



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60884712
Câu 1: Triết học là gì? Vấn đề cơ bản của Triết học? Vai trò của Triết
học Mac – Lênin trong đời sống xã hội?
1. Nguồn gốc: Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một
thời gian (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VII trước công nguyên).
- Theo người Hy Lạp cổ đại, Triết học là yêu mến sự thông thái
- Theo Trung Quốc: triết học là triết lí về cuộc sống và con người
- Theo Ấn Độ, triết học là chiêm nghiệm về thế giới và con người
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với
tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung nhất
về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận
động, phát triển chung nhất của tự nhiê, xã hội và tư duy.
2. Vấn đề cơ bản của triết học trả lời hai câu hỏi lớn (hai mặt): •
Mặt thứ nhất: Vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định đến cái nào?
+ Các quan điểm cho rằng vật chất có trước và quyết định ý thức hình thành nên chủ nghĩa duy vật
+ Các quan điểm cho rằng ý thức có trước và quyết định vật chất hình thành nên chủ nghĩa duy tâm
+ Các quan điểm cho rằng vật chất và ý thức cùng tồn tại và độc lập với nhau hình
thành nên triết học nhị nguyên •
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới xung quanh mình hay không
+ Các quan điểm cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới hình thành nên thiết khả tri luận
+ Các quan điểm ngược lại là bất khả tri luận
+ Các quan điểm cho rằng con người vừa nhận thức được và vừa không nhận thức
được là hoài nghi luận
3. Vai trò của Triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội
- Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng
cho con người trong nhận thức và thực tiễn lOMoAR cPSD| 60884712
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Câu 2: Triết học Mac ra đời dựa trên những điều kiện, tiền đề nào?
Chức năng của Triết học Mac – Lênin là gì?
1. Điều kiện kinh tế - xã hội:
- Chủ nghĩa Mác ra đời vào những nãm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền
tảng của cuộc cách mạng công nghiệp đưực thực hiện trứơc tiên ở nước Anh vào
cuối thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước
chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là
sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
- Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản
xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 1825 và hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản. tiêu biểu
là: cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến
chương (Anh) từ năm 1835 đến năm 1848; cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi
(Đức) năm 1844, V.V.. Đó là những bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã
trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền
dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là phải được soi
sáng bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách quan
đó; đồng thời, chính thực tiễn cách mạng cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái
quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác.
- Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản
ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện kinh tế – chính
trị – xã hội thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
+ Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn tuyệt đối
cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho Chủ nghĩa
Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ chính sự phát triển của kinh tế tư bản
chú nghĩa mới tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện những nguyên lý
của chủ nghĩa Cộng sản. lOMoAR cPSD| 60884712
+ Chính sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn, lý luận,
chính trị, xã hội… đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa là nó kích thích cho
các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học Mác.
+ Chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác.
- Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự xuất hiện của
giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng với cuộc đấu tranh mạnh mẽ của họ là
điều kiện chính trị – xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của Chủ nghĩa Mác
nói chung, triết học Mác nói riêng.
2. Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên:
- Nguồn gốc lí luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn
là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất
là triết học cổ điển Đức, kinh tế – chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không
tưởng ở các nước Pháp và Anh.
+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph.Hêghen là L.Phoibac đã ảnh
hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của Chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép biện
chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiobac. Đồng thời, các ông cũng khắc
phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong
triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của Phoiobac.
Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là: Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông
đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất
của sự phát triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy
tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với kinh tế – chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại
biểu lớn của nó (A. Xmit và Đ. Ricacdo), C. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những
quan điểm hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó là: Quan điểm duy vật
trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao động.
Đồng thời, các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa triệt để trong học
thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà lOMoAR cPSD| 60884712
kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học thuyết
về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những biểu
lớn của nó là H.Xanh Ximong, S.Phurie và R.Ooen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế
thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng
này đối với những hạn chế cảu Chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục
và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ. Đó là tính chất không tưởng
trong các học thuyết ấy. Từ đó, các ông xây dựng nên một lý luận mới – lý luận khoa
học về chủ nghĩa xã hội.
- Tiền đề khoa học tự nhiên:
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều
phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã dẫn đến kết luận triết học là sự
phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hóa những hình thức vận động của chúng.
+ Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động
vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; dặt cơ sở cho sự phát triển
của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức
giữa thực vật với động vật.
+ Thuyết tiến hóa đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật
không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở
khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu
cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong
lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản thân
sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của nó.
Như vậy, những điều kiện tiền đề của sự ra đời Chủ nghĩa Mác bao gồm một điều
kiện về kinh tế – xã hội và hai tiền đề. Bởi vậy, Chủ nghĩa Mác “cung cấp cho loài
người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng
Cộng sản Việt Nam “kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”. lOMoAR cPSD| 60884712
3. Chức năng của Triết học Mác – Lênin
Cũng như mọi khoa học, triết học Mác – Lênin cùng một lúc thực hiện nhiều chức
năng khác nhau. Đó là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận,
chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng dự báo và phê phán… Tuy nhiên, chức
năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết học Mác – Lênin.
- Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác –
Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con
người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết học để
con người xem xét, nhận thức thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét
chính minh. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự
nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa
họe định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và câ cách
thức hoạt động của mình. Trên một ý nghĩa nhất định, thế giới quan cũng đóng một
vai trò của phương pháp luận. Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết
học Mác – Lênin có sự thống nhất hữu cơ.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người.
Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình
độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân
cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.
Các khoa học đều góp phần giúp con người hình thành thế giới quan đúng đắn. Trong
đó, thế giới quan triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan của con người phát triển như một quá trình tự giác.
Thế giới quan duy vật biện chúng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh với các
loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách
mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh
với các tư tưởng phản cách mạng, phản khoa học.
- Chức năng phương pháp luận: lOMoAR cPSD| 60884712
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát có vai
trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ
thống phương pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận
chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Vai trò phương pháp luận duy vật biện chúng được thể hiện trước hết là phương pháp
chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương pháp luận duy vật biện chứng trang
bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
Triết học Mác – Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy
luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó
là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Tuy nhiên, triết học Mác – Lênin không phải là “đơn thuốc vạn năng” có thể giải
quyết được mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với
tri thức triết học, con người cần phải có tri thức khoa học cụ thể và kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn xã hội. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn không được xem
thường hoặc tuyệt đối hoá phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương
pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ
động, sáng tạo trong chọc sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh được những
sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Câu 5: Trình bày quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất?
Ý nghĩa phương pháp luận đối với nhận thức và thực tiễn?
- Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. * Nội dung
- Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Theo định nghĩa của Lenin vật chất là một phạm trù của triết học vì nó là sản phẩm
của sự trừu tượng hóa, không tồn tại cảm tính lOMoAR cPSD| 60884712
+ “Đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền với việc
thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là hiện thực khách
quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta”: là thuộc tính quan trọng nhất của vật chất,
là cơ bản nhất để phân biệt, xác định là cái gì là vật chất, cái gì không phải vật chất.
+ Theo Lênin, trong đời sống xã hội thì "khách quan không phải theo ý nghĩa là
một xã hội những sinh vật có ý thức, những con người, có thể tồn tại và phát
triển không phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật có ý thức, mà khách
quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý
thức xã hội của con người” : cho dù con người có nhận thức hay không thì vật chất vẫn tồn tại
- Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
Lenin khẳng định, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình
thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể,
tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể Chủ
nghĩa duy vật biện chứng không bàn đến vật chất một cách chung chung, mà bàn
đến nó trong mối quan hệ với ý thức của con người. Trong đó, xét trên phương
diện nhận thức luận thì vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất, là cội nguồn của
cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái phụ
thuộc vào vật chất. Đó cũng là câu trả lời theo lập trường nhất nguyên duy vật của
V.I.Lênin đối với mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học.
Ví dụ: Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại
nhưng chưa có ý thức vì chưa có con người -> cho thấy vật chất tồn tại
khách quan, không lệ thuộc vào ý thức. Có ý thức của con người trước
hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác quan (mắt,
mũi, tai, lưỡi…) của con người -> cho thấy ý thức lệ thuộc vào vật chất
- Thứ ba, cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất
Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng
tinh thần. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức...), lại luôn luôn
có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các hiện tượng
tinh thần ấy (nội dung của chúng) chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là bản
sao của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan
* Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của Triết học Mác – Lênin lOMoAR cPSD| 60884712
+ Giải quyết một cách đúng đắn và triệt để hai mặt vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết), chủ nghĩa duy
vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này
+ Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội – các điều kiện
sinh hoạt vật chất và các quan hệ vật chất xã hội
+ Tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, từ đó góp phần tạo nên nền tảng lý
luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Khắc phục cuộc khủng hoảng thế giới quan trong vật lý học đầu thế kỉ XX và cổ
vũ các nhà khoa học tự nhiên tiếp tục đi sâu nghiên cứu khám phá thế giới vật chất
Câu 8: Trình bày quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận trong giải quyết
mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan?
- Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại; chụp
lại; phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.
Ý thức là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong
bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng, vật chất có trước,
ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức quyết định ý thức, ý thức tác động
trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau
Ví dụ: Bộ óc người là cơ quan phản ánh, cơ quan sản sinh ra ý thức, vì vậy chỉ khi
tồn tại con người thì ý thức mới tồn tại
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức: vì ý thức phản ánh hiện thực
khách quan trong khi tự thân ý thức không thể gây ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực lOMoAR cPSD| 60884712
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: thế giới vật chất luôn vận động và
biến đổi không ngừng vì vậy khi vật chất thay đổi dẫn tới ý thức cũng thay đổi theo
Ví dụ: Thế giới đang đi theo xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, đương nhiên nước ta
phải đổi mới tư duy phát triển kinh tế mở cửa hội nhập.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
VD: Ở nhiều nơi vùng núi, điều kiện kinh tế khó khăn, người dân ít được tiếp xúc
với công nghệ hiện đại và ứng dụng thông minh, thiết bị học tập => suy nghĩ và
cách làm lạc hậu, kém phát triển. Nếu họ được sử dụng những thiết bị hiện đại để
làm việc và cập nhật thông tin họ sẽ phát triển theo hướng khác
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
+ Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời
sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
+ Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều
kiện,hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
+ Thứ ba,vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó
trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục
tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Ví dụ 1: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 10000C,
người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải
bằng phương pháp thủ công cổ xưa.
Ví dụ 2: Việc áp dụng chủ trương phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường,
mở cửa hội nhập đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển với 1 tốc độ nhanh chóng.
Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý
thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật chất. lOMoAR cPSD| 60884712
Ví dụ 1: Sau khi biết bản thân mắc Covid-19, thay vì liên lạc với trung tâm y tế thì
lại bỏ trốn, khiến dịch bệnh lây lan rộng hơn.
Ví dụ 2: Chủ trương phát triển nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung
bao cấp đã khiến cho nền kinh tế phát triển một cách trì trệ, chậm chạp. + Thứ
tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Tóm lại, quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng qua
lại, trong đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại thựctiễn thông
qua hoạt động nhận thức của con người
* Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra và ứng dụng vào cuộc sống, học tập
và nghề nghiệp sau này của bản thân em.
Thứ nhất, mọi hoạt động đều phải xuất phát từ quy luật khách quan
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn con người phải tôn trọng khách quan, đồng
thời phải phát huy tính năng động chủ quan của mình. •
Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, tôn trọng các quy
luật tự nhiên và xã hội… •
Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi
hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình; •
Không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
Ứng dụng vào bản thân em, trong cả cuộc sống, học tập và nghề nghiệp sau này,
ý nghĩa phương pháp luận đều được áp dựng vào moi mặt cuộc sống. Thứ nhất
là trong cuộc sống, các quy luật tự nhiên và xã hội luôn ứng dựng vào các hoạt
động thiết thực. Như là lấy căn cứ là hiện thực khách quan để từ đó xuất phát
cho mọi hoạt động và nhận thức thực tiễn của mình. Thực tế khách quan đó là
ngoài thực hiện đầy đủ nội quy của lớp và trường thì phải tham gia các tích cực
các hoạt động của trường, của khoa và của lớp thì mới đạt được điểm rèn luyện
trên 70 điểm và có cơ hội nhận được học bổng của trưởng. Xuất phát từ quy luật
khách quan này mà em đã tích cực tham gia các phong trào tình nguyện viên, xin
đăng ký các hoạt động tình nguyện, tham gia vào ban văn nghệ để chuẩn bị cho
sự kiện chào mừng 30 năm thành lập khoa du lịch, tích cực tham gia các câu lạc
bộ và tham gia hội trại của lớp vào ngày 26,27/10 sắp tới. lOMoAR cPSD| 60884712
Ngoài ra việc em lựa chọn học ngành nghề Hướng dân viên du lịch quốc tế cũng
là một trong những ý nghĩa phương pháp luận ảnh hưởng đến việc chọn ngành
nghề tương lại. Với thực tế khách quan và xu hướng ăn no, mặc ấm sang ăn ngon,
mặc đẹp, thì nhu cầu về giải trí và đi du lịch của người dân tăng lên, dẫn đến thị
trường làm việc của ngành Du lịch tăng, dựa vào yếu tố khách quan đó, tác động
đến suy nghĩ của em rằng sau này khi ra trường em vừa được thực hiện ước mơ
được đi đến khắp mọi miền vừa giúp em có thị trường lao động rộng mở, không lo thất nghiệp.
Thứ hai, phát huy tính năng động, tích cực của ý thức
Để xã hội ngày càng phát triển thì phải phát huy tối đa vai trò tích cực của ý thức,
vai trò tích cực của nhân tố con người, nhận thức đúng quy luật khách quan.
+ Dựa trên quy luật khách quan để xác định mục tiêu, kế hoạch; biết tìm ra và vận dụng
các phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục tiêu để ra một cách tối ưu.
+ Khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí
áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu
cực, thụ động, ỷ lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.
Bản thân em luôn ứng dụng ý nghĩa phương pháp luận này vào tư duy. Bằng chứng
là em luôn học tập và trau dồi bản thân mỗi ngày. Em đã từng tiếp xúc và học
triết năm nhất, nhưng do em còn trì trệ bản thân, lười tư duy và cho rằng học qua
loa và có thể qua môn, và kết quả là em đã trượt. Nhưng trong quá trình học tập
và rèn luyện tư duy, em đã được các thầy cô dạy bảo và tư duy đó của em đã thay
đổi và tiến bộ lên từng ngày. Em xác định mục tiêu là phải ra trường đúng hạn,
phải đạt các môn từ điểm C trở lên, và mỗi ngày đi học em lại càng cố gắng nghe
giảng hơn, tham khảo các tài liệu từ các cô và các bạn đã qua môn triết, em quyết
tâm sẽ thi đỗ môn triết. Và em cũng đặt mục tiêu cho tương lai gần là em sẽ ra
trường đúng hạn và trở thành một tour guide có dày dặn kinh nghiệm và kiến
thức. Để được như vậy em tích cực, chủ động học tập và rèn luyện.
Câu 10: Trình bày nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến của
PBCDV. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này ? lOMoAR cPSD| 60884712 *Khái niệm
- “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ,
quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng với nhau.
- “Liên hệ” là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng
nhất định làm đối tượng kia thay đổ.
- “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của PBCDV” cho rằng các sự vật, hiện tượng
của thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau, không tách biệt nhau.
VD1: Trong thế giới động vật thì động vật hấp thụ khí O2 và nhả khí CO2, trong khi
đó quá trình quang hợp của thực vật lại hấp thụ khí CO2 và nhả khí O2.
VD2: Trong buôn bán hàng hóa dịch vụ thì giữa cung và cầu có mối liên hệ với
nhau. Cụ thể giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động
qua lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau, cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau,
chuyển hóa nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu.
*Đặc trưng/tính chất của mối liên hệ phổ biến
- Tính khách quan : Thể hiện sự cố hữu của bản thân sự vật, không thể thay đổi bởi ý chí con người.
- Tính phổ biến : Thể hiện ở chỗ, bất kỳ ở đâu, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều
có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng nắm giữ những vai trò, vị trí khác nhau
trong sự vận động, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ này không chỉ
diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy, mà còn diễn ra giữa các
mặt yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
- Tính đa dạng, phong phú : Từ khác khía cạnh khác nhau, mối liên hệ được chia
thành mối liện hệ phổ biến trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ phổ biến bản
chất – mối liên hệ hiện tượng; mối liện hệ phổ biến chủ yếu – thứ yếu; mối liên hệ
phổ biến tất nhiên – ngẫu nhiên; mối liên hệ phổ biến bên trong – bên ngoài. Quan
hệ nhân quả; mối liên hệ giữa tổng thể và bộ phận. Những mối liên hệ phổ biến khác
nhau có tác dụng khác nhau đến sự tồn tại và phát triển của sự vật.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Khi
xem xét bất cứ một sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, lOMoAR cPSD| 60884712
tránh quan điểm xem xét phiến diện và siêu hình, đặt sự vật hiện tượng trong quan
hệ với sự vật hiện tượng khác, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các quá
trìnhh phát triển của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm ra các mối liên hệ bản chất
chủ yếu. Khi nhận thức và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển
VD3: Trong cuộc Cách mạng T8/1945, các thành phần như sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng và sự đoàn kết dân tộc của nhân dân Việt Nam,... có mối liên hệ phổ biến
chặt chẽ với nhau cộng thêm sự chớp thời cơ từ hoàn cảnh lịch sử, cụ thể và Nhật
đầu hàng quân Đồng Minh giúp cho ta có cơ hội lật đổ, hất cẳng Nhật ra khỏi đất
nước để đi đến độc lập và 2/9 Bác Hồ đọc tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Câu 11: Trình bày nội dung nguyên lý về sự phát triển? Ý nghĩa phương
pháp luận của nguyên lý này ? *Khái niệm
Khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cáo, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Như vậy,
phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển, mà chỉ vận
động nào theo khuynh hướng đi lên mới là phát triển.
VD1: Trong quá trình biến đổi của cá giống loài đã có sự biến đổi và phát triển từ
bậc thấp lên bậc cao ( lúa được cải tiến từ loại có năng suất thấp, chất lượng thấp
sang giống lúa ST25 năng suất, chất lượng cao hơn, chịu được hạn hán sâu bệnh tốt hơn)
VD2: Quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thức tổ chức trong xã hội loài người:
từ hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời nguyên thủy lên các hình
thức tổ chức bộ tộc -> chiếm hữu nô lệ -> phương thức sản xuất phong kiến -> nhà
nước tư sản -> nhà nước xã hội chủ nghĩa.
*Tính chất của nguyên lý về sự phát triển
- Tính khách quan thể hiện ở chỗ nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự
vật hiện tượng, chứ không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc
vào ý thích, ý muốn chủ quan của con người
- Tính phổ biến , sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. lOMoAR cPSD| 60884712
- Tính kế thừa , sự vật hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối với
sự vật hiện tượng cũ. Sự vật hiện tượng mới ra đời từ sự vật hiện tượng cũ chứ không
phải hư vô. Vì vậy trong sự vật hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo
yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp với chúng, trong khi gạt bỏ mặt tiêu cực lỗi thời,
lạc hậu của sự vật hiện tượng cũ gây cản trở sự vật hiện tượng mới tiếp tục phát triển.
- Tính đa dạng, phong phú , tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên,
xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình phát triển không
giống nhau. Tính đa dạng, phong phú còn phụ thuộc vào không gian và thời gian,
vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó...
*Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển chính là cơ sở lý luận khoa học để có thể định hướng
được việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Khi nhận thức sự vật phải nhận thức
nó trong sự vận động, phát triển không nhìn sự vật đứng im, chết cứng, không vận
động, không phát triển. Trong quá trình phát triển kế thừa và tiếp tục phát triển những
thuộc tính còn phù hợp, loại bỏ những mặt hạn chế, lạc hậu. Quan điểm phát triển
đòi hỏi phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến đối với sự phát triển.
Nhận thức sụ vật phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó, để có phương án
tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó. Phát triển là khó khăn,
phức tạp vì vậy muốn nắm được bản chất khuynh hướng phát triển của đối tượng
nghiên cứu cần “phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự vận động”...,trong sự biến đổi của nó”.
VD3: Mức độ và nhu cầu tìm tòi học hỏi muốn tiếp cận kiến thức đang phát triển.
Trước đây con người có được kiến thức do sự truyền dạy của thế hệ trước cho thế
hệ sau ( ông -> cha -> con ->cháu những kiến thức nông nghiệp là ruộng đồng).
Dần dần phát triển lên là học hỏi qua sách vở, chữ viết, thầy trò, ... đến giai đoạn
hiện tại được bổ sung phương pháp tiếp cận mới đó là qua mạng internet,.... Tùy
từng hoàn cảnh cụ thể mà sự giáo dục và truyền đạt kiến thức lại khác nhau, như
trong đại dịch covid, con người đã làm quen với phương pháp học tập từ xa mà vẫn đem lại hiệu quả.
Câu 15: Trình bày nội dung, tính chất và mối liên hệ biện chứng giữa
nội dung và hình thức. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm – ví dụ lOMoAR cPSD| 60884712
Việc nhận thức nội dung và hình thức sự vật, hiện tượng và sự hình thành các khái
niệm về chúng được thực hiện trong quá trình nhận thức từ những mối liên hệ nhân
quả này sang mối liên hệ nhân quả khác, từ những đặc tính này sang những đặc
tính khác của sự vật, hiện tượng ấy.
- Nội dung là phạm trù dùng để chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố, quá trình cấu tạo
nên sự vật, hiện tượng.
- Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật,
hiện tượng; là hệ thống các mối liên hệ tương đối giữa các yếu tố cấu thành nội dung
của sự vật, hiện tượng. VD:
a) - Nội dung: Ở thực vật (cụ thể là cây): Các bộ phận như lá, rễ, quả, thân, củ… là toàn
bộ các yếu tố vật chất tạo nên 1 cơ thể sống của cây.
- Hình thức: Các quá trình: Các mối liên hệ giữa các bộ phận cơ thể, các quá trình sinh
lý: hô hấp, quang hợp, dinh dưỡng
b) - Nội dung của một tác phẩm văn học là toàn bộ các yếu tố như nhân vật, sự kiện, ý
nghĩa mà tác giả muốn phản ánh, thể hiện: Trong tác phẩm “Lão Hạc”, Nam Cao
phản ánh hiện thực số phận của người nông dân trước CMT8 qua tình cảnh của lão
Hạc và thể hiện tấm lòng của nhà văn trước số phận đáng thương của một con người.
- Hình thức của một tác phẩm văn học được thể hiện thông qua phương thức diễn đạt
nội dung của tác phẩm, cách diễn đạt, cách sắp xếp trình tự tác phẩm.
Nội dung và hình thức là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lênin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
+ Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bề ngoài của
nó nhưng phép biện chứng duy vật chú ý chủ yếu đến hình thức bên trong của sự
vật, nghĩa là cơ cấu bên trong của nội dung.
VD: Một tác phẩm văn học được in thành sách đều có kích thước, hình dáng, màu
sắc, v.v… nhất định Hình thức bên ngoài
Hình thức bên trong: bố cục của tác phẩm, bút pháp, ngôn ngữ... được sử dụng để
diễn đạt nội dung, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm mà tác giả muốn đề cập. 2. Mối quan hệ
Mối quan hệ được hiểu là sự tác động qua lại giữa hai (hoặc nhiều hơn hai) đối tượng
hoặc hai (hoặc nhiều hơn hai) nhóm đối tượng có liên quan với nhau. Trong biện
chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lOMoAR cPSD| 60884712
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới. A) Tính thống nhất
- Nội dung là toàn bộ những mặt, những yếu tố, những quá trình hợp thành cơ sở tồn
tại và phát triển của sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là cách thức tổ chức kết cấu của nội dung.
các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức.
ND & HT gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, Không có một hình
thức nào lại không chứa đựng một nội dung nhất định, cũng như không có nội dung
nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định nội dung nào có hình thức đó
VD: Với một chiếc áo thì nội dung của nó là các loại vải: vải cotton, vải kaki, thun
gân,… Các kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc chính là hình thức. Do đó, nếu các loại vải
khác nhau thì kiểu dáng của chiếc áo sẽ khác nhau.
B) Tác động qua lại giữa nội dung và hình thức
Nội dung quyết định Hình thức
Hình thức tác động trở lại Nội dung
Nội dung giữ vai trò quyết định đối với Hình thức do nội dung quyết định
hình thức trong quá trình vận động nhưng hình thức có tính độc lập tương
phát triển của sự vật (vì khuynh hướng đối và tác động ngược trở lại nội
chủ đạo của nội dung là biến đổi, còn dung. Sự tác động của hình thức đến
khuynh hướng chủ đạo của hình thức nội dung thể hiện ở chỗ:
là tương đối bền vững, chậm biến đổi Nếu phù hợp với nội dung thì hình
hơn so với nội dung.) -Vì tác động thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc
lẫn nhau các yếu tố của nội dung biến đẩy nội dung phát triển
đổi trước, hình thức không thể kìm hãm mãi sự phát
triển của nội dung mà sẽ phải thay
Nếu không phù hợp với nội dung thì
đổi cho phù hợp với nội dung mới
hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự
( hình thức biến đổi chậm hơn)
phát triển của nội dung. lOMoAR cPSD| 60884712
VD: Nội dung quan hệ giữa anh A và VD: Trang bìa của một cuốn sách phải
chị B là quan hệ bạn bè, khi đó hình phù hợp với nội dung của cuốn sách
thức quan hệ giữa hai người không có đó.
“giấy chứng nhận”. Khi anh A và chị
B kết hôn, nội dung quan hệ đã thay
đổi, thì hình thức quan hệ buộc phải
thay đổi khi hai người buộc phải có
“giấy chứng nhận kết hôn”.
Hình thức và nội dung phải phù hợp với nhau
3. Ý Nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn không được tách rời nội dung
với hình thức hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó của sự vật hiện tượng.
- Thứ nhất, hình thức của sự vật hiện tượng do nội dung của nó quyết định, là kết
quả những thay đổi của nội dung và để đáp ứng những thay đổi đó, thì sự thay
đổi hình thức phải dựa vào những thay đổi thích hợp với nội dung quyết định nó,
do vậy, muốn biến đổi sự vật hiện tượng thì trước hết phải tác động, làm thay đổi nội dung của nó.
Ví dụ: một sự vật là cây xanh, hình thức bên ngoài là cái cây có nội dung bên trong
là nhựa cây, gỗ, khoáng chất,... bên trong cây. Muốn biến đổi cây sang một hình thức
khác thì trước hết phải biến đổi nội dung của nó trước, khi nội dung thay đổi chỉ còn
bột gỗ ( bột giấy) thì hình thức sẽ thay đổi theo nội dung trở thành tờ giấy.
- Thứ hai, hình thức chỉ thúc đẩy nội dung phát triển khi nó phù hợp với nội dung.
Để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển nhanh, cần chú ý theo dõi mối quan hệ
giữa nội dung đang phát triển và hình thức ít thay đổi, và khi giữa nội dung với
hình thức xuất hiện sự không phù hợp thì trong những trường hợp nhất định, phải
can thiệp vào tiến trình khách quan, đem lại sự thay đổi về hình thức để nó phù lOMoAR cPSD| 60884712
hợp với nội dung đã phát triển và đảm bảo cho nội dung phát triển hơn nữa, không
bị hình thức cũ kìm hãm.
Ví dụ: Thói trì trệ, chậm đổi mới các hình thức & phương pháp quản lý, sự gia tăng
tệ quan liêu, tuyệt đối hóa những hình thức tổ chức xã hội được hình thành trước đây
trong thực tiễn là một trong những nguyên nhân chính trong tình trạng khủng hoảng
xã hội một vài năm trước. Xã hội có đạt được sự phát triển mới về chất hay không
phần nhiều phụ thuộc vào việc đổi mới đến đâu những hình thức xã hội đã già cỗi,
phong cách và phương pháp làm việc cũ đưa chúng vào phù hợp đến mức độ nào
với những điều kiện dạng thay đổi.
- Thứ ba, một nôi dung có thể có nhiều hình thức thể hiện và ngược lại nên cần sử
dụng mọi hình thức có thể có, mới cũng như cũ, kể cả việc phải cải biến các hình
thức vốn có, lấy hình thức này thay thế, bổ sung cho hình thức kia để làm cho bất
kì hình thức nào cũng trở thành công cụ phục vụ nội dung mới. V.I.Lênin kịch liệt
phê phán thái độ chỉ thừa nhận các hình thức cũ,bảo thủ trì trệ, chỉ muốn làm
theo hình thức cũ, đồng thời cũng phê phán thái độ phủ định vai trò của hình
thức cũ trong hoàn cảnh mới, chủ quan , nóng vội, thay đổi hình thức cũ một
cách tùy tiện, vô căn cứ.
Ví dụ: Kim cương và than chì là hai dạng thù hình của cùng một nguyên tố Cacbon
nhưng sự khác biệt ở đây là cấu trúc tinh thể của chúng. Dẫn đến kim cương có độ
bền và độ cứng cực cao để làm xước hay vỡ kim cương cần đến một lực cực lớn,
khiến kim cương trở thành một trong những vật liệu cứng nhất trong tự nhiên. Trong
khi đó, cấu trúc liên kết yếu giữa các tinh thể trong Cacbon làm cho than chì có thể
gọt dễ dàng và được sử dụng phổ biến trong bút chì. lOMoAR cPSD| 60884712
Câu 16: Trình bày nội dung, tính chất và mối liên hệ biện chứng giữa
bản chất và hiện tượng. Nếu ý nghĩa phương pháp luận. 1.
Khái niệm – Ví dụ:
- Phạm trù là những khái niệm có nội hàm rộng lớn, phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng
thuộc một lĩnh vực nhất định.
- Phạm trù bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những
mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
- Nếu bản chất là cái bên trong quy định sự vận động và sự phát triển của sự vật,
hiện tượng thì phạm trù hiện tượng lại được dùng để chỉ cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Bản chất và hiện tượng là cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác-Lenin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa cái Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp
tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật,
quy định sự vận động và phát triển của sự vật với Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu
hiện ra bên ngoài của bản chất.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ của xã hội. Do đó,
một con người thực sự phải là người có các mối quan hệ xã hội. Các mối quan hệ đó
rất đa dạng và phong phú chẳng hạn như quan hệ huyết thống, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp. 2.Mối quan hệ
Mối quan hệ được hiểu là sự tác động qua lại giữa hai (hoặc nhiều hơn hai) đối tượng
hoặc hai (hoặc nhiều hơn hai) nhóm đối tượng có liên quan với nhau. Trong biện
chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự tác động và chuyển hóa
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới.
a) Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống.
Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có
nhận thức được hay không. lOMoAR cPSD| 60884712 Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy
tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại
ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy,
nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
b) Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Về cơ bản, bản chất và hiện tượng có xu hướng phù hợp với nhau, vì mỗi đối tượng
đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất và hiện tượng luôn tồn
tại khách quan trong mối lien hệ hữu cơ, cái này không thể tồn tài nếu thiếu cái kia.
- Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất bao giờ cũng được tồn tại thông qua hiện tượng. Hiện tượng bao giờ
cũng là sự biểu hiện của bản chất. – bản chất được ánh lên nhờ hiện tượng – Heghen .
- Bản chất khác nhau bộc lộ hiện tượng khác nhau:
+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo.
Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
trong nghiên cứu khoa học người ta thường bắt đầu từ việc quan sát, thống kê các
hiện tượng (quan sát tự nhiên hay qua thí nghiệm) trên cơ sở đó tiến hành nghiên
cứu (có thể thông qua việc xác lập các mô hình giả thuyết,...) về bản chất của hiện
tượng để giải thích hiện tượng quan sát được. (quan sát hiện tượng để nghiên cứu
bản chất, từ bản chất để giải quyết các vấn đề căn bản của hiện tượng)
Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược
lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất