




Preview text:
Tthuyết công lợi của Jeremy Bentham và mối
quan hệ với kinh tế học?
1. Thuyết công lợi là gì?
Chủ nghĩa công lợi hay thuyết công lợi là một triết lý đạo đức, một trường
phái triết học xã hội và cũng đóng vai trò quan trọng trong ngành khoa học
kinh tế. Chủ nghĩa này cho rằng hành động tốt nhất là hành động đạt được
một cách cao nhất những gì được cho là hữu ích, lợi ích. "Lợi ích" được định
nghĩa theo nhiều cách khác nhau, thường là theo thuật ngữ "hạnh phúc của
các sinh vật sống", như là con người hay các động vật khác. Jeremy
Bentham, người đặt nền móng cho chủ nghĩa vị lợi, mô tả "lợi ích" như tất cả
những gì làm hài lòng chúng ta xuất phát từ hành động, không gây ra đau
đớn cho bất kì ai liên quan.
2. Sự hình thành của thuyết công lợi
Chủ nghĩa vị lợi là một hình thức khác của chủ nghĩa hệ quả hay hệ quả
luận (consequentialism), thuyết này tuyên bố rằng kết quả của bất kì hành
động nào là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá sự đúng và sai của hành động
đó. Không giống như các hình thức khác của thuyết hệ quả, như là chủ nghĩa
vị kỉ (egoism), chủ nghĩa vị lợi cho rằng lợi ích của tất cả mọi người là công
bằng. Những người ủng hộ chủ nghĩa vị lợi đã không hoàn toàn đồng ý với
nhau trong một số điểm. Mỗi cá nhân nên hành động theo lợi ích (Chủ nghĩa
vị lợi hành động) hay, mỗi người nên tuân theo những quy tắc đạo đức (Chủ
nghĩa vị lợi quy tắc) Lợi ích được tính như tổng cộng (Chủ nghĩa vị lợi tổng
cộng) hay trung bình (Chủ nghĩa vị lợi trung bình).
Mặc dù mầm mống tư tưởng của học thuyết này đã xuất phát từ những triết
gia hưởng lạc (hedonist) như Aristippus và Epicurus, những người xem hạnh
phúc là điều tốt duy nhất, nhưng nguồn gốc của chủ nghĩa vị lợi thực sự bắt
đầu với Bentham, bao gồm John Stuart Mil , Henry Sidgwick, R. M. Hare và
Peter Singer. Học thuyết này được ứng dụng trong việc giải quyết phúc lợi xã
hội, nạn đói trên thế giới, đạo đức trong việc chăm sóc động vật và sự cần
thiết để tránh những thảm họa toàn cầu trong nhân loại. Nếu lợi ích đạt được
nhiều hơn cái giá phải trả, thì sẽ được coi là một động thái hợp với luân
thường đạo lý, còn không thì sẽ đi ngược lại với đạo lý.
3. Khái quát quan điểm về thuyết công lợi của Jeremy Bentham
Thuật ngữ này chỉ một trào lưu tư tưởng ra đời ở Anh vào thế kỉ XVIII, theo
sáng kiến của Jeremy Bentham; trào lưu này đã thống trị tư tưởng kinh tế,
triết học đạo đức, chính trị và luật pháp cũng như xã hội học ở Anh trong thế
kỉ XIX và có những bước tiếp nối quan trọng đến tận thế kỉ XX. Ba nhân vật
đã đặc biệt để lại ấn tượng trong lịch sử của trào lưu này: Jeremy Bentham
(1748-1832), James Mil (1773-1836) và John Stuart Mil (1806-1873).
Jamery Bentham phát triển trong nhiều tác phẩm một học thuyết mà tinh tuý
kết tinh trong những mệnh đề sau:
a) Một hành động là đạo đức nếu đề nghị lấy phúc lợi cá thể làm cứu cánh.
b) Không có cá nhân nào là quan trọng hơn một cá nhân khác; do đó mỗi cá
nhân chỉ được tính như một đơn vị.
c) Mục đích của hành động tập thể là làm cực đại lợi ích của cộng đồng hay,
theo cách nói của ông, “tìm kiếm hạnh phúc lớn nhất cho số đông”.
Một học thuyết như thế do đó có những hệ quả không chỉ kinh tế: tầm với của
nó lan tới lĩnh vực đạo đức học, pháp lí và triết học chính trị. Điều này giải
thích là trào lưu tư tưởng này trong thế kỉ XIX ở Anh có tên gọi đầy tham
vọng là triệt để luận triết học. Phần trình bày dưới đây chỉ đề cập đến trường
ứng dụng kinh tế của học thuyết này.
Những hệ quả đối với kinh tế học quả thực là quan trọng. Những hệ quả này
bao gồm một suy tưởng về hành vi của các tác nhân và mặt khác kéo theo
những hệ quả trên những tiêu chí lựa chọn và mục đích của những biện pháp
hành động về chính sách kinh tế.
Thật thế, một giả thiết được suy ra từ những tiên đề của học thuyết. Đó là con
người chủ yếu là những sinh vật quan tâm đến việc tìm kiếm những niềm vui
(hạnh phúc) và né tránh những nỗi nhọc nhằn. Đó chính là felicific calculus,
tức phép tính những niềm vui và những nỗi nhọc nhằn cho phép con người
ứng xử một cách duy lí, có tính đến những cứu cánh mà họ theo đuổi. Niềm
vui, hay lợi ích, như thế được xem là lượng hoá được, và có khả năng được
biểu hiện bằng một bản số. Những lợi ích cá thể được xem là có tính cộng,
điều này cho phép gán một nội dung thực chứng cho những thành ngữ
như “hạnh phúc lớn nhất cho số đông”.
4. Thuyết công lợi trong những tác phẩm của Bentham
Những tác phẩm của Bentham mở đầu với một phát biểu về nguyên tắc của sự hữu ích:
“Thiên nhiên đã đặt nhân loại dưới sự quản trị của hai kẻ có quyền lực tối cao,
nỗi đau và sự sung sướng. Chỉ có duy nhất những điều này chỉ cho ta nên
làm những gì …. Nguyên tắc chính của sự hữu ích là nó ủng hộ hay không
ủng hộ của mỗi hành động bất kể khuynh hướng của nó có thể làm tăng hoặc
giảm niềm hạnh phúc của một nhóm người mà niềm hứng thú của họ vẫn là
một câu hỏi: hay, tất cả những gì giống như vậy nhưng có tên gọi khác ủng
hộ hay chống lại niềm hạnh phúc đó. Tôi nói về mọi hành động bất kể nó là gì,
và vì vậy không chỉ riêng đối với hành động của từng cá thể tư nhân mà còn
là mọi biện pháp của một chính phủ.”
Trong Chương VI, Bentham giới thiệu một phương pháp tính giá trị của sự
sung sướng và nỗi đau đớn, cái mà được biết như là phương pháp tính toán
hưởng lạc. Bentham cho rằng giá trị của sự sung sướng và nỗi đau đớn, xét
theo chính nó, có thể được tính toán dựa trên dựa trên cường độ, thời gian,
sự chắc chắn/không chắc chắn và mức độ gần/xa. Thêm vào đó, chúng ta
cần xem xét “Khuynh hướng của bất kỳ hành động mà từ đó nó được tạo ra”
và, vì vậy, tính toán được những hành động được đẻ ra từ đó, hay khả năng
nó có thể được những ấn tượng cùng loại theo sau và tính nguyên thủy của
nó, hay khả năng nó không được những ấn tượng của loại đối nghịch theo
sau. Cuối cùng, cần xem xét mức độ, số lượng người bị ảnh hưởng bởi hành động đó.
Có lẽ biết rằng Hutcheson về sau đã từ bỏ các công thức cho việc tính toán
hạnh phúc tuyệt đối vì “ chúng trở nên không hữu ích và bị một số độc giả
phản đối”, Bentham quả quyết rằng, không có gì lạ thường hay không xác
đáng về phương pháp của ông, vì “Trong tất cả điều này không có gì ngoại
trừ thực tế trong bản tính con người, bất cứ ở đâu họ có một cái nhìn rõ ràng
về niềm hứng thú của họ, là hoàn toàn phù hợp.”
Rosen cảnh báo rằng việc mô tả Chủ nghĩa vị lợi có thể “ít giống với những
nhà theo chủ nghĩa vị lợi thời kì đầu như Bentham và J. S. Mil ” và có thể “là
một phiên bản thô hơn của chủ nghĩa vị lợi hành động được hình thành vào
thế kỉ 20 như một người nộm bị tấn công và bị loại bỏ.” Thiệt là sai lầm khi
nghĩ rằng Bentham không quan tâm đến các quy tắc. Tác phẩm còn phôi thai
của ông liên quan đến các nguyên tắc của pháp luật và phương pháp tính
toán hưởng lạc được giới thiệu bằng những từ “sự sung sướng và tránh nỗi
đau khổ là những mục đích mà người lập pháp nhắm tới.” Trong Chương VII,
Bentham nói rằng: “ Công việc của Chính phủ là để thúc đẩy hạnh phúc của
xã hội, bằng cách trừng phạt và khen thưởng… Theo tỷ lệ khi một hành động
có xu hướng quấy rầy đến hạnh phúc đó, theo tỷ lệ khi xu hướng của hành
động đó là nguy hiểm, nó sẽ tạo ra đòi hỏi để trừng phạt.”
Vì vậy, câu hỏi được đặt ra là khi nào, liệu rằng, nó có thể hợp pháp để vi
phạm Luật. Điều này được xem xét trong tác phẩm “The Theory of
Legislation”, theo đó Bentham phân biệt giữa những cái hại cấp thứ nhất và
cấp thứ 2. Những cái hại của cấp thứ nhất là những hậu quả ngay lập tức.
Những cái hại của cấp thứ hai là khi hậu quả lan ra khắp cộng đồng gây ra
tình trạng “cảnh báo” và “nguy hiểm”.
Đúng là có một vài trường hợp, nếu chúng ta tự hạn chế trong những ảnh
hưởng của cấp đầu tiên, sẽ không thể chối câi được điều có lợi có ưu thế
hơn điều bất lợi. Nếu những hành vi phạm tội chỉ được xem xét dưới góc
nhìn này, thì sẽ rất khó khăn để gán bất kì lý do hợp lý nào cho việc đánh giá
sự chặt chẽ của Pháp luật. Mọi thứ phụ thuộc vào tính xấu xa của cấp thứ hai;
nó là việc gán cho hành động này tính phạm pháp và đưa ra những hình phạt
cần thiết. Chúng ta hãy lấy ví dụ những ham muốn vật chất về việc ăn uống.
Hãy cho là có một người ăn xin, đang rất đói, ăn cắp một ổ bánh mì từ một
gia đình giàu có, điều này có thể giúp cho anh ấy không chết đói, và chúng ta
có thể so sánh điều lợi mà người ăn xin có được với điều hại mà người giàu
có phải chịu không?…. Không phải điều gây hại trong cấp đầu tiên cần đưa
tới những hành động về những việc phạm pháp, mà là điều gây hại của cấp thứ hai.
5. Mối quan hệ giữa thuyết công lợi và kinh tế học
Những hệ quả trên những quan niệm mà ta có thể có về những chính sách
kinh tế xuất phát từ những quan điểm trên. Nếu ta có thể cộng những lợi ích
cá thể với nhau thì lợi chung không gì khác hơn là tổng của những lợi ích
riêng lẻ. Trong những điều kiện này cách khôn khéo nhất là để cho mỗi người
đeo đuổi những mục đích cá nhân và giảm đến mức tối thiểu sự can thiệp
của Nhà nước. Những lợi ích cá thể một cách tự phát trở nên hài hoà.
Học thuyết công lợi ảnh hưởng đến kinh tế học trên nhiều lĩnh vực: ảnh
hưởng này lan toả trong một thời kì dài, nhất là ở Anh, đến độ là người ta có
thể xem Bentham như là nhà cố vấn giấu mặt của các nhà kinh tế Anh thời cổ
điển. Thứ nhất, ảnh hưởng này đã dẫn đến quan niệm về homo economicus,
một chủ thể duy lí có khả năng đo những niềm vui và nỗi nhọc nhằn, nghĩa là
những chi phí và lợi thế. Qua sự kiện này, học thuyết công lợi nằm ở cội
nguồn của điều được gọi là phương pháp luận cá thể, một quan điểm có tính
nguyên tắc chỉ xem là có thể hiểu được những hành vi nào của con người có
thể gắn với những động cơ cá nhân. Thứ hai, học thuyết công lợi đã gợi
nhiều cảm hứng cho những công trình lí thuyết của nửa sau thế kỉ XIX làm
đảo lộn lí thuyết giá trị bằng cách đặt lí thuyết này trên cơ sở của lợi ích cận
biên. Cuối cùng, một nhánh mới của lí thuyết kinh tế, kinh tế học phúc lợi,
trong phần tư cuối của thế kỉ XIX, trực tiếp bắt nguồn từ những mối quan tâm
được các nhà công lợi nêu lên: từ nay vấn đề là phải phát triển một phương
pháp lựa chọn mới cho phép gán một ý nghĩa khách quan và chính xác cho
những khái niệm mơ hồ như lợi ích chung và cách mà biện pháp kinh tế này
hay biện pháp kinh tế khác có khả năng tác động, theo chiều tốt hay xấu, đến
mức thoả mãn của cộng đồng.
Tất nhiên, ảnh hưởng trực tiếp của học thuyết công lợi trên các nhà cận biên
là khá khiêm tốn. Nếu tất cả những nhà cận biên đều cố gắng xác định một
mô hình hành vi duy lí có xu hướng được các cá thể chấp nhận trong vùng
hành động của bản thân đụng đến những vấn đề kinh tế, và nếu quả thật là
những tính toán của những cá thể này dựa trên việc đối chiếu những niềm vui
và nỗi nhọc nhằn thì cũng phải thừa nhận là chính từ những công trình của
Pareto việc viện đến khái niệm lợi ích thường khiến cho các nhà kinh tế cảnh
giác cao độ. Khó khăn chính được “kinh tế học phúc lợi mới” (nghĩa là kinh tế
học paretian) nhấn mạnh là tính không chính đáng của việc so sánh liên cá
thể của những sở thích. Chính kể từ Pareto và từ những lập luận của ông
bằng những khái niệm đường bàng quan mà các lí thuyết gia ngày càng có
xu hướng chấp nhận một quan điểm thứ tự về lợi ích. Slutski (1915) rồi Hicks
và Al en (1947) đã hình thức hoá hướng nghiên cứu này. Paul Samuelson
(1947) đã trang bị cho quan niệm này một hình thức hầu như dứt khoát với lí
thuyết những “sở thích bộc lộ” của ông. Nếu những nhà kinh tế đương đại
ngày nay không còn tự nhận mình theo học thuyết công lợi thì dẫu sao những
mối quan tâm từng được học thuyết này nêu lên vẫn còn hiện diện rộng rãi
trong tâm thức của họ. Những phương pháp phân tích được tinh vi hoá và
thuật ngữ đã biến đổi, nhưng những phân tích kinh tế vi mô, đặc biệt là
những phân tích “chi phí-lợi thế” được xem là giúp soi sáng những quyết định
công cộng trong lĩnh vực phân tích các dự án, tiếp tục thừa hưởng cảm hứng
từ trào lưu tư tưởng mạnh mẽ này.
Document Outline
- Tthuyết công lợi của Jeremy Bentham và mối quan hệ
- 1. Thuyết công lợi là gì?
- 2. Sự hình thành của thuyết công lợi
- 3. Khái quát quan điểm về thuyết công lợi của Jere
- 4. Thuyết công lợi trong những tác phẩm của Bentha
- 5. Mối quan hệ giữa thuyết công lợi và kinh tế học