Đề cương thi hết môn - Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại Học Hà Nội

Đề cương thi hết môn - Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại Học Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1. Giá trị và hạn chế của CNXH không tưởng thế kỉ XIX.
*Những giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Chủ nghĩa hội không tưởng một quá trình phát triển lâu dài, từ chỗ
những ước mơ, khát vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền
thuyết tôn giáo đến những học thuyết hội - chính trị. Cống hiến lớn lao
của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Một là, chủ nghĩa hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên
án, phê phán kịch liệt ngày càng gay gắt, các hội dựa trên chế độ
hữu, chế độ quân chủ chuyên chế chế độ tư bản chủ nghĩa; góp phần nói
lên tiếng nói của những người lao động trước tình trạng bị áp bức, bị bóc lột
ngày càng nặng nề.
Hai là, chủ nghĩa hội không tưởng đã phản ánh được những
ước mơ, khát vọng của những giai cấp lao động về một hội công bằng,
bình đẳng, bác ái.chứa đựng giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện
lòng yêu thương con người, thông cảm, bênh vực những người lao khổ,
mong muốn giúp đỡ họ, giải phóng họ khỏi nỗi bất hạnh.
Ba là, chủ nghĩa hội không tưởng bằng việc phác họa ra
hình xã hội tương lai tốt đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã
hội mới sau này các nhà sáng lập chủ nghĩa hội khoa học đã kế thừa
một cách chọn lọc và chứng minh chúng trên s khoa học.dụ như
những luận điểm: về tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm; về xóa bỏ sự
đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay; về vai trò của công
nghiệp; về giáo dục; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai trò lịch sử của
nhà nước,...
Với những giá trị lịch sử trên chủ nghĩa hội không tưởng,
chủ yếu của chủ nghĩa hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX,
được các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học thừa nhận một trong ba
nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
* Những hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng và nguyên nhân của
- Những hạn chế:
Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng không giải thích được bản
chất của các chế độ nô lệ làm thuê. Đặc biệt là nó không thấy được bản chất
của chế độ bản chủ nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát
triển diệt vong của các chế độ đó, đặc biệt chủ nghĩa bản nên cũng
không chỉ ra được con đường, biện pháp đúng đắn để cải tạo hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
Hai là, chủ nghĩa hội không tưởng đã không phát hiện ra lực
lượng xã hội tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản-lực lượng xã hội đã
được sinh ra, lớn lên phát triển cùng với nền đại công nghiệp bản chủ
nghĩa, đó là giai cấp công nhân.
Ba là, chủ nghĩa hội không tưởng muốn cải tạo hội bằng
con đường cải lương chứ không phải bằng con đường cách mạng.
- Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân bản của những hạn chế trên của chủ nghĩa
hội không tưởng một phần do bản thân các nhà chủ nghĩa hội không
tưởng, nhưng bản do điều kiện kinh tế - hội lúc bấy giờ quy định.
Đó là, phương thức sản xuất bản chủ nghĩa chưa phát triển đến độ chín
muồi, công nghiệp lớn chỉ mới xuất hiện nước Anh, nên chưa bộc lộ mâu
thuẫn kinh tế bản trong phương thức sản xuất bản chủ nghĩa; giai cấp
công nhân hiện đại chưa trưởng thành, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân còn ở trình độ thấp, nên mâu thuẫn xã hội còn ẩn dấu chưa bộc lộ
hẳn, quan hệ giai cấp và sự đối lập giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
còn ít phát triển. Chính vì vậy, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: ”Hoàn cảnh lịch sử ấy
cũng đã quyết định quan điểm của những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội.
Tương ứng với một trình độ chưa trưởng thành của nền sản xuất bản chủ
nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi, là một luận chưa chín
muồi”.
Ngày nay, người ta không thể đòi hỏi hơnnhững nhà xã hội
chủ nghĩa không tưởng khi những hạn chế của họ hoàn toàn do những
điều kiện lịch sử khách quan quy định.
Mặc chủ nghĩa hội không tưởng nhiều giá trị, song
mắc phải những hạn chế nên chỉ vai trò tích cực trong một giai đoạn
lịch sử nhất định. Khi cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống
giai cấp sản phát triển tới quy rộng lớn, đòi hỏi phải một luận
khoa học cách mạng soi đường, khi chủ nghĩa hội khoa học ra đời thì
các trào lưu của chủ nghĩa xã hội không tưởng trở nên lỗi thời, bảo thủ, thậm
chí còn mang tính chất phản động, cản trở phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chống giai cấp tư sản.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội và vai trò của C.Mác và Ph.Ăng
ghen trong việc hình thành CNXHKH
*Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học)
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung với tính cách sự luận chứng toàn diện
(triết học, kinh tế chính trịhội - chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ
nghĩa bản thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, sự biểu hiện khoa
học những lợi ích bản những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân.
Điều ấy nói lên sự thống nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa hội khoa học một trong ba bộ phận hợp thành
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể
hiện tập trung nhất tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Chủ nghĩahội khoa họckhoa học về các quy luậthội - chính trị, học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân nhân
dân lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách
mạng hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công
nhân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
*Những điều kiện tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ
nghĩa xã hội khoa học
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa bản châu Âu đã đạt được
những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học -
kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất bản chủ nghĩa phát
triển mạnh mẽ. -> mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất tính
chất xã hội hóa ngày càng cao >< quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa.
Chính vậy, mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực
cho những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản
chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng
thành bước lên đài đấu tranh chống giai cấp sản với cách một lực
lượng hội độc lập. Giai cấp công nhân lực lượng hội khả năng giải
quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu
tổ chức trên quy rộng khắp. đòi hỏi một luận khoa học hướng
dẫn. Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa của
công nhân thành phố Liông (Pháp) từ năm 1831 đến năm 1834; cuộc khởi nghĩa
của công nhân dệt Xêlidi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chương (Anh) từ
1838 đến 1848. Những phong trào đó tính quần chúng mang hình thức
chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải
xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó những điều kiện kinh tế - hội khách quan cho chủ nghĩa hội khoa
học ra đời để thay thế các trào lưuhội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ
ra lỗi thời, không còn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh
bằng lý luận phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa - tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M.
Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về
khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Ph. Hêghen, L. Phơbách),
kinh tế chính trị học Anh (tiêu biểu là Ađam Smít, Đ. Ricácđô), chủ nghĩa xã hội
không tưởng - phê phán (tiêu biểu H. Xanhximông, S. Phuriê R. Ôoen).
Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tưởng đã tạo ra những tiền đề
tưởng - văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung chủ nghĩa hội
khoa học nói riêng.
*Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội khoa học
Các Mác (1818 - 1883)
C. Mác người sáng lập ra chủ nghĩa hội khoa học, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh tụ
người thầy của giai cấp vô sản thế giới.
Phriđrích Ăngghen (1820 - 1895)
Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công nhânhiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu hiện thực bản chủ nghĩa trên quan điểm duy vật biện chứng
với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến vĩ đại đó là: chủ
nghĩa duy vật lịch sử học thuyết giá trị thặng dư. Nhờ hai phát kiến ấy, chủ
nghĩa xã hội đã trở thành khoa học. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không phải
do tưởng tượng, ướckết quả tất yếu trong sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
> Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C. Mác và Ph. Ăngghen
soạn thảo theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” -
một tổ chức công nhân quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (2-1848)tác phẩm bất hủ, khúc ca tuyệt
tác của chủ nghĩa Mác, văn kiện tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong
trào công nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình bày một
cách ràng sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”, theo V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận Tuyên ngôn của chủ
nghĩa xã hội thế giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công
nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” kim chỉ nam cho hành động của phong
tràocộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng sản mácxít - lêninnít lấy tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối
chiến lược và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân: thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tiến lên chủ
nghĩa cộng sản.
3. Giai cấp công nhân: khái niệm, nội dung SMLS của giai cấp
công nhân.
*Khái niệm GCCN:
Cũng như mọi hiện tượng hội khác, giai cấp công nhân con đẻ của một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn
phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người
sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vô
sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra
đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp
đó.
Khái niệm:
- Giai cấp công nhân một tập đoàn hội ổn định, hình thành
phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện
đại, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, là lực lượng
chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ Chủ nghĩa bản lên Chủ
nghĩa xã hội.
- các nước bản chủ nghĩa, Giai cấp cồn nhân những người
không hoặc về bản không liệu sản xuất phải làm thuê
cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư.
- Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động làm chủ những liệu sản xuất chủ yếu cùng nhau hợp
tác lao động lợi ích chung của toàn hội, trong đó lợi ích
chính đáng của mình.
*Nội dung SMLS của GCCN:
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến
đại, đó quan niệm duy vật về lịch sử học thuyết giá trị thặng dư, đã
chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ
nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên
tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử:
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân lọai khỏi mọi
sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới.
Cụ thể:
Nội dung kinh tế:
- Giai cấp công nhân - Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội
hóa cao; đại biểu cho quan hệ sản xuất tiên tiến nhất dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất.
- Giai cấp công nhân - chủ thể của quá trình sản xuất vật chất -> tạo
tiền đề vật chất và kỹ thuật cho sự ra đời của toàn xã hội.
- Đại biểu cho lợi ích chung của toàn xã hội.
- Ở các nước hội chủ nghĩa - Giai cấp công nhân thông qua quá trình
công nghiệp hóa và thực hiện một kiểu tổ chứchội mới về lao động
để tăng năng suất lao động, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Giai cấp công nhân - Đóng vai trò nòng cốt trong việc giải phóng lực
lượng sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Giai cấp công nhân -lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa và hiện đại hóa.
Nội dung chính trị - xã hôi:
- Giai cấp công nhân nhân dân lao động (Đảng cộng sản lãnh đạo):
Lật đổ quyền thống trị của giai cấp sản giành chính quyền thiết
lập nhà nước chuyên chính sản. Cải tạo hội cũ, xây dựng hội
mới.
Nội dung văn hóa – tư tưởng:
- Xây dựng hệ giá trị mới: công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do.
- Thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng:
+ Xây dựng ý thức hệ tiên tiến của giai cấp công nhân (chủ nghĩa Mác
– Lenin)
+ Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa tiến bộ, văn minh.
+ Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa: tiên tiến, đậm đà, bản sắc
dân tộc.
4. Đặc điểm của giai cấp công nhân VN và nội dung SMLS của
giai cấp công nhân Việt Nam.
*Đặc điểm của GCCN VN:
Giai cấp công nhân một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên
những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế; ngoài ra, giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt
Nam nên còn những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước cả giai cấp sản Việt
Nam, là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ralớn
lên một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân
Pháp, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.
Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng
giai cấp công nhân thế giới, còn mang nhiều tàn của tâm tập
quán nông dân, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng
vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện
sứ mệnh lịch sử của mình giải phóng dân tộc để giành độc lập dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu
nước, đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, tinh thần cách
mạng kiên cường, triệt để, sớm nhận thức được mối quan hệ giữa sự nghiệp
giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp, giữa chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa quốc tế.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong điều kiện các giai cấp
khác đã bế tắc về con đường cứu nước thì chỉ giai cấp công nhân mới
khả năng tìm thấy lối thoát cho cách mạng
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời khi Cách mạng hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga thành công, mở ra một chế độ hội mới trong lịch
sử nhân loại, đó chế độ hội hội chủ nghĩacùng lúc đó Nguyễn Ái
Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giảỉ phóng dân tộc con đường cách
mạng sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đó yếu tố hết sức
quan trọng khích lệ, thúc đẩy giai cấp công nhân Việt Nam đứng lên làm cách
mạng để giải phóng dân tộc.
- Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông
dân các tầng lớp nhân dân lao động khác, nên quan hệ mật thiết, tự
nhiên với nông dân đông đảo nhân dân lao động. Chính vậy, giai cấp
công nhân Việt Nam sớm liên minh với nông dân, tạo thành khối liên minh
công - nông khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau một thời gian ngắn thì
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản đã đem yếu tố tự giác vào
phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân một bước phát triển
nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trthành
lực lượng chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và
sớm Đảng lãnh đạo nên không bị tác động bởi các khuynh hướng hội
chủ nghĩa, cải lương, xét lại, không bị giai cấp tư sản đầu độc về tư tưởng nên
luôn luôn đoàn kết,thống nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
bọn địa chủ phong kiến tay sai.
Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cấp
công nhân Việt Nam, cho đến nay giai cấp công nhân Việt Nam còn những
hạn chế cần phải khắc phục: Số lượng còn ít, trình độ văn hoá, chuyên môn
nghiệp vụ cũng như khoa học kĩ thuật còn thấp; tư tưởng bảo thủ, chủ quan, cách
làm ăn tuỳ tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ còn ảnh hưởng khá nặng nề.
Nguyên nhân do nền công nghiệp nước ta chưa phát triển thành
phần đa số xuất thân từ nông dân. Tuy vậy, những hạn chế trên không thuộc về
bản chất nên giai cấp công nhân Việt Nam vẫn đủ khả năng điều kiện để
đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân tộc.
*Nội dung SMLS của giai cấp công nhân Việt Nam:
Trong thời kỳ đổi mới, giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to
lớn: là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phongĐảng Cộng sản
Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mục tiêu dân giàu,
nước mạnh,hội công bằng, dân chủ, văn minh, lực lượng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
- Nội dung cụ thể:
Nội dung kinh tế:
+ Giai cấp công nhân nguồn nhân lực lao động chủ yếu phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lấy khoa học - công nghệ quyết
định tang năng suất lao động.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước -> điều kiện làm cho
GCCNVN khắc phục những nhược điểm hạn chế vốn có do hoàn cảnh lịch sử và
nguồn gốc xã hội sinh ra
+ Thực hiện khối liên minh công - nông - trí thức để tạo động lực phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển bền vững.
Nội dung chính trị - xã hội:
+ Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong,
gương mẫu của cán bộ Đảng viên
+ Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy
thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “Tdiễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ.
Nội dung văn hóa, tư tưởng:
+ Xây dựng phát triển nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc với nội dung cốt lõi xây dựng con người mới XHCN, giáo dục
cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công nghiệp, văn minh hiện đại.
+ Xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam, hoàn thiện
nhân cách.
Tóm lại, muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân Việt Nam phải thường xuyên giáo dục cho các thế hệ công nhân lao
động trẻ nước ta về ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước
chủ nghĩa quốc tế, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa giai cấp công nhân với dân
tộc, đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đó là sự
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời đại HCM.
5. Tính tất yếu, đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH. Liên hệ
Việt Nam
*Khái niệm :Thời kỳ quá độ: là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật
chất kỹ thuật đời sống tinh thần của chủ nghĩa hôi. Bắt đầu từ khi
giai cấp công nhân nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
- Hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
+ Quá độ trực tiếp: từ CNTB phát triển lên CNCS.
+ Quá độ gián tiếp: từ tiền CNTB hoặc chưa qua CNTB phát triển lên
CNXH.
*Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: (4)
1. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa bản là hai chế độ xã hội khác nhau
về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa về liệu sản xuất, đây sở của chế độ áp bức, bóc lột, bất
công. Chủ nghĩahội được xây dựng trên sở chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu, tạo ra sở vật chất cho việc xoá bỏ chế độ người bóc lột
người, xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng -> muốn có CNXH cần phải có
một thời lịch sử nhất định để làm thay đổi làm mới toàn bộ những tàn
tích của CNTB.
2. Chủ nghĩa bản được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp
có trình độ nhưng muốn cơ sở vật chất – kĩ thuật ấy phục vụ cho chủ nghĩa xã
hội cần thời gian tổ chức, sắp xếp lại. Với những nước bỏ qua chế độ
bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa hội càng cần một thời gian lâu
dài để thực hiện nhiệm vụ tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
3. Các quan hệ xã hội chủ nghĩa cũng không tự nảy sinh trong lòng chủ
nghĩa bản, chúng kết quả của quá trình xây dựng cải tạo hội chủ
nghĩa -> cần có thời gian để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
4. Xây dựng chủ nghĩa hộicông cuộc mới mẻ, khó khăn phức
tạp -> cần thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những
công việc đó.
* Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Là thời kỳ mà trong đó còn tồn tại đan xen giữa những yếu tố của
hội mới với những tàn dư của xã hội cũ. Chúng đấu tranh với nhau trên tất cả
các phương diện của đời sống xã hội: kinh tế, đạo đức, tinh thần..
+ Trên lĩnh vực kinh tế:
Tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng
hội chủ nghĩa: KT nhân, KT tập thể, KT vốn đầu
nước ngoài, KT nhà nước -> các thành phần KT vừa hợp tác vừa
đấu tranh với nhau
Tồn tại nhiều loại hình sở hữu về TLSX và những hình thức phân
phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động giữ
vai trò chủ đạo.
Phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện CNH, HĐH -> xây dựng
cơ sở vật chất – kĩ thuật cao cho XHCN.
+ Trên lĩnh vực chính trị
Tương ứng với nền kinh tế nhiều thành phần một cấu
hội-giai cấp đa dạng, phức tạp. Các giai cấp, tầng lớp này vừa
hợp tác, vừa đấu tranh với nhau
Giai cấp công nhân thống trị về chính trị (thông qua ĐCS)
->Trong điều kiện mới (giai cấp công nhân cầm quyền) thì cuộc đấu tranh giai
cấp sẽ diễn ra với nội dung mới (xây dựng XH mới toàn diện) hình thức mới
(hòa bình tổ chức xây dựng)
+ Trên lĩnh vực xã hội:
Kết cấu giai cấp đa dạng : gc công nhân, nhân dân, tầng lớp tư sản,
tầng lớp tri thức -> các gc vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau.
Còn có sự khác biệt khá cơ bản giữa thành thị và nông thôn, giữa
đồng bằng và miền núi, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Đấu tranh xóa bỏ tệ nạn XH và những tàn dư của XH cũ
Thiết lập công bằng XH dựa trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân
phối theo LĐ là chủ đạo.
+ Trên lĩnh vực văn hoá-tư tưởng:
Tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau: tư tưởng ML, HCM, tư sản, tiểu
nông.
Các yếu tối văn hóa cũ – mới thường xuyên đấu tranh.
Giai cấp nông dân thông qua đội tiền phong ĐCS -> xây dựng
nền VH XHCN: gìn giữ, phát huy văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị
tinh hoa VH nhân loại, đáp ứng nhu cầu VH, tinh thần cho nhân
dân.
3) Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội thời kỳ đấu tranh giữa
giai cấp công nhân liên minh với các tầng lớp lao động khác đã giành được
chính quyền nhà nước đang thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước lên chủ nghĩa
hội, với một bên các giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt
hoàn toàn. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới, với những hình
thức và nội dung mới.
*Liên hệ Việt Nam:
Việt Nam ta tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa
khó khăn đan xen, thể hiện ở những đặc trưng cơ bản sau:
- Xuất phát từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất nước ta rất thấp. Bên cạnh đó hậu quả của chiến tranh ác liệt, kéo dài
nhiều thập kỉ để lại rất nặng nề. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá
hoại chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc.
- Cuộc CM khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ
kết hợp với đó quá trình quốc tế hóa sâu sắc của nền sản xuất vật chất
đời sống XH. Những xu thế này vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước
trong TKQĐ, vừa đặt ra những thách thức gay gắt.
- Thời đại ngày nay vẫn thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH,
các nước với chế độ XH trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa
hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là sự lựa chọn duy nhất, đúng đắn, khoa
học phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan của CM Việt Nam trong thời
đại ngày nay. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Con đường đi
lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại.
Thực hiện quá độ lên CNXH sự lựa chọn dứt khoát đúng đắn của Đảng,
đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc ta, phản ánh xu thế phát triển của thời
đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác
Lenin. Dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng theo quy luật tiến hóa của lịch
sử cùng với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản, Việt Nam ta nhất định sẽ
tiến tới CNXH.
*Việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay (giải pháp)
- Nâng cao nhận thức, kiên định quan điểm giai cấp công nhân giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng cộng sản Việt Nam.
- Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam gắn liền với xây dựng và phát
huy sức mạnh của liên minh công, nông với đội ngũ tri thức doanh nhân
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn
mạnh gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế -hội, công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
- Nâng cao trình độ mọi mặt trận cho công nhân, không ngừng tri thức
hóa giai cấp công nhân Việt Nam.
- Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh Trách nhiệm của
hệ thống chính trị, của toàn hội sự nổ lực vươn lên của bản thân mỗi
công nhân.
6. Khái niệm, bản chất dân chủ XHCN. Liên hệ Việt Nam.
*Khái niệm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so
với nền dân chủ sản, nền dân chủ đó, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân, dân chủ dân làm chủ; dân chủ pháp luật nằm trong sự thống nhất
biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
*Bản chất dân chủ XHCN
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, chuyên chính sản và dân chủ hội
chủ nghĩa về căn bản thống nhất. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Đảng ta thống nhất gọi chuyên chính vô sản là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.Bản
chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở những điểm sau đây:
- Bản chất chính trị
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ hội
chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của
đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì
bao nhiêu quyền lực đều của dân, bao nhiêu sức mạnh đều nơi dân, bao
nhiêu lợi ích đều dân... chế độ dân chủ hội chủ nghĩa, nhà nước hội
chủ nghĩa ... do đó, về thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
V.I. Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ hội chủ nghĩa chế độ
nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Do vậy, dân chủ xã
hội chủ nghĩa vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa mang tính nhân dân
rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất kinh tế
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa đảm bảo, dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, đáp
ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất trên sở khoa học,
công nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần
của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ hội chủ nghĩa khác về bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột nhưng cũng như toàn bộ nền kinh
tế hội chủ nghĩa cũng sự kế thừa phát triển mọi thành tựu nhân loại
đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời loại bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm
hãm của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột...
Thực hiện dân chủ trong kinh tế tiền đề, sở để thực hiện dân chủ về
chính trị và văn hoá - tư tưởng.
- Bản chất tư tưởng - văn hoá
Nền dân chủ hội chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tưởng, đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá, tưởng của nhân
loại. Do đó, đời sống tưởng - văn hoá của nền dân chủ hội chủ nghĩa rất
phong phú, đa dạng, toàn diện ngày càng trở thành một nhân tố hàng đầu,
thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi nó phát
huy cao độ tính tự giác sức sáng tạo to lớn của con người trong xây dựng
bảo vệ Tổ quốc.
*Liên hệ VN
Chế độ dân chủ nhân dân nước ta được xác lập sau CMT8 1945, đến
năm 1976 tên nước được đổi thành CHXHCN VN. Đại hội VI của Đảng năm
1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đại hội khẳng định trong
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc, xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động””
Hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò
của dân chủ ở nước ta đã có nhiều điểm mới. Qua mỗi kỳ đại hội của Đảng thời
kỳ đổi mới, dân chủ ngày càng được nhận thức, phát triển hoàn thiện đúng
đắn, phù hợp hơn với điều kiện cụ thể của nước ta.
Trước hết, Đảng ta khẳng định một trong những đặc trưng của chủ nghĩa
hội Việt Nam . Dân chủ đã được đưa vào mục tiêudo nhân dân làm chủ
tổng quát của cách mạng Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh Dân chủ xã hội chủ nghĩa . Đồng thời khẳng định: “ là bản chất của chế
độ ta, vừa mục tiêu, vừa động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền
với kỷ luật, kỷ cương phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật
bảo đảm…”
Bản chất dân chủ XHCN Việt Nam được thực hiện thông qua các hình
thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp:
- Hình thức dân chủ gián tiếp hình thức dân chủ đại diện, được
thực hiện do nhân dân “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức
nhân dân trực tiếp bầu ra”. Nhân dân bầu ra Quốc hội.
- Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông qua đó, nhân dân
bằng hành động trực tiếp của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước
hội. Thể hiện quyền được thông tin về hoạt động của nhà nước, được bàn
bạc về công việc của nhà nước và cộng đồng dân cư.
Bên cạnh đó, việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra
trong điều kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, lại chịu hậu quả
chiến tranh tàn phá nặng nề. Cùng với đó là những tiêu cực trong đời sống xã hội
chưa được khắc phục triệt để… làm ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế độ
dân chủ nước ta, làm suy giảm động lực phát triển của đất nước. Mặt khác, âm
mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” của các thế lực thù địch, vấn đề tự diễn
biến, tự chuyển hóa nảy sinh diễn biến hết sức phức tạp đang trở ngại đối
với quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam càng ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc. Kể từ khi
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cho đến nay, nhân dân thực sự trở
thành người làm chủ, tự xây dựng, tổ chức quản hội. Đây chế độ bảo
đảm quyền làm chủ trong đời sống của nhân dân từ chính trị, kinh tế cho đến văn
hóa, hội; đồng thời phát huy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
7. Bản chất, chức năng của nhà nước XHCN và nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam
*Khái niệm
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị
thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra
và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao
động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong
một xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa.
*Bản chất của nhà nước XHCN
Bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội giai cấp đều mang bản
chất của giai cấp thống trị hội. Nên bản chất của nhà nước hội chủ nghĩa
(Nhà nước chuyên chính vô sản) do đó, trước hết mang bản chất giai cấp công
nhân. Bên cạnh đó, về kinh tế, bản chất của nhà nước XHCN chịu sự quy định
của cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu. Nhưng giai cấp công nhân lại giai cấp thuộc nhân dân lao động
ra, đại biểu cho phương thức sản xuất mới hiện đại, lợi ích bản thống
nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Do vậy, nhà nước
hội chủ nghĩa không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn có tính nhân
dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh
từ lâu đã nêu lên quan điểm “Nhà nước của dân, do dân, dân” cũng nói lên
một cách tổng hợp về bản chất, thực chất của nhà nước ta - nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta càng chú trọng phát
triển, cụ thể hoá nhà nước của dân, do dân, vì dân.
*Chức năng của nhà nước XHCN
Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
được chia thành các chức năng khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
- Chức năng đối nội: thể hiện ở việc tập trung quản lý xã hội trên tất cả
các lĩnh vực của toàn xã hội, chủ yếu bằng pháp luật, chính sách, pháp chế
xã hội chủ nghĩa và hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quán triệt và thể chế hoá quan điểm, đường lối
cách mạng, chủ trương lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thành Hiến
pháp, pháp luật, pháp chế, chính sách, kế hoạch, biện pháp của nhà nước để
chỉ đạo thực hiện thông qua quá trình hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân trên mọi lĩnh vực.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện sự chuyên chính đối với mọi tội
phạm và mọi kẻ thù để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tạo những điều kiện cơ bản để
mở rộng dân chủ trong nhân dân.
- Chức năng đối ngoại: Nhà nước xã hội chủ nghĩa thiết lập và mở rộng
quan hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi, vì sự
phát triển và tiến bộ xã hội ... đối với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội,…
Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ
chức và xây dựng).
- Chức năng tổ chức, xây dựng được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin
coi là có tính sáng tạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm cải biến trật tự
chủ nghĩa tư bản và hình thành trật tự chủ nghĩa xã hội và đây là chức năng
căn bản nhất trong hai chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Chức năng trấn áp nhằm chống lại sự phản kháng của kẻ thù giai cấp
đang chống phá công cuộc tổ chức, xây dựng xã hội mới của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ
chính là quản lý đất nước trên tất cả các lĩnh vực. V.I.Lênin đặc biệt chú ý đến
nhiệm vụ quản lý, mà cơ bản nhất là quản lý kinh tế, coi đó là vũ khí duy nhất
để giai cấp vô sản có thể chiến thắng giai cấp tư sản.
*Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam:
Khái niệm: nhà nước pháp quyền được hiểu là nhà nước mà ở
đó, tất cả mọi công dân đều được giáo d c pháp luật và phải
hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm
bảo tính nghiêm minh trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước, phải có sự iểm soát lẫn nhau, tất cả v m c tiêu ph c v
nhân dân.
Chủ trương của Đảng về nhà nước pháp quyền: „Xây dựng nhà nước pháp quyền
VN của dân, do dân, vì dân“, Đảng ta đã xác định: nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức và mọi nhân dân có nghĩa vụ
chấp hành Hiến pháp pháp luật. Nhận thức này tiền đề để Đại hội XII của
Đảng làm rõ hơn về Nhà nước pháp quyền XHCN
VN: „Quyền lực nhà nước thống nhất, sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp , hành pháp,
tư pháp“.
Từ thực tiễn nhận thức xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, thể thấy Nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa ở nước ta có một số đặc điểm cơ bản của như sau:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân.
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức hoạt động dựa trên sở của Hiến pháp
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của hội, pháp luật được đặt vị trí tối
thượng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, quyền lực nhà nước thống nhất, sự phân công ràng, chế
phối hợp nhịp nhàng kiểm soát giữa các quan: lập pháp, hành pháp
pháp.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của
Nhà nước được giám sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” thông qua các tổ chức, các nhân được nhân dân ủy
nhiệm.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng quyền
con người, coi con người chủ thể, trung tâm của sự phát triển. Quyền dân
chủ của nhân dân được thực hành một cách rộng rãi; “nhân dân có quyền bầu và
bãi miễn những đại biểu không xứng đáng”; đồng thời tăng cường thực hiện sự
nghiêm minh của pháp luật.
Thứ sáu, tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng bảo
đảm quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Như vậy, những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt
Nam chúng ta đang xây dựng đã thể hiện được các tinh thần cơ bản của một nhà
nước pháp quyền nói chung. Bên cạnh đó, còn thể hiện sự khác biệt so với
các nhà nước pháp quyền khác Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt
Nam mang bản chất giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cho nhân dân; nhà nước
là công cụ chủ yếu để Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng đi lên chủ nghĩa
hội.
8. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội – giai cấp trong
thời kì quá độ lên CNXH? Liên hệ VN.
*Sự biến đổi có tính quy luật:
- Một là, cấu hội - giai cấp biến đổi gắn liền bị quy định
bởi cơ cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong một hệ thống sản xuất nhất định, cấu hội - giai cấp
thường xuyên biến đổi do tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt những thay
đổi về phương thức sản xuất, về cấu ngành nghề, thành phần kinh tế,
cấu kinh tế, cơ chế kinh tế….
Trong thờiquá độ lên CNXH, cơ cấu kinh tế tất yếu có những biến
đổi dẫn đến những biến đổi trong cấu hội theo hướng phục vụ lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động do ĐCS lãnh đạo. Cơ cấu kinh
tế trong TKQĐ: KT thị trường sự quản của nhà nước. Nền kinh tế thị
trường phát triển mạnh với tính cạnh tranh cao, cộng với xu thế hội nhập
ngày càng sâu rộng khiến cho các giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản trong thời
kỳ này trở nên năng động, khả năng thích ứng nhanh, chủ động sáng tạo
trong lao động sản xuất để tạo ra những sản phẩm có giá trị, hiệu quả cao
chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của thị trường trong bối cảnh mới.
- Hai là, cơ cấu XH – GC biến đổi phức tạp, đa dạng làm xuất hiện
các tầng lớp XH mới.
Ngoài giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, giai
cấp tư sản (tuy đã bị đánh bại nhưng vẫn còn sức mạnh - V.I.Lênin) đã xuất
hiện sự tồn tại và phát triển của các tầng lớp xã hội mới như: tầng lớp doanh
nhân, tiểu chủ, tầng lớp những người giàu có và trung lưu trong xã hội…
- Ba là, cấu hội - giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa
đấu tranh, vừa liên minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dẫn đến sự
xích lại gần nhau.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu
xã hội - giai cấp biến đổi và phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu thuẫn,
đấu tranh, vừa mối quan hệ liên minh với nhau, dẫn đến sự xích lại gần
nhau giữa các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong xã hội, đặc biệt là giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Mức độ liên minh, xích lại
gần nhau giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội tùy thuộc vào các điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn của thời kỳ quá độ.
Tóm lại, sự biến đổi của cơ cấu hội, giai cấp tất yếu trong
thời quá độ lên CNXH. Trong cấu xã hội - giai cấp này, giai cấp công
nhân, lực lượng tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới giữ vai trò chủ đạo,
tiên phong trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cải tạo xã
hội cũ, xây dựng hội mới. Vai trò chủ đạo của giai cấp công nhân còn
được thể hiện ở sự phát triển mối quan hệ liên minh giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân tầng lớp trí thức ngày càng giữ vị trí nền tảng chính trị
- hội, từ đó tạo nên sự thống nhất của cấu xã hội - giai cấp trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Liên hệ VN:
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh
đuổi thực dân đế quốc và thống nhất đất nước, cả nước bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội. Trong thời kỳ này, cấu hội - giai cấp Việt
Nam có những đặc điểm nổi bật:
- Sự biến đổi của cấu hội - giai cấp bị chi phối bởi những
biến đổi trong cấu kinh tế. Từ Đại hội VI (1986), dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Việt Nam chuyển sang chế thị trường, phát triển kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế
đã dẫn đến những biến đổi trong cấu hội - giai cấp -> hình thành một
cấu hội - giai cấp đa dạng thay thế cho cấu hội đơn giản gồm
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức của thời kỳ trước đổi
mới.
- cấu hội - giai cấp của Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bao gồm những giai cấp, tầng lớp cơ bản:
+ Giai cấp công nhân Việt Nam (vai trò quan trọng đặc biệt): giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong Đảng Cộng sản Việt
Nam; đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giữ vị trí tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lực lượng nòng cốt trong liên
minh giai cấp.
Giai cấp công nhân sự biến đổi nhanh về số lượng, chất lượng,
cấu. Trình độ chuyên môn thuật, năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức, kỉ
luật lao động,... ngày càng tăng lên đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH,
HĐH.
+ Giai cấp nông dân (vị trí chiến lược): là chủ thể của quá trình CNH,
HĐN nông nghiệp nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Là sở
lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - XH bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, phát huy bản sắc văn hóa,..
GC nông dân xu hướng giảm dần vế số lượng và tỉ lệ trong cơ cấu
XH giai cấp, 1 bộ phận nông dân -> công nhân.
+ Đội ngũ trí thức (lực lượng sáng tạo đặc biệt quan trọng): đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát
triển VH Việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc -> nâng tầm tri thức dân
tộc, sức mạng của đất nước.
+ Đội ngũ doanh nhân: có đóng góp tích cực vào việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - XH, giải quyết việc làm cho người lao động, tham
gia giải quyết các vấn đề an sinh XH, xóa đói giảm nghèo
Đội ngũ doanh nhân đang phát triển nhanh chóng về số lượng và quy
mô với vai trò không ngừng tăng lên.
+ Phụ nữ: lực lượng quan trọng, đông đảo, góp phần to lớn sự
nghiệp xây dựng CNXH, vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời
sống XH, trong gia đình.
+ Đội ngũ thanh niên: rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của
đất nước, lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội Việt
Nam, các giai cấp, tầng lớp xã hội biến đổi liên tục trong nội tại mỗi giai cấp,
tầng lớp, hoặc xuất hiện thêm các nhóm xã hội mới. Trong quá trình này,
cần phải có những giải pháp sát thực, đồng bộ và tác động tích cực để các
giai cấp, tầng lớp thể khẳng định vị trí xứng đáng phát huy đầy đủ,
hiệu quả vai trò của mình trong cấu hội trong sự nghiệp phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
9. Liên minh giai cấp tầng lớp trong TKQĐ lên CNXH ở Việt
Nam.
*Nội dung chính trị của liên minh
Liên minh công - nông - trí thức trên lĩnh vực chính trị cần thể hiện những
điểm sau đây:
Một là: Mục tiêu, lợi ích chính trị bản nhất của giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc chủ nghĩa
xã hội. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực hiện liên
minh lại không thể dung hoà lập trường chính trị tưởng của 3 giai tầng
phải trên lập trường tưởng chính trị của giai cấp công nhân. Bởi vì, chỉ
phấn đấu thực hiện mục tiêu tưởng của giai cấp công nhân thì mới thực hiện
được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị bản của công nhân, nông dân, trí
thức và của dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện
quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Do
đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến sở phải vững mạnh về chính trị,
tưởng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, liên minh công - nông - trí
thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là mặt trận
Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là nền tảng cho nhà
nước xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố lớn mạnh.
Ba là: Nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức
đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Cần cụ thể hoá việc đổi mới về
nội dung tổ chức phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong giai
cấp công nhân, nông dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là
triển khai thực hiện "Quy chế dân chủ ở cơ sở", nhất là ở nông thôn.
*Nội dung kinh tế của liên minh
Nội dung kinh tế nội dung bản, quyết định nhất, sở vật chất kỹ thuật
vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở
nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hoá ở các điểm sau đây:
- Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước của
sự hợp tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những
nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta
xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là: "Công - nông nghiệp - dịch vụ".
Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định "Từng bước phát triển kinh tế tri
thức, từ đó mà tăng cường liên minh công - nông - trí thức"
- Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức
hợp tác, liên kết, giao lưu ... trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công
nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa
học công nghệ và các dịch vụ khác; giữa các địa bàn, vùng, miền dân cư trong
cả nước, giữa nước ta và các nước khác.
- Từng bước hình thành quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa trong quá
trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần phải được thể hiện qua việc đa dạng đổi mới các hình thức hợp tác
kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ nông thôn. Trên
sở công hữu hoá các liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung kinh tế của liên minh nước ta còn thể hiện vai trò của
Nhà nước. Nhà nước vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên
minh. Vai trò của nhà nước đối với nông dân thể hiện qua chính sách khuyến
nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế nhà nước.
Đối với trí thức, nhà nước cần phải đổi mới hoàn chỉnh các luật, chính sách
có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách về phát triển khoa học và
công nghệ, giáo dục đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về
văn học nghệ thuật ... Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ công -
nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.
*Nội dung văn hoá, xã hội của liên minh
Liên minh về văn hoá, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mặt
của liên minh tạo nhiều việc làm hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải
pháp cứu trợ, hỗ trợ để xoá đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân trí
thức.
- Đổi mới thực hiện tốt các chính sách hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ
trợ hội trong công nhân, nông dân, trí thức. Đồng thời nội dung này còn
mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống ... cho toàn xã hội và thế
hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào
việc củng cố thành tựu xoá chữ, trước hết đối với nông dân, nhất
miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện
tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy
hoạch phát triển nông thôn, đô thị hoá, công nghiệp hoá nông thôn với kết cấu
hạ tầng ngày càng thuận lợi hiện đại. Xây dựng các sở giáo dục, y tế,
văn hoá, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng một cách tương xứng,
hợp các vùng nông thôn, đặc biệt vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn.
Có như vậy nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng
hội chủ nghĩa mới làm cho công nông - trí thức cũng như các vùng, các
miền, các dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.
10. Khái niệm dân tộc. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác –
Lê nin. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
*Khái niệm dân tộc
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người.
Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng
từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó
có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Một là, dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,
có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù;
xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia
- quốc gia nhiều dân tộc.
Hai là, dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có
lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch
sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân
của quốc gia đó - quốc gia dân tộc.
Dưới góc độ môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo
nghĩa thứ nhất.
*Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác - Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc, dựa vào
sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách
mạng Nga, phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc, V.I.
Lênin đã khái quát lại thành "Cương lĩnh dân tộc" của Đảng Cộng sản. Nội dung
“Cương lĩnh dân tộc” được thể hiện trên 3 vấn đề:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: Các dân tộc lớn hay nhỏ
(kể cả Bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ cao hay thấp đều có
nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên mọi lĩnh vực, không một dân tộc nào
được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác.
- Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc phải được pháp luật bảo vệ như nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ
phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại.
- Trên phạm thế giới: đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn
liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc
đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột
của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện
quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các
dân tộc. Đây còn là quyền thiêng liêng của dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của
các dân tộc.
Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết
- Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận
mệnh của dân tộc mình: quyền tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con
đường phát triển của dân tộc mình; quyền tách ra thành một quốc gia dân tộc
độc lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân
tộc khác.
- Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù
hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên
quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi
dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội bộ của các
nước.
- Đây là quyền cơ bản của dân tộc và là cơ sở để xóa bỏ hiềm khích,
thù hằn giữa các dân tộc.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại là khi giai cấp công nhân
của các dân tộc khác nhau thống nhất, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau để
chống lại kẻ thù chung, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
- Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin, phản ánh
bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
- Nó quy định mục tiêu hướng tới, đường lối, phương pháp xem xét,
cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời,
nó là yếu tố sức mạnh bảo đảm cho giai cấp công nhân và các đân tộc bị áp
bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản".
- Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động
trong các dân tộc để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả 3 nội
dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Tóm lại: “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác - Lênin (của Đảng Cộng sản)
là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ
sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
*Vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất: Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc người Kinh chiếm 85,7 dân số
cả nước; 53 dân tộc thiểu số chiếm 14,3% dân số. Tỷ lệ số dân giữa các
dân tộc cũng không đồng đều, có dân tộc với số dân lớn hơn 1 triệu
người
(Tày, Thái, Mường, Khơ me, Mông...), nhưng có dân tộc với số dân
chỉ vài ba
trăm (Si la, Pu péo, Rơ măm, Brâu, đu). Thực tế cho thấy nếu
một dân tộc mà số dân chỉ có hàng trăm sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho
việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hoá dân tộc, duy trì và
phát triển giống nòi. Do vậy, việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc
thiểu số, đặc biệt đối với những dân tộc thiểu số rất ít người đang được
Đảng và Nhà nước Việt Nam có những chính sách quan tâm đặc biệt.
Thứ hai: Các dân tộc cư tr xen ẽ nhau
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tính
chất chuyển cư như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân
tán, xen kẽ và làm cho các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tộc người
riêng. Vì vậy, không có một dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất
trên một địa bàn.
Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường
hiểu biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên
một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người
sống xen kẽ nên trong quá trình sinh sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung
đột, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh
chính trị và sự thống nhất của đất nước.
Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở iệt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có
vị trí chiến lược quan trọng
Mặc dù chỉ chiếm 14,3 dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại
cư trú trên diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả
về kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái – đó là vùng biên
giới,
hải đảo, vùng sâu vùng xa của đất nước. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc
với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc
Mông, dân tộc Khơme, dân tộc Hoa… do vậy, các thế lực phản động thường
lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thứ tư: Các dân tộc ở iệt Nam có tr nh độ phát triển hông đều
Các dân tộc ở nước ta còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đây là nội dung quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam để các dân tộc thiểu số phát triển nhanh và bền vững.
Thứ năm: Các dân tộc iệt Nam có truyền thống đoàn ết gắn bó lâu
đời trong cộng đồng dân tộc - quốc gia thống nhất
Đặc trưng này được hình thành do yêu cầu của quá trình cải biến tự nhiên và
nhu cầu phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu tranh chống ngoại xâm nên dân
tộc Việt Nam đã hình thành từ rất sớm và tạo ra độ kết dính cao giữa các dân
tộc. Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc ở Việt
Nam, là một trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi
của dân tộc trong các giai đoạn lịch sử; đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để
giành độc lập thống nhất Tổ quốc.
Ngày nay, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam, các dân tộc thiểu số cũng như đa số phải ra sức phát huy nội
lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác, kịp
thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc.
Thứ sáu: Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp ph n tạo nên sự
phong ph , đa dạng của nền văn hóa iệt Nam thống nhất
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều có
những sắc thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống
nhất trong đa dạng. Sự thống nhất đó, suy cho cùng là bởi, các dân tộc đều có
chung một lịch sử dựng nước và giữ nước, đều sớm hình thành ý thức về một
quốc gia độc lập, thống nhất.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm đến chính sách dân tộc, xem đó là vấn đề chính trị - xã hội rộng
lớn và toàn diện gắn liền với các mục tiêu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
*Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta hiện nay :
- Kinh tế:
+ Phát triển KT-XH miền núi, vùng dân tộc thiểu số nhằm phát huy
tiềm năng phát triển của các dân tộc
+ Khắc phục chênh lệch giữa các vùng
- Chính trị:
+ Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau phát triển giữa
các dân tộc -> Tạo điều kiện thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Nâng cao tính tích cực chính trị của nhân dân
+ Thực hiện chuyên chính với kẻ thù
- Văn hoá:
+ Phát huy và lưu giữ văn hóa truyền thống
+ Tiếp nhận những tinh hoa văn hóa nhân loại
Mở rộng giao lưu văn hóa giữa các cùng, các quốc gia nhằm xây
dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
- Xã hội: Thực hiện các chính sách xã hội như: phát triển kinh tế, giáo
dục, dân số, y tế,… nhằm rút ngắn chênh lệch, đảm bảo bình đẳng giữa
các dân tộc
- Quốc phòng, an ninh:
+ Nâng cao hệ thống QP-AN
+ Tăng cường quan hệ quân – dân
+ Tạo thế trận quốc phòng toàn dân
Bảo vệ dân tộc, chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình”
11. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo. Tôn giáo ở VN
và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
*Bản chất của tôn giáo:
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã làm bản chất của tôn giáo
trên cơ sở xem tôn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội, Ông viết, tất
cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ sự phản ánh ảo- vào trong đầu óc của con
người- của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ;
chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đó mang hình thức những
lực lượng siêu trần thế.
- Tôn giáosản phẩm của con ngựời, gắn với những điều kiện lịch sử
tự nhiên và lịch sửhội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội tiêu cực. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn
hoá phù hợp với đạo đức, đạo lý của hội. Chủ nghĩa Mác-Lêninnhững
người cộng sản, chế độ hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
- Tôn giáo được tạo thành bởi ba yêú tố cơ bản là ý thức tôn giáo (gồm
tâm tôn giáo hệ tưởng tôn giáo), hệ thống nghi lễ tôn giáo (trong đó
hoạt động thờ cúng là yếu tố cơ bản), tổ chức tôn giáo (thường có hệ thống từ
trung ương đến sở). vậy, tôn giáo một lực lượng hội trần thế, tác
động không nhỏ đến đời sống xã hội.
*Nguồn gốc của tôn giáo:
- Nguồn gốc kinh tế-xã hội. Trong hội cộng sản nguyên thuỷ, tôn
giáo ra đời do trình độ lực lượng sản xuất thấp, kém đã làm cho con người
không nắm được thực tiễn những lực lượng tự nhiên, cảm thấy yếu đuối
bất lực trước tự nhiên rộng lớn ẩn, thế, họ đã gán cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Đó là
hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm
giác yếu đuối trước sức mạnh tự phát của tự nhiên, con người lại cảm
thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát của hội hoặc của một thế
lực nào đó của hội. Không giải thích được nguồn gốc của sự phân
hoá giai cấp áp bức bóc lột, của những ngẫu nhiên, may rủi, con
người lại hướng niềm tin vào “thế giới bên kia” dưới hình thức các tôn
giáo.
- Nguồn gốc nhận thức. Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức
của con người về tự nhiên, hội bản thân mình giới hạn. Luôn
khoảng cách giữa cái biết cái chưa biết; bởi vậy, trước mắt con người, thế
giới vừa luôn là cái hiểu được, vừa luôn là cái bí ẩn. Do không giải thích được
cái ẩn ấy nên con người dễ xuyên tạc nó, điều khoa học chưa giải thích
được, điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm
nhận thức của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn,
sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các khái niệm,
phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hóa đến mức
ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức càng khả
năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lạc hiện thực.
- Nguồn gốc tâm ảnh hưởng của yếu tố tâm đến sự ra đời của
tôn giáo. Đặc biệt là những trạng thái tâm lý tiêu cực.
Trong cuộc sống, những trạng thái tâm mang tính tiêu cực như
sự bất hạnh, đau khổ, nỗi kinh hoàng, sợ hãi v.v dễ dẫn con người đến
với tôn giáo để mong được sự an ủi, che chở, giúp đỡ làm giảm nỗi khổ
đau của con người trong cuộc sống hiện thực.
Không chỉ vậy, những trạng thái tâm lý tích cực như sự hân hoan,
vui sướng, mãn nguyện v.v đôi khi cũng thể một nguyên nhân dẫn
con người đến với tôn giáo. Ngoài ra, các yếu tố như thói quen, truyền
thống, phong tục, tập quán cũng là những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự
hình thành, duy trì và phát triển niềm tin tôn giáo.
*Tính chất của tôn giáo :
- Tính lịch sử : Tôn giáo một hiện tượng hội tính lịch sử, nghĩa
sự hình thành, tồn tại phát triển khả năng biến đổi
trong những giai đoạn lịch sử nhất định để thích nghi với nhiều chế độ
chính trị - hội. Khi các điều kiện kinh tế hội, lịch sử thay đổi,
tôn giáo cũng có sự thay đổi theo. Trong quá trình vận động của các tôn
giáo, chính các điều kiện kinh tế – xã hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các
tôn giáo bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đến một giai đoạn lịch sử
nào đó, khi khoa học giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân
dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên hội thì tôn
giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của trong đời sống hội cả trong
nhận thức, niềm tin của mỗi người.
- Tính quần chúng: Tôn giáo một hiện tượng hội phổ biến tất cả
các dân tộc, quốc gia, châu lục. Tính quần chúng của tôn giáo không
chỉ biểu hiện số lượng tín đồ rất đông đảo (gần 3 4 dân số thế giới);
còn thể hiện chỗ, các tôn giáo nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần
của một bộ phận quần chúng nhân dân.
- Tính chính trị: tính chất chính trị của tôn giáo xuất hiện khi hội đã
phân chia giai cấp, có sự khác biệt, đối kháng về lợi ích giai cấp. do tôn
giáo là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích,
nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi các
giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai
cấp mình, chống lại các giai cấp lao động tiến bộ hội, tôn giáo
mang tính chính trị tiêu cực, phản tiến bộ.
*Tôn giáo ở Việt Nam:
Đặc điểm:
- Thứ nhất: Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo: nước ta hiện nay có 13 tôn
giáo được công nhân tư cách pháp nhân (Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo,
Tin lành,…), có trên 40 tổ chức tôn giáo được công nhận về mặt tổ chức
hoặc đã đăng kí hoạt dộng.
- Thứ hai: Tôn giáo VN đa dạng, đan xen do VN nơi giao lưu của
nhiều luồng văn hóa TG, các tôn giáo VN sự đa dạng về nguyền
gốc và truyền thống lịch sử. Các tôn giáo ở VN chung sống hòa bình
không có xung đột, chiến tranh tôn giáo.
- Thứ ba: Tín đồ các tôn giáo VN phần lớn là nhân dân lao động, có lòng
yêu nước, tinh thần dân tộc
- Thứ tư: Hàng ngũ chức sắc các tôn giáo vai trò, vị trí quan trọng
trong giáo hội, có uy tín. ảnh hưởng với tín đồ.
- Thứ năm: Các tôn giáo ở VN đều quan hệ với các tổ chức, nhân
tôn giáo nước ngoài. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước VN đã thiết
lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia vùng lãnh thổ trên toàn
thế giới, điều này đã củng cố và phát sinh mối quan hệ giữa các tôn giáo
ở các nước trên thế giới.
- Thứ sáu: Tôn giáo ở VN thường bị các thế lực phản động lợi dụng. Do
đường lối đổi mới, mở rộng dân chủ của Đảng Nhà nước ta, các thế
lực thù địch bên ngoài thúc đẩy các hoạt động tôn giáo, tập hợp tín đồ
tạo thành 1 lực lượng cạnh tranh ảnh hưởng làm đối trọng với ĐCS,
lợi dụng tôn giáo để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với
nước ta.
*Chính sách của Đảng, nhà nước VN đối với tín ngưỡng, tôn giáo
hiện nay:
Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng nhà nước VN bao gồm những nội
dung:
- Tín ngưỡng, tôn giáo nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước
ta. Đảng ta khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khẳng định đó mang tính khoa
học và cách mạng, hoàn toàn khác với cách nhìn nhận chủ quan.
- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân
tộc. Nhà nước hội chủ nghĩa, một mặt, nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ,
phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, thông
qua quá trình vận động quần chúng nhân dân tham gia lao động sản xuất,
hoạt động hội thực tiễn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao
trình độ kiến thức... để tăng cường sự đoàn kết mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hội chủ nghĩa. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo,
đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng, nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ
độc lập thống nhất đất nước, thông qua việc thực hiện tốt các chính sách
kinh tế - hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất tinh thần
của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
- Công tác tôn giáo trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Làm
tốt công tác tôn giáotrách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm
hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốcđoàn thể chính trị do
Đảng lãnh đạo.
- Vấn đề theo đạo truyền đạo: Mọi tín đồ đều quyền tự do
hành đạo tại gia đình cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt
động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp pháp luật; không được
lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền đạo, hoạt động tín dị đoan, không
được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
người truyền đạo các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy
định của Hiến pháp và pháp luật.
12. Nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lê nin trong giải quyết vấn
đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên CNXH. Liên hệ VN.
* Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc
giải quyết vấn đề tôn giáo:
a) Khắc phục dần ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã
hội gắn liền với công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
b) Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật, đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau.
c) Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không
theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết
toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
d) Cần phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo.Đây là việc cần thiết, bởi bản thân tôn giáo nào cũng gồm hai
mặt này và phân biệt để tránh hai khuynh hướng hữu khuynh hoặc tả khuynh
trong giải quyết vấn đề tôn giáo.
đ) Phải có quan điểm lịch sử-cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội không giống nhau. Vì vậy, cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem
xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
*Liên hệ các nguyên tắc cơ bản của Việt Nam:
- Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do theo
hoặc không theo tôn giáo của công dân.
- Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo.
- Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đấu tranh
ngăn chặn các hoạt động mê tín, dị đoan và các hành vi lợi dụng tính
ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của đất nước, vi phạm quyền
tự do hoạt động tôn giáo của công dân.
- Động viên, giúp đỡ đồng bào, chức sắc tôn giáo sống tốt đời đẹp đạo
- Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng, làm
tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
13. Sự biến đổi của gia đình và phương hướng cơ bản xây dựng
và phát triển gia đình VN trong thời kì quá độ lên CNXH.
*Khái niệm gia đình
-Là một hình thức cộng đồng hội đặc biệt, được hình thành duy trì
củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình.
*Sự biến đổi của gia đình VN trong thời kì quá độ lên CNXH:
Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình:
- Gia đình VN ngày nay thể được gọi gia đình quá độ trong
bước chuyển biến từ XH nông nghiệp cổ truyền sang XH công nghiệp hiện
đại. Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ biến ở
các đô thị và cả ở nông thôn.
- Quy mô gia đình ngày nay -> thu nhỏ:
+ Xưa: XH nông nghiệp cổ truyền -> gia đình truyền thống (3, 4 thế hệ
cùng sống chung)
+ Nay: XH công nghiệp hiện đại -> gia đình hạt nhân – chủ đạo (2 thế hệ
cùng sống chung)
- Ưu điểm: đáp ứng cho những nhu cầu điều kiện của thời đại
mới đặt ra, cuộc sống riêng của con người được tôn trọng hơn, sự bình
đẳng nam nữ được đề cao hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống
gia đình truyền thống.
- Hạn chế: tạo sự ngăn cách không gian giữa các thành viên trong
gia đình, XH ngày càng phát triển, mỗi người đều bị cuốn theo công việc của
riêng mình, do cậy thời gian dành cho gia đình ít đi, đánh mất đi tình cảm gia
đình.
Biến đổi các chức năng của gia đình:
- Chức năng tái sản xuất ra con người:
+ Xưa: phải con, càng đôn con càng tốt, nhất thiết phải con trai nối
dõi.
+ Nay: thành tựu của y học hiện đại, việc sinh đẻ được các gia đình tiến
hành 1 cách chủ động, tự giác khi xác định số lượng con cái thời điểm sinh
con. Nhu cầu về con cái đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm
mức sinh của phụ nữ, giảm số con mong muốn, giảm nhu cầu nhất thiết phải có
con trai của các cặp vợ chồng.
- Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
+ Xưa: KT tự cấp tự túc, tiêu dùng sản phẩm của mình làm ra.
+ Nay: kinh tế hàng hóa, tiêu dùng sản phẩm của người khác làm
Tuy nhiên kinh tế gia đình hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại
trong việc chuyển sang hướng kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu
trong kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình phần lớn có
quy mô nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính.
- Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa):
+ Xưa: giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội về đạo đức, ứng xử,
nghề nghiệp
+ Nay: giáo dục XH bao trùm lên giáo dục gia đình, đưa ra những mục
tiêu, những yêu cầu của giáo dục XH cho giáo dục gia đình/
Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ nặng về giáo dục đạo đức,
ứng xử trong gia đình, dòng họ, làng xã,hướng đến giáo dục kiến thức khoa
học hiện đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhập với thế giới.
Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục hội, cùng với sự phát
triển kinh tế hiện nay, vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình xu
hướng giảm -> trẻ em bỏ học sớm, lang thang, nghiện ma túy (sự bất lực của XH
và sự bế tắc của gia đình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ em.
Sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực trong xã hội trong nhà trường,
làm cho sự kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội
trong việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều
so với trước đây. Mâu thuẫn này một thực tế chưalời giải hữu hiệu ở Việt
Nam hiện nay.
- Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình
cảm:
+ Xưa: gia đình là đơn vị kinh tế -> quan hệ tình cảm ông bà – cha mẹ -
con cháu bền chặt
+ Nay: gia đình là đơn vị tình cảm -> nhu cầu tình cảm tăng lên
Việc thực hiện chức năng này là một yếu tố rất quan trọng tác động đến sự
tồn tại, bền vững của hôn nhân hạnh phúc gia đình, đặc biệt việc bảo vệ
chăm sóc trẻ em người cao tuổi, nhưng hiện nay, các gia đình đang đối mặt
với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi tỷ lệ
các gia đình chỉ có một con tăng lên thì đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ
em và kể cả người lớn cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh,
chị em trong cuộc sống gia đình.
Biến đổi về quan hệ của gia đình:
- Biến đổi quan hệ hôn nhân quan hệ vợ chồng: hình thình 2
loại hình trong GĐ: 1. Chồng làm chủ GĐ, 2. Vợ làm chủ GĐ, 3. Chồng
và vợ cùng làm chủ GĐ.
->Làm xuất hiện nhiều hiện tượng: bạo lực GĐ, ly thân, ly hôn, ngoại tình,
… làm rạn nứt, phá hoại sự bền vững của gia đình.
- Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ: trẻ em thiếu sự chăm sóc, dạy
dỗ của ông bà, cha mẹ ông bà thiếu tình yêu, chăm sóc của con cháu.
=> Nhà nước cần những giải pháp, biện pháp nhằm bảo đảm an toàn
tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho các thành viên sẽ là chủ gia
đình tương lai; củng cố chức năng hội hóa của gia đình, xây dựng những
chuẩn mực và mô hình mới về giáo dục gia đình, xây dựng nội dung phương
pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bậc cha mẹ định hướng trong
giáo dục và hình thành nhân cách trẻ em.
*Phương hướng bản xây dựng phát triển gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của
xã hội về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam.
- Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - hội, nâng cao đời sống vật
chất, kinh tế hộ gia đình. Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế
- hội để góp phần củng cố, ổn định phát triển kinh tế gia đình. các
chính sách ưu tiên, kịp thời hỗ trợ phát triển kinh tế cho các gia đình liệt sĩ,
thương binh bệnh binh,… Tích cực khai thách tạo điều kiện thuận lợi cho
các hộ gia đình vay vốn ngắn hạn và dài hạn nhằm xóa đói giảm nghèo.
- Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp
thu những tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam
hiện nay. Nhà nước cũng như các quan văn hóa, các ban ngành liên quan
cần phải xác định, duy trì những nét đẹp ích; đồng thời, tìm ra những hạn
chế tiến tới khắc phục những hủ tục của gia đình cũ. Xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay xây dựng hình gia đình hiện đại, phù hợp với tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, vừa
phải kế thừa phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia
đình VN, vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để phù
hợp với sự vận động, phát triển tất yếu của XH.
- Thứ tư, tiếp tục phát triển nâng cao chất lượng phong trào xây
dựng gia đình văn hóa. Gia đình văn hóa một hình gia đình tiến bộ,
danh hiệu hay chỉ tiêu nhiều gia đình VN đang muốn hướng đến. Phong
trào xây dựng gia đình VH đã những tác động đến nền tảng của gia đình
với những quy tắc ứng xử tốt đẹp, phát huy giá trị đạo đức truyền thống của
gia đình VH, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao.
| 1/32

Preview text:

1.
Giá trị và hạn chế của CNXH không tưởng thế kỉ XIX.
*Những giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Chủ nghĩa xã hội không tưởng có một quá trình phát triển lâu dài, từ chỗ là
những ước mơ, khát vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền
thuyết tôn giáo đến những học thuyết xã hội - chính trị. Cống hiến lớn lao
của chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên
án, phê phán kịch liệt và ngày càng gay gắt, các xã hội dựa trên chế độ tư
hữu, chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa; góp phần nói
lên tiếng nói của những người lao động trước tình trạng bị áp bức, bị bóc lột ngày càng nặng nề.
Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phản ánh được những
ước mơ, khát vọng của những giai cấp lao động về một xã hội công bằng,
bình đẳng, bác ái. Nó chứa đựng giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện
lòng yêu thương con người, thông cảm, bênh vực những người lao khổ,
mong muốn giúp đỡ họ, giải phóng họ khỏi nỗi bất hạnh.
Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng bằng việc phác họa ra mô
hình xã hội tương lai tốt đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã
hội mới mà sau này các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa
một cách có chọn lọc và chứng minh chúng trên cơ sở khoa học. Ví dụ như
những luận điểm: về tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm; về xóa bỏ sự
đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay; về vai trò của công
nghiệp; về giáo dục; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai trò lịch sử của nhà nước,...
Với những giá trị lịch sử trên mà chủ nghĩa xã hội không tưởng,
chủ yếu là của chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX,
được các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học thừa nhận là một trong ba
nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
* Những hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng và nguyên nhân của - Những hạn chế:
Một là,
chủ nghĩa xã hội không tưởng không giải thích được bản
chất của các chế độ nô lệ làm thuê. Đặc biệt là nó không thấy được bản chất
của chế độ tư bản chủ nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát
triển và diệt vong của các chế độ đó, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản nên cũng
không chỉ ra được con đường, biện pháp đúng đắn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không phát hiện ra lực
lượng xã hội tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản-lực lượng xã hội đã
được sinh ra, lớn lên và phát triển cùng với nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, đó là giai cấp công nhân.
Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng muốn cải tạo xã hội bằng
con đường cải lương chứ không phải bằng con đường cách mạng.
- Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên của chủ nghĩa xã
hội không tưởng một phần là do bản thân các nhà chủ nghĩa xã hội không
tưởng, nhưng cơ bản là do điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ quy định.
Đó là, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa phát triển đến độ chín
muồi, công nghiệp lớn chỉ mới xuất hiện ở nước Anh, nên chưa bộc lộ mâu
thuẫn kinh tế cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; giai cấp
công nhân hiện đại chưa trưởng thành, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân còn ở trình độ thấp, nên mâu thuẫn xã hội còn ẩn dấu chưa bộc lộ
hẳn, quan hệ giai cấp và sự đối lập giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
còn ít phát triển. Chính vì vậy, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: ”Hoàn cảnh lịch sử ấy
cũng đã quyết định quan điểm của những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội.
Tương ứng với một trình độ chưa trưởng thành của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi, là một lý luận chưa chín muồi”.
Ngày nay, người ta không thể đòi hỏi gì hơn ở những nhà xã hội
chủ nghĩa không tưởng khi mà những hạn chế của họ hoàn toàn do những
điều kiện lịch sử khách quan quy định.
Mặc dù chủ nghĩa xã hội không tưởng có nhiều giá trị, song nó
mắc phải những hạn chế nên nó chỉ có vai trò tích cực trong một giai đoạn
lịch sử nhất định. Khi cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống
giai cấp tư sản phát triển tới quy mô rộng lớn, đòi hỏi phải có một lý luận
khoa học và cách mạng soi đường, khi chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời thì
các trào lưu của chủ nghĩa xã hội không tưởng trở nên lỗi thời, bảo thủ, thậm
chí còn mang tính chất phản động, cản trở phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chống giai cấp tư sản. 2.
Điều kiện kinh tế - xã hội và vai trò của C.Mác và Ph.Ăng
ghen trong việc hình thành CNXHKH
*Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học)
là chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung với tính cách là sự luận chứng toàn diện
(triết học, kinh tế chính trị và xã hội - chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ
nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa
học những lợi ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân.
Điều ấy nói lên sự thống nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể
hiện tập trung nhất tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội - chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
*Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ
nghĩa xã hội khoa học
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được
những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học -
kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển mạnh mẽ. -> mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính
chất xã hội hóa ngày càng cao >< quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
 Chính vì vậy, mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực
cho những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản
chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng
thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực
lượng xã hội độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải
quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có
tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng
dẫn. Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa của
công nhân thành phố Liông (Pháp) từ năm 1831 đến năm 1834; cuộc khởi nghĩa
của công nhân dệt Xêlidi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chương (Anh) từ
1838 đến 1848. Những phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức
chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải
xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa
học ra đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ
ra lỗi thời, không còn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh
bằng lý luận phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa - tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M.
Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về
khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Ph. Hêghen, L. Phơbách),
kinh tế chính trị học Anh (tiêu biểu là Ađam Smít, Đ. Ricácđô), chủ nghĩa xã hội
không tưởng - phê phán (tiêu biểu là H. Xanhximông, S. Phuriê và R. Ôoen).
Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề
tư tưởng - văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
*Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học Các Mác (1818 - 1883)
C. Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh tụ và
người thầy của giai cấp vô sản thế giới.
Phriđrích Ăngghen (1820 - 1895)
Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công nhânhiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm duy vật biện chứng
với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến vĩ đại đó là: chủ
nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Nhờ hai phát kiến ấy, chủ
nghĩa xã hội đã trở thành khoa học. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không phải
do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
> Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C. Mác và Ph. Ăngghen
soạn thảo theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” -
một tổ chức công nhân quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc ca tuyệt
tác của chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong
trào công nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình bày một
cách rõ ràng và sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”, theo V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận là Tuyên ngôn của chủ
nghĩa xã hội thế giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là kim chỉ nam cho hành động của phong
tràocộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng sản mácxít - lêninnít lấy tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối
chiến lược và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân: thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. 3.
Giai cấp công nhân: khái niệm, nội dung SMLS của giai cấp công nhân.
*Khái niệm GCCN:
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn
phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô
sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vô
sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra
đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp đó. Khái niệm:
- Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và
phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện
đại, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, là lực lượng
chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội.
- Ở các nước Tư bản chủ nghĩa, Giai cấp cồn nhân là những người
không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê
cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư.
- Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp
tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội, trong đó có lợi ích chính đáng của mình.
*Nội dung SMLS của GCCN:
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến
vĩ đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã
chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ
nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên
tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử:
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân lọai khỏi mọi
sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới.
Cụ thể: Nội dung kinh tế:
- Giai cấp công nhân - Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội
hóa cao; đại biểu cho quan hệ sản xuất tiên tiến nhất dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất.
- Giai cấp công nhân - Là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất -> tạo
tiền đề vật chất và kỹ thuật cho sự ra đời của toàn xã hội.
- Đại biểu cho lợi ích chung của toàn xã hội.
- Ở các nước xã hội chủ nghĩa - Giai cấp công nhân thông qua quá trình
công nghiệp hóa và thực hiện một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động
để tăng năng suất lao động, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Giai cấp công nhân - Đóng vai trò nòng cốt trong việc giải phóng lực
lượng sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Giai cấp công nhân - Là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Nội dung chính trị - xã hôi:
- Giai cấp công nhân và nhân dân lao động (Đảng cộng sản lãnh đạo):
Lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản và giành chính quyền thiết
lập nhà nước chuyên chính vô sản. Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nội dung văn hóa – tư tưởng:
- Xây dựng hệ giá trị mới: công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do.
- Thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng:
+ Xây dựng ý thức hệ tiên tiến của giai cấp công nhân (chủ nghĩa Mác – Lenin)
+ Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa tiến bộ, văn minh.
+ Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa: tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân tộc. 4.
Đặc điểm của giai cấp công nhân VN và nội dung SMLS của
giai cấp công nhân Việt Nam.
*Đặc điểm của GCCN VN:
Giai cấp công nhân là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên
có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế; ngoài ra, giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt
Nam nên còn có những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước cả giai cấp tư sản Việt
Nam, là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn
lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân
Pháp, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.
Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng
giai cấp công nhân thế giới, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập
quán nông dân, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng
vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện
sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân tộc để giành độc lập dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu
nước, đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, có tinh thần cách
mạng kiên cường, triệt để, sớm nhận thức được mối quan hệ giữa sự nghiệp
giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong điều kiện các giai cấp
khác đã bế tắc về con đường cứu nước thì chỉ có giai cấp công nhân mới có
khả năng tìm thấy lối thoát cho cách mạng
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời khi Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga thành công, mở ra một chế độ xã hội mới trong lịch
sử nhân loại, đó là chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa và cùng lúc đó Nguyễn Ái
Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giảỉ phóng dân tộc là con đường cách
mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đó là yếu tố hết sức
quan trọng khích lệ, thúc đẩy giai cấp công nhân Việt Nam đứng lên làm cách
mạng để giải phóng dân tộc.
- Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nên có quan hệ mật thiết, tự
nhiên với nông dân và đông đảo nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp
công nhân Việt Nam sớm liên minh với nông dân, tạo thành khối liên minh
công - nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau một thời gian ngắn thì
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản đã đem yếu tố tự giác vào
phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân có một bước phát triển
nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành
lực lượng chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và
sớm có Đảng lãnh đạo nên không bị tác động bởi các khuynh hướng cơ hội
chủ nghĩa, cải lương, xét lại, không bị giai cấp tư sản đầu độc về tư tưởng nên
luôn luôn đoàn kết,thống nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và
bọn địa chủ phong kiến tay sai.
Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cấp
công nhân Việt Nam, cho đến nay giai cấp công nhân Việt Nam còn có những
hạn chế cần phải khắc phục: Số lượng còn ít, trình độ văn hoá, chuyên môn và
nghiệp vụ cũng như khoa học kĩ thuật còn thấp; tư tưởng bảo thủ, chủ quan, cách
làm ăn tuỳ tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ còn ảnh hưởng khá nặng nề.
Nguyên nhân là do nền công nghiệp nước ta chưa phát triển và thành
phần đa số xuất thân từ nông dân. Tuy vậy, những hạn chế trên không thuộc về
bản chất nên giai cấp công nhân Việt Nam vẫn có đủ khả năng và điều kiện để
đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân tộc.
*Nội dung SMLS của giai cấp công nhân Việt Nam:
Trong thời kỳ đổi mới, giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to
lớn: là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, lực lượng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. - Nội dung cụ thể: Nội dung kinh tế:
+ Giai cấp công nhân là nguồn nhân lực lao động chủ yếu phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lấy khoa học - công nghệ quyết
định tang năng suất lao động.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước -> Là điều kiện làm cho
GCCNVN khắc phục những nhược điểm hạn chế vốn có do hoàn cảnh lịch sử và
nguồn gốc xã hội sinh ra
+ Thực hiện khối liên minh công - nông - trí thức để tạo động lực phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển bền vững.
Nội dung chính trị - xã hội:
+ Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong,
gương mẫu của cán bộ Đảng viên
+ Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nội dung văn hóa, tư tưởng:
+ Xây dựng và phát triển nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới XHCN, giáo dục
cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công nghiệp, văn minh hiện đại.
+ Xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam, hoàn thiện nhân cách.
Tóm lại, muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân Việt Nam phải thường xuyên giáo dục cho các thế hệ công nhân và lao
động trẻ ở nước ta về ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa quốc tế, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa giai cấp công nhân với dân
tộc, đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đó là sự
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời đại HCM. 5.
Tính tất yếu, đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH. Liên hệ Việt Nam
*Khái niệm :
Thời kỳ quá độ: là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật
chất – kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hôi. Bắt đầu từ khi
giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
- Hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
+ Quá độ trực tiếp: từ CNTB phát triển lên CNCS.
+ Quá độ gián tiếp: từ tiền CNTB hoặc chưa qua CNTB phát triển lên CNXH.
*Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: (4)
1. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai chế độ xã hội khác nhau
về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đây là cơ sở của chế độ áp bức, bóc lột, bất
công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu, tạo ra cơ sở vật chất cho việc xoá bỏ chế độ người bóc lột
người, xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng -> muốn có CNXH cần phải có
một thời kì lịch sử nhất định để làm thay đổi và làm mới toàn bộ những tàn tích của CNTB.
2. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp
có trình độ nhưng muốn cơ sở vật chất – kĩ thuật ấy phục vụ cho chủ nghĩa xã
hội cần có thời gian tổ chức, sắp xếp lại. Với những nước bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội càng cần có một thời gian lâu
dài để thực hiện nhiệm vụ tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
3. Các quan hệ xã hội chủ nghĩa cũng không tự nảy sinh trong lòng chủ
nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa -> cần có thời gian để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
4. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công cuộc mới mẻ, khó khăn và phức
tạp -> cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
* Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
-
Là thời kỳ mà trong đó còn tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã
hội mới với những tàn dư của xã hội cũ. Chúng đấu tranh với nhau trên tất cả
các phương diện của đời sống xã hội: kinh tế, đạo đức, tinh thần.. + Trên lĩnh vực kinh tế:
Tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng
xã hội chủ nghĩa: KT tư nhân, KT tập thể, KT có vốn đầu tư
nước ngoài, KT nhà nước -> các thành phần KT vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau
Tồn tại nhiều loại hình sở hữu về TLSX và những hình thức phân
phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.
Phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện CNH, HĐH -> xây dựng
cơ sở vật chất – kĩ thuật cao cho XHCN.
+ Trên lĩnh vực chính trị
Tương ứng với nền kinh tế nhiều thành phần là một cơ cấu xã
hội-giai cấp đa dạng, phức tạp. Các giai cấp, tầng lớp này vừa
hợp tác, vừa đấu tranh với nhau
Giai cấp công nhân thống trị về chính trị (thông qua ĐCS)
->Trong điều kiện mới (giai cấp công nhân cầm quyền) thì cuộc đấu tranh giai
cấp sẽ diễn ra với nội dung mới (xây dựng XH mới toàn diện) và hình thức mới
(hòa bình tổ chức xây dựng) + Trên lĩnh vực xã hội:
Kết cấu giai cấp đa dạng : gc công nhân, nhân dân, tầng lớp tư sản,
tầng lớp tri thức -> các gc vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau.
Còn có sự khác biệt khá cơ bản giữa thành thị và nông thôn, giữa
đồng bằng và miền núi, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Đấu tranh xóa bỏ tệ nạn XH và những tàn dư của XH cũ
Thiết lập công bằng XH dựa trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân
phối theo LĐ là chủ đạo.
+ Trên lĩnh vực văn hoá-tư tưởng:
Tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau: tư tưởng ML, HCM, tư sản, tiểu nông.
Các yếu tối văn hóa cũ – mới thường xuyên đấu tranh.
Giai cấp nông dân – thông qua đội tiền phong ĐCS -> xây dựng
nền VH XHCN: gìn giữ, phát huy văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị
tinh hoa VH nhân loại, đáp ứng nhu cầu VH, tinh thần cho nhân dân.
3) Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giữa
giai cấp công nhân liên minh với các tầng lớp lao động khác đã giành được
chính quyền nhà nước đang thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước lên chủ nghĩa xã
hội, với một bên là các giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt
hoàn toàn. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới, với những hình thức và nội dung mới. *Liên hệ Việt Nam:
Việt Nam ta tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa
khó khăn đan xen, thể hiện ở những đặc trưng cơ bản sau: -
Xuất phát từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất nước ta rất thấp. Bên cạnh đó hậu quả của chiến tranh ác liệt, kéo dài
nhiều thập kỉ để lại rất nặng nề. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá
hoại chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc. -
Cuộc CM khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ
kết hợp với đó là quá trình quốc tế hóa sâu sắc của nền sản xuất vật chất và
đời sống XH. Những xu thế này vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước
trong TKQĐ, vừa đặt ra những thách thức gay gắt. -
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH,
các nước với chế độ XH và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa
hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là sự lựa chọn duy nhất, đúng đắn, khoa
học phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan của CM Việt Nam trong thời
đại ngày nay. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Con đường đi
lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Thực hiện quá độ lên CNXH là sự lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng,
đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc ta, phản ánh xu thế phát triển của thời
đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác
Lenin. Dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng theo quy luật tiến hóa của lịch
sử cùng với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản, Việt Nam ta nhất định sẽ tiến tới CNXH.
*Việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay (giải pháp)
- Nâng cao nhận thức, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng cộng sản Việt Nam.
- Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam gắn liền với xây dựng và phát
huy sức mạnh của liên minh công, nông với đội ngũ tri thức và doanh nhân
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn
mạnh gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
- Nâng cao trình độ mọi mặt trận cho công nhân, không ngừng tri thức
hóa giai cấp công nhân Việt Nam.
- Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh Trách nhiệm của
hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nổ lực vươn lên của bản thân mỗi công nhân. 6.
Khái niệm, bản chất dân chủ XHCN. Liên hệ Việt Nam.
*Khái niệm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so
với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất
biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
*Bản chất dân chủ XHCN
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa về căn bản là thống nhất. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Đảng ta thống nhất gọi chuyên chính vô sản là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.Bản
chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở những điểm sau đây:
- Bản chất chính trị
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó
đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì
bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao
nhiêu lợi ích đều là vì dân... chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội
chủ nghĩa ... do đó, về thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
V.I. Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ mà
nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Do vậy, dân chủ xã
hội chủ nghĩa vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa mang tính nhân dân
rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất kinh tế
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa đảm bảo, dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, đáp
ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất trên cơ sở khoa học,
công nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần
của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột nhưng cũng như toàn bộ nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa nó cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại
đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời loại bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm
hãm của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột...
Thực hiện dân chủ trong kinh tế là tiền đề, cơ sở để thực hiện dân chủ về
chính trị và văn hoá - tư tưởng.
- Bản chất tư tưởng - văn hoá
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng, đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá, tư tưởng của nhân
loại. Do đó, đời sống tư tưởng - văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất
phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố hàng đầu,
thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi nó phát
huy cao độ tính tự giác và sức sáng tạo to lớn của con người trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. *Liên hệ VN
Chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta được xác lập sau CMT8 1945, đến
năm 1976 tên nước được đổi thành CHXHCN VN. Đại hội VI của Đảng năm
1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đại hội khẳng định “ trong
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc, xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động””
Hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò
của dân chủ ở nước ta đã có nhiều điểm mới. Qua mỗi kỳ đại hội của Đảng thời
kỳ đổi mới, dân chủ ngày càng được nhận thức, phát triển và hoàn thiện đúng
đắn, phù hợp hơn với điều kiện cụ thể của nước ta.
Trước hết, Đảng ta khẳng định một trong những đặc trưng của chủ nghĩa
xã hội Việt Nam là do nhân dân làm chủ. Dân chủ đã được đưa vào mục tiêu
tổng quát của cách mạng Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Đồng thời khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền
với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm…”
Bản chất dân chủ XHCN ở Việt Nam được thực hiện thông qua các hình
thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp: -
Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được
thực hiện do nhân dân “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà
nhân dân trực tiếp bầu ra”. Nhân dân bầu ra Quốc hội. -
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông qua đó, nhân dân
bằng hành động trực tiếp của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã
hội. Thể hiện ở quyền được thông tin về hoạt động của nhà nước, được bàn
bạc về công việc của nhà nước và cộng đồng dân cư.
Bên cạnh đó, việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra
trong điều kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, lại chịu hậu quả
chiến tranh tàn phá nặng nề. Cùng với đó là những tiêu cực trong đời sống xã hội
chưa được khắc phục triệt để… làm ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế độ
dân chủ nước ta, làm suy giảm động lực phát triển của đất nước. Mặt khác, âm
mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” của các thế lực thù địch, vấn đề tự diễn
biến, tự chuyển hóa nảy sinh và diễn biến hết sức phức tạp đang là trở ngại đối
với quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam càng ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc. Kể từ khi
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cho đến nay, nhân dân thực sự trở
thành người làm chủ, tự xây dựng, tổ chức quản lý xã hội. Đây là chế độ bảo
đảm quyền làm chủ trong đời sống của nhân dân từ chính trị, kinh tế cho đến văn
hóa, xã hội; đồng thời phát huy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 7.
Bản chất, chức năng của nhà nước XHCN và nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam *Khái niệm
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị
thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra
và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao
động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong
một xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa.
*Bản chất của nhà nước XHCN
Bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp đều mang bản
chất của giai cấp thống trị xã hội. Nên bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
(Nhà nước chuyên chính vô sản) do đó, trước hết mang bản chất giai cấp công
nhân. Bên cạnh đó, về kinh tế, bản chất của nhà nước XHCN chịu sự quy định
của cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu. Nhưng giai cấp công nhân lại là giai cấp thuộc nhân dân lao động
mà ra, đại biểu cho phương thức sản xuất mới hiện đại, có lợi ích cơ bản thống
nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Do vậy, nhà nước xã
hội chủ nghĩa không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn có tính nhân
dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh
từ lâu đã nêu lên quan điểm “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” cũng nói lên
một cách tổng hợp về bản chất, thực chất của nhà nước ta - nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta càng chú trọng phát
triển, cụ thể hoá nhà nước của dân, do dân, vì dân.
*Chức năng của nhà nước XHCN
Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
được chia thành các chức năng khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
- Chức năng đối nội: thể hiện ở việc tập trung quản lý xã hội trên tất cả
các lĩnh vực của toàn xã hội, chủ yếu bằng pháp luật, chính sách, pháp chế
xã hội chủ nghĩa và hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quán triệt và thể chế hoá quan điểm, đường lối
cách mạng, chủ trương lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thành Hiến
pháp, pháp luật, pháp chế, chính sách, kế hoạch, biện pháp của nhà nước để
chỉ đạo thực hiện thông qua quá trình hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân trên mọi lĩnh vực.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện sự chuyên chính đối với mọi tội
phạm và mọi kẻ thù để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tạo những điều kiện cơ bản để
mở rộng dân chủ trong nhân dân.
- Chức năng đối ngoại: Nhà nước xã hội chủ nghĩa thiết lập và mở rộng
quan hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi, vì sự
phát triển và tiến bộ xã hội ... đối với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…
Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng).
- Chức năng tổ chức, xây dựng được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin
coi là có tính sáng tạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm cải biến trật tự
chủ nghĩa tư bản và hình thành trật tự chủ nghĩa xã hội và đây là chức năng
căn bản nhất trong hai chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Chức năng trấn áp nhằm chống lại sự phản kháng của kẻ thù giai cấp
đang chống phá công cuộc tổ chức, xây dựng xã hội mới của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ
chính là quản lý đất nước trên tất cả các lĩnh vực. V.I.Lênin đặc biệt chú ý đến
nhiệm vụ quản lý, mà cơ bản nhất là quản lý kinh tế, coi đó là vũ khí duy nhất
để giai cấp vô sản có thể chiến thắng giai cấp tư sản.
*Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam:
Khái niệm: nhà nước pháp quyền được hiểu là nhà nước mà ở
đó, tất cả mọi công dân đều được giáo d c pháp luật và phải
hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm
bảo tính nghiêm minh trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước, phải có sự iểm soát lẫn nhau, tất cả v m c tiêu ph c v nhân dân.

Chủ trương của Đảng về nhà nước pháp quyền: „Xây dựng nhà nước pháp quyền
VN của dân, do dân, vì dân“, Đảng ta đã xác định: nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức và mọi nhân dân có nghĩa vụ
chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Nhận thức này là tiền đề để Đại hội XII của
Đảng làm rõ hơn về Nhà nước pháp quyền XHCN
VN: „Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp , hành pháp, tư pháp“.
Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, có thể thấy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta có một số đặc điểm cơ bản của như sau:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến pháp và
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí tối
thượng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ chế
phối hợp nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của
Nhà nước được giám sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” thông qua các tổ chức, các cá nhân được nhân dân ủy nhiệm.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền
con người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Quyền dân
chủ của nhân dân được thực hành một cách rộng rãi; “nhân dân có quyền bầu và
bãi miễn những đại biểu không xứng đáng”; đồng thời tăng cường thực hiện sự
nghiêm minh của pháp luật.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng bảo
đảm quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Như vậy, những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt
Nam chúng ta đang xây dựng đã thể hiện được các tinh thần cơ bản của một nhà
nước pháp quyền nói chung. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện sự khác biệt so với
các nhà nước pháp quyền khác Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam mang bản chất giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cho nhân dân; nhà nước
là công cụ chủ yếu để Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. 8.
Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội – giai cấp trong
thời kì quá độ lên CNXH? Liên hệ VN.
*Sự biến đổi có tính quy luật: -
Một là, cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định
bởi cơ cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong một hệ thống sản xuất nhất định, cơ cấu xã hội - giai cấp
thường xuyên biến đổi do tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt là những thay
đổi về phương thức sản xuất, về cơ cấu ngành nghề, thành phần kinh tế, cơ
cấu kinh tế, cơ chế kinh tế….
Trong thời kì quá độ lên CNXH, cơ cấu kinh tế tất yếu có những biến
đổi dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội theo hướng phục vụ lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động do ĐCS lãnh đạo. Cơ cấu kinh
tế trong TKQĐ: KT thị trường có sự quản lí của nhà nước. Nền kinh tế thị
trường phát triển mạnh với tính cạnh tranh cao, cộng với xu thế hội nhập
ngày càng sâu rộng khiến cho các giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản trong thời
kỳ này trở nên năng động, có khả năng thích ứng nhanh, chủ động sáng tạo
trong lao động sản xuất để tạo ra những sản phẩm có giá trị, hiệu quả cao và
chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của thị trường trong bối cảnh mới. -
Hai là, cơ cấu XH – GC biến đổi phức tạp, đa dạng làm xuất hiện các tầng lớp XH mới.
Ngoài giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, giai
cấp tư sản (tuy đã bị đánh bại nhưng vẫn còn sức mạnh - V.I.Lênin) đã xuất
hiện sự tồn tại và phát triển của các tầng lớp xã hội mới như: tầng lớp doanh
nhân, tiểu chủ, tầng lớp những người giàu có và trung lưu trong xã hội… -
Ba là, cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa
đấu tranh, vừa liên minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dẫn đến sự xích lại gần nhau.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu
xã hội - giai cấp biến đổi và phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu thuẫn,
đấu tranh, vừa có mối quan hệ liên minh với nhau, dẫn đến sự xích lại gần
nhau giữa các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong xã hội, đặc biệt là giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Mức độ liên minh, xích lại
gần nhau giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội tùy thuộc vào các điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn của thời kỳ quá độ.
 Tóm lại, sự biến đổi của cơ cấu xã hội, giai cấp là tất yếu trong
thời kì quá độ lên CNXH. Trong cơ cấu xã hội - giai cấp này, giai cấp công
nhân, lực lượng tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới giữ vai trò chủ đạo,
tiên phong trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới. Vai trò chủ đạo của giai cấp công nhân còn
được thể hiện ở sự phát triển mối quan hệ liên minh giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức ngày càng giữ vị trí nền tảng chính trị
- xã hội, từ đó tạo nên sự thống nhất của cơ cấu xã hội - giai cấp trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. * Liên hệ VN:
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh
đuổi thực dân đế quốc và thống nhất đất nước, cả nước bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ này, cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt
Nam có những đặc điểm nổi bật: -
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp bị chi phối bởi những
biến đổi trong cơ cấu kinh tế. Từ Đại hội VI (1986), dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, phát triển kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế
đã dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp -> hình thành một
cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng thay thế cho cơ cấu xã hội đơn giản gồm
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức của thời kỳ trước đổi mới. -
Cơ cấu xã hội - giai cấp của Việt Nam ở thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bao gồm những giai cấp, tầng lớp cơ bản:
+ Giai cấp công nhân Việt Nam (vai trò quan trọng đặc biệt): là giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam; đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giữ vị trí tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp.
Giai cấp công nhân có sự biến đổi nhanh về số lượng, chất lượng, cơ
cấu. Trình độ chuyên môn kĩ thuật, kĩ năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức, kỉ
luật lao động,... ngày càng tăng lên đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH.
+ Giai cấp nông dân (vị trí chiến lược): là chủ thể của quá trình CNH,
HĐN nông nghiệp nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Là cơ sở và
lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - XH bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, phát huy bản sắc văn hóa,..
GC nông dân có xu hướng giảm dần vế số lượng và tỉ lệ trong cơ cấu
XH giai cấp, 1 bộ phận nông dân -> công nhân.
+ Đội ngũ trí thức (lực lượng LĐ sáng tạo đặc biệt quan trọng): đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát
triển VH Việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc -> nâng tầm tri thức dân
tộc, sức mạng của đất nước.
+ Đội ngũ doanh nhân: có đóng góp tích cực vào việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - XH, giải quyết việc làm cho người lao động, tham
gia giải quyết các vấn đề an sinh XH, xóa đói giảm nghèo
Đội ngũ doanh nhân đang phát triển nhanh chóng về số lượng và quy
mô với vai trò không ngừng tăng lên.
+ Phụ nữ: lực lượng quan trọng, đông đảo, góp phần to lớn và sự
nghiệp xây dựng CNXH, có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống XH, trong gia đình.
+ Đội ngũ thanh niên: rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của
đất nước, lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
 Tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, các giai cấp, tầng lớp xã hội biến đổi liên tục trong nội tại mỗi giai cấp,
tầng lớp, hoặc xuất hiện thêm các nhóm xã hội mới. Trong quá trình này,
cần phải có những giải pháp sát thực, đồng bộ và tác động tích cực để các
giai cấp, tầng lớp có thể khẳng định vị trí xứng đáng và phát huy đầy đủ,
hiệu quả vai trò của mình trong cơ cấu xã hội và trong sự nghiệp phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 9.
Liên minh giai cấp tầng lớp trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam.
*Nội dung chính trị của liên minh
Liên minh công - nông - trí thức trên lĩnh vực chính trị cần thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là: Mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực hiện liên
minh lại không thể dung hoà lập trường chính trị tư tưởng của 3 giai tầng mà
phải trên lập trường tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân. Bởi vì, chỉ có
phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của giai cấp công nhân thì mới thực hiện
được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí
thức và của dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện
quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Do
đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính trị, tư
tưởng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, liên minh công - nông - trí
thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là mặt trận
Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là nền tảng cho nhà
nước xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố lớn mạnh.
Ba là: Nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức
đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Cần cụ thể hoá việc đổi mới về
nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong giai
cấp công nhân, nông dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là
triển khai thực hiện "Quy chế dân chủ ở cơ sở", nhất là ở nông thôn.
*Nội dung kinh tế của liên minh
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật
vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở
nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hoá ở các điểm sau đây:
- Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của
sự hợp tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những
nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta
xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là: "Công - nông nghiệp - dịch vụ".
Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định "Từng bước phát triển kinh tế tri
thức, từ đó mà tăng cường liên minh công - nông - trí thức"
- Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức
hợp tác, liên kết, giao lưu ... trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công
nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa
học công nghệ và các dịch vụ khác; giữa các địa bàn, vùng, miền dân cư trong
cả nước, giữa nước ta và các nước khác.
- Từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong quá
trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác
kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trên
cơ sở công hữu hoá các tư liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của
Nhà nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên
minh. Vai trò của nhà nước đối với nông dân thể hiện qua chính sách khuyến
nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế nhà nước.
Đối với trí thức, nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách
có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách về phát triển khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về
văn học nghệ thuật ... Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ công -
nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.
*Nội dung văn hoá, xã hội của liên minh
Liên minh về văn hoá, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mặt
của liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải
pháp cứu trợ, hỗ trợ để xoá đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân và trí thức.
- Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ
trợ xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức. Đồng thời nội dung này còn
mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống ... cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào
việc củng cố thành tựu xoá mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở
miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện
tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy
hoạch phát triển nông thôn, đô thị hoá, công nghiệp hoá nông thôn với kết cấu
hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại. Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế,
văn hoá, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng một cách tương xứng,
hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Có như vậy nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng xã
hội chủ nghĩa và mới làm cho công – nông - trí thức cũng như các vùng, các
miền, các dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế. 10.
Khái niệm dân tộc. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác –
Lê nin. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
*Khái niệm dân tộc
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người.
Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng
từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó
có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Một là, dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,
có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù;
xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia
- quốc gia nhiều dân tộc.
Hai là, dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có
lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch
sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân
của quốc gia đó - quốc gia dân tộc.
Dưới góc độ môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
*Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác - Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc, dựa vào
sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách
mạng Nga, phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc, V.I.
Lênin đã khái quát lại thành "Cương lĩnh dân tộc" của Đảng Cộng sản. Nội dung
“Cương lĩnh dân tộc” được thể hiện trên 3 vấn đề:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: Các dân tộc lớn hay nhỏ
(kể cả Bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ cao hay thấp đều có
nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên mọi lĩnh vực, không một dân tộc nào
được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác.
- Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc phải được pháp luật bảo vệ như nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ
phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại.
- Trên phạm thế giới: đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn
liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc
đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột
của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện
quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các
dân tộc. Đây còn là quyền thiêng liêng của dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc.
Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết
- Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận
mệnh của dân tộc mình: quyền tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con
đường phát triển của dân tộc mình; quyền tách ra thành một quốc gia dân tộc
độc lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác.
- Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù
hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên
quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi
dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.
- Đây là quyền cơ bản của dân tộc và là cơ sở để xóa bỏ hiềm khích,
thù hằn giữa các dân tộc.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại là khi giai cấp công nhân
của các dân tộc khác nhau thống nhất, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau để
chống lại kẻ thù chung, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
- Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin, phản ánh
bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
- Nó quy định mục tiêu hướng tới, đường lối, phương pháp xem xét,
cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời,
nó là yếu tố sức mạnh bảo đảm cho giai cấp công nhân và các đân tộc bị áp
bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".
- Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động
trong các dân tộc để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả 3 nội
dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Tóm lại: “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác - Lênin (của Đảng Cộng sản)
là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ
sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
*Vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất
: Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người

Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc người Kinh chiếm 85,7 dân số
cả nước; 53 dân tộc thiểu số chiếm 14,3% dân số. Tỷ lệ số dân giữa các
dân tộc cũng không đồng đều, có dân tộc với số dân lớn hơn 1 triệu
người (Tày, Thái, Mường, Khơ me, Mông...), nhưng có dân tộc với số dân
chỉ vài ba trăm (Si la, Pu péo, Rơ măm, Brâu, đu). Thực tế cho thấy nếu
một dân tộc mà số dân chỉ có hàng trăm sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho
việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hoá dân tộc, duy trì và
phát triển giống nòi. Do vậy, việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc
thiểu số, đặc biệt đối với những dân tộc thiểu số rất ít người đang được
Đảng và Nhà nước Việt Nam có những chính sách quan tâm đặc biệt.
Thứ hai: Các dân tộc cư tr xen ẽ nhau
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tính
chất chuyển cư như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân
tán, xen kẽ và làm cho các dân tộc ở Việt Nam không có lãnh thổ tộc người
riêng. Vì vậy, không có một dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn.
Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường
hiểu biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên
một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người
sống xen kẽ nên trong quá trình sinh sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung
đột, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh
chính trị và sự thống nhất của đất nước.
Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở iệt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có
vị trí chiến lược quan trọng
Mặc dù chỉ chiếm 14,3 dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại
cư trú trên diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả
về kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái – đó là vùng biên giới,
hải đảo, vùng sâu vùng xa của đất nước. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc
với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc
Mông, dân tộc Khơme, dân tộc Hoa… do vậy, các thế lực phản động thường
lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thứ tư: Các dân tộc ở iệt Nam có tr nh độ phát triển hông đều
Các dân tộc ở nước ta còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đây là nội dung quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam để các dân tộc thiểu số phát triển nhanh và bền vững.
Thứ năm: Các dân tộc iệt Nam có truyền thống đoàn ết gắn bó lâu
đời trong cộng đồng dân tộc - quốc gia thống nhất
Đặc trưng này được hình thành do yêu cầu của quá trình cải biến tự nhiên và
nhu cầu phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu tranh chống ngoại xâm nên dân
tộc Việt Nam đã hình thành từ rất sớm và tạo ra độ kết dính cao giữa các dân
tộc. Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc ở Việt
Nam, là một trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi
của dân tộc trong các giai đoạn lịch sử; đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để
giành độc lập thống nhất Tổ quốc.
Ngày nay, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam, các dân tộc thiểu số cũng như đa số phải ra sức phát huy nội
lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, nâng cao cảnh giác, kịp
thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ sáu: Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp ph n tạo nên sự
phong ph , đa dạng của nền văn hóa iệt Nam thống nhất
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều có
những sắc thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống
nhất trong đa dạng. Sự thống nhất đó, suy cho cùng là bởi, các dân tộc đều có
chung một lịch sử dựng nước và giữ nước, đều sớm hình thành ý thức về một
quốc gia độc lập, thống nhất.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm đến chính sách dân tộc, xem đó là vấn đề chính trị - xã hội rộng
lớn và toàn diện gắn liền với các mục tiêu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
*Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta hiện nay : - Kinh tế:
+ Phát triển KT-XH miền núi, vùng dân tộc thiểu số nhằm phát huy
tiềm năng phát triển của các dân tộc
+ Khắc phục chênh lệch giữa các vùng - Chính trị:
+ Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau phát triển giữa
các dân tộc -> Tạo điều kiện thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Nâng cao tính tích cực chính trị của nhân dân
+ Thực hiện chuyên chính với kẻ thù - Văn hoá:
+ Phát huy và lưu giữ văn hóa truyền thống
+ Tiếp nhận những tinh hoa văn hóa nhân loại
 Mở rộng giao lưu văn hóa giữa các cùng, các quốc gia nhằm xây
dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
- Xã hội: Thực hiện các chính sách xã hội như: phát triển kinh tế, giáo
dục, dân số, y tế,… nhằm rút ngắn chênh lệch, đảm bảo bình đẳng giữa các dân tộc - Quốc phòng, an ninh: + Nâng cao hệ thống QP-AN
+ Tăng cường quan hệ quân – dân
+ Tạo thế trận quốc phòng toàn dân
 Bảo vệ dân tộc, chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” 11.
Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo. Tôn giáo ở VN
và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
*Bản chất của tôn giáo:
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã làm rõ bản chất của tôn giáo
trên cơ sở xem tôn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội, Ông viết, tất
cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo- vào trong đầu óc của con
người- của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ;
chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đó mang hình thức những
lực lượng siêu trần thế.
- Tôn giáo là sản phẩm của con ngựời, gắn với những điều kiện lịch sử
tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội tiêu cực. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn
hoá phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin và những
người cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
- Tôn giáo được tạo thành bởi ba yêú tố cơ bản là ý thức tôn giáo (gồm
tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo), hệ thống nghi lễ tôn giáo (trong đó
hoạt động thờ cúng là yếu tố cơ bản), tổ chức tôn giáo (thường có hệ thống từ
trung ương đến cơ sở). Vì vậy, tôn giáo là một lực lượng xã hội trần thế, có tác
động không nhỏ đến đời sống xã hội.
*Nguồn gốc của tôn giáo:
- Nguồn gốc kinh tế-xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tôn
giáo ra đời do trình độ lực lượng sản xuất thấp, kém đã làm cho con người
không nắm được thực tiễn những lực lượng tự nhiên, mà cảm thấy yếu đuối
và bất lực trước tự nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì thế, họ đã gán cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Đó là
hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm
giác yếu đuối trước sức mạnh tự phát của tự nhiên, con người lại cảm
thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát của xã hội hoặc của một thế
lực nào đó của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc của sự phân
hoá giai cấp và áp bức bóc lột, của những ngẫu nhiên, may rủi, con
người lại hướng niềm tin vào “thế giới bên kia” dưới hình thức các tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức. Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức
của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Luôn có
khoảng cách giữa cái biết và cái chưa biết; bởi vậy, trước mắt con người, thế
giới vừa luôn là cái hiểu được, vừa luôn là cái bí ẩn. Do không giải thích được
cái bí ẩn ấy nên con người dễ xuyên tạc nó, điều gì khoa học chưa giải thích
được, điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm
nhận thức của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn,
sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các khái niệm,
phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hóa đến mức
hư ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức càng có khả
năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lạc hiện thực.
- Nguồn gốc tâm lý là ảnh hưởng của yếu tố tâm lý đến sự ra đời của
tôn giáo. Đặc biệt là những trạng thái tâm lý tiêu cực.
Trong cuộc sống, những trạng thái tâm lý mang tính tiêu cực như
sự bất hạnh, đau khổ, nỗi kinh hoàng, sợ hãi v.v dễ dẫn con người đến
với tôn giáo để mong được sự an ủi, che chở, giúp đỡ làm giảm nỗi khổ
đau của con người trong cuộc sống hiện thực.
Không chỉ vậy, những trạng thái tâm lý tích cực như sự hân hoan,
vui sướng, mãn nguyện v.v đôi khi cũng có thể là một nguyên nhân dẫn
con người đến với tôn giáo. Ngoài ra, các yếu tố như thói quen, truyền
thống, phong tục, tập quán cũng là những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự
hình thành, duy trì và phát triển niềm tin tôn giáo.
*Tính chất của tôn giáo :
- Tính lịch sử : Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, nghĩa
là nó có sự hình thành, tồn tại và phát triển và có khả năng biến đổi
trong những giai đoạn lịch sử nhất định để thích nghi với nhiều chế độ
chính trị - xã hội. Khi các điều kiện kinh tế – xã hội, lịch sử thay đổi,
tôn giáo cũng có sự thay đổi theo. Trong quá trình vận động của các tôn
giáo, chính các điều kiện kinh tế – xã hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các
tôn giáo bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đến một giai đoạn lịch sử
nào đó, khi khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân
dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn
giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong
nhận thức, niềm tin của mỗi người.
- Tính quần chúng: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả
các dân tộc, quốc gia, châu lục. Tính quần chúng của tôn giáo không
chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ rất đông đảo (gần 3 4 dân số thế giới);
mà còn thể hiện ở chỗ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần
của một bộ phận quần chúng nhân dân.
- Tính chính trị: tính chất chính trị của tôn giáo xuất hiện khi xã hội đã
phân chia giai cấp, có sự khác biệt, đối kháng về lợi ích giai cấp. do tôn
giáo là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích,
nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi các
giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai
cấp mình, chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tôn giáo
mang tính chính trị tiêu cực, phản tiến bộ.
*Tôn giáo ở Việt Nam: Đặc điểm:
- Thứ nhất: Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo: nước ta hiện nay có 13 tôn
giáo được công nhân tư cách pháp nhân (Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo,
Tin lành,…), có trên 40 tổ chức tôn giáo được công nhận về mặt tổ chức
hoặc đã đăng kí hoạt dộng.
- Thứ hai: Tôn giáo ở VN đa dạng, đan xen do VN là nơi giao lưu của
nhiều luồng văn hóa TG, các tôn giáo ở VN có sự đa dạng về nguyền
gốc và truyền thống lịch sử. Các tôn giáo ở VN chung sống hòa bình và
không có xung đột, chiến tranh tôn giáo.
- Thứ ba: Tín đồ các tôn giáo VN phần lớn là nhân dân lao động, có lòng
yêu nước, tinh thần dân tộc
- Thứ tư: Hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng
trong giáo hội, có uy tín. ảnh hưởng với tín đồ.
- Thứ năm: Các tôn giáo ở VN đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân
tôn giáo ở nước ngoài. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước VN đã thiết
lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn
thế giới, điều này đã củng cố và phát sinh mối quan hệ giữa các tôn giáo
ở các nước trên thế giới.
- Thứ sáu: Tôn giáo ở VN thường bị các thế lực phản động lợi dụng. Do
đường lối đổi mới, mở rộng dân chủ của Đảng và Nhà nước ta, các thế
lực thù địch bên ngoài thúc đẩy các hoạt động tôn giáo, tập hợp tín đồ
tạo thành 1 lực lượng cạnh tranh ảnh hưởng và làm đối trọng với ĐCS,
lợi dụng tôn giáo để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta.
*Chính sách của Đảng, nhà nước VN đối với tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay:
Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước VN bao gồm những nội dung: -
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước
ta. Đảng ta khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khẳng định đó mang tính khoa
học và cách mạng, hoàn toàn khác với cách nhìn nhận chủ quan. -
Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân
tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một mặt, nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ,
phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, thông
qua quá trình vận động quần chúng nhân dân tham gia lao động sản xuất,
hoạt động xã hội thực tiễn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao
trình độ kiến thức... để tăng cường sự đoàn kết vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo,
đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. -
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng, nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ
độc lập và thống nhất đất nước, thông qua việc thực hiện tốt các chính sách
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần
của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. -
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Làm
tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm
hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốcđoàn thể chính trị do Đảng lãnh đạo. -
Vấn đề theo đạo và truyền đạo: Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt
động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được
lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không
được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy
định của Hiến pháp và pháp luật. 12.
Nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lê nin trong giải quyết vấn
đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên CNXH. Liên hệ VN.
* Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc
giải quyết vấn đề tôn giáo:
a) Khắc phục dần ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã
hội gắn liền với công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
b) Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật, đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau.
c) Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không
theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết
toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
d) Cần phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo.Đây là việc cần thiết, bởi bản thân tôn giáo nào cũng gồm hai
mặt này và phân biệt để tránh hai khuynh hướng hữu khuynh hoặc tả khuynh
trong giải quyết vấn đề tôn giáo.
đ) Phải có quan điểm lịch sử-cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội không giống nhau. Vì vậy, cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem
xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
*Liên hệ các nguyên tắc cơ bản của Việt Nam:
- Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do theo
hoặc không theo tôn giáo của công dân.
- Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo.
- Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đấu tranh
ngăn chặn các hoạt động mê tín, dị đoan và các hành vi lợi dụng tính
ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của đất nước, vi phạm quyền
tự do hoạt động tôn giáo của công dân.
- Động viên, giúp đỡ đồng bào, chức sắc tôn giáo sống tốt đời đẹp đạo
- Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân.
 Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng, làm
tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. 13.
Sự biến đổi của gia đình và phương hướng cơ bản xây dựng
và phát triển gia đình VN trong thời kì quá độ lên CNXH.
*Khái niệm gia đình
-Là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành duy trì và
củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
*Sự biến đổi của gia đình VN trong thời kì quá độ lên CNXH:
Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình: -
Gia đình VN ngày nay có thể được gọi là gia đình quá độ trong
bước chuyển biến từ XH nông nghiệp cổ truyền sang XH công nghiệp hiện
đại. Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ biến ở
các đô thị và cả ở nông thôn. -
Quy mô gia đình ngày nay -> thu nhỏ:
+ Xưa: XH nông nghiệp cổ truyền -> gia đình truyền thống (3, 4 thế hệ cùng sống chung)
+ Nay: XH công nghiệp hiện đại -> gia đình hạt nhân – chủ đạo (2 thế hệ cùng sống chung) -
Ưu điểm: đáp ứng cho những nhu cầu và điều kiện của thời đại
mới đặt ra, cuộc sống riêng tư của con người được tôn trọng hơn, sự bình
đẳng nam nữ được đề cao hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống gia đình truyền thống. -
Hạn chế: tạo sự ngăn cách không gian giữa các thành viên trong
gia đình, XH ngày càng phát triển, mỗi người đều bị cuốn theo công việc của
riêng mình, do cậy thời gian dành cho gia đình ít đi, đánh mất đi tình cảm gia đình.
Biến đổi các chức năng của gia đình: -
Chức năng tái sản xuất ra con người:
+ Xưa: phải có con, càng đôn con càng tốt, nhất thiết phải có con trai nối dõi.
+ Nay: thành tựu của y học hiện đại, việc sinh đẻ được các gia đình tiến
hành 1 cách chủ động, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh
con. Nhu cầu về con cái đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm
mức sinh của phụ nữ, giảm số con mong muốn, giảm nhu cầu nhất thiết phải có
con trai của các cặp vợ chồng. -
Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
+ Xưa: KT tự cấp tự túc, tiêu dùng sản phẩm của mình làm ra.
+ Nay: kinh tế hàng hóa, tiêu dùng sản phẩm của người khác làm
Tuy nhiên kinh tế gia đình hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại
trong việc chuyển sang hướng kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu
trong kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình phần lớn có
quy mô nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính. -
Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa):
+ Xưa: giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội về đạo đức, ứng xử, nghề nghiệp
+ Nay: giáo dục XH bao trùm lên giáo dục gia đình, đưa ra những mục
tiêu, những yêu cầu của giáo dục XH cho giáo dục gia đình/
Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ nặng về giáo dục đạo đức,
ứng xử trong gia đình, dòng họ, làng xã, mà hướng đến giáo dục kiến thức khoa
học hiện đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhập với thế giới.
Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát
triển kinh tế hiện nay, vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu
hướng giảm -> trẻ em bỏ học sớm, lang thang, nghiện ma túy (sự bất lực của XH
và sự bế tắc của gia đình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ em.
Sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong nhà trường,
làm cho sự kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội
trong việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều
so với trước đây. Mâu thuẫn này là một thực tế chưa có lời giải hữu hiệu ở Việt Nam hiện nay. -
Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm:
+ Xưa: gia đình là đơn vị kinh tế -> quan hệ tình cảm ông bà – cha mẹ - con cháu bền chặt
+ Nay: gia đình là đơn vị tình cảm -> nhu cầu tình cảm tăng lên
Việc thực hiện chức năng này là một yếu tố rất quan trọng tác động đến sự
tồn tại, bền vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biệt là việc bảo vệ
chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, nhưng hiện nay, các gia đình đang đối mặt
với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ
các gia đình chỉ có một con tăng lên thì đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ
em và kể cả người lớn cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh,
chị em trong cuộc sống gia đình.
Biến đổi về quan hệ của gia đình: -
Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng: hình thình 2
loại mô hình trong GĐ: 1. Chồng làm chủ GĐ, 2. Vợ làm chủ GĐ, 3. Chồng và vợ cùng làm chủ GĐ.
->Làm xuất hiện nhiều hiện tượng: bạo lực GĐ, ly thân, ly hôn, ngoại tình,
… làm rạn nứt, phá hoại sự bền vững của gia đình. -
Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ: trẻ em thiếu sự chăm sóc, dạy
dỗ của ông bà, cha mẹ ông bà thiếu tình yêu, chăm sóc của con cháu.
=> Nhà nước cần có những giải pháp, biện pháp nhằm bảo đảm an toàn
tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho các thành viên sẽ là chủ gia
đình tương lai; củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình, xây dựng những
chuẩn mực và mô hình mới về giáo dục gia đình, xây dựng nội dung và phương
pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bậc cha mẹ có định hướng trong
giáo dục và hình thành nhân cách trẻ em.
*Phương hướng cơ bản xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của
xã hội về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam.
- Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật
chất, kinh tế hộ gia đình. Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế
- xã hội để góp phần củng cố, ổn định và phát triển kinh tế gia đình. Có các
chính sách ưu tiên, kịp thời hỗ trợ phát triển kinh tế cho các gia đình liệt sĩ,
thương binh bệnh binh,… Tích cực khai thách và tạo điều kiện thuận lợi cho
các hộ gia đình vay vốn ngắn hạn và dài hạn nhằm xóa đói giảm nghèo.
- Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp
thu những tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam
hiện nay. Nhà nước cũng như các cơ quan văn hóa, các ban ngành liên quan
cần phải xác định, duy trì những nét đẹp có ích; đồng thời, tìm ra những hạn
chế và tiến tới khắc phục những hủ tục của gia đình cũ. Xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay là xây dựng mô hình gia đình hiện đại, phù hợp với tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, vừa
phải kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia
đình VN, vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để phù
hợp với sự vận động, phát triển tất yếu của XH.
- Thứ tư, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây
dựng gia đình văn hóa. Gia đình văn hóa là một mô hình gia đình tiến bộ, là
danh hiệu hay chỉ tiêu mà nhiều gia đình VN đang muốn hướng đến. Phong
trào xây dựng gia đình VH đã có những tác động đến nền tảng của gia đình
với những quy tắc ứng xử tốt đẹp, phát huy giá trị đạo đức truyền thống của
gia đình VH, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao.