ đơn”, “Từ phức” , ”Từ ghép”, “Từ láy”,...
- Hướng dẫn cho học sinh nắm được khái niệm “Từ đồng nghĩa” một cách
có hệ thống, không đơn lẻ, rời rạc.
VẤN ĐỀ 6: KĨ NĂNG - KĨ XẢO - THÓI QUEN
15.Phân biệt kĩ xảo và thói quen. Cho ví dụ minh họa Kĩ xảo Thói quen lOMoAR cPSD| 40387276 Khái
Là loại hành động tự động
Là loại hành động tự niệm
hóa một cách có ý thức động hóa đã trở thành
(được tự động hóa nhờ
nhu cầu của con người luyện tập)
Tính Mang tính chất thuần túy Mang tính nhu cầu, nếp chất sống của con người Con
Luyện tập có mục đích và
Được hình thành bằng đường có
hệ thống nhiều con đường khác hình
nhau, trong đó có con thành đường tự phát Tình
Không gắn với tình huống
Gắn với một tình huống huống nhất định xác định Tính
Tính bền vững thấp hơn Tính bền vững cao hơn kĩ bền thói quen
xảo. Nó bắt rễ vào hoạt vững động sống và hành vi của
con người sâu hơn so với
kĩ xảo, cho nên thay đổi, sửa chữa thói quen khó
hơn nhiều so với kĩ xảo. Mặt
Mặt kĩ thuật thao tác: kĩ xảo
Mặt đạo đức: thói quen đánh
mới, tiến bộ, cũ, lạc hậu tốt, thói quen xấu, có lợi giá hay có hại Ví dụ 1 dùng học
Kĩ xảo: hsth có kĩ xảo viết tập trước
chữ đẹp và nhanh khi các khi đến
em thường xuyên luyện tập lớp để các em một cách nghiêm túc và có thể độc lập
chăm chỉ ở trên lớp cũng hơn, tự giác như ở nhà. hơn và có sự 2 chuẩn bị cả
Kĩ xảo: hsth có kĩ xảo tính nhẩm khi các về tinh thần em thật tốt cho
thường xuyên luyện tập buổi học
củng cố một cách nghiêm túc và chăm hôm sau.
chỉ ở trên lớp cũng như ở nhà.
Thói quen: Cha mẹ và
Thói quen: Phụ huynh cần
thầy cô cần rèn cho trẻ
tạo cho trẻ thói quen tự thói quen tự giác trong
chuẩn bị sách vở và đồ lOMoAR cPSD| 40387276
học tập, giúp cho các em biết có trách
như để các em tự rút kinh
Trình bày các quy luật của kĩ xảo. Cho ví dụ minh họa trong thực tế giáo dục tiểu học
nhiệm với bài làm của mình cũng nghiệm cho bản thân. 16.
- Khái niệm: Kĩ xảo là hành động được củng cố và được tự động hóa nhờ luyện tập
VD1: Đối với học sinh 6 tuổi mới vào lớp 1, được cô giáo hướng dẫn cách
cộng trừ các số trong phạm vi 10 bằng que tính, bằng ngón tay,… trong những
ngày đầu tiên khi đi học đó chính là kĩ năng. Còn việc các em đã trở nên
thuần thục rồi, trở thành những hành động tự động, dường như không cần có
sự kiểm tra của ý thức mà vẫn có thể thực hiện được các phép toán đó một
cách chính xác – Đó chính là kĩ xảo.
VD2: Đối với học sinh tiểu học, khi mới học viết đoạn văn, phần mở bài các
em thường viết theo một khuôn mẫu nhất định dựa theo chủ đề yêu cầu có thể
thấy như đề “miêu tả mẹ em” sẽ là “Trong gia đình em có 4 người đó là bố
em, mẹ em, em và em trai của em. Thế nhưng người mà em yêu quý nhất
chính là mẹ em.” - đây chính là kĩ năng. Thế nhưng sau một thời gian luyện
tập, các em dần nhận thấy những câu văn đó quá quen thuộc trở nên nhàm
chán và nhờ vào những gì mình học được, luyện tập được, các em sẽ sáng tạo
hơn trong việc viết những câu văn để đoạn văn của mình có thể trở nên hay
hơn - đây chính là kĩ xảo.
Tập hợp các động tác thuần thục, có tính tự động hóa cao, vượt ngoài sự kiểm
soát thường xuyên của ý thức “là kĩ xảo”
Kĩ xảo được hình thành cho học sinh bằng con đường luyện tập một cách có ý
thức. Khi hình thành kĩ xảo cho học sinh tiểu học, cần chú ý các quy luật
hình thành kĩ xảo sau:
* Quy luật về tiến bộ không đồng đều
Trong quá trình luyện tập kĩ xảo có sự tiến bộ không đồng đều :
• Có loại kĩ xảo khi mới luyện tập thì tiến bộ bộ nhanh, sau đó chậm dần
VD : Khi hsth mới tiếp xúc với máy tính, học gõ văn bản bằng 10 ngón tay,
do mới tiếp xúc với công nghệ, sự hứng thú của các em tăng cao, việc luyện
tập ban đầu sẽ dễ dàng hơn, thế nhưng qua một thời gian, do đòi hỏi về độ lOMoAR cPSD| 40387276
khó của văn bản cũng như thời gian gõ phím, sự tiến bộ trong kĩ xảo này của
các em cũng sẽ chậm lại hoặc hầu như không có phát triển thêm.
• Có những kĩ xảo khi mới luyện tập thì có sự tiến bộ chậm, nhưng đến
một giai đoạn nhất định nó lại tăng nhanh
VD : Trước kia đa số trẻ sẽ quen gõ bàn phím bằng 2 ngón nên khi trẻ bắt đầu
làm quen với gõ 10 ngón sẽ tiến bộ rất chậm nhưng sau khi trẻ đã biến gõ bàn
phím 10 ngón trở thành kĩ xảo rồi thì tốc độ gõ và tính chính xác sẽ tăng lên
gấp nhiều lần so với gõ 2 ngón.
• Có những trường hợp khi bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ tạm thời lùi
lại, sau đó tăng dần
VD : Khi hsth bắt đầu luyện viết chữ đẹp, do đòi hỏi một sự kiên trì và cẩn
thận trong luyện tập vì thế ban đầu, các em dễ nản lòng và sự tiến bộ tạm
thời lùi lại. Thế nhưng khi có được động lực từ bạn bè xung quanh (thấy chữ
viết của bạn bè dần trở nên đẹp hơn và các bạn viết nhanh hơn mình) thì học
sinh có thể nỗ lực hơn để việc luyện viết trở nên có hiệu quả. * Quy luật
“đỉnh’ của phương pháp luyện tập
Mỗi phương pháp luyện tập kĩ xảo chỉ đem lại một kết quả cao nhất có thể
có đối với nó, gọi là “ đỉnh” (trần) của phương pháp đó. Muốn đạt được kết
quả cao cần phải thay đổi phương pháp luyện tập để có thể “đỉnh” hơn VD1:
Học thuộc bằng phương pháp đọc lẩm nhẩm bằng miệng nhiều lần có thể chỉ
cho ta một kết quả nhất định, nhưng khi thay đổi phương pháp học thuộc như
chọn khung giờ học hợp lý, vẽ sơ đồ cây kiến thức cần học … thì sẽ thấy
hiệu quả hơn rất nhiều khi tiếp thu được kiến thức dễ hơn mà còn tốn ít thời gian hơn VD2:
* Quy luật về sự tác động qua lại giữa kỹ xảo cũ và kỹ xảo mới
• Trong quá trình luyện tập kĩ xảo mới, những kĩ xảo cũ đã có ở người học
ảnh hưởng đến sự hình thành kĩ xảo mới, sự ảnh hưởng này có thể tốt hoặc
xấu. Nếu ảnh hưởng tốt thì làm cho quá trình hình thành kĩ xảo mới nhanh
hơn, dễ dàng hơn, bền vững hơn, người ta gọi đó là sự di chuyển kĩ xảo
VD1: Học sinh khi hình thành được kĩ xảo đánh máy tính bằng 10 ngón tay sẽ
giúp cho các ngón tay của các em dần trở nên linh hoạt hơn và đây chính là một
lợi thế để hình thành kĩ xảo mới khi các em làm quen với các loại nhạc cụ như Piano, Guitar, Violin,...
VD2: Khi các em học sinh học nhạc, bằng cách tiếp xúc với âm nhạc và làm
quen với gõ phách sẽ giúp các em hình thành kĩ năng cảm âm, cảm nhịp tốt hơn
và luyện tập lâu ngày trở thành kĩ xảo của các em. Chính nhờ kĩ xảo cũ đó mà
các em có năng khiếu về âm nhạc sẽ cảm thấy dễ dàng hơn khi học thanh nhạc lOMoAR cPSD| 40387276
hay sử dụng các nhạc cụ trong âm nhạc như Piano, Violin, Viola, Guitar,... từ đó
hình thành một kĩ xảo mới.
• Còn khi kĩ xảo cũ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành kĩ xảo mới, gây cản trở,
khó khăn cho sự hình thành kĩ xảo thì người ta gọi đó là sự giao thoa kĩ xảo…
VD1: Cũng là kĩ xảo cộng trừ đối với học sinh lớp 1, khi hình thành kĩ xảo
mới trong phép nhân chia đối với cuối lớp 2 và lớp 3 thì kĩ xảo cộng trừ này
cũng gây cản trở, khó khăn cho các em vì các em dễ bị nhầm lẫn giữa phép
cộng và phép nhân. Các em dễ bị nhầm như là 1 x 1 = 2; 2 x 3 =5; …. vì thoạt
nhìn thì phép cộng và phép nhân khá giống nhau khiến các em dễ nhầm lẫn nếu không nắm chắc.
VD2: Ban đầu khi mới được học phép cộng trừ, để tính chu vi hình vuông,
học sinh sẽ tính bằng cách cộng tất cả các cạnh vào với nhau. Nhưng sau khi
học bảng nhân chia, để tính chu vi hình vuông, các em chỉ cần lấy một cạnh
nhân với 4. Và nếu không nắm chắc về bản chất của phép nhân, không phân
biệt rõ phép nhân với phép cộng thì các em sẽ dễ hiểu lầm đây là một công
thức hoàn toàn khác và gây ra cản trở mỗi khi các em thực hành vào bài tập.
* Quy luật dập tắt kĩ xảo
Khi kĩ xảo đã được hình thành, nếu không sử dụng, tập luyện, củng cố thường
xuyên sẽ bị suy yếu và cuối cùng bị dập tắt. Quy luật này cho chúng ta thấy vai
trò của “văn ôn, võ luyện”
VD1: Sau một kỳ nghỉ hè thì kĩ xảo viết chữ của học sinh chắc chắn sẽ bị suy
giảm đi rõ rệt nếu không được luyện tập thường xuyên như khi đi học. Các
em sẽ viết chậm hơn, sai chính tả nhiều hơn và viết lỏng tay hơn.
VD2: Đối với hsth, khi mới tiếp xúc với tiếng Anh, nếu không được luyện
tập củng cố thường xuyên thì các em sẽ dễ dàng quên đi các kiến thức đó và
Trình bày yêu cầu tâm lí - sư phạm khi hình thành kĩ năng, kĩ xảo và thói
quen cho học sinh tiểu học
cuối cùng các em sẽ chẳng nhớ gì về những kiến thức mình đã được học. 17.
a. Làm cho học sinh ham thích luyện tập
Muốn hình thành kĩ năng, kĩ xảo, thói quen nào cần tìm cách làm cho học
sinh thích thú luyện tập.
VD1: Muốn rèn cho học sinh kĩ năng tính nhẩm, giáo viên có thể tổ chức
cuộc thi “Bạn nào nhanh hơn!” và đi kèm là một số phần thưởng bí mật để
gây hứng thú cho học sinh. Từ đó, các em có thể tự giác ôn tập tính nhẩm
tại nhà và trên lớp vì các em đều muốn chiến thắng và nhận được quà. lOMoAR cPSD| 40387276
VD2: Khi dạy học sinh về kĩ năng viết văn sáng tạo, giáo viên nên cho các
em xem, nghe một số bài văn sáng tạo mẫu, nên lựa chọn những bài văn
gần gũi, thân thuộc và quan trọng nhất là dễ gây hứng thú cho các em để từ
đó học sinh có thể không ngừng suy nghĩ, luyện tập, trau dồi khả năng viết văn của mình.
b. Cần làm cho các em hiểu cách thức luyện tập.
Khi hướng dẫn một hành động, một công việc gì đó cho các em, đòi hỏi
giáo viên phải nghiên cứu tỉ mỉ để hướng dẫn từng thao tác, từng việc sao
cho rõ ràng, mạch lạc để các em làm theo được.
VD1: Khi cho học sinh luyện đọc tiếng việt, giáo viên cần phải là người
đọc mẫu, hướng dẫn chi tiết học sinh cách ngắt nghỉ ở dấu chấm câu, đọc
sao cho đúng cảm xúc của câu văn, câu thơ.
VD2: Khi hướng dẫn học sinh thực hiện phép tính cộng trừ số thập phân,
giáo viên cần phải hướng dẫn chi tiết các em đặt phép tính như thế nào cho
đúng, phải đặt dấu phẩy thẳng nhau, các hàng của phần thập phân cũng
như phần nguyên tương ứng với nhau phải thẳng hàng. Sau đó mới thực
hiện phép tính như bình thường.
c. Cần phải chỉ dẫn kịp thời những sai sót của các em.
Những chỉ dẫn của giáo viên về những sai sót trong các phương pháp hành
động và sự đánh giá mức độ phù hợp giữa kết quả đạt được với mục đích
đề ra có ý nghĩa quan trọng. Biết kết quả và hiểu nguyên nhân của sự sai
sót trong hành động là một trong những điều kiện chủ yếu để chuyển từ kĩ
năng sang kĩ xảo nhanh chóng. Nếu phát hiện ra sai sót ngay, sửa chữa kịp
thời thì thường rút ngắn thời gian luyện tập có kết quả.
VD1: Khi hình thành cho học sinh phép trừ có nhớ, các em thường nhầm
lẫn với phép cộng có nhớ, nên khi đến phần phép trừ có nhớ thì học sinh
thường cộng thêm vào kết quả giống phép cộng có nhớ chứ không trừ đi.
Vậy nên giáo viên cần phải quan sát và sửa đổi kịp thời, sau khi giáo viên
sửa và chỉ ra cách làm sai, chỉ dạy lại cách tính đúng, các em sẽ dần thực
hiện phép trừ có nhớ nhanh hơn đồng thời có độ chính xác cao hơn.
VD2: Khi học sinh mới bắt đầu học đánh vần, các em sẽ dễ nhầm lẫn và
viết sai, không biết khi nào dùng “c” hay “k”, khi đó, giáo viên cần phải
kịp thời phát hiện và hướng dẫn kĩ cho các em rằng các em sẽ viết “k”
khi vần bắt đầu bằng các nguyên âm “i,e,ê” và còn lại sẽ đi với “c”. Sau
khi được sửa sai và luyện tập nhiều hơn, các em sẽ nhớ và không lặp lại lỗi sai. lOMoAR cPSD| 40387276
d. Phải tiến hành luyện tập có hệ thống và liên tục
- Trước hết, phải luyện tập có hệ thống đi từ đơn giản đến phức tạp.
VD1: Khi mới vào lớp 1, học sinh cần phải được tiếp cận với bảng chữ
cái, sau đó là ghép vần, ghép phụ âm vào vần để tạo thành một tiếng, và
ghép các tiếng thành một câu để đọc, rồi sau đó các em qua sự hướng dẫn,
luyện tập thì mới có thể đọc thành thạo các đoạn văn, đoạn thơ. VD2: Khi
học sinh mới tiếp cận với tiếng anh, các em đều cần phải được tiếp cận với
bảng chữ cái, học cách phát âm qua các bài hát bảng chữ cái rồi sau đó
mới học các từ đơn giản, các mẫu câu cơ bản để có thể giao tiếp hằng ngày
và dần dần mới học đến những mẫu câu và từ khó hơn, phức tạp hơn.
e. Phải kiểm tra và đánh giá kết quả luyện tập
Khi luyện tập giáo viên phải theo dõi, uốn nắn kịp thời những sai sót của
các em ngay từ đầu. Điều quan trọng là giáo viên phải dạy cho các em tự
kiểm tra, dần dần sẽ hình thành thói quen tự kiểm tra, tự đánh giá hành
động của mình. Nếu không dạy các em biết tự kiểm tra, giáo viên lại
không thường xuyên kiểm tra thì học sinh dễ chán nản hoặc chủ quan, làm qua quýt mọi việc.
VD1: Khi kết thúc tiết học bài “Phân số” lớp 4, giáo viên cho học sinh làm
một bài kiểm tra nhỏ với các câu hỏi ở mức độ phù hợp để củng cố kiến
thức bài học. Điểm kiểm tra sẽ cho phép giáo viên đánh giá những điểm
cần giúp đỡ để học sinh cải thiện, nó cũng là cơ hội để học sinh biết được
mức độ hiểu bài của mình để có kế hoạch ôn tập phù hợp tại nhà hay thậm
chí là ngay trên lớp với sự giúp đỡ của giáo viên.
VD2: Sau mỗi bài học, giáo viên nên giao cho các em một phiếu học tập
nhỏ để các em có thể điền vào đó những phần mà các em đã học ngày hôm
nay, ở dưới sẽ có những bài tập củng cố, luyện tập và cuối cùng là 5 dấu
sao biểu thị cho mức độ hiểu bài mà các em tự đánh giá, sau đó giáo viên
sẽ thu lại và từ đó có thể theo dõi được các em đang hiểu bài ra sao, quá
trình tự đánh giá của các em như thế nào và cuối mỗi tuần sẽ có đánh giá
tổng kết cho học sinh để các em có thể dựa vào đó rút kinh nghiệm cũng
như cẩn thận hơn, kĩ lưỡng hơn trong việc tự kiểm tra, đánh giá quá trình
học tập của bản thân.
f. Phải củng cố những kĩ năng, kĩ xảo và thói quen đã được hình thành.
- Kĩ năng, kĩ xảo và thói quen của học sinh tiểu học dễ hình thành nhưng
chưa bền vững; các em tiếp thu nhanh, nhiều tác động nhưng chưa có khả
năng phân tích chọn lọc. Vì vậy, giáo viên cần chọn lọc kĩ năng, kĩ xảo và lOMoAR cPSD| 40387276
thói quen khó – cần củng cố, làm cho chúng nổi bật và chiếm vị trí quan
trọng trong các hoạt động muôn hình muôn vẻ của học sinh.
- Quá trình hoạt động thực tiễn sẽ làm cho các kĩ năng, kĩ xảo và thói quen
được thử thách, vận dụng trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau sẽ trở
nên bền vững nhưng lại có tính linh hoạt cao.
VD1: Sau khi học xong bài “ Chu vi và diện tích HCN”, giáo viên cho học
sinh thực hành đo kích thước và tính chu vi, diện tích chiếc bàn học của các em.
VD2: Việc rèn chữ là việc cả đời, giáo viên cần luôn phải theo sát quá trình
rèn chữ của các em, luôn nhấn mạnh đến việc rèn luyện chữ viết để các em
thấy được tầm quan trọng của việc rèn chữ và luôn luôn cố gắng củng cố.
luyện tập để không làm mất đi kĩ xảo này.
VẤN ĐỀ 7: ĐẠO ĐỨC, HÀNH VI ĐẠO ĐỨC
18. Mô tả các tiêu chuẩn để đánh giá một hành vi của học sinh là hành vi đạo đức . (Thu Huyền)
a. Khái niệm đạo đức và hành vi đạo đức:
- Đạo đức là một trong những hình thái của ý thức xã hội phản ánh tồn
tại xã hội quy định các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa con người
với xã hội và giữa người với nhau trong các mối quan hệ xã hội, chính trị khác nhau.
- Hành vi đạo đức là hành động tự giác được thúc đẩy vởi động cơ có ý
nghĩa về mặt đạo đức
b. Các tiêu chuẩn đánh giá hành vi đạo đức:
Về mặt tâm lí có ba tiêu chuẩn để đánh giá một hành vi của học sinh là hành vi đạo đức hay không:
* Tiêu chuẩn thứ nhất - Tính tự giác của hành vi:
- Được thể hiện ở chỗ hành vi được thực hiện có tự nguyện hay không?
VD1: Việc học sinh tiểu học giúp người già và các em nhỏ hơn qua đường
an toàn được coi là một hành vi đạo đức khi các em thực hiện điều đó một
cách tự nguyện chứ không do bất kì sự tác động hay nhắc nhở của bất kì ai.
VD2: Việc học sinh tiểu học vứt rác vào đúng nơi quy định được coi là
hành vi đạo đức khi các em thực hiện hành vi đó một cách tự nguyện chứ
không phải do có sự tác động, nhắc nhở của người lớn.
- Được thể hiện ở chỗ: Chủ thể của hành vi đạo đức nhận thức được ý
nghĩa, mục đích hành vi của mình và chủ thể hoàn toàn hành động bởi sự lOMoAR cPSD| 40387276
thúc đẩy của những động cơ chính nội tâm bản thân mình. * Tiêu chuẩn
thứ hai - Tính có ích của hành vi
- Được thể hiện ở chỗ hành vi đó có đem lại lợi ích, sự phát triển của tập
thể và cộng đồng người hay không? Đến mức độ nào?
- Tính lợi ích phụ thuộc vào thế giới quan, đặc biệt là nhân sinh quan của chủ thể con người.
Ví dụ: Khi bạn Nam bị ốm, không thể đi học được, bạn Tuấn đã thường
xuyên đến nhà Nam để giảng bài cho Nam cũng như là cho Nam mượn vở
chép bài để có thể bắt kịp tiến độ bài học trên lớp. Việc làm của Tuấn
không chỉ giúp cho Nam không bị tụt lùi so với các bạn. Hành động đó của
Tuấn đã khẳng định một lẽ sống, một chuẩn mực đạo đức của xã hội, mang
lại lợi ích và sự phát triển cho bạn bè và mọi người xung quanh.
* Tiêu chuẩn thứ ba - Tính không vụ lợi của hành vi
- Tính không vụ lợi của hành vi được thể hiện ở chỗ: hành vi của người vì
xã hội, lấy lợi ích của xã hội làm trung tâm, biết cân đối giữa lợi ích của cá
nhân và lợi ích của xã hội.
VD1: Ba em học sinh trường tiểu học Đức Thanh (tỉnh Hà Tĩnh) trên
đường đi học về đã nhặt được một chiếc ví. Trong đó có 14 triệu đồng và
một số giấy tờ khác thì đã ngay lập tức mang toàn bộ tài sản đó lên Công
an xã để tìm người đánh mất trả lại.
VD2: Hai em học sinh trường Tiểu học Phú Lương (tỉnh Tuyên Quang)
nhặt được một chiếc ví có 32,5 triệu đồng cùng nhiều giấy tờ tùy thân thì đã
báo cáo với Ban Giám hiệu nhà trường để trả lại cho người đánh mất. =>
Hành vi của các em là một hành vi đạo đức không vụ lợi, các em đặt lợi ích
của xã hội lên trên và đáng được tuyên dương.
• Lưu ý trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học là khi xem xét, đánh giá
hành vi đạo đức của học sinh tiểu học không đánh giá cứng nhắc, siêu hình
từng tiêu chuẩn một mà có sự kết hợp biện chứng cả ba tiêu chuẩn để đánh
giá thì mới phân biệt được, mới xác định đúng được hành vi đó là hành vi
đạo đức hay phi đạo đức.
• Đạo đức là một phạm trù lịch sử bao giờ cũng thể hiện tính giai cấp, tính
lịch sử nhất định. Mỗi xã hội có một hệ thống quan niệm đạo đức hay ý thức
đạo đức, tồn tại dưới hình thức những hành vi đạo đức, trong nền văn hóa dân tộc và nhân loại. lOMoAR cPSD| 40387276
19.Trình bày cấu trúc của hành vi đạo đức. Lấy ví dụ minh hoạ (Minh Hương)
Hành vi đạo đức là hành động tự giác được thúc đẩy bởi động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức
(Ba tiêu chuẩn để đánh giá 1 hành vi là hành vi đạo đức:
- Tính tự giác của hành vi
- Tính có ích của hành vi - Tính không vụ lợi của hành vi) Cấu trúc của hành vi đạo đức :
- Tri thức và niềm tin đạo đức:
Tri thức đạo đức là sự hiểu biết của con người về những chuẩn mực đạo đức
quy định hành vi của họ trong quan hệ với người khác, với cộng đồng. VD: +
học sinh biết hành động chào hỏi lễ phép khi gặp người lớn tuổi là hành động
đúng đắn; hành động gian lận trong thi cử là hành động sai + hình thành tri thức
đúng đắn về sự cần thiết của hành động chào hỏi trong giao tiếp, tri thức về luật giao thông,..
Niềm tin đạo đức là sự tin tưởng một cách sâu sắc của cá nhân vào tính khách
quan của các chuẩn mực đạo đức và thừa nhận tính tất yếu phải thực hiện đầy đủ các chuẩn mực ấy
VD: + xây dựng cho các em niềm tin “có công mài sắt có ngày nên kim” bằng
những tấm gương thực tế để tạo động lực thúc đẩy học sinh vượt qua những khó khăn trong học tập.
+ xây dựng niềm tin “ở hiền gặp lành” cho các em học sinh thông qua những
câu truyện cổ tích để từ đó các em biết sống chan hòa, yêu thương những người xung quanh
- Động cơ và tình cảm đạo đức:
Hành vi đạo đức được thúc đẩy bởi động cơ và tình cảm đạo đức
Động cơ đạo đức là yếu tố bên trong thúc đẩy hoạt động của con người trong
mối quan hệ giữa con người với con người, với xã hội
VD:+ Em học sinh dẫn một bà cụ sang đường với động cơ đạo đức bên trong
là em muốn giúp đỡ cho bà cụ đó chứ không phải mục đích được khen ngợi. +
Học sinh nhặt được của rơi trả người đánh mất có thể xuất phát từ lòng thương
người, muốn trả lại người đánh mất.
Tình cảm đạo đức là sự rung cảm (có thể là tiêu cực hoặc tích cực) của cá nhân
đối với hành vi của mình và của người khác khi thực hiện các hành vi đạo đức
VD: Khi em học sinh dẫn bà cụ đó sang đường sẽ nảy sinh tình cảm đạo đức
như là: vui sướng, tự hào,.. từ đó thúc đẩy và điều chỉnh những hành vi đạo đức của em su này.
=> Nó trở thành một trong những động cơ thúc đẩy và điều chỉnh hành vi đạo đức lOMoAR cPSD| 40387276
=> Giáo dục đạo đức cho hsth không chỉ cung cấp tri thức đạo đức mà quan
trọng hơn là hình thành ở họ động cơ và tình cảm đạo đức.
- Thói quen đạo đức:
Thói quen đạo đức là hành vi đạo đức đã ổn định của con người, được thể hiện
trong những tình huống muôn hình muôn vẻ, được xem như nhu cầu đạo đức.
VD: Thói quen chào hỏi người lớn, thói quen không xả rác bừa bãi,.... Nhu cầu
được thỏa mãn thì con người thấy thoải mái, hài lòng; không được thỏa mãn thì thấy khó chịu
VD: Thói quen giúp đỡ người hoạn nạn khi gặp khó khăn: Khi gặp người bị
nạn mà ta giúp đỡ họ, ta sẽ cảm thấy thoải mái và ngược lại nếu ta “ngoảnh mặt
làm ngơ” thì sẽ cảm thấy “cắn rứt lương tâm”.
Muốn có thói quen đạo đức thì phải tổ chức cho học sinh hoạt động một cách
có hệ thống các hành vi đạo đức trong các tình huống khác nhau.
VD: Thói quen xếp hàng được xây dựng dựa trên hành vi xếp hàng(để lấy cơm
trưa, để nhận phần thưởng, để ra khỏi lớp, trường,..) không chen lấn xô đẩy,
phá hàng. Khi hành vi này được lặp đi lặp lại một cách hệ thống, đúng đắn và
được củng cố hằng ngày thì sẽ trở thành nhu cầu của học sinh và trở thành thói
quen đạo đức. Những lần sau khi phải chờ đợi để đạt được một thứ gì đó các
em đều sẽ có thói quen xếp hàng.
Các thành phần của cấu trúc hành vi đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tri thức đạo đức là cơ sở của hành vi đạo đức; tình cảm đạo đức là động lực
lĩnh hội tri thức đạo đức và hình thành thói quen đạo đức; động cơ đạo đức là
cơ sở thực hiện hành vi đạo đức đúng đắn; thói quen đạo đức là yếu tố tiên
quyết để chuyển từ ý thức đạo đức sang hành vi đạo đức.
20.Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức cho HSTH
a, Giáo dục nhà trường tiểu học
· Nhà trường tiểu học là nơi tổ chức chuyên biệt việc giáo dục đạo đức
và hình thành nhân cách cho học sinh tiểu học. · Nhà trường được giữ vai trò to lớn này vì:
+ Một là, nội dung giáo dục và dạy học của nhà trường chứa đựng các tri thức
đạo đức, các chuẩn mực đạo đức của xã hội, là cơ sở để có hành vi đạo đức.
+ Hai là, nhà trường là nơi kết tinh trình độ văn minh và trình độ giáo dục của nhân loại. lOMoAR cPSD| 40387276
+ Ba là, bản thân người giáo viên tiểu học được đào tạo để làm công tác dạy
học và giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
+ Bốn là, trong nhà trường tiểu học có phương pháp giáo dục chuyên biệt, tôn
trọng hành vi và nhân cách của người học sinh.
+ Năm là, trong nhà trường tiểu học có các tập thể học sinh tiểu học vừa là môi
trường vừa là phương tiện tốt nhất để giáo dục đạo đức cho các em học sinh tiểu học.
· Trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học, nhà trường cần làm những công việc sau
+ Cung cấp tri thức đạo đức và chuẩn mực đạo đức cho các em thông qua môn
đạo đức cũng như qua các môn học khác
+ Tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh dưới các hình thức hoạt
động ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp như “Tôn sư trọng đạo”, “Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”,... ( Đọc và làm theo báo đội)
+ Xây dựng tập thể học sinh tiểu học trở thành môi trường thuận lợi, thành
phương tiện hình thành, nuôi dưỡng các hành vi đạo đức của học sinh tiểu học.
+ Tổ chức, chỉ đạo phối hợp các lực lượng giáo dục gia đình, xã hội, cơ quan
đoàn thể trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh
· VÍ DỤ: + Để hình thành và rèn luyện lòng biết ơn cho các em học sinh tiểu
học, nhà trường có thể tổ chức những tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp với các
chủ đề như “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”,… việc có nội
dung và phương pháp giáo dục phù hợp nhằm hướng tới một mục đích cụ thể
mà giáo viên có thể hình thành và phát triển lòng biết ơn ở các em + Để hình
thành và củng cố lòng biết ơn cho các em học sinh tiểu học, ngoài việc giáo dục
bằng tiết học Đạo đức trên lớp, nhà trường có thể tổ chức một tiết học ngoại
khóa đi thăm bảo tàng quân đội hoặc đi đến khu di tích Văn miếu,…. để các em
có thể trực tiếp tìm hiểu những công lao của người đi trước từ đó bồi dưỡng
lòng biết ơn với thế hệ trước. b, Tập thể học sinh tiểu học
· Tập thể (lớp, chi đội) của học sinh tiểu học có ý nghĩa to lớn trong việc
giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh tiểu học.
· Trong tập thể có dư luận tập thể là phương tiện giáo dục đạo đức tốt và có hai tác dụng:
+ Một là, thông báo, cung cấp các tri thức, chuẩn mực đạo đức.
+ Hai là, kiểm tra đánh giá điều chỉnh nhận thức đạo đức cũng như các thói
quen đạo đức của các em.
· Dư luận tập thể tốt - tập thể tốt với những đặc điểm sau:
+ Có mục đích thống nhất
+ Có tinh thần trách nhiệm trước tập thể lOMoAR cPSD| 40387276
+ Có yêu cầu chặt chẽ với mọi thành viên
+ Mọi thành viên phải phục tùng ý chí của tập thể
+ Tập thể phải có sự lãnh đạo thống nhất
+ Các thành viên phải được bình đẳng trước tập thể
· Bên cạnh việc xây dựng dư luận tập thể, người giáo viên tiểu học còn cần
phải biết hướng dư luận tập thể theo một hướng có chủ định, có mục đích
giáo dục và biết dẹp đi những dư luận tập thể không có lợi cho việc giáo dục đạo đức.
=> Tập thể học sinh tiểu học sẽ là môi trường và phương tiện tốt cho việc giáo
dục đạo đức học sinh tiểu học, hình thành hành vi tốt đẹp cho các em. · VÍ DỤ:
• Khi tham gia thi thể thao giữa các lớp (kéo co, bóng đá,...) thì phải có đội
thắng, đội thua. Chiến thắng sẽ giúp tập thể đó đoàn kết hơn; nếu thua thì
giáo viên vẫn cổ vũ khen ngợi các em đã làm hết mình và trong thi đấu thì
phải có thắng thua. Học sinh cũng từ đó mà tự động viên lẫn nhau cố gắng
hơn. Điều này tránh nảy sinh những cảm xúc tiêu cực (hờn dỗi, thù địch) có
thể là nguyên nhân dẫn đến những hành vi thiếu đạo đức (tranh cãi, đổ lỗi
cho nhau; tranh chấp hay xô xát nhau). Tập thể sẽ giúp các em nhận ra hành
vi đạo đức tốt trong thể thao để từ đó dần dần điều chỉnh thói quen đạo đức của các em.
• Khi đánh giá một em học sinh nào đó, giáo viên cần kết hợp đánh giá quá
trình, đánh giá điểm và nhận xét của tập thể các học sinh còn lại để có cái
nhìn đầy đủ, khách quan nhất về học sinh đó c, Giáo dục gia đình
Gia đình có vai trò chủ đạo đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học vì : -
Một là, gia đình có ba chức năng cơ bản: Chức năng sinh học (tái
sản xuất ra con người), chức năng kinh tế - xã hội và chức năng giao tiếp
giáo dục con cái. Trong đó chức năng giáo dục thể hiện tình cảm thiêng liêng,
đồng thời cũng là trách nhiệm của cha mẹ với con cái, trách nhiệm của gia đình với xã hội. -
Hai là, gia đình là nơi xã hội hóa đầu tiên của trẻ, mọi tác động đến
với trẻ đều thông qua gia đình và khi trẻ bước ra gia nhập vào các quan hệ
xã hội đều thông qua gia đình đầu tiên. Giáo dục của gia đình luôn gắn với
giáo dục xã hội và phải gắn với giáo dục của xã hội để cá nhân có những điều
kiện thuận lợi hơn cho quá trình gia nhập xã hội
=> Gia đình là “cửa khẩu” đầu tiên kiểm soát hành vi của trẻ. lOMoAR cPSD| 40387276 -
Ba là, gia đình là môi trường giáo dục đặc biệt chứa một lực lượng
giáo dục đặc biệt là cha mẹ. Cha mẹ vừa là nhà giáo dục, vừa là người sinh
thành ra trẻ nên có quyền quyết định đối với trẻ. -
Bốn là, thời kì học sinh tiểu học 6 – 11 tuổi là thời kì trẻ chịu ảnh
hưởng mạnh nhất của giáo dục gia đình
Gia đình giáo dục đạo đức cho con cái thông qua các con đường: -
Một là, nề nếp sinh hoạt và tổ chức giáo dục gia đình. Quan hệ gia
đình, nề nếp sinh hoạt của gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi đạo đức
của trẻ, và là bài học sống động “người thực, việc thực” trong giáo dục đạo đức cho trẻ. -
Hai là, nhân cách, hành vi ứng xử của cha mẹ (cách ăn mặc, cách nói
năng, ứng xử, thái độ của cha mẹ với mọi người, với xã hội) là tấm gương, là
bài học thực để giáo dục hành vi đạo đức cho con cái. -
Ba là, phương pháp giáo dục đạo đức không chỉ bằng lời nói lý
thuyết mà phải bằng hành động, hoạt động thực. (nhất là đối với học sinh tiểu học)
Các điều kiện để gia đình phát huy vai trò to lớn trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học: -
Xây dựng được bầu không khí tâm lí gia đình thuận lợi cho việc giáo
dục đạo đức. Đó là bầu không khí ủng hộ hành vi “thiện”, phê phán hành vi “ác”. -
Cha mẹ phải ý thức rõ: Nhân cách của mình là nhân tố trực tiếp có
ý nghĩa quyết định cho việc giáo dục đạo đức cho trẻ
=> Có ý thức xây dựng nhân cách trở thành tấm gương cho trẻ. - Hình
thành tình cảm với người thân, cha mẹ… Điều này giúp cho trẻ được thỏa
mãn nhu cầu tình cảm, tinh thần; đảm bảo sự cân bằng về tâm lí,.. Sự quan tâm
chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên vừa là nhu cầu vừa là trách nhiệm, đạo
lí, lương tâm mỗi người. -
Xây dựng uy quyền của cha mẹ trong giáo dục đạo đức con cái.Ví dụ:
• Cha mẹ muốn giáo dục cho con cái có thái độ yêu mến, kính trọng đối với
ông bà, cha mẹ thì chính cha mẹ phải là tấm gương cho con. Bằng cách thể
hiện sự kính trọng đối với ông bà: lúc đi lúc về đều chào hỏi; nói năng cử
chỉ lễ phép; quan tâm bằng hành động như kể chuyện với ông bà hay nói lời
yêu thương,…. Đối với HSTH thì rất dễ bắt chước hành động của người lớn
nên người làm cha mẹ, ông bà cũng cần điều tiết hành vi của mình sao cho
chuẩn mực để làm gương cho con cái. Cha mẹ có hòa thuận, yêu thương
nhau thì sẽ là điều kiện hình thành nhân cách đạo đức tốt cho con. lOMoAR cPSD| 40387276
• Cha mẹ giáo dục con cái trong sinh hoạt hàng ngày, sáng dậy sớm phải gấp
chăn gối gọn gàng, đi học phải chào ông bà cha mẹ, nhường nhịn em nhỏ, …
d, Hoạt động tự giáo dục của học sinh tiểu học
Tất cả các yếu tố giáo dục nhà trường, gia đình và tập thể học sinh đều có
vai trò quan trọng trong giáo dục đạo đức cho trẻ. Nhưng tất cả các nhân tố này
đều chỉ có tác dụng thông qua hoạt động tự giáo dục của trẻ.
Hoạt động của học sinh tiểu học có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình
thành, giáo dục hành vi đạo đức của chính bản thân các em: mức độ, tốc
độ, nhịp độ, tính chất của hành vi đạo đức như thế nào là tùy thuộc vào sự
nỗ lực của hoạt động tự tu dưỡng, tự giáo dục của học sinh tiểu học.
Hoạt động tự giáo dục (tự tu dưỡng) về mặt đạo đức là gì? Đó là hoạt động
tự giác của mỗi cá nhân thực hiện đối với bản thân mình nhằm khắc phục
hành vi trái đạo đức và củng cố hành vi đạo đức của chính bản thân mình.
(Muốn HSTH có hoạt động tự giáo dục đạo đức tốt cần chú ý giúp các em có)
Các điều kiện thuận lợi: -
Làm cho học sinh nhận thức đúng bản thân, đánh giá được hành vi
đạo đức của bản thân là tốt hay chưa tốt đối với chuẩn mực đạo đức của HSTH. -
Cung cấp cho học sinh những chuẩn mực đạo đức khách quan để
các em có thể đánh giá và tự đánh giá hành vi đạo đức một cách khách quan,
tránh đánh giá theo tình cảm chủ quan, vì ở học sinh tiểu học – lứa tuổi sống
bằng tình cảm thì “yêu nên tốt, ghét nên xấu” rất đậm nét -
Hình thành và rèn luyện ý chí đạo đức (nghị lực) để vượt qua các
hành vi phi đạo đức trong các tình huống cụ thể -
Xây dựng dư luận tập thể tốt tạo điều kiện cho hoạt động tự giáo dục, tự
tudưỡng của bản thân học sinh -
Gv phải kiểm tra thường xuyên, liên tục hoạt động tự giáo dục để
kịp thời thời điều chỉnh sai sót và rèn luyện hành vi đạo đức.
Đồng thời hình thành việc tự kiểm tra đánh giá của bản thân các em với hành vi của chính mình -
Cung cấp tri thức đạo đức và làm cho học sinh hiểu được ý nghĩa
của việc mình làm từ đó hình thành tính tự giác và động cơ đạo đức tốt đẹp cho HSTH Ví dụ lOMoAR cPSD| 40387276
+ trong lớp có hành vi cùng làm sai nhưng khi được góp ý thì có những em học
sinh sẽ nhận ra lỗi sai và sửa đổi nhưng cũng có những em sẽ vẫn cho rằng
mình đúng (có thể lòng tự tôn ở các em quá cao nên ko chấp nhận việc bản thân
làm sai) và giáo viên sẽ có hình thức giáo dục phù hợp với đối tượng hs đó.
+ giáo viên đưa ra tình huống: “Bạn A dậy muộn nên phải vội vàng đến trường.
Trên đường A gặp bà lão muốn sang đường nhưng ngược hướng A đi học. Nếu
là A em sẽ làm gì ?” Giáo viên sẽ gọi học sinh xử lí tình huống và cho em tự
nhận xét hành vi của mình
Phân tích bản chất tâm lí học của việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học 21.
Trong những nhiệm vụ của trường tiểu học hiện nay, việc giáo dục đạo đức cho
học sinh có ý nghĩa chiến lược quan trọng a, Muốn giáo dục cho học sinh thì
phải hiểu học sinh:
- Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định người lớn thường không hiểu “cái tôi” của trẻ em.
+ Trẻ than phiền người lớn không hiểu trẻ
+ Sự vội vàng, không biết lắng nghe, không muốn, không đủ kiên nhẫn tìm
hiểu những gì diễn ra trong nội tâm của học sinh
+ Sự tin tưởng tự mãn vào kinh nghiệm của bản thân
=> Tạo ra hàng rào tâm lí ngăn cách giữa nhà giáo dục và trẻ em; tạo ra khả
năng “tự vệ tâm lí” mà thể hiện rõ nhất là sự bất cần, hung hăng, không tiếp nhận,...
=> Giáo viên chỉ thực sự hiểu học sinh khi giáo viên tôn trọng và gần gũi chúng
VD: Với những em học sinh lười làm bài tập về nhà, gây mất trật tự
trong lớp- “thành phần cá biệt” nếu giáo viên áp dụng các hình phạt như
mắng nhiếc trước tập thể lớp sẽ rất dễ làm tổn thương đến “cái tôi” của
các em, thậm chí gây tác dụng ngược: các em càng chống đối, ngổ ngáo
hơn. b, Cung cấp những tri thức đạo đức cho học sinh:
Cung cấp tri thức đạo đức cho học sinh : là khâu quan trọng của giáo dục đạo đức
· Việc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về chuẩn mực đạo đức, nghĩa
vụ, bổn bổn phận, trách nhiệm phải làm, thái độ phải có…sẽ làm cho đạo đức lOMoAR cPSD| 40387276
học sinh được xây dựng trên cơ sở lý trí, từ đó các em có thể nhận biết được
thiện-ác, tốt xấu, cái cao thượng, cái nhỏ nhen, ti tiện
· Việc trang bị cho học sinh những tri thức đạo đức không chỉ được thực
hiện qua các giờ học đạo đức, các giờ học giáo dục công dân , mà các môn học
khác trong nhà trường cũng phải được góp phần cung cấp tri thức đạo đức cho
học sinh, nhất là các môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn VD:
Bài 3: Đạo đức - “Tôn trọng thầy, cô giáo” (SGK đạo đức 2- Kết nối tri thức
với cuộc sống), người giáo viên nên trang bị cho các em tri thức đạo đức về tôn
trọng thầy cô biểu hiện bằng những hành động cụ thể như: biết chào hỏi thầy
cô không chỉ trong nhà trường mà còn ở ngoài xã hội, không nói chuyện, làm
việc riêng trong giờ học hay thái độ kính trọng, lễ phép,...
c, Biến tri thức đạo đức thành niềm tin và tình cảm đạo đức,đồng thời chú trọng
hình thành hành vi và thói quen đạo đức · Tác động vào tình cảm đạo đức và ý chí học sinh
· Làm cho hệ học sinh thấm nhuần hệ thống nguyên tắc chuẩn mực xã hội
· Coi trọng đúng mức việc làm nảy sinh nhu cầu đạo đức, tình cảm đạo đức
và động cơ đạo đức trong sáng ở học sinh.
· Thông qua thực hiện hành vi đạo đức mà giáo dục động cơ, tình cảm và
niềm tin đạo đức cho học sinh. VD:
+ TRong bài 12: Tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo (SGK Đạo đức 4),
sau khi giáo viên cung cấp những tri thức đạo đức cần thiết cho các em thì có
thể biến những tri thức đó trở thành niềm tin và tình cảm đạo đức của các em.
Bằng cách giáo viên cùng các em tham gia những hoạt động thiện nguyên do
nhà trường, địa phương tổ chức, từ đó hình thành tình cảm đạo đức và dần trở
thành thói quen đạo đức tốt (biết quan tâm những người xung quanh và giúp đỡ họ khi khó khăn)
+ Nhà trường sau khi cung cấp những tri thức đạo đức cho học sinh có thể tổ
chức những tiết học ngoại khóa, mời những tấm gương thực tế đến để giao lưu,
truyền cảm hứng cho học sinh. Có như vậy, tri thức đạo đức cũng dễ ghi nhớ,
dễ hình thành những niềm tin và tình cảm đạo đức hơn là chỉ có lý thuyết suông
22. Từ việc nghiên cứu cơ sở tâm lí học của việc giáo dục đạo đức cho học
sinh tiểu học, hãy đề xuất các biện pháp giáo dục đạo đức cho các em
(Biện pháp thiên về hoạt động: tổ chức hoạt động, tổ chức trò chơi lOMoAR cPSD| 40387276
KLSP: là rút ra từ lí thuyết và nêu giáo viên cần làm
gì) * Nêu lý thuyết cơ sở tâm lí học của giáo dục đạo đức * Nêu biện pháp:
- Lên các kế hoạch tìm hiểu học sinh, đặc biệt là những em có ý thức chưa
tốt,lập hồ sơ theo dõi riêng với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ li hôn, …
- Tổ chức những buổi chuyên đề, kể cho các em nghe về những tấm gươngđạo
đức thực tế trong đời sống (nếu có điều kiện thì mời họ về giao lưu với học
sinh), để khơi gợi sự tò mò, lôi cuốn và thuyết phục các em hành động như họ
- Tạo trò chơi giải quyết tình huống, cho học sinh đóng vai giải quyết các
tìnhhuống sát với thực tế cuộc sống để các em tích lũy kinh nghiệm
- Xây dựng tập thể học sinh có mục đích thống nhất, có tinh thần trách
nhiệm,đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau,... => trở thành môi trường, điều kiện thuận
lợi cho việc giáo dục đạo đức
- Lựa chọn những câu chuyện thú vị phù hợp với chủ đề bài dạy để làm
phongphú nội dung dạy học
- Vận động học sinh tham gia các phong trào ủng hộ, quyên góp xuất phát từtấm
lòng của học sinh không đặt nặng số lượng
- Đưa học sinh đi tham quan thực tế để tạo lập niềm tin và tình cảm đạo đứcnhư:
đến thăm những em nhỏ mắc bệnh hiểm nghèo để học sinh có thể giao lưu với
những em đó, tạo dựng niềm tin để các em cố gắng nỗ lực học tập để sau này
có thể giúp đỡ người khác
- Phát động các cuộc thi văn hóa văn nghệ chào mừng những ngày lễ lớn- Tổ
chức cho học sinh tham gia các cuộc thi do các cấp tổ chức . Tích cực học tập,
rèn luyện, phấn đấu trong các cuộc thi cũng thể hiện ý chí quyết tâm và ý thức
đạo đức của mỗi học sinh. Vì vậy việc giáo dục học sinh học tập tốt, rèn luyện
tốt cũng là một trong những biện pháp giáo dục đạo đức
23. Hãy đưa ra các kết luận sư phạm từ việc nghiên cứu bản chất tâm lí học
của việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
- Không nên dùng phương pháp giáo dục nặng về lý thuyết
VD: trong đạo đức lớp 4 giảng dạy về lòng trung thực là gì, nếu giáo viên chỉ
nêu ra khái niệm, biểu hiện, ý nghĩa và yêu cầu học sinh học thuộc thì sẽ ko
thể tác động vào niềm tin và tình cảm đạo đức của các em
- Không nên giáo dục theo lối hành vi chủ nghĩa: không quan tâm nhận
thức,niềm tin, tình cảm đạo đức mà chỉ coi trọng quá trình thực hiện một cách
máy móc => hs tuy ngoan ngoãn, nghe lời nhưng lại thụ động, ko sáng tạo. lOMoAR cPSD| 40387276
VD: giáo dục học sinh gặp thầy cô phải chào thì học sinh nghe theo và có thể
chỉ chào những thầy cô dạy mình, hoặc là chỉ thực hiện khi trong trường học
còn ra ngoài trường thì không vì cho rằng đó là “thầy cô” khi ở trường
- Giáo viên nên lựa chọn những tình huống gắn với thực tế
VD: cho hs đóng vai vào tình huống: nếu em gặp một bạn học trong lớp bị bắt
nạt em sẽ làm gì? Hướng dẫn học sinh giải quyết tình huống nếu cần - Giáo
viên phải là tấm gương đạo đức tốt để học sinh noi theo, hình thành niềm tin
đạo đức, góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh
24. Bày tỏ ý kiến về quan điểm sau: “Nhà trường là nơi duy nhất đảm bảo
hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học”
Nhà trường là một yếu tố không thể thiếu trong việc giáo dục đạo đức cho
HSTH. Trong nhà trường chứa rất nhiều yếu tố thuận lợi cho quá trình này và
cả quá trình đều được định hướng rõ ràng giúp học sinh được giáo dục thuận
lợi nhất và hiệu quả nhất. Nhà trường đảm bảo cho quá trình giáo dục đạo đức
diễn ra theo trình tự khoa học nhất.
Tuy nhiên lại không phải nơi duy nhất đảm bảo hiệu quả của quá trình giáo dục. Vì:
a. Để giáo dục đạo đức cho HSTH thì nhà trường không phải là môi trường duy
nhất diễn ra quá trình này mà còn có sự góp mặt của các nhân tố khác.
(gia đình, tập thể học sinh, sự tự giáo dục của học sinh)
a. Nếu nói nhà trường là nơi DUY NHẤT ĐẢM BẢO hiệu quả giáo dục đạo
đức cho HSTH vậy là đang “phóng đại” chức năng của nhà trường và “ngầm
phủ nhận” sự đóng góp của các yếu tố khác.
VD : (gia đình quyết định, ảnh hưởng to lớn đến việc giáo dục HSTH) Trẻ
được giáo dục tại trường, lớp là Tuân thủ quy định nơi công cộng. Tuy
nhiên, khi gặp quy định “Bỏ rác đúng nơi quy định” tại công viên. Nếu cha
mẹ HS vứt rác đúng nơi quy định và dùng hành động ấy giáo dục HS làm
theo, điều này đem đến hiệu quả to lớn trong việc HS noi theo tấm gương
sáng đạo đức của bố mẹ. Ngược lại, nếu chính cha mẹ HS không tuân thủ
quy định ấy - vứt rác sai nơi quy định, HS sẽ bắt chước theo hành vi của
cha mẹ và hiệu quả giáo dục đạo đức tại trường học sẽ bị giảm đáng kể.
(sự tự giáo dục của học sinh có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình
thành, giáo dục đạo đức cho trẻ) HS được giáo dục tại nhà trường tiểu học
rằng “Học sinh phải đoàn kết, yêu quý lẫn nhau.” Nhưng nếu chỉ được
truyền đạt kiến thức từ Giáo viên thì HS không tự nhận thức được bản thân,
những biểu hiện của hành vi bất hòa, gây mất đoàn kết . Hơn thế nữa, nếu lOMoAR cPSD| 40387276
chính bản thân các em không nhận ra được lợi ích của xây dựng tập thể
đoàn kết thì các em không thể hình thành tình cảm và động cơ thực hiện hành vi đạo đức này.
c. Trong thực trạng hiện nay, ngay cả việc giáo dục đạo đức cho HSTH ở nhà
trường cũng chưa thể hoàn toàn ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ bởi còn quá nhiều
“lý thuyết suông”, thiếu tính thực hành, “bệnh thành tích” vẫn còn đang chi
phối rất lớn và ngoài ra còn rất nhiều tồn tại khác cần được khắc phục để có
thể thực sự ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH.
Bày tỏ ý kiến về quan điểm sau: “Học sinh tiểu học còn nhỏ nên ở các em
chưa thể diễn ra hoạt động tự giáo dục đạo đức” 25.
Không đồng tình. * Bởi vì:
Hoạt động tự giáo dục về mặt đạo đức là một hành động tự giác của mỗi cá nhân
thực hiện đối với bản thân mình nhằm khắc phục những hành vi trái đạo đức và
củng cố những hành vi đạo đức của chính bản thân mình.
- Ở HSTH, HS đã nhận thức đúng bản thân mình, đánh giá đúng về các hành vi đạođức
bản thân là tốt hay chưa tốt đối chiếu với chuẩn mực đạo đức của HSTH.
Ví dụ: Ở lớp 1, khi được học bài “Em với ông bà cha mẹ” HS đã tự đánh giá
được hành vi cãi lời ông bà cha mẹ là chưa đúng, hay ở nhà các em phải biết kính
trọng, yêu thương ông bà cha mẹ.
- Hoạt động tự giáo dục đạo đức của hsth còn được thể hiện ở chỗ khi các em đã được
cung cấp những chuẩn mực đạo đức khách quan và với sự kiểm tra đánh giá thường
xuyên, liên tục của giáo viên để các em có thể đánh giá và tự đánh giá hành vi đạo
đức một cách khách quan, tránh “tốt nên yêu, ghét nên chê”
Ví dụ: Trong lớp học sinh có thể chơi thân một bạn nhưng khi bạn đấy có
những hành vi chưa phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, HS vẫn thể hiện sự
không đồng tình thậm chí phê phán với hành động này.
- HSTH đã có ý chí đạo đức (nghị lực) để vượt qua được các hành vi phi đạo đức
trong hoàn cảnh cụ thể. lOMoAR cPSD| 40387276
Ví dụ: Khi ở trước mặt có rất nhiều đồ ăn ngon nhưng không phải của mình
học sinh cũng không lấy ăn trước mà phải hỏi ý kiến của người lớn và đợi người đó đồng ý mới ăn.
- Khi có một dư luận tập thể tốt, hoạt động tự giáo dục và tự tu dưỡng của học sinh
cũng được thể hiện một cách rõ ràng
Ví dụ: Trong một lớp mà các học sinh đều có ý thức giữ gìn vệ sinh lớp
học,bản thân mỗi học sinh cũng luôn có ý thức giữ gìn vệ sinh lớp học.
- HSTH đã tự giác được thể hiện ở việc các em đã có động cơ đạo đức tốt đẹp
Ví dụ: Khi gặp một cụ già đang muốn qua đường, HSTH đã biết dất cụ qua
đường với động cơ là muốn giúp đỡ cụ già đó để cụ qua đường an toàn
- Trên thực tế, học sinh tiểu học đã có đủ nhận thức để phân biệt đâu là hành vi đạođức
và hoàn toàn có khả năng tự giáo dục đạo đức cho bản thân
VD: Trong trường hợp khi nhìn thấy bạn trong lớp vẽ bậy lên tường thì học
sinh có thể tự nhận thức được đó là hành vi xấu, cần phải khuyên bảo bạn không
được làm vậy nữa. Hoặc khi thấy bạn cầm giúp đồ nặng cho người già, học sinh lại
ý thức được đó là hành động tốt, cần học hỏi theo.
VẤN ĐỀ 8: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM Ở TH
26. Phân tích cơ sở tâm lí học của việc tổ chức các HĐ trải nghiệm ở trường tiểu học a) Đặc
điểm chung về mặt hành động, tri giác (tư duy, tưởng tượng,xúc cảm tình cảm,...)
- Đặc điểm tư duy:
Đặc điểm nổi bật trong tư duy của HSTH là sự chuyển từ tính trực quan cụ thể sang trừu tượng khái quát.
Ví dụ như trong HĐTN với chủ đề Vui tết Trung Thu ở cấp tiểu học; đối với các lớp
đầu tiểu học GV nên tổ chức cho các em tìm hiểu Tết Trung thu qua các bài hát thiếu
nhi, những chiếc đèn ông sao, đèn lồng, mâm cỗ... chủ yếu là sự vật cụ thể. Còn với
lớp cuối tiểu học GV có thể tổ chức thi tìm hiểu về Tết Trung thu với nhiều hình thức
đa dạng như: thuyết trình, ca hát, diễn kịch,... để các em thể hiện khả năng tổng hợp,
phân tích hững hiểu biết của mình.
- Đặc điểm tưởng tượng: lOMoAR cPSD| 40387276
+ Tưởng tượng của HSTH phong phú và có sự quyện chặt giữa tính phóng khoáng
với tính hiện thực. Hình ảnh trong tưởng tượng có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực
và yếu tố “lãng mạn”. Điều này tạo nên tính “ma thuật” - không có thật - trong suy nghĩ của các em.
+ Tưởng tượng của HSTH được hình thành, phát triển trong các hoạt động, đặc biệt là hoạt động học tập.
+ Học sinh tiểu học dễ rung cảm, giàu cảm xúc nên tưởng tượng của các em cũng bị chi phối bởi cảm xúc
Chính bởi đặc điểm tưởng tượng đã tạo nên ở học sinh tiểu học những trí tưởng tượng
vô cùng phong phú và sáng tạo. Đôi khi chúng ta thấy rằng những sự sáng tạo này có
hơi hướng “siêu thực” nhưng không nên phủ nhận, phản đối, gạt bỏ hoàn toàn nó. Thay
vào đó hãy để các em được phát huy hết trí tưởng tượng của mình, thỏa sức thể hiện
những điều mình nghĩ, mình muốn. GV sẽ là người định hướng những sự sáng tạo để
đạt được những mục tiêu giáo dục.
VD: khi giáo viên hỏi các em hành động xấu đối với người khác thì học sinh có thể
nêu ra là mụ phù thủy đã cho nàng Bạch Tuyết ăn quả táo độc để hại nàng (chỉ có trong truyện cổ tích).
- Đặc điểm xúc cảm tình cảm:
+ HSTH dễ xúc cảm và tình cảm mang tính cụ thể, trực tiếp:
· Tính dễ xúc cảm được thể hiện ở chỗ HSTH giàu cảm xúc.
· Tính dễ cảm xúc được thể hiện ở chỗ HSTH dễ xúc động
· Đối tượng xúc cảm của HSTH rất đa dạng, gắn liền với cuộc sống thực của các
em và đặc biệt phải là những sự vật, hiện tượng cụ thể trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
HSTH rất dễ xúc cảm. Cảm xúc của các em được bộc lộ rõ ràng, đậm nét trong nhiều
tình huống cụ thể khác nhau. Cảm xúc của các em cũng giúp các em hình thành nhân
cách, đạo đức con người.
Ví dụ như với chủ đề HĐTN là “Gia đình yêu thương” (lớp 3), GV có thể khơi gợi tình
cảm yêu thương gia đình ở các em bằng cách mở đầu bằng bài hát “Nhật ký của mẹ”
hoặc “Tình cha”(bài hát này có sự kết hợp của bé Xuân Mai và ca sĩ Ngọc Sơn),... lOMoAR cPSD| 40387276
GV sẽ khơi dậy xúc cảm đối với người thân trong gia đình, từ đó cho các em biết được
những việc làm nào thể hiện sự quan tâm đối với gia đình, ý nghĩa của việc làm đó ra
sao… Cuối cùng, Gv giao “bài tập về nhà” cho các em hãy thể hiện những hành động
quan tâm tới ông bà, bố mẹ của mình và kể lại cho các bạn trong giờ HĐTN tiếp theo
Đây cũng trùng vào dịp Quốc tế phụ nữ 8-3, Gv tổ chức cho hs làm thiệp tặng bà, tặng
mẹ bằng cách: Gv tạo sẵn khung thiệp, để trống một nửa để hs sáng tạo (vẽ chân dung
bà/mẹ, vẽ hoa lá,...) và một nửa còn lại để em ghi điều em thích nhất ở bà/mẹ và lời chúc đến bà/mẹ.
Vì xúc cảm của học sinh tiểu học có tính cụ thể trực tiếp nên không chỉ cho các em
thực hành bằng việc nói lời yêu thương mà phải thực hành bằng hành động, bằng việc làm cụ thể.
b) Xuất phát từ đặc điểm hoạt động học tập của học sinh tiểu học
Triết học, Tâm lý học dạy học và Giáo dục dục học khẳng định:
– Thứ nhất: “Không có hoạt động, thì không có sự phát triển nhân cách”, do đó,dạy
học phải thông qua hoạt động và bằng chính các hoạt động của học sinh.
– Thứ hai: Dạy học và tri thức khoa học có bản chất hoạt động. Đối tượng hoạtđộng
học tập – tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…, bao hàm trong bản thân nó phương thức tồn tại
và phát triển của nó, cho nên “muốn chiếm lĩnh một đối tượng phải thực hiện trọn
vẹn các một hành động theo phương thức tồn tại và vận động của chính đối tượng ấy”.
– Thứ ba: “Hoạt động học tập của học sinh có cơ cấu tâm lý giống như hoạt
độngsống của con người”, nghĩa là nó phải xuất phát từ động cơ, mục đích rõ ràng,
phải được thực hiện thông qua hành động, thao tác và kiểm soát được. Cuối cùng
phải tạo ra sản phẩm của hoạt động đó là phẩm chất và năng lực của học sinh.
Do đó, dạy học thực chất là tổ chức hoạt động học cho học sinh, tạo ra cái mới
chưa hề có ở các em bằng phương pháp nhà trường .
Mặc dù hoạt động học của học sinh tiểu học được nảy sinh trong lòng hoạt động vui
chơi nhưng nó chỉ được hình thành bằng phương pháp nhà trường, dưới sự chỉ đạo
chặt chẽ của giáo viên.
VD: Ở trường Mầm non, trẻ được chơi trò chơi xếp hình theo mẫu của giáo viên,
khi đó, trẻ mới chỉ là bước đầu biết nhận diện và nói tên các hình. Dần dần, khi bước
vào trường Tiểu học, ở lớp Một, các em sẽ được làm quen với từng hình cụ thể, sau lOMoAR cPSD| 40387276
đó lên các lớp cao hơn, các em sẽ được học về cách tính chu vi, diện tích các hình đó.
Đối tượng hoạt động học của học sinh tiểu học là nhóm đối tượng trong đời sống
hiện thực => Việc học tập trên lớp cần kết hợp với thực tế mới có thể hoàn thiện
kiến thức của trẻ.
Ví dụ, khi học Tự nhiên và xã hội, giáo viên có thể đưa học sinh đến tham quan tại
thảo cầm viên, vườn quốc gia để trải nghiệm, tìm hiểu thực tế đời sống và đặc tính
của các loài động vật, thực vật, từ đó giúp học sinh không chỉ học trên lý thuyết mà
còn áp dụng vào thực tiễn thông qua quan sát, khám phá thiên nhiên. Trong môn
Lịch sử và Địa lý, giáo viên có thể đưa học sinh đến những di tích lịch sử, bảo tàng
tại địa phương, kết hợp giữa tham quan và dạy học, giúp học sinh không những hiểu
biết hơn về lịch sử dân tộc mà còn hiểu rõ được lịch sử địa phương.
2c) Cơ sở hình thành khái niệm
• Hoạt động trải nghiệm được xây dựng nhằm tạo cơ hội cho học sinh:
• Huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học và lĩnh vực giáo dục
khác nhau để trải nghiệm thực tiễn.
• Có quan hệ tương trợ với các môn học khác, góp phần đạt mục tiêu chung của chương trình tổng thể.
=> Vậy nên rất cần thiết để vận dụng cơ sở tâm lý của việc hình thành khái niệm
cho học sinh tiểu học vào hoạt động trải nghiệm để giúp học sinh hình thành nên các phẩm chất, năng lực.
• Để phát triển khái niệm phẩm chất, năng lực muốn xây dựng hay củng cố cho
học sinh trong hoạt động trải nghiệm, ta cần:
• Xác định rõ phẩm chất, năng lực cần được xây dựng là gì => Từ đó vận dụng
logic của khái niệm để tìm ra phương pháp hình thành phẩm chất, năng lực.
Ví dụ: Khái niệm “Năng lực ngôn ngữ” là tập hợp hệ thống các kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết cùng các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ khác có liên hệ và tác động qua lại với
nhau của con người => Muốn hình thành năng lực ngôn ngữ thì ta phải tập trung
hình thành năng lực nói, năng lực viết,...
Khái niệm “Lòng yêu nước” bao hàm không chỉ riêng lòng yêu quê hương, đất nước,
Tổ quốc,mà còn là lòng yêu con người, gia đình, bè bạn, yêu truyền thống và văn hóa
của dân tộc,... => Khi xây dựng phẩm chất yêu nước ở học sinh cần xây dựng tổng quát
tất cả các khía cạnh, các mặt của phẩm chất này.
• Hình thành khái niệm theo đúng trật tự thời gian. lOMoAR cPSD| 40387276
Ví dụ: Khi muốn hình thành năng lực giao tiếp cho học sinh cần có kiến thức về các
ngôn ngữ cần thiết, cách tương tác với những người và sự kiện xung quanh, kỹ năng làm việc nhóm
• Lựa chọn “vật liệu” (phương pháp, nội dung) phù hợp để hình thành khái niệm. • Các lưu ý:
• Căn cứ vào mức độ phức tạp, độ khó của khái niệm, hoặc theo trình tự của
quá trình nhận thức của học sinh, giáo viên tổ chức phân bậc từng hoạt theo
từng nấc thang, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn lẻ đến phức
hợp, từ cụ thể đến trừu tượng và ngược lại.. Nhờ phân bậc được hoạt động trải
nghiệm, giáo viên dễ dàng điều khiển quá trình tổ chức trải nghiệm.
• Giáo viên viên cần liên kết các chủ đề theo một trình tự có tính hệ thống, logic
để trẻ hình thành và phát triển toàn diện hơn.
VẤN ĐỀ 9: NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC
27.Trình bày đặc điểm lao động của người giáo viên tiểu học (Minh Hương)
a) Đặc điểm chung về mặt hành động, tri giác (tư duy, tưởng tượng,xúc cảm tình cảm,...)
- Đặc điểm tư duy:
Đặc điểm nổi bật trong tư duy của HSTH là sự chuyển từ tính trực quan cụ thể
sang trừu tượng khái quát.
Ví dụ như trong HĐTN với chủ đề Vui tết Trung Thu ở cấp tiểu học; đối với
các lớp đầu tiểu học GV nên tổ chức cho các em tìm hiểu Tết Trung thu qua các
bài hát thiếu nhi, những chiếc đèn ông sao, đèn lồng, mâm cỗ... chủ yếu là sự
vật cụ thể. Còn với lớp cuối tiểu học GV có thể tổ chức thi tìm hiểu về Tết
Trung thu với nhiều hình thức đa dạng như: thuyết trình, ca hát, diễn kịch,... để
các em thể hiện khả năng tổng hợp, phân tích hững hiểu biết của mình.
- Đặc điểm tưởng tượng:
+ Tưởng tượng của HSTH phong phú và có sự quyện chặt giữa tính phóng
khoáng với tính hiện thực. Hình ảnh trong tưởng tượng có sự hòa quyện giữa
yếu tố hiện thực và yếu tố “lãng mạn”. Điều này tạo nên tính “ma thuật” - không
có thật - trong suy nghĩ của các em.
+ Tưởng tượng của HSTH được hình thành, phát triển trong các hoạt động, đặc
biệt là hoạt động học tập.
+ Học sinh tiểu học dễ rung cảm, giàu cảm xúc nên tưởng tượng của các em
cũng bị chi phối bởi cảm xúc
Chính bởi đặc điểm tưởng tượng đã tạo nên ở học sinh tiểu học những trí tưởng
tượng vô cùng phong phú và sáng tạo. Đôi khi chúng ta thấy rằng những sự lOMoAR cPSD| 40387276
sáng tạo này có hơi hướng “siêu thực” nhưng không nên phủ nhận, phản đối,
gạt bỏ hoàn toàn nó. Thay vào đó hãy để các em được phát huy hết trí tưởng
tượng của mình, thỏa sức thể hiện những điều mình nghĩ, mình muốn. GV sẽ
là người định hướng những sự sáng tạo để đạt được những mục tiêu giáo dục.
VD: khi giáo viên hỏi các em hành động xấu đối với người khác thì học sinh có
thể nêu ra là mụ phù thủy đã cho nàng Bạch Tuyết ăn quả táo độc để hại nàng
(chỉ có trong truyện cổ tích).
- Đặc điểm xúc cảm tình cảm:
+ HSTH dễ xúc cảm và tình cảm mang tính cụ thể, trực tiếp:
· Tính dễ xúc cảm được thể hiện ở chỗ HSTH giàu cảm xúc.
· Tính dễ cảm xúc được thể hiện ở chỗ HSTH dễ xúc động
· Đối tượng xúc cảm của HSTH rất đa dạng, gắn liền với cuộc sống thực
của các em và đặc biệt phải là những sự vật, hiện tượng cụ thể trong những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
HSTH rất dễ xúc cảm. Cảm xúc của các em được bộc lộ rõ ràng, đậm nét trong
nhiều tình huống cụ thể khác nhau. Cảm xúc của các em cũng giúp các em hình
thành nhân cách, đạo đức con người.
Ví dụ như với chủ đề HĐTN là “Gia đình yêu thương” (lớp 3), GV có thể khơi
gợi tình cảm yêu thương gia đình ở các em bằng cách mở đầu bằng bài hát
“Nhật ký của mẹ” hoặc “Tình cha”(bài hát này có sự kết hợp của bé Xuân Mai và ca sĩ Ngọc Sơn),...
GV sẽ khơi dậy xúc cảm đối với người thân trong gia đình, từ đó cho các em
biết được những việc làm nào thể hiện sự quan tâm đối với gia đình, ý nghĩa
của việc làm đó ra sao… Cuối cùng, Gv giao “bài tập về nhà” cho các em hãy
thể hiện những hành động quan tâm tới ông bà, bố mẹ của mình và kể lại cho
các bạn trong giờ HĐTN tiếp theo
Đây cũng trùng vào dịp Quốc tế phụ nữ 8-3, Gv tổ chức cho hs làm thiệp tặng
bà, tặng mẹ bằng cách: Gv tạo sẵn khung thiệp, để trống một nửa để hs sáng
tạo (vẽ chân dung bà/mẹ, vẽ hoa lá,...) và một nửa còn lại để em ghi điều em
thích nhất ở bà/mẹ và lời chúc đến bà/mẹ.
Vì xúc cảm của học sinh tiểu học có tính cụ thể trực tiếp nên không chỉ cho các
em thực hành bằng việc nói lời yêu thương mà phải thực hành bằng hành động,
bằng việc làm cụ thể.
b) Xuất phát từ đặc điểm hoạt động học tập của học sinh tiểu học
Triết học, Tâm lý học dạy học và Giáo dục dục học khẳng định: –
Thứ nhất: “Không có hoạt động, thì không có sự phát triển nhân cách”,
dođó, dạy học phải thông qua hoạt động và bằng chính các hoạt động của học sinh. lOMoAR cPSD| 40387276 –
Thứ hai: Dạy học và tri thức khoa học có bản chất hoạt động. Đối
tượnghoạt động học tập – tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…, bao hàm trong bản thân
nó phương thức tồn tại và phát triển của nó, cho nên “muốn chiếm lĩnh một đối
tượng phải thực hiện trọn vẹn các một hành động theo phương thức tồn tại và
vận động của chính đối tượng ấy”. –
Thứ ba: “Hoạt động học tập của học sinh có cơ cấu tâm lý giống như
hoạtđộng sống của con người”, nghĩa là nó phải xuất phát từ động cơ, mục đích
rõ ràng, phải được thực hiện thông qua hành động, thao tác và kiểm soát được.
Cuối cùng phải tạo ra sản phẩm của hoạt động đó là phẩm chất và năng lực của học sinh.
Do đó, dạy học thực chất là tổ chức hoạt động học cho học sinh, tạo ra cái mới
chưa hề có ở các em bằng phương pháp nhà trường .
Mặc dù hoạt động học của học sinh tiểu học được nảy sinh trong lòng hoạt động
vui chơi nhưng nó chỉ được hình thành bằng phương pháp nhà trường, dưới sự
chỉ đạo chặt chẽ của giáo viên.
VD: Ở trường Mầm non, trẻ được chơi trò chơi xếp hình theo mẫu của giáo
viên, khi đó, trẻ mới chỉ là bước đầu biết nhận diện và nói tên các hình. Dần
dần, khi bước vào trường Tiểu học, ở lớp Một, các em sẽ được làm quen với
từng hình cụ thể, sau đó lên các lớp cao hơn, các em sẽ được học về cách tính
chu vi, diện tích các hình đó.
Đối tượng hoạt động học của học sinh tiểu học là nhóm đối tượng trong đời
sống hiện thực => Việc học tập trên lớp cần kết hợp với thực tế mới có thể
hoàn thiện kiến thức của trẻ.
Ví dụ, khi học Tự nhiên và xã hội, giáo viên có thể đưa học sinh đến tham quan
tại thảo cầm viên, vườn quốc gia để trải nghiệm, tìm hiểu thực tế đời sống và
đặc tính của các loài động vật, thực vật, từ đó giúp học sinh không chỉ học trên
lý thuyết mà còn áp dụng vào thực tiễn thông qua quan sát, khám phá thiên
nhiên. Trong môn Lịch sử và Địa lý, giáo viên có thể đưa học sinh đến những
di tích lịch sử, bảo tàng tại địa phương, kết hợp giữa tham quan và dạy học,
giúp học sinh không những hiểu biết hơn về lịch sử dân tộc mà còn hiểu rõ
được lịch sử địa phương.
2c) Cơ sở hình thành khái niệm lOMoAR cPSD| 40387276
• Hoạt động trải nghiệm được xây dựng nhằm tạo cơ hội cho học sinh:
• Huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học và lĩnh vực giáo
dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn.
• Có quan hệ tương trợ với các môn học khác, góp phần đạt mục tiêu chung
của chương trình tổng thể.
=> Vậy nên rất cần thiết để vận dụng cơ sở tâm lý của việc hình thành khái
niệm cho học sinh tiểu học vào hoạt động trải nghiệm để giúp học sinh hình
thành nên các phẩm chất, năng lực.
• Để phát triển khái niệm phẩm chất, năng lực muốn xây dựng hay củng cố
cho học sinh trong hoạt động trải nghiệm, ta cần:
• Xác định rõ phẩm chất, năng lực cần được xây dựng là gì => Từ đó vận
dụng logic của khái niệm để tìm ra phương pháp hình thành phẩm chất, năng lực.
Ví dụ: Khái niệm “Năng lực ngôn ngữ” là tập hợp hệ thống các kỹ năng nghe,
nói, đọc, viết cùng các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ khác có liên hệ và tác động
qua lại với nhau của con người => Muốn hình thành năng lực ngôn ngữ thì ta
phải tập trung hình thành năng lực nói, năng lực viết,...
Khái niệm “Lòng yêu nước” bao hàm không chỉ riêng lòng yêu quê hương, đất
nước, Tổ quốc,mà còn là lòng yêu con người, gia đình, bè bạn, yêu truyền thống
và văn hóa của dân tộc,... => Khi xây dựng phẩm chất yêu nước ở học sinh cần
xây dựng tổng quát tất cả các khía cạnh, các mặt của phẩm chất này.
• Hình thành khái niệm theo đúng trật tự thời gian.
Ví dụ: Khi muốn hình thành năng lực giao tiếp cho học sinh cần có kiến thức
về các ngôn ngữ cần thiết, cách tương tác với những người và sự kiện xung
quanh, kỹ năng làm việc nhóm
• Lựa chọn “vật liệu” (phương pháp, nội dung) phù hợp để hình thành khái niệm. • Các lưu ý:
• Căn cứ vào mức độ phức tạp, độ khó của khái niệm, hoặc theo trình tự của
quá trình nhận thức của học sinh, giáo viên tổ chức phân bậc từng hoạt theo
từng nấc thang, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn lẻ đến phức
hợp, từ cụ thể đến trừu tượng và ngược lại.. Nhờ phân bậc được hoạt động
trải nghiệm, giáo viên dễ dàng điều khiển quá trình tổ chức trải nghiệm.
• Giáo viên viên cần liên kết các chủ đề theo một trình tự có tính hệ thống,
logic để trẻ hình thành và phát triển toàn diện hơn. lOMoAR cPSD| 40387276
VẤN ĐỀ 9: NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC
1. Trình bày đặc điểm lao động của người giáo viên tiểu học
Lao động sư phạm của người giáo viên Tiểu học có đầy đủ đặc điểm lao động
của người giáo viên. Tuy nhiên, do đặc điểm của đối tượng lao động, do đặc
trưng của cấp học, do tính chất nghiệp vụ của nghề dạy học ở Tiểu học, nên các
đặc điểm trên có những biểu hiện riêng: -
Đối tượng lao động trực tiếp là trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 11 – 12
tuổi. Học sinh Tiểu học là lứa tuổi đầu tiên xuất hiện hoạt động học tập. Ở trong
độ tuổi này, các em có quy luật phát triển tâm - sinh lý riêng ( tư duy, chú ý,
tình cảm, xúc cảm, trí nhớ....). Ở lứa tuổi này các em đang có sự biến đổi về
tâm lí, nhận thức, nhân cách của mình. Đây là lứa tuổi đang tiềm ẩn những khả
năng phát triển rất lớn.
→ Giáo viên phải có tình yêu thương, lòng tin, sự tôn trọng đối với trẻ, đối xử
công bằng, dân chủ, lạc quan và tế nhị trong cách ứng xử, mềm dẻo, nhưng lại kiên quyết. -
Công cụ lao động : nghề có công cụ lao động đặc biệt là nhân cách
của chính bản thân người giáo viên. Usinxki - một nhà giáo dục danh tiếng
từng nói: "Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với
học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào,
bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay
trách phạt nào khác”. Nhân cách cao quý ấy đã khai thông và dìu dắt con đường
tri thức và phương cách sống của mỗi một người trò. Người giáo viên dùng
nhân cách của mình ( phẩm chất và năng lực) để tác động lên chính chân cách
còn đang non trẻ, đang hình thành, đang cần rèn luyện cho học sinh. Bởi vậy
mà, nhân cách của người giáo viên nói chung và người giáo viên Tiểu học nói
riêng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động lao động của mình. VD: Nhân
cách của người giáo viên có tốt mới tạo được uy tín với học sinh, trở thành tấm
gương các em yêu quý, tôn trọng và làm theo. Để học sinh biết tôn trọng người
lớn thì chính giáo viên phải tôn trọng những người lớn hơn để học sinh học tập -
Sản phẩm lao động: nghề có sản phẩm lao động đặc biệt – tạo ra
những nhân cách của người học sinh, giá trị nhân loại với sự tổng hòa của
các mối quan hệ. Người giáo viên dùng công cụ lao động của mình, qua quá
trình lao động sư phạm, tạo ra sản phẩm đó là nhân cách của người học để học
sinh sau này trở thành những công dân có ích cho xã hội, đất nước. Chỉ có giáo
dục mới sản sinh ra nhân cách. Sản phẩm lao động của nhà giáo gắn với tương
lai của dân tộc - không như sản phẩm có thể dùng ngay được của các ngành
nghề khác, sản phẩm lao động của giáo viên phải cần thời gian mới sử dụng được. lOMoAR cPSD| 40387276
→ Giáo viên Tiểu học phải chú ý đến mục tiêu của bậc học và phải biết được
những yêu cầu của xã hội hiện đại để giáo dục học sinh theo sự phát triển của xã hội. -
Lao động có ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn vì giáo dục tạo ra sức
lao động mới có năng lực cao hơn nhờ quá trình phức tạp, tinh tế và công
phu. Nghề giáo là nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội. Qua quá trình
lao động người giáo viên Tiểu học cũng phải góp phần hình thành cho học sinh
những tiền đề, phát hiện và bồi dưỡng những năng lực và phẩm chất cho học sinh tiểu học. -
Lao động của nhà giáo đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo.
+ Tính khoa học: muốn dạy học đạt được kết quả cao, người giáo viên phải
nắm vững quy luật tâm lí, đặc điểm tâm lí, quy luật giáo dục trẻ em để hình
thành nhân cách cho học sinh theo đúng mục tiêu. Tính khoa học không chỉ đơn
thuần là những tri thức khoa học mà còn là những tri thức của khoa học về
nghiệp vụ sư phạm để hình thành phương pháp học tập khoa học cho học sinh.
→ Giáo viên phải có sự kế thừa, chọn lọc, sử dụng các các khoa học khác nhằm
làm cho hoạt động của mình có căn cứ và hiệu quả.
Ví dụ: Khi trẻ bước vào bậc tiểu học, trẻ có những bước chuyển biến lớn về quá
trình nhận thức. Ở giai đoạn này, tư duy trực quan sơ đồ ở trẻ được diễn ra một
cách ưu thế. Song song đó, đây là độ tuổi trẻ bước đầu tiếp cận với lượng kiến
thức mới, mang tính hệ thống và có nhiệm vụ nhận thức cụ thể. Nhưng hoạt động
vui chơi vẫn còn có sức hấp dẫn và ảnh hưởng nhất định đến trẻ, trẻ vẫn hứng thú
với việc vui chơi, chúng ta vẫn thường thấy hoạt động học tập của trẻ được tiến
hành bằng hình thức “học mà chơi, chơi mà học”. Do đó, việc áp dụng các trò chơi
luôn có một vai trò tích cực trong việc tác động, nâng cao nhận thức cho trẻ. Trong
bài Động vật sống ở đâu (Tự nhiên và xã hội 2 - KNTTVCS) giáo viên sẽ tổ chức
trò chơi bằng cách tấm flashcard hình ảnh các con vật để trẻ nhận diện và sau đó
giáo viên sẽ yêu cầu cao hơn đối với học sinh là sắp xếp các động vật vào các
nhóm sống trên cạn, dưới nước, vừa dưới nước vừa trên cạn… nhằm giúp học sinh
thao tác tư duy, học tập hiệu quả bởi giáo viên đã biết cách sử dụng, hiểu quy luật
tâm lý của trẻ để tổ chức hoạt động học một cách tích cực.
+ Tính nghệ thuật: công tác dạy học và giáo dục học sinh đòi hỏi giáo viên
phải khéo léo đối xử sư phạm, vận dụng các phương pháp dạy học và giáo dục
vào tình huống và con người cụ thể.
Ví dụ: Bởi dạy học là một nghệ thuật, giáo viên là nghệ sĩ, sân khấu là bục
giảng, còn học sinh là những khán giả đặc biệt. Cho nên ở đó, các em không
chỉ đơn thuần là xem, nghe mà còn thẩm thấu, lĩnh hội những kiến thức mới,
thậm chí là tương tác, phản biện với thầy, cô giáo của mình. Và một trong số lOMoAR cPSD| 40387276
những kĩ năng quan trọng nhất của một người giáo viên chính là lắng nghe.
Việc lắng nghe các em kể một câu chuyện trong cuộc sống hàng ngày của mình
cũng chính là giúp giáo viên hiểu hơn về học sinh của mình. Biết các em đang
nghĩ gì, cần gì cũng có thể khiến cho giáo viên Tiểu học đưa ra được những
phương pháp dạy học, ứng xử với các em để giúp được các em một cách tốt nhất.
+ Tính sáng tạo: Mỗi học sinh tiểu học là một nhân cách đang hình thành, sự
phát triển còn nhanh chóng. Vì thế, lao động của người giáo viên không cho
phép sự dập khuôn máy móc, mà đòi hỏi phải có nội dung phong phú, cách thức
tiến hành sáng tạo trong các tình huống và đối với từng cá nhân cụ thể. Ví dụ:
Để có thể khiến học sinh có hứng thú hơn đối với mỗi tiết học và từ đó tạo động
lực học tập cho các em, những chuyến đi thực tế hay những tiết học ngoại khoá
cũng là một hoạt động lý tưởng. Ví dụ như khi dạy bài “Hoạt động sản xuất thủ
công và công nghiệp”, giáo viên có thể kết hợp với phụ huynh tổ chức cho các
em đi tham quan ở làng gốm Bát Tràng, các em sẽ có cơ hội để tận mắt chứng
kiến quy trình làm ra những chiếc bình, cái bát, cái đĩa,... và thậm chí là có thể
trực tiếp thực hành với sự giúp đỡ của bố mẹ. Hoạt động này sẽ giúp học sinh
hiểu rõ hơn về hoạt động sản xuất ra những đồ dùng hàng ngày mà các em vẫn
sử dụng, từ đó khiến các em biết quý trọng sự vất vả của những người lao động
mà luôn phải biết trân trọng những đồ vật xung quanh mình.
28. Tại sao nói lao động của người giáo viên tiểu học là loại hình lao động đặc
thù, đòi hỏi tính khoa học, tính sáng tạo và tính nghệ thuật cao (Thùy Dương)
1.Lao động của người giáo viên tiểu học là loại hình lao động đặc thù Lao
động sư phạm của người giáo viên Tiểu học có đầy đủ đặc điểm lao động của
người giáo viên. Tuy nhiên, do đặc điểm của đối tượng lao động, do đặc trưng
của cấp học, do tính chất nghiệp vụ của nghề dạy học ở Tiểu học, nên các đặc
điểm trên có những biểu hiện riêng: -
Đối tượng lao động trực tiếp là trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 11 – 12
tuổi. Ở trong độ tuổi này, các em có quy luật phát triển tâm - sinh lý riêng .Đây
là lứa tuổi đang tiềm ẩn những khả năng phát triển rất lớn.
→ Giáo viên phải có tình yêu thương, lòng tin, sự tôn trọng đối với trẻ, đối
xử công bằng, dân chủ, lạc quan và tế nhị trong cách ứng xử, mềm dẻo,
nhưng lại kiên quyết. -
Công cụ lao động : nghề có công cụ lao động đặc biệt là trí tuệ và phẩm
chất của người giáo viên. Người giáo viên dùng trí tuệ của mình để tác động lOMoAR cPSD| 40387276
vào đối tượng, đặc biệt là học sinh, dùng nhân cách đã ổn định của mình ( phẩm
chất và năng lực) để tác động lên nhân cách còn đang non trẻ,đang cần rèn
luyện cho học sinh. Công cụ này sẽ tác động có hiệu quả khi giáo viên có uy
tín cao, tức là phẩm chất và năng lực, đức và tài của giáo viên ngày càng cao
thì sức thuyết phục học sinh càng lớn -
Sản phẩm lao động: nghề có sản phẩm lao động đặc biệt – tạo ra
những nhân cách của người học sinh, giá trị nhân loại với sự tổng hòa của
các mối quan hệ. Người giáo viên dùng công cụ lao động của mình, qua quá
trình lao động sư phạm, tạo ra sản phẩm đó là nhân cách của người học để học
sinh sau này trở thành những công dân có ích cho xã hội, đất nước. Chỉ có giáo
dục mới sản sinh ra nhân cách. Sản phẩm lao động của nhà giáo gắn với tương
lai của dân tộc - không như sản phẩm có thể dùng ngay được của các ngành
nghề khác, sản phẩm lao động của giáo viên phải cần thời gian mới sử dụng được.
→ Giáo viên Tiểu học phải chú ý đến mục tiêu của bậc học và phải biết được
những yêu cầu của xã hội hiện đại để giáo dục học sinh theo sự phát triển của xã hội. -
Lao động có ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn vì giáo dục tạo ra sức
lao động mới có năng lực cao hơn nhờ quá trình phức tạp, tinh tế và công
phu. Nghề giáo là nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội. Qua quá trình
lao động người giáo viên Tiểu học cũng phải góp phần hình thành cho học sinh
những tiền đề, phát hiện và bồi dưỡng những năng lực và phẩm chất cho học sinh tiểu học.
2. Lao động của nhà giáo đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo.
+ Tính khoa học: muốn dạy học đạt được kết quả cao, người giáo viên phải
nắm vững quy luật tâm lí của học sinh tiểu học, quy luật giáo dục trẻ em để
hình thành nhân cách cho chúng theo mục tiêu cấp học. Vì thế lao động sư
phạm của giáo viên là khoa học đòi hỏi phải có sự kế thừa chọn lọc, đồng
thời sử dụng các khoa học khác nhằm làm cho hoạt động của mình có căn cứ.
Ví dụ1 : Người giáo viên cần hình thành cho trẻ kiến thức về phép cộng trước
khi hình thành kiến thức về phép nhân bởi vì phép nhân số nguyên có thể coi là
việc cộng một số với một số lần nhất định; ví dụ, ta lấy 3 + 3 + 3 + 3 thì ra được
12. Khi ta sử dụng nhân thì nó sẽ nhanh hơn ta chỉ cần lấy 3x4=12 (Đổi số 3
thành số khác để có ví dụ mới) .Như vậy giáo viên mới đảm bảo tính khoa học,
hệ thống trong việc lĩnh hội kiến thức của trẻ khiến cho trẻ sẽ dễ lĩnh hội tri thức hơn. lOMoAR cPSD| 40387276
Ví dụ 2: Người giáo viên cần hình thành cho trẻ kiến thức về từ trước khi hình
thành kiến thức về câu vì câu được cấu tạo bởi nhiều từ .Như vậy giáo viên mới
đảm bảo tính khoa học, hệ thống trong việc lĩnh hội kiến thức của trẻ khiến cho
trẻ sẽ dễ lĩnh hội tri thức hơn.
+ Tính nghệ thuật: công tác dạy học và giáo dục học sinh đòi hỏi giáo viên
phải khéo léo đối xử sư phạm, vận dụng các phương pháp dạy học và giáo dục
vào tình huống và con người cụ thể.
Ví dụ 1: Trong một lớp có đến 30-50 em học sinh, mỗi em có một tư duy khác
nhau vậy nên giáo viên cần phải áp dụng thậm chí kết hợp nhiều phương pháp
dạy học cho học sinh của mình để các em lĩnh hội tri thức tốt nhất. Trong trường
hợp đặc biệt, giáo viên cần phải khéo léo tìm ra những phương pháp mới để
vận dụng vào những đối tượng học sinh cụ thể.
Ví dụ 2: Giáo viên áp dụng nhiều phương pháp dạy học vào bài giảng sẽ khiến
bài giảng sinh động, thu hút hơn, các em học sinh cũng dễ dàng tiếp thu hơn.
Trong một lớp có rất nhiều học sinh, mỗi em một tính cách khác nhau vậy nên
khi có xung đột xảy ra giữa học sinh thì giáo viên cần khéo léo đối xử sư phạm với các em.
+ Tính sáng tạo: Mỗi học sinh tiểu học là một nhân cách đang hình thành, sự
phát triển còn nhanh chóng. Vì thế, lao động của người giáo viên không cho
phép sự dập khuôn máy móc, mà đòi hỏi phải có nội dung phong phú, cách thức
tiến hành sáng tạo trong các tình huống và đối với từng cá nhân cụ thể.
Ví dụ 1 : Khi giáo viên dạy học sinh viết đoạn văn tả mẹ thì không thể cho các
em đọc văn mẫu hay đưa ra những gợi ý về “người mẹ mẫu” cho các em dẫn
tới việc các em tả “mẹ nào cũng giống nhau”. Thay vào đó giáo viên cần hướng
dẫn cho học sinh cấu trúc của đoạn văn và để các em thỏa sức viết theo ý của
mình. Trong quá trình học sinh làm bài, giáo viên cần tận tình hướng dẫn,
khuyến khích các em và tuyên dương những bài làm hay, chân thực, sáng tạo.
Ví dụ 2: Khi giáo viên yêu cầu học sinh vẽ tranh ngôi nhà mơ ước của em thì
không được gò ép các em bắt buộc phải vẽ ngôi nhà dưới đất mà có thể cho các
em thỏa thích sáng tạo vẽ nhà trên mây, dưới nước hay vẽ cung điện nguy nga
hoặc một ngôi nhà hình quả cà chua….
KLSP: (lấy các KLSP ở phía trên nữa)
+ Giáo viên cần phải hiểu đặc điểm nghề để từ đó không ngừng rèn luyện,
bồi dưỡng năng lực phẩm chất cho phù hợp.
+ Giáo viên phải có tình yêu thương, lòng tin, sự tôn trọng đối với trẻ, đối xử
công bằng, dân chủ, lạc quan và tế nhị trong cách ứng xử, mềm dẻo, nhưng lại kiên quyết. lOMoAR cPSD| 40387276
+ giáo viên cần xây dựng uy tín cao, phải không ngừng rèn luyện, nâng cao
phẩm chất và năng lực, đức và tài.
+ Giáo viên Tiểu học phải chú ý đến mục tiêu của bậc học và phải biết được
những yêu cầu của xã hội hiện đại để giáo dục học sinh theo sự phát triển của xã hội.
+ Hiểu được, nắm bắt chính xác tâm lí của học sinh tiểu học.
+ Rèn luyện cá nhân để nhân cách là tấm gương cho học sinh noi theo.
+ Có phẩm chất tốt.
+ Khi tiến hành hoạt động nghề nghiệp phải thận trọng, sử dụng các
phương thức một cách khoa học, một cách nghệ thuật và sáng tạo. + Không
dập khuôn một cách dạy, phương pháp phải thay đổi, vận dụng nhiều cách khác nhau.
29.Phân tích những phẩm chất cần có của người GVTH thời đại ngày nay GV
tiểu học ngoài những phẩm chất chung mà một người công dân cần có thì với
sự phát triển của xã hội hiện nay cũng đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất cho gv tiểu học như sau:
1. GV phải tự nhiên
• Các em hs thích ở người gv là người chân thật. Gv nên nói một cách bình
thường và ở mọi lúc vui vẻ với trẻ em.
• Gv có thể biểu lộ tình cảm bình thường của mình. Tuy nhiên gv không được
quá thân mật và suồng sã.
VD1: Trong trường hợp giáo viên cần phải nghiêm khắc với học sinh thì không
nên “che giấu” cảm xúc của mình để cố gắng vui vẻ với các em mà cần bày tỏ
cảm xúc của mình và đưa ra yêu cầu với học sinh. Trái ngược với đó, có những
trường hợp giáo viên bày tỏ cảm xúc yêu quý học sinh bằng cách chạy tới ôm
hôn thắm thiết thì như vậy là quá thân mật và suồng sã thay vào đó giáo viên
có thể dành lời khen cho em.
VD2: Khi 1 hs được gv bồi dưỡng thi hsg đạt thành tích vượt trội gv vui mừng
lập tức ôm chầm lấy và thơm vào má hs. Ở đây, hành động thơm má thể hiện
sự thân mật quá mức với hs, làm cho hs dễ thấy mình bằng vai phải lứa với gv;
nên gv cần tiết chế cảm xúc của mình lại và thể hiện bằng nhiều hành động
khác như: tuyên dương, khen ngợi, chúc mừng,...
2. GV phải luôn luôn niềm nở, phải vui vẻ.
• Khi nhìn gv vui vẻ hs cũng sẽ vui vẻ, hồn nhiên. Nếu lúc nào trông gv cũng
tức giận thì hs sẽ dễ bị ức chế làm sao có thể tiếp thu bài được. lOMoAR cPSD| 40387276
• Người gv phải là người dễ gần để hs có thể nói chuyện, để các em muốn hỏi
điều gì là hỏi gv được ngay.
VD1: Gv đến lớp luôn niềm nở, vui vẻ với các em sẽ được các em quý mến,
niềm nở và vui vẻ cùng khiến cho không khí lớp học tràn đầy hạnh phúc. Trái
ngược với đó, gv luôn tức giận, thiếu vắng nụ cười trên môi thì không khí lớp
trở nên căng thẳng, các em học sinh lo lắng, sợ sệt không thể tiếp thu bài giảng
mà chỉ sợ cô mắng mình.Nếu để tình trạng đó tiếp diễn lâu dài, khoảng cách
giữa cô và trò sẽ càng kéo ra xa hơn và khó thực hiện dạy học, giáo dục đối với học sinh.
Vd2: Sau khi kết thúc giờ dạy trên lớp khi hs làm btvn có vướng mắc thì đối
với 1 gv luôn niềm nở các em sẽ dễ mở lời hơn, còn đối với gv luôn có thái độ
nóng nảy hs sẽ không dám hỏi vì sợ bị cô la mắng.
3.Gv phải là người khoan dung
• Hs thì khác nhau, họ muốn gv phải chấp nhận sự khác nhau ấy và đối xử
công bằng, không thiên vị.
• Gv nên tỏ ra là mình quý mến hs, ngay cả đối với những em không phải là hs tốt nhất lớp.
• Gv không nên làm những gì khiến hs cảm thấy xấu hổ trước bạn bè cùng lớp.
VD1: Một trong những lỗi giáo viên hay mắc phải là công chúng hóa lỗi của
học sinh, công khai yêu thương học sinh giỏi và “ngại” học sinh yếu kém. Công
chúng hóa lỗi của học sinh nhất là các học sinh yếu sẽ khiến cho các em mặc
cảm, không dám đưa ra ý kiến của mình đôi khi còn có thể bị bạn bè xa lánh.
Việc giáo viên công khai yêu thương, thiên vị học sinh giỏi đôi khi sẽ bị phản
tác dụng khiến cho em học sinh đó bị cả lớp tẩy chay, công kích hay trêu chọc.
Vậy nên giáo viên cần luôn động viên khuyến khích các em học sinh, luôn công
bằng và ghi nhận sự cố gắng qua từng ngày của các em chứ không chỉ nhìn qua
kết quả bài thi để đánh giá và luôn dành lời khen ngợi, tuyên dương trước tập
thể khi các em có sự nỗ lực, cố gắng trong học tập. Điều này không chỉ giúp
em học sinh có động lực học tập mà còn tạo ra bầu không khí học tập, thi đua
tích cực trong toàn thể lớp. ( ghi chung cả 4 đứa :))))))
4.Gv cần hành động để thiết lập mối quan hệ tốt với hs.
• Nhanh chóng tiếp cận với hs, quan tâm đến hs và cố gắng biết nhiều về hs
của mình, nên khen ngợi hs trước tập thể.
• HSTH thường thích khen nhiều hơn, phê bình ít hơn. Tất nhiên sự khen ngợi
phải thận trọng. Nó chỉ dùng với hs xứng đáng được khen. Nếu khen ngợi
luôn luôn được dùng, bị “lạm phát” thì các em sẽ không thấy được giá trị của nó. lOMoAR cPSD| 40387276
• Gv cần nở nụ cười với nhiều hơn, gật đầu nhiều hơn, khuyến khích nhiều
hơn, sự tiếp xúc bằng mắt nhiều hơn.
• Gv không được áp đặt hs, không được xem thường hs, lấy mình ra phán xét
hs, lấy mình làm thước đo, bất chấp tất cả những đặc điểm tâm - sinh lý vốn chỉ có ở hsth.
• Gv phải đặt yêu cầu cao ở hs (phải nghiêm) nhưng lại yêu thương các em
hết mực. Nói cách khác, gv phải khéo xử sư phạm trong tình huống phức tạp.
VD: Giáo viên có một mối quan hệ tốt với học sinh giúp cải thiện tình hình
học tập của chúng. Đó là bởi vì học sinh có thể dễ dàng tiếp cận với sự giúp đỡ
của giáo viên khi chúng gặp khó khăn trong một khóa học cụ thể nào đó, và
cũng bởi vì học sinh sẽ có động lực học tập chăm chỉ hơn nếu biết rằng các
thầy, cô đang thực sự để tâm tới chúng. Giáo viên cũng có thể đem tới những
phương pháp giảng dạy tốt nhất, hiện quả nhất khi họ biết rõ học sinh, thay vì
sử dụng những phương pháp chung chung không hiệu quả.
VD2:Nếu một giáo viên đầu tư thời gian, tâm sức vào cuộc sống của học sinh,
có thể dễ dàng để biết rằng học sinh đó đang phải trải qua một thời kỳ khó khăn.
Đó là bởi vì giáo viên sẽ nhận ra ngay rằng học sinh đó cư xử không giống
thường ngày, hoặc bởi chúng tin tưởng tâm sự với thầy cô. Vấn đề sau đó được
giải quyết thay vì để cho nó lớn lên và đè nặng lên học sinh.Điều cần thiết là
giáo viên cần phải biết về học sinh nhiều hơn là chỉ điểm số của chúng, và quan
trọng hơn nữa là giáo viên cần thể hiện sự quan tâm tới các khía cạnh khác, bên
ngoài lớp học, trong đời sống của học sinh.
5. Xây dựng uy tín thật trước các hs và cha mẹ các em
• Uy tín thật của người gv được xây dựng bằng phẩm chất và năng lực sư
phạm của mình. Tránh tình trạng thầy giáo xây dựng uy tín của mình bằng
quyền uy. Đối với hs nói chung và hsth nói riêng, uy tín thật của người gv
là nhân tố cực kỳ quan trọng trong công tác dạy học và giáo dục trẻ em. Khi
có uy tín với hs, các em sẽ tin, sẽ nghe và sẽ làm theo thầy không một sự do dự, nghi ngờ.
• Uy tín của người giáo viên không tự nhiên mà có, nó được hình thành dần
trong quá trình nỗ lực làm việc và rèn luyện nghề nghiệp của bản thân họ.
Để tạo ra uy tín và giữ gìn uy tìn cho chính mình, người giáo viên phải:
Thương yêu học sinh, tận tụy với nghề nghiệp
• Đối xử công bằng, không thiên vị, không thành kiến với học sinh
• Có tầm hiểu biết và kiến thức sâu rộng, có ý chí vươn lên và nhu cầu mở
rộng tri thức và nâng cao trình độ nghề nghiệp
• Có phương pháp và kĩ năng sư phạm hiệu quả, sáng tạo. lOMoAR cPSD| 40387276
• Có tác phong mô phạm, mẫu mực mọi nơi, mọi lúc
• Uy tín của người giáo viên có vai trò rất quan trọng trong lao động sư phạm bởi:
• Có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình cảm của học sinh
• Được học sinh kính trọng, yêu mến và đánh giá cao về phẩm chất và năng lực
• Tạo cho mình sức mạnh và khả năng cảm hóa học sinh
VD1: Ngày xưa,sự uy tín của thầy được lưu truyền trong dân gian là “Thứ nhất
hay chữ, thứ nhì dữ đòn”. Có vốn liếng chữ nghĩa nhiều mới dạy cho trò được
nhiều. Dùng roi vọt phạt học trò nghiêm khắc thì học hành mới có hiệu quả.
Nhưng ngày nay, uy tín của người giáo viên được xây dựng bằng phẩm chất và
năng lực bởi dạy học trò ngày nay không phải là dạy chữ, dạy sách mà còn là
dạy để phát triển năng lực cho học sinh. Giáo viên sử dụng công cụ giáo dục
không chỉ là kiến thức, phương pháp sư phạm mà còn bằng cả phong cách cử
chỉ, ứng xử của mình như dáng đi, lời nói,... Tất cả những điều này đều góp
phần tạo nên uy tín của người giáo viên.
6. Khả năng giao tiếp với phụ huynh
- Giao tiếp hiệu quả với phụ huynh sẽ giúp giáo viên hiểu rõ hơn về học
sinh của mình. Bằng cách đó, giáo viên cũng xây dựng được mối quan hệ đồng
minh tin cậy, thúc đẩy phụ huynh tham gia vào các hoạt động ở trường và điều
đó rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện của học sinh. Một người giáo viên
thành công cũng thiết lập những ranh giới và giúp phụ huynh biết được đâu là
giới hạn trong mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường. VD: Một người giáo
viên tốt cần biết cách xây dựng cây cầu kết nối giữa phụ huynh và con nhất là
trong giai đoạn tiểu học, các con cần được giáo dục một cách toàn diện không
phải chỉ có thời gian trên lớp mà còn cả ở nhà. Để tránh tình trạng “đi lớp cô
dạy một đằng về nhà mẹ nói một nẻo” học sinh không biết phải nghe ai thì giáo
viên cần giữ kết nối chặt chẽ với phụ huynh, Thúc đẩy phụ huynh cùng các con
tham gia vào các hoạt động của nhà trường. Điều này vừa giúp giáo viên có
thêm nhiều “nguồn thông tin” về học sinh hơn, vừa giúp phụ huynh yên tâm,
sát sao tình hình học của con hơn mà quan trọng nhất là có thể thuận lợi cho
việc giáo dục học sinh theo mục tiêu đã đề ra. (ghi chung)
7. Tôn trọng nghề nghiệp và học sinh
- Người giáo viên thành công luôn có cảm giác rằng họ đang làm một công
việc tuyệt vời. Đồng thời, họ cũng thể hiện sự tôn trọng đối với học sinh của
mình, luôn lắng nghe và thấu hiểu học sinh. Họ luôn tạo điều kiện và cơ hội để
học sinh được bày tỏ ý kiến. Những người giáo viên như vậy, sẽ cảm thấy mỗi lOMoAR cPSD| 40387276
ngày đến trường thực sự là một ngày vui. VD: Cái này thì ví dụ cgi :)))??? - không quan trọng đâu =))
8. Học hỏi và phát triển bản thân -
Giáo dục đang thay đổi từng ngày nên yêu cầu đặt ra với giáo viên làphải
không ngừng học hỏi, tìm hiểu những điều mới, tránh tư tưởng bảo thủ. Luôn
có ý thức phát triển chuyên môn thường xuyên mà không cần bất kỳ lời khen,
phần thưởng hay sự nhắc nhở nào.
Ví dụ: Giáo viên có thể học hỏi, nâng cao chuyên môn không chỉ thông qua tập
huấn, đọc tài liệu,.. mà còn thông qua chính những tình huống sư phạm hằng
ngày. Việc phát triển chuyên môn không chỉ giúp cho giáo viên nâng cao hiệu
quả làm việc mà còn giúp cho học sinh được tiếp nhận nền giáo dục tốt hơn.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều gv có tư tưởng bảo thủ, ngại học hỏi, đổi mới
dẫn tới phương pháp dạy học lỗi thời, không gây được hứng thú cho học sinh.
Vậy nên việc luôn học hỏi và phát triển bản bản thân của giáo viên là một nhiệm
vụ rất quan trọng và cũng là một phẩm chất cần có.(ghi chung) 9. Không so
sánh, phán xét học sinh trong quá trình đánh giá -
Đánh giá hs theo định hướng đánh giá quá trình không đánh giá bằngxếp
loại, phân hạng trong lớp. Đánh giá quá trình xem hs đã đạt được tiến bộ gì so
với bản thân trước đó, điều chỉnh hoạt động dạy sao cho hs đạt được tiến bộ hơn nữa.
VD: Em A trong buổi học hôm trước không biết làm phép tính cộng trong phạm
vi 10, đến buổi học sau em đã có thể thực hiện được một vài phép tính cộng
trong phạm vi 10 vậy là em đã có tiến bộ so với bản thân trước đó. Lúc này
người giáo viên cần đưa ra lời khen, tuyên dương học sinh. Nếu học sinh không
có sự tiến bộ thì giáo viên phải đánh giá chính bản thân mình xem phương pháp
dạy đã phù hợp chưa chứ không không chỉ đánh giá kết quả học tập của học sinh.
VD2: Giáo viên không nên chỉ đánh giá học sinh qua điểm số giữa kỳ, cuối kỳ
hay so sánh các em học sinh với nhau, xếp thứ hạng trong lớp học. Điều này
không chỉ ảnh hưởng phần nào tới tâm lý của các em mà chính quá trình đánh
giá cũng rất phiến diện, sự tiến bộ hằng ngày trong quá trình học của các em
không được ghi nhận kịp thời.
10. Yêu thương, thấu hiểu, là người bạn của học sinh -
Thời gian học sinh ở trường có thể bằng, thậm chí nhiều hơn ở nhà,
conngười nói chung và học sinh cũng vậy, luôn khao khát được yêu thương,
được vỗ về, an ủi. Vậy nên, nếu người GV nào dành cho học sinh thái độ, tình
cảm yêu thương, thấu hiểu, hiệu quả giáo dục sẽ lớn hơn rất nhiều so với GV
lạnh lùng, thờ ơ không gần gũi yêu thương học sinh. lOMoAR cPSD| 40387276 -
Nếu GV tạo được niềm tin tưởng, sự thân thiện gần gũi với học sinh,các
em sẵn sàng tâm sự, kể cả những điều sâu kín nhất của lứa tuổi. Khi đó, GV
có cơ hội hiểu các em hơn, tư vấn và gỡ rối cho các em những băn khoăn của
tuổi mới lớn, những mâu thuẫn của quan hệ học trò, thậm chí cả những khúc
mắc trong gia đình…Khi “là người bạn” của các em, không hề làm giảm vị thế
của GV mà trái lại, uy tín của người GV tăng lên đồng thời tạo lập một môi
trường, một không khí gần gũi, thân thiện đoàn kết trong lớp. - Nhưng
cũng cần có sự cởi mở phù hợp vì nếu quá thoải mái sẽ dẫn đến tình trạng “cá mè một lứa”
VD1: Học sinh tiểu học nhất là các em đầu cấp rất muốn nhận được sự chú ý
từ giáo viên. Nếu giáo viên luôn sẵn sàng lắng nghe câu chuyện của các em thì
sẽ nhận được sự quý mến của đứa trẻ. Có rất nhiều câu chuyện về những học
sinh tự tử vì quá áp lực, phải chăng có một phần trăm nào trong những lý do
dẫn đến câu chuyện đó là do các em không được lắng nghe, không được chia
sẻ vậy nên giáo viên cần là người yêu thương, thấu hiểu học sinh để giải quyết
vấn đề của các em trước khi nó trở nên khó giải quyết. (ghi chung )
⇒ KLSP: Viết lại tất cả klsp phần trên
• GV phải luôn học hỏi, phát triển phẩm chất nhân cách để quá trình dạy học
và giáo dục đạt hiệu quả, đáp ứng với giáo dục hiện đại, không giữ tư tưởng
bảo thủ trong giáo dục.
• Giáo viên cần phải có kỹ năng quản lý cảm xúc, lắng nghe, thấu hiểu và
đồng cảm với học sinh trong dạy học và giáo dục.
• Khi áp dụng các biện pháp khen thưởng, trách phạt cần thực hiện có chừng
mực, tránh bị “lạm phát” hoặc “thiếu hụt” dẫn tới mất giá trị của biện pháp
đôi khi còn bị phản tác dụng.
• Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng có nhiệm vụ xây dựng và phát triển
nhân cách con người (Luật Phổ cập giáo dục tiểu học). Vậy nên người giáo
viên Tiểu học rất cần chú ý trong suốt quá trình nền móng này của trẻ để
giúp trẻ phát triển toàn diện trong tương lai.
30. Phân tích nhóm năng lực chung cần có của người GVTH trong thời đại ngày nay
1.Năng lực chẩn đoán
-Là năng lực phát hiện và nhận biết đầy đủ, chính xác và kịp thời sự phát triển
của học sinh cùng những đặc điểm của sự phát triển đó, những nhu cầu được
giáo dục của từng học sinh. lOMoAR cPSD| 40387276
- Đây là năng lực chung đặc biệt quan trọng đối với người giáo viên tiểu học vì
sự phát triển về các mặt của học sinh tiểu học diễn ra rất nhanh nhưng lại không đồng đều.
=> Để xác định được nhu cầu được giáo dục của từng học sinh thì đòi hỏi ở
người giáo viên những kĩ năng như soạn phiếu phỏng vấn, tổ chức điều tra cơ
bản, xây dựng hồ sơ đối tượng dạy học… Chỉ khi nắm vững đối tượng, giáo
viên mới có thể điều khiển quá trình dạy học có hiệu quả
VD1: Giáo viên nhận thấy được thế mạnh cũng như điểm yếu của học sinh
trong lớp ví dụ thế mạnh của các em như có em hát hay, có em học giỏi môn
toán, có em có khả năng tư duy logic tốt hay có em rất có trách nhiệm với công
việc được giao,... điều này giúp cho giáo viên có cơ sở để phát triển thế mạnh
của các em đồng thời xây dựng phương pháp để phát triển đồng đều các mặt
khác. Giáo viên có thể lập “nhóm chuyên gia” gồm những “chuyên gia” chính
là học sinh mạnh về một mảng nào đó nhằm giúp đỡ cho các bạn yếu hơn ở mảng đó.
VD2: (cũng như ví dụ 1 nhưng thay các thế mạnh bằng các môn khác, lĩnh vực
khác như có em thích hoạt động, có em nhảy giỏi, có em học giỏi môn khoa học tự nhiên,...)
2. Năng lực đáp ứng -
Là năng lực đưa ra những nội dung, biện pháp giáo dục phù hợp với yêu
cầucủa mục tiêu giáo dục và nhu cầu của học sinh. -
Đáp ứng kịp thời và đúng đắn, chính xác có tác dụng to lớn đến việc
gâyhứng thú học tập và rèn luyện, tạo dựng và củng cố động lực cho học sinh,
thúc đẩy sự phát triển của học sinh.
Ví dụ: Giáo viên có thể chọn nội dung giáo dục cho học sinh trong các tiết hoạt
động trải nghiệm tùy theo mục tiêu giáo dục và nhu cầu của học sinh. Ví dụ vào
mùa hè, các em hay được bố mẹ cho đi bơi vậy nên giáo viên có thể tổ chức
chọn nội dung dạy học sinh “Làm thế nào để đi bơi an toàn?” và giờ hoạt động
trải nghiệm và lựa chọn biện pháp, phương pháp giáo dục phù hợp ví dụ như
đóng kịch, … vừa tạo hứng thú cho học sinh vừa phù hợp với nhu cầu của các em.
VD2: Khi học sinh mới vào lớp 1, cần làm quen với các bạn, với lớp học, giáo
viên nên tổ chức cho các em học cách giới thiệu về mình với bạn, làm quen với
bạn, xây dựng lớp học, làm sơ đồ lớp,.. trong các giờ hoạt động trải nghiệm.
Giáo viên cần sử dụng các biện pháp phù hợp để các em vui vẻ, thoải mái trong
giờ học từ đó vừa đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra và cũng phù hợp với nhu
cầu của các em khi mới vào lớp học mới đó là kết bạn.
3. Năng lực đánh giá lOMoAR cPSD| 40387276
- Là năng lực nhìn thấy sự thay đổi về:
+ nhận thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm của học sinh
+ kết quả dạy học và giáo dục của bản thân
Ví dụ: Trong quá trình giáo dục, để đạt được mục đích giáo dục thì cần phải có
quá trình kiểm tra, đánh giá. Giáo viên có thể thiết lập phiếu đánh giá cuối buổi
học để nhận ra mức độ kiến thức mà các em thu được sau tiết học cũng như là
những nhu cầu của học sinh, những mong muốn của các em về người giáo viên,
tiết học của giáo viên đó. Sự kiểm tra đánh giá cũng phải có hai chiều vừa kiểm
tra mức độ lĩnh hội kiến thức của học sinh vừa đánh giá hiệu quả dạy học của giáo viên.
Bên cạnh đó thì trong giáo dục, giáo viên cần phải phát hiện ra những thay đổi
để có những lời khuyên, lời động viên cho các em. Mỗi sự thay đổi dù nhỏ
nhưng có được sự chú ý và khen ngợi từ giáo viên đều cho em một động lực to lớn.
Ví dụ câu chuyện về một em học sinh thường xuyên dùng nước trong bình uống
nước của lớp để giặt khăn lau bảng. Giáo viên trong trường hợp này không nên
chỉ trích, mắng mỏ em mà nên trò chuyện riêng với em, giải thích cho em hiểu
vì sao mình không nên làm như vậy, động viên em lần tới có thể giặt khăn lau
bảng trong nhà vệ sinh. Qua một thời gian em học sinh đó đã biết giặt khăn lau
bảng đúng chỗ và không còn lấy nước uống để giặt nữa. Lúc này, giáo viên cần
tinh ý nhận ra sự thay đổi của em và khen ngợi ngay lúc đó.
4.Năng lực thiết lập mối quan hệ -
Là thiết lập mối quan hệ thuận lợi với người khác (như đồng nghiệp,
phụhuynh HS), nhất là quan hệ với học sinh -
Có quan hệ chặt chẽ với phẩm chất tư tưởng, đạo đức, lòng yêu trẻ,
yêunghề, nhu cầu làm việc với trẻ em và tác động lên trẻ em.
Cha mẹ là người thường xuyên gần gũi với học sinh, đồng nghiệp là những
người cùng chúng ta giáo dục học sinh nên phải tạo mối quan hệ thuận lợi để
hiểu học sinh trên nhiều phương diện. Thường xuyên trao đổi, trò chuyện về
tình hình học tập, tình cảm, tạo ra bầu không khí thân thiện với người khác để
có được sự hỗ trợ từ nhiều phía trong quá trình giáo dục.
Học sinh là đối tượng giáo dục trực tiếp của giáo viên nên phải đặc biệt chú ý
trong tạo mối quan hệ tích cực với học sinh. Ví dụ:
+ Cố gắng nhớ tên học sinh từ những ngày đầu đi học.
+ Bước vào lớp với nụ cười và thể hiện rằng gv rất vui khi thấy các em .
+ Trò chuyện với học sinh về những điều các em quan tâm khi họ đến lớp.
Hỏi về thể thao vào cuối tuần, về bộ phim hoặc âm nhạc mới nhất lOMoAR cPSD| 40387276
+ Hỏi học sinh những điều mà các em biết, nếu chưa biết thì nên gợi ý dần dần,
tránh làm các em bối rối trước các bạn cùng lớp bằng cách cho thấy những gì
em không thể làm được. Nó chắc chắn sẽ phá hỏng quan hệ đang muốn xây dựng….
5.Năng lực kết hợp
- Là năng lực kết hợp các lực lượng xã hội vào thực hiện mục tiêu giáo dục -
Làm cho người giáo viên huy động được sức mạnh giáo dục của các tổ chức xã
hội, của cả cộng đồng Ví dụ:
– Giáo viên liên kết với địa phương tổ chức cho các em đi tham quan đình làng,
chùa tại địa phương mình.
• Giáo viên liên kết với các bảo tàng để cho học sinh đi tham quan tại bảo tàng.
• Giáo viên mời những người có chuyên môn về một lĩnh vực nào đó đến
chia sẻ kinh nghiệm cho học sinh. (Ví dụ mời bác sĩ đến chia sẻ cho các em
về giáo dục giới tính.)
31.Phân tích các năng lực dạy học của người giáo viên tiểu học
a. Năng lực hiểu học sinh
• Là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của các em • Biểu hiện
• Giáo viên phải biết xác định khối lượng, mức độ, phạm vi kiến thức đã
có ở học sinh để xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày cho học sinh.
• Dựa vào sự quan sát tinh tế, thầy giáo có thể nhận biết được những học
sinh khác nhau đã lĩnh hội lời giảng giải của mình như thế nào và đưa
ra câu hỏi kiểm tra phù hợp trình độ học sinh.
• Dự đoán được thuận lợi và khó khăn, xác định mức độ căng thẳng của học sinh • Vai trò
• Là cơ sở để giáo viên giao tiếp thành công với học sinh
• Là cơ sở để giáo viên định ra phương pháp, cách thức tổ chức dạy học
và giáo dục học sinh sao cho phù hợp Yêu cầu:
• Người giáo viên phải có trình độ hiểu biết về đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học
• Phải có óc tưởng tượng phong phú mới hình dung được, dự đoán được
những diễn biến tâm hồn học sinh, phải có năng lực quan sát sư phạm. ⇒ KLSP: lOMoAR cPSD| 40387276
• Để có được năng lực trên GV cần có chuyên môn kiến thức, có sự tinh
tế, quan sát, lắng nghe, ghi nhận, chia sẻ, phân tích thấu hiểu học sinh.
luôn học hỏi nâng cao trình độ sư phạm. Tiếp xúc nhiều với các em học sinh.
Ví dụ: Giáo viên có thể nhìn vào sắc mặt, cử chỉ, hành vi của học sinh để biết
được phần nào mức độ lĩnh hội lời giảng của mình ví dụ như khi ta giảng bài,
học sinh nhăn mặt, cúi gằm mặt xuống bàn, vò đầu bứt tai, không tập trung
chính tỏ học sinh đang gặp khó khăn trong việc lĩnh hội, chúng ta cần thay
đổi phương pháp hoặc lôi kéo sự chú ý của các em.
VD2: Giáo viên viên có thể nhìn vào sắc mặt, cử chỉ, hành vi của học sinh để
biết được phần nào mức độ lĩnh hội lời giảng của mình ví dụ như khi ta giảng
bài, học sinh chăm chú nghe, giơ tay phát biểu, thái độ tập trung chính tỏ học
sinh đang lĩnh hội kiến thức rất tốt, ta cần xác định lượng kiến thức sẽ truyền
tải tiếp theo cho học sinh.
b. Năng lực chế biến tài liệu
• Là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo viên nhằm làm cho tài
liệu thích hợp tối đa với trình độ và đặc điểm nhân cách học sinh của
mình, để các em lĩnh hội được những yêu cầu tối thiểu, nhưng lại tạo
điều kiện để cho những em có điều kiện lĩnh hội được những tri thức,
khái niệm mức độ cao hơn đại trà. • Biểu hiện
• Biết đánh giá đúng dẫn tài liệu
• Xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức trong chương trình quy định
và trình độ nhận thức của học sinh.
• Biết xây dựng lại tài liệu để hình thành một cấu trúc bài giảng và phù
hợp với logic của nhận thức sư phạm
• Biết phát hiện ra những khó khăn học sinh gặp phải khi lĩnh hội những
kiến thức trong tài liệu đó. • Yêu cầu:
• Người giáo viên phải có năng lực phân tích và tổng hợp các yếu tố chủ
yếu và thứ yếu, cái cơ bản và các chi tiết, không phải chỉ có thể mà còn
thấy mối quan hệ giữa chúng biết tổng hợp chúng theo cấu trúc có cơ
sở khoa học để trình bày.
• Người giáo viên phải có óc thiết kế sư phạm để xây dựng trong đấu ốc
trẻ cái thấy muốn tạo dựng, thầy giáo phải nhạy cảm với cái mới, giàu lOMoAR cPSD| 40387276
cảm xúc sáng tạo, biết cảm thụ niềm vui trong nhận thức và xăng tạo sư phạm. ⇒ KLSP:
• GV phải không ngừng trau dồi kiến thức khoa học phù hợp với thời đại.
• GV cần lựa chọn những tài liệu phù hợp với kiến thức, trình độ nhận
thức của HS, từ đó chế biến và khái quát hệ thống tài liệu sao cho dễ hiểu và dễ tiếp thu
• GV cần sáng tạo thiết kế những bài giảng sinh động, mới lạ, thu hút sự
hứng thú của trẻ trong quá trình học
VD: Khi người giáo viên muốn hình thành khái niệm về hình chữ nhật cho học sinh
thì không chỉ cần giảng cho học sinh biết hình chữ nhật là hình tứ giác có 4 góc
vuông, có hai cạnh dài bằng nhau và hai cạnh ngắn bằng nhau mà phải thiết kế bài
dạy cho các em thấy được các hình chữ nhật trong cuộc sống như cái bảng, cái mặt
bàn,.. chỉ ra cho các em 4 góc vuông và 2 cạnh dài, 2 cạnh ngắn bằng nhau như thế nào.
VD2: Lấy ví dụ tương tự với hình vuông.
c. Năng lực tổ chức hoạt động của học sinh
• Người giáo viên có năng lực này là người biết giao cho học sinh hệ thống việc
làm, biết tổ chức, hướng dẫn các em tiến hành các việc làm đó, theo dõi, kiểm
tra và đánh giá những hành động của các em để kịp thời uốn nắn những sai
sót (nếu có) giúp các em khắc phục khó khăn để em nào cũng đạt kết quả.
Thầy không làm thay trò, các em phải tự làm lấy. Vì thế, tạo cho các em hứng
thú, sáng tạo và thưởng thức mùi vị thành công nho nhỏ. Lời nói giàu hình
ảnh, có biểu cảm, ngữ điệu, chính xác làm cho các em lĩnh hội được những ý tưởng của giáo viên ⇒ KLSP
• GV có thể ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho bài giảng phong phú, sáng tạo
• GV nên cho học sinh trực tiếp tham gia vào hoạt động với sự sáng tạo của cá
nhân các em, tránh việc áp đặt học sinh làm theo kịch bản đã sắp đặt trước của giáo viên
• Sau khi cho các em tham gia hoạt động, giáo viên cần hệ thống hóa kiến thức
đảm bảo sao cho đạt được chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình hiện
hành mà mục tiêu bài học đã đặt ra.
• Sau khi kết thúc bài học, GV không nên giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh
bằng những câu hỏi, bài tập có tính chất học thuộc lòng máy móc, mà nên lựa lOMoAR cPSD| 40387276
chọn những tình huống, nhiệm vụ học tập bổ ích liên quan đến thực tiễn đòi
hỏi các em phải hợp tác với cộng đồng để tìm tòi, khám phá
Vd: Khi dạy học, giáo viên có thể tổ chức các hoạt động như chia nhóm thảo luận,
thi đua giữa cá nhân, giữa các nhóm, giáo viên có thể thiết kế các trò chơi hay hình
ảnh, video sinh động để các em dễ tiếp thu kiến thức và tăng sự hứng thú, tập trung vào bài học (ghi chung)
d. Năng lực hiểu biết sâu rộng
• Người GV có năng lực hiểu biết sâu và rộng nắm vững nội dung, chương trình
SGK và các tài liệu hướng dẫn đối với các môn học mà mình phụ trách
• GV có năng lực bồi dưỡng để hoàn thiện tri thức, có nhu cầu mở rộng vốn văn
hóa chung và văn hóa sư phạm để tiến hành có hiệu quả công tác dạy học và giáo dục
• GV là người hoạt động rất đa dạng. Họ không chỉ là người giảng dạy chuyên
môn mà còn hình thành thế giới quan cho HS. Vì vậy, GV cần có tri thức và
hiểu biết sâu rộng để tạo uy tín của mình. ⇒ KLSP
• GV cần có năng lực tự học tự bồi dưỡng để hoàn thiện trí thức của mình từ đó
có thể hiểu đúng và áp dụng được phương pháp giáo dục mới vào thực tế giảng dạy hàng ngày
• Thường xuyên theo dõi xu hướng phát triển, những phát minh khoa học liên
quan đến môn học mình phụ trách và những môn học khác VD: Người gv tiểu
học cần không ngừng trau dồi kiến thức về nhiều lĩnh vực, không ngừng bồi
dưỡng tri thức có thể qua tập huấn, tham gia các khóa học, qua những tình
huống sư phạm thường ngày. Và người giáo viên cũng nên có một quỹ thời
gian trong thời gian biểu của mình để dành cho việc học tập, nâng cao tri thức.
Hãy đưa ra các kết luận sư phạm từ việc nghiên cứu các phẩm chất cơ bản
cần có của người giáo viên tiểu học. 32.
1.Khái quát lại các phẩm chất cơ bản • GV phải tự nhiên
• GV phải luôn luôn niềm nở, phải vui vẻ.
• Gv phải là người khoan dung
• Gv cần hành động để thiết lập mối quan hệ tốt với hs.
• Xây dựng uy tín thật trước các hs và cha mẹ các em
• Khả năng giao tiếp với phụ huynh lOMoAR cPSD| 40387276
• Tôn trọng nghề nghiệp và học sinh
• Học hỏi và phát triển bản thân
• Không so sánh, phán xét học sinh trong quá trình đánh giá
• Yêu thương, thấu hiểu, là người bạn của học sinh 2. KLSP lOMoAR cPSD| 40387276
Việc nâng cao năng lực của GVTH đóng góp một phần quan trọng trong con
đường hoàn thiện nhân cách người GVTH
• GV Tiểu học cần có cho mình đủ các phẩm chất trên và hơn nữa còn cần
trở thành một tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
• GV nhất là GV tiểu học có nhiệm vụ cần luôn nâng cao, hoàn thiện phẩm
chất của mình để phù hợp với yêu cầu giáo dục và đào tạo.
• Bất kỳ phẩm chất nào của Gv cũng có tác động to lớn đến học sinh vậy
nên Gv cần học cách hành xử đúng đắn với phẩm chất tốt đẹp.
• Người GV có phẩm chất tốt được tu dưỡng không ngừng sẽ có uy tín tốt
trước học sinh và phụ huynh.
• Điều 63 của Luật giáo dục có nêu: “Nhà giáo dục không ngừng học tập,
rèn luyện để nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, nêu gương tốt cho người học” - đây cũng chính là nhiệm vụ quan trọng của nghề giáo.
Hãy đưa ra các kết luận sư phạm từ việc nghiên cứu nhóm năng lực giáo
dục của người giáo viên tiểu học 33.
1.KHái quát lại các nhóm năng lực của người GV • Nhóm năng lực chung: • Năng lực chẩn đoán • Năng lực đáp ứng • Năng lực đánh giá • Năng lực giao tiếp • Năng lực kết hợp
• Nhóm Năng lực chuyên biệt • Năng lực dạy học • Năng lực giáo dục
• Năng lực tự hoàn thiện Năng lực tổ chức. 2. KLSP
• Việc nâng cao năng lực của GVTH đóng góp một phần quan trọng trong con
đường hoàn thiện nhân cách người GVTH 70 | P a g e
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
• GV Tiểu học cần có cho mình đủ các năng lực trên để áp dụng trong dạy học và giáo dục.
• GV nhất là GV tiểu học có nhiệm vụ cần luôn nâng cao, hoàn thiện năng lực
của mình để phù hợp với yêu cầu giáo dục và đào tạo.
• Các năng lực của Gv có tác động to lớn đến quá trình học tập học sinh và
giáo dục của GV vậy nên Gv cần không ngừng trau dồi nó.
Người GV có năng lực tốt được tu dưỡng không ngừng sẽ có uy tín tốt trước học sinh và phụ huynh.
• Điều 63 của Luật giáo dục có nêu: “Nhà giáo dục không ngừng học tập, rèn
luyện để nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nêu
gương tốt cho người học” - đây cũng chính là nhiệm vụ quan trọng của nghề
Hãy đề xuất các biện pháp rèn luyện năng lực tổ chức các hoạt động sư
phạm của người giáo viên tiểu học giáo. 34.
1.Năng lực tổ chức sư phạm.
• Người giáo viên cần có năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là tất yếu vì
giáo viên là người tổ chức lao động cho học sinh trong những điều kiện sư
phạm khác nhau, là hạt nhân để gắn học sinh thành một tập thể, là người
tuyên truyền và liên kết phối hợp các lực lượng giáo dục.
• Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm của người thầy giáo được thể hiện, trước
hết ở chỗ, tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của
công tác dạy học và giáo dục ở trên lớp cũng như ngoài trường, trong nội
khoa cũng như trong ngoại khóa, cho từng học sinh cũng như cho tập thể của chúng.
• Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm còn thể hiện ở chỗ, biết đoàn kết học
sinh thành một tập thể thống nhất, lành mạnh, có kỷ luật, có nề nếp đảm bảo
cho mọi hoạt động của lớp diễn ra một cách thuận lợi, tạo ra tập thể học
sinh thành “một thầy giáo thường trực” (thầy giáo thứ hai).
• Người thầy giáo có năng lực tổ chức hoạt động sư phạm không những biết tổ
chức và đoàn kết học sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp
giáo dục theo một mục tiêu xác định.
2. Biện pháp để rèn luyện năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm của
người giáo viên tiểu học. 71 | Page
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
• Biết xây dựng kế hoạch: Người giáo viên biết vạch kế hoạch thường suy
nghĩ một cách chín chắn, sâu sắc tình huống giáo dục và đặc điểm đối
tượng nên kế hoạch vạch ra biết kết hợp Yêu cầu trước mắt và lâu dài, đảm
bảo tính nguyên tắc và tính linh hoạt của kế hoạch, biết vạch kế hoạch đi
đôi với kiểm tra kế hoạch để đánh giá hiệu quả và sẵn sàng bổ sung kế hoạch.
• Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học, giáo
dục khác nhau nhằm tổ tổ chức tốt đối với việc học tập và có tác động sâu
sắc đến tư tưởng và tình cảm của học sinh.
• Biết định mức độ và giới hạn của từng biện pháp dạy học và giáo dục khác nhaunhau.
Có nghị lực và dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế hoạch và các biện
Tại sao nói: Giáo dục tiểu học ngày nay đòi hỏi mỗi giáo viên phải không
ngừng rèn luyện và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho bản thân pháp giáo dục. 35.
(ý 1 nói về nhiệm vụ chung của người Gv phổ thông)Giáo dục đào tạo là
sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn dân, nhưng người trực tiếp thực thi
trách nhiệm là nhà giáo. Các thầy cô giáo là người chiến sỹ tiên phong trên mặt
trận tư tưởng, văn hoá có nghĩa vụ và trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng
đạo đức chân chính, mạng lưới hệ thống những giá trị, tinh hoa văn hoá của dân
tộc bản địa và trái đất, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lượng
phát minh sáng tạo tương thích với sự tăng trưởng và văn minh xã hội. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh vấn đề : “ Không có thầy giáo thì không có giáo dục … không có
giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế tài chính – văn hoá ”. Để
xứng danh với thương hiệu “ Người kỹ sư tâm hồn ”, “ người chiến sỹ trên mặt
trận tư tưởng văn hoá ”, mỗi người thầy giáo phải không ngừng học tập trau dồi
trình độ nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức. Để làm được như vậy thì “giáo viên cũng
phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ, chớ tự mãn cho mình giỏi
rồi thì dừng lại mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải mình trước”
(ý 2 nói về GV tiểu học)Từ trước đến nay, người giáo viên luôn giữ vai trò
quyết định trong việc biến mục tiêu giáo dục trở thành hiện thực, bảo đảm hiệu
quả và chất lượng giáo dục. Đặc biệt giáo dục tiểu học là bậc giáo dục nền tảng,
tạo cho trẻ một cơ sở ban đầu vững chắc. Từ đó các em có sức bật và tiếp tục 72 | P a g e
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
học lên những bậc học trên. Chính vì vậy, giáo viên tiểu học là người giáo viên
tổng thể và cũng có thể nói giáo viên tiểu học là người đại diện cho trường tiểu
học, cho xã hội tổ chức quá trình phát triển của trẻ. Để có hiệu quả cao trong
giảng dạy đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải vững về chuyên môn nghiệp vụ, có tư
cách đạo đức chuẩn mực, có năng lực thực hiện giáo dục toàn diện, đồng thời
phải có trình độ đào tạo sư phạm đúng quy định của Bộ giáo dục. Đội ngũ có
vững chuyên môn nghiệp vụ hay không cũng phụ thuộc rất nhiều vào nhà quản lí.
Người quản lí phải có kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ tổ
trưởng chuyên môn, giáo viên trong trường.
(kết luận)Việc rèn luyện nghề nghiệp phải được diễn ra thường xuyên đáp
ứng nhu cầu mà ngành cũng như xã hội đặt ra. Theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên
Tiểu học quy định người giáo viên Tiểu học cần phải đảm bảo đủ ba yếu tố cơ
bản: “Phẩm chất đạo đức, Tư tưởng chính trị, Kiến thức và Kĩ năng sư phạm
” và điều 63 của Luật giáo dục có nêu: “Nhà giáo dục không ngừng học tập,
rèn luyện để nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
nêu gương tốt cho người học”. 73 | Page
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
Trình bày suy nghĩ về quan điểm: “Tự học, tự đào tạo hoàn thiện và nâng
cao phẩm chất, năng lực cho mình là vấn đề đặt ra suốt đời với người
GVTH” (Thùy Dương) 36.
• Sinh viên sau khi tốt nghiệp trường sư phạm sẽ chính thức trở thành nhà giáo,
những nền tảng của nhân cách người giáo viên đã có, nhưng để làm việc được
tốt cho phù hợp với thực tiễn giáo dục, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của
người giáo viên luôn thay đổi và nâng cao thì đòi hỏi người giáo viên không
ngừng rèn luyện và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho bản thân mình. Vì vậy,
vấn đề tự học, tự đào tạo, hoàn thiện và nâng cao phẩm chất và năng lực cho
mình là vấn đề đặt ra suốt đời với người giáo viên.
• Luật giáo dục khẳng định: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo
chất lượng giáo dục”. Trong bối cảnh đổi mới giáo dục, từng bước vươn ra quốc
tế như hiện nay, vai trò của người giáo viên càng được đẩy mạnh. +Nâng cao
phẩm chất:Giáo viên trước hết phải là nhà giáo dục với 2 nhiệm vụ cốt lõi:
giáo dục và giáo dưỡng. Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học là tin tưởng vào
người lớn, đặc biệt là giáo viên và gia đình, dễ bắt chước, noi theo. Vậy nên
nhân cách của người giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ.
=>Người giáo viên phải không ngừng nâng cao phẩm chất của mình để phù hợp
với yêu cầu của thời đại.
+ Nâng cao năng lực . Sự thành thạo, nhuần nhuyễn trong nghề nghiệp có thể đem
lại cho giáo viên sự tự tin khi đứng trên bục giảng, thỏa mãn nhu cầu kiến thức của
học sinh và đạt được sự tín nhiệm từ gia đình, xã hội. Từ việc thành thạo những kiến
thức cơ bản có thể phát hiện, sáng tạo những cái mới. Từ đấy nâng cao ý thức chủ
động trong việc giảng dạy, nâng cao chất lượng chuyên môn của giáo viên. VD: GV
có thể tham gia tập huấn, nghiên cứu khoa học, các khóa đào tạo bài bản giúp nâng
cao những năng lực của người giáo viên: năng lực viết bảng, năng lực xử lí tình
huống, năng lực công nghệ tin học,...
VD2: GV có thể tự học hỏi, trau dồi phẩm chất nhân cách của mình bằng cách đọc
sách, tham gia các khóa học về tâm lý, tập huấn ở trường, học hỏi hằng ngày qua
chính môi trường làm việc của mình,...
Việc nâng cao năng lực, phẩm chất của người giáo viên là điều kiện tiên quyết
để nâng cao năng lực, phẩm chất của học sinh. Đấy là nhiệm vụ suốt đời của GVTH 74 | P a g e
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40387276
Vậy lý do người giáo viên cần " Tự học, tự đào tạo và nâng cao phẩm chất, năng
lực cho mình là vấn đề đặt ra suốt đời với người GVTH" được tổng kết lại bằng những ý chính như sau:
• Để theo kịp quá trình phát triển của xã hội
• Để thích ứng với yêu cầu đổi mới của chương trình giáo dục
• Tự học cần được xem là một phẩm chất quan trọng của giáo viên để học sinh noi theo.
• Người giáo viên cần không ngừng tự học để đáp ứng yêu cầu, nâng cao
hiệu quả trong công tác giảng dạy, giáo dục. 75 | Page
Downloaded by kim kim (ngothingocmaivtath5@gmail.com)