-
Thông tin
-
Quiz
Đề cương Triết học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Định nghĩa vật chất của VI Lê nin. Ý nghĩa phương pháp luận? Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận. Nguyên lý về sự phát triển. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Triết học Mác-Lênin (philosophy) 49 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Đề cương Triết học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Định nghĩa vật chất của VI Lê nin. Ý nghĩa phương pháp luận? Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận. Nguyên lý về sự phát triển. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác-Lênin (philosophy) 49 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA: LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT HỌC
Sinh viên: Nguyễn Hồng Ánh Mã sinh viên: 235010005 1 MỤC LỤC
Câu 1: Định nghĩa vật chất của VI Lê nin. Ý nghĩa phương pháp luận?.............................................3
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận.........................4
Câu 3: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận.................................................7
Câu 4: Nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa PPL...................................................................................11
Câu 5: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức................................................................14
Câu 6: Ý nghĩa phương pháp luận của ối quan hệ biện chứng lý luận và thực tiễn...........................17
Câu 7: Hình thái kinh tế-xã hội và vai trò của từng yếu tố. LH với thực tiễn VN hiện nay...............21
Câu 8: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Liên hệ thực tiễn VN hiện nay................................................................................................................28
Câu 9: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Liên hệ với thực tiễn
VN hiện nay..............................................................................................................................................29
Câu 10: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Liên hệ với thực tiễn Việt
Nam hiện nay...........................................................................................................................................32
Câu 11: Quan điểm triết học Mác Lê nin về bản chất con người. Liên hệ với việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay.....................................................................................................................34 2
Câu 1: Định nghĩa vật chất của VI Lê nin. Ý nghĩa phương pháp luận?
1. Định nghĩa vật chất của Lênin
+ “Vật chất là một phạm trù triết học”. Đó là một phạm trù rộng và khái quát nhất, không
thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa
học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
>>>> Xem lại định nghĩa:
+ Thuộc tính cơ bản của vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”. Đó cũng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
+ “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”, “tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”. Điều đó khẳng định “thực tại khách quan” (vật chất) là cái có trước
(tính thứ nhất), còn “cảm giác” (ý thức) là cái có sau (Tính thức hai). Vật chất tồn tại
không lệ thuộc vào ý thức.
+ “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”. Điều đó nói lên “thực tại khách quan” (vật chất)
được biểu hiện thông qua các dạn cụ thể, bằng “cảm giác” (ý thức) con người có thể nhận
thức được và “thực tại khách quan” (vật chất) chính là nguồn gốc, nội dung khách quan
của “cảm giác” (ý thức).
Định nghĩa của Lênin về chật chất đã giải quyết được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của
triết học theo lập trường của chủ nghĩa .
2. Định nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa
1. Chống lại tất cả các loại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về phạm trù vật chất
như: (Đối chiếu với các quan điểm duy tâm đã học ).
2. Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan, siêu hình, máy móc và những biến
tướng của nó trong quan niệm về chất chất của các nhà triết học tư sản hiện đại. Do đó,
định nghĩa này cũng đã giải quyết được sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của
các nhà triết học và khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
3. Khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, luôn vận động và phát
triển không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên
cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới và những quy luật
vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
– khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, song ý
thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy
con người phải tôn trọng tính khách quan, đồng thời phát huy tính năng động, chủ quan
của mình. Nếu không tôn trọng tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh chủ quan. 3
– Ý có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh
đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con
người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Nếu quá
coi trọng tính khách quan sẽ dễ dẫn đến bệnh bi quan.
=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc phụ bệnh
bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
– Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan
* Đối với hoạt động thực tiễn của bản thân:
– Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác
– Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác.
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không
thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh
lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
Đặc điểm của vật chất:
Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động;
Vật chất vận động trong không gian và thời gian;
Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và là
hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý
thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh
tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn.
3. Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng.
Thứ nhất: Vật chất quyết định ý thức
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, nội dung này được hiểu theo hai ý sau đây:
+ Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau:
Ý thức là ý thức của con người, không tách rời con người, nhưng sự ra đời của con người
cũng có giới hạn còn thế giới vật chất thì tồn tại vĩnh viễn, vô hạn. Do đó có thể khẳng 4
định rằng thế giới vật chất là cái có trước con người, vì vậy thế giới vật chất phải có trước ý thức.
Con người xuất hiện trên trái đất này chỉ có lịch sử hơn 6 triệu năm, bản thân thế giới vật
chất vĩ mô hơn con người có lịch sử 4,5 tỷ năm. Trong khi đó quan điểm về thế giới vật
chất là vô cùng, vô tận không do ai sinh ra, cũng không ai làm mất đi thế giới khách
quan, chúng ta không thể nào đếm được điểm khởi đầu của thế giới vật chất cũng như dự
đoán được điểm kết thúc của thế giới vật chất. Vì những lý lẽ trên cho thấy thế giới vật
chất phải có trước ý thức, vũ trụ phải có trước trái đất, trái đất phải có trước con người và
có con người rồi mới có ý thức.
Vì vậy, vai trò của vật chất với ý thức được thể hiện ở chỗ vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
+ Vật chất là nguồn gốc của ý thức:
Nguồn gốc của ý thức bao gồm cả nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong đó
nguồn gốc tự nhiên của ý thức gồm có bộ não người và thế giới khách quan cùng với quá
trình phản ánh năng động, sáng tạo giữa chúng, tác động qua lại giữa chúng. Nguồn gốc
xã hội của ý thức đó chính là lao động và ngôn ngữ.
Khi phân tích nguồn gốc của ý thức, chúng ta thấy bộ óc người thực ra là một dạng vật
chất có tổ chức cao, chứa đựng trong nó hàng tỷ noron thần kinh có khả năng sao lại,
chụp lại, chép lại và phản ánh thế giới khách quan bằng một cách năng động, sáng tạo.
Như vậy, yếu tố tạo nên ý thức là bộ não người là một dạng vật chất.
Thế giới khách quan thực chất là thế giới vật chất. Bản chất của ý thức chỉ là sự phản ánh
năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người. Nếu không có thế
giới khách quan, bộ óc con người sẽ không có đối tượng để phản ánh và do đó chắc chắn không có ý thức.
Lao động chính là hoạt động vật chất, mang tính tất yếu nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của con người. Nhờ lao động mà con người có thể chủ động, tác động vào thế giới
khách quan làm cho nó bộc lộ những thuộc tính, kết cấu bản chất, quy luật vận động qua
đó phản ánh vào bộ óc người, hình thành những tri thức về tự nhiên, về xã hội.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất nhưng mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ chính là
lớp vỏ vật chất của tư duy.
- Vật chất quyết định nội dung và mọi sự biến đổi của ý thức.
Thứ hai: Vai trò của ý thức đối với vật chất
Ý thức có tính độc lập tương đối và có thể tác động ngược trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Ý thức tác động vào vật chất theo hai hướng:
- Hướng tích cực khi con người có tri thức đúng đắn, có nghị lực, ý chí và tình cảm tích
cực thì con người có khả năng hành động hợp quy luật khách quan.
- Hướng tiêu cực khi con người không có tri thức đúng đắn, thiếu tình cảm, ý chí cách
mạng sẽ nhận thức sai lầm và hành động trái quy luật.
4. Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 5
Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, Hoatieu xin chia sẻ ví dụ về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức dưới đây để các bạn rõ hơn:
Ý thức có tính độc lập tương đối, tính năng động sáng tạo có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động của con người, vì vậy cùng với việc xuất phát từ hiện thực khách
quan, cần phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích cực của ý thức, hạn
chế mặt tiêu cực của ý thức.
Ví dụ: Trước khi thực hiện một trận đánh chung ta làm quyết tâm thư; thực hiện tự phê
bình và phê bình; rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực. Thực
hiện giáo dục nhận thức thông qua các phong trào, thực tiễn tư tưởng cục bộ địa phương và đạo đức giả.
Hay, giữa vật chất và ý thức chỉ có những mặt đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức
luận. Bên ngoài lĩnh vực đó, sự phân biệt là tương đối. Vì vậy một chính sách đúng đắn là
cơ sở để kết hợp hai điều này.
5. Liên hệ bản thân với mối quan hệ vật chất và ý thức
Thứ nhất: Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống
hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải ý thức được những vật
chất của cuộc sống còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan.
Thứ hai: Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu
của ý thức thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân.
Thứ ba: Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình huống.
Thứ tư: Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả
yếu tố khách quan và điều kiện khách quan.
6. Ý nghĩa của phương pháp luận
- Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các
hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những đối
tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào
hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch mới có thể thành công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà
không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
- Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động,
phát huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người
phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng.
Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa
vào lười suy nghĩ, lười lao động. 6
Câu 3: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Trước hết, ta cần hiểu “nguyên lý”, hay nguyên tắc, là những tư tưởng ban đầu, xuất phát,
có vai trò định hướng, chỉ đạo việc triển khai những lý thuyết tiếp theo.
Hiểu một cách chung nhất, “phổ biến” là tồn tại ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực. Những
lĩnh vực này được khái quát thành 03 lĩnh vực lớn nhất là tự nhiên, xã hội và tư duy.
I. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, “mối liên hệ phổ biến” là khái niệm chỉ sự quy
định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt
của một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thực tế
đều tác động đến nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tách biệt hoàn toàn với các sự vật, hiện tượng khác.
– Hiểu một cách khái quát thì:
+ “sự quy định” là sự lệ thuộc vào nhau giữa các sự vật (hay hiện tượng) A và B.
+ “tác động qua lại” là tác động hai chiều; A tác động vào B, đồng thời B cũng tác động vào A.
+ “chuyển hóa lẫn nhau” là A “biến” thành một phần hay toàn bộ B và ngược lại.
Ở trên, ta chỉ đề cập 02 sự vật (hay hiện tượng) A và B cho dễ hiểu. Trong thực tế, “mối
liên hệ phổ biến” bao quát A, B, C, D…, n, đến vô cùng. Điều này cũng đúng với vô số
các mặt trong mỗi sự vật, hiện tượng A, B, C, D…
II. Tính chất của mối liên hệ phổ biến
1. Tính khách quan của mối liên hệ phổ biến
– Trong thế giới vật chất, các sự vật, hiện tượng luôn có mối liên hệ với nhau, dù nhiều
dù ít. Điều này là khách quan, không lệ thuộc vào việc con người có nhận thức được các mối liên hệ hay không.
Sở dĩ mối liên hệ có tính khách quan là do thế giới vật chất có tính khách quan. Các dạng
vật chất (bao gồm sự vật, hiện tượng) dù có vô vàn, vô kể, nhưng thống nhất với nhau ở 7
tính vật chất. Có điểm chung ở tính vật chất tức là chúng có mối liên hệ với nhau về mặt
bản chất một cách khách quan.
– Có những mối liên hệ rất gần gũi ta có thể nhận thấy ngay. Ví dụ như mối liên hệ giữa con gà và quả trứng.
Nhưng có những mối liên hệ phải suy đến cùng, qua rất nhiều khâu trung gian, ta mới
thấy được. Gần đây, chúng ta hay được nghe về lý thuyết “hiệu ứng cánh bướm”. Lý
thuyết này xuất phát từ quan điểm cho rằng những sự vật, hiện tượng ở rất xa nhau nhưng
đều có liên quan đến nhau.
2. Tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến
Các mối liên hệ tồn tại giữa tất cả các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Không có sự vật, hiện tượng bất kỳ nào mà không có sự liên hệ với phần còn lại của thế giới khách quan.
Lấy lĩnh vực tự nhiên để phân tích, ta có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
thuộc riêng lĩnh vực tự nhiên. Cũng có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
thuộc tự nhiên với các sự vật, hiện tượng thuộc lĩnh vực xã hội. Lại có những mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng tự nhiên với các hiện tượng thuộc lĩnh vực tư duy (hay tinh thần)
Khi lấy lĩnh vực xã hội hoặc tư duy để phân tích, ta cũng có những mối liên hệ đa lĩnh vực như trên.
3. Tính phong phú, đa dạng của mối liên hệ phổ biến
Đó là sự muôn hình, muôn vẻ của những mối liên hệ. Tính đa dạng, nhiều loại của sự liên
hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chính các sự vật, hiện tượng quy định.
Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của các sự
vật, hiện tượng. Ta có thể nêu một số loại hình cơ bản sau:
–Liênhệbêntrongvàliênhệbênngoài.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố, các bộ
phận, các thuộc tính, các mặt khác nhau… trong cùng một sự vật. Nó giữ vai trò quyết
định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau. Nhìn chung,
nó không có ý nghĩa quyết định. Mối quan hệ này thường phải thông qua mối liên hệ bên
trong để phát huy tác dụng.
–Liênhệbảnchấtvàkhôngbảnchất,liênhệtấtyếuvàngẫunhiên. 8
Cũng có những tính chất, đặc điểm nêu trên. Ngoài ra, chúng còn có tính đặc thù. Chẳng
hạn, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong mối quan hệ này, lại là tất nhiên trong mối quan hệ khác.
–Liênhệchủyếuvàthứyếu;liênhệtrựctiếpvàgiántiếp.
Cách phân loại này nói đến vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
–Liênhệbảnchấtvàkhôngbảnchất;liênhệcơbảnvàkhôngcơbản.
Cách phân loại này nói lên thực chất của mối liên hệ là gì.
–Liênhệbaoquáttoànbộthếgiớivàliênhệbaoquátmộtsốhoặcmộtlĩnhvực.
Cách phân loại này vạch ra quy mô của mối liên hệ. -…v…v…
Sự phân loại các mối liên hệ có tính tương đối, vì ta phải đặt mỗi sự liên hệ vào một tình
huống, mối quan hệ cụ thể.
(Lưu ý: hai từ “liên hệ” và “quan hệ” không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau.).
Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa cho nhau. Sự chuyển hóa như vậy là do ta
thay đổi phạm vi xem xét, phân loại hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện tượng.
Phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất trong thế
giới khách quan, mang tính phổ biến. Những ngành khoa học cụ thể (toán, lý, hóa…)
nghiên cứu những kiểu liên hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới.
III. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, chúng
ta rút ra quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Quan điểm toàn diện
Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như sau:
–Trongnhậnthức,tronghọctập:
+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
Tức là xem xét những mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các tuộc tính
khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. 9
+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Tức là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó
với các sự vật, hiện tượng khác, kể cả trực tiếp và gián tiếp.
+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.
Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người
bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số hữu hạn những mối liên hệ. Do đó, trí thức đạt
được về sự vật, hiện tượng chỉ là tương đối, không trọn vẹn, đầy đủ.
Ý thức được điều này sẽ giúp ta tránh được tuyệt đối hóa những tri thức đã có, tránh xem
đó là những chân lý luôn luôn đúng. Để nhận thức được sự vật, chúng ta phải nghiên cứu
tất cả những mối liên hệ.
+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.
Phiến diện tức là chỉ chú ý đến một hoặc một số ít những mối quan hệ. Cũng có nghĩa là
xem xét nhiều mối liên hệ nhưng đều là những mối liên hệ không bản chất, thứ yếu… Đó
cũng là cách cào bằng những thuộc tính, những tính quy định trong bản thân mỗi sự vật.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến chỗ
khái quát để rút ra cái bản chất, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng. Điều này
không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê.
–Tronghoạtđộngthựctiễn
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phải dùng hoạt động thực
tiễn để biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật và những mối liên hệ qua lại giữa sự
vật đó với những sự vật khác.
Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác
nhau để tác động nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữ “chính sách dàn
đều” và “chính sách có trọng điểm”. Ví dụ như trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính
sách Đổi Mới, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội…, vừa nhấn mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm.
2. Quan điểm lịch sử – cụ thể
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của
không – thời gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem
xét, giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch
sử – cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ
quan, của sự ra đời và phát triển của vấn đề. 10
Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi là chân lý sẽ trở nên
sai lầm. Vì chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại, có không – thời gian của nó.
Câu 4: Nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa PPL
Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với mối liên hệ phổ biến giữa
chúng. Do vậy, nguyên lý về sự phát triển cũng gắn liền, quan hệ hữu cơ với nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến.
Hiểu một cách chung nhất, “nguyên lý” là những tư tưởng ban đầu, xuất phát, có vai trò
định hướng, chỉ đạo việc triển khai những lý thuyết tiếp theo.
I. Khái niệm về sự phát triển
– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái
quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.
– Ta cần phân biệt khái niệm “vận động” và khái niệm “phát triển“:
+ Vận động là mọi biến đổi nói chung. Khái niệm này có ngoại diên lớn hơn khái niệm phát triển.
+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn
liền với sự ra đời của cái mới này.
Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng
như chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một
trường hợp đặc biệt của sự vận động.
– Quan điểm biện chứng thừa nhận tính phức tạp, tính không trực tuyến của quá trình
phát triển. Sự phát triển có thể diễn ra theo con đường quanh co, phức tạp, trong đó
không loại trừ bước thụt lùi tương đối.
II. Tính chất của sự phát triển
1. Tính khách quan của sự phát triển
– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách
quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con
người có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không. 11
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.
Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.
– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã
phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.
Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi
vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không phát
triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích thước…)
mà không có sự biến đổi về chất.
2. Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực
khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.
Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng
thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
3. Tính kế thừa của sự phát triển
Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều
những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải,
loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại
phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.
Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.
4. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.
Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong
phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến
đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn… 12
Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày
càng lớn của con người.
Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.
III. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút
ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
1. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt,
mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó.
Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt
đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định,
xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo
của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
2. Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện
chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình
phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước
thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng
ta gặp phải những sai lầm tai hại.
3. Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện
tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của
sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. 13
– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp,
tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng
thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về
chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng
tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
Câu 5: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau về thực tiễn; nếu chủ nghĩa duy tâm mới chỉ cho
rằng thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không
xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội; trong khi đó chủ nghĩa duy vật
trước Mác lại cho rằng thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem
đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Đến tận khi C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế
thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm và thực tiễn của các nhà triết học trước đó,
đưa ra một quan điểm đúng đắn và thực tiễn như sau:
"Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải biên thế giới khách quan".
Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất
làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng của
bản chất con ngườ, nói tới thực tiễn là hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác
hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của động vật.
Không phải mọi hoạt động có mục đích của con người đều là thực tiễn. Hoạt động tư duy,
hoạt động nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học đều là những hoạt động có mục
đích của con người nhưng chỉ là hoạt động tinh thần không phải là thực tiễn. 2. Nhận thức là gì?
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh
biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng
động, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn. Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, 14
vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang tính trực giác. Qua quá trình nhận thức sử dụng tri
thức có sẵn và tạo ra tri thức mới.
3. Ví dụ về thực tiễn?
Ví dụ: Người công nhân vệ sinh dùng chổi và hót rác để thu quét những đống rác bên vệ
đường làm sạch môi trường; hay hoạt động lao động của người công nhân trong nhà máy,
xí nghiệp tác động vào máy móc trên những dây chuyền sản phẩm để tạo ra những sản
phẩm đưa ra thị trường phục vụ con người...
Ví dụ: Hoạt động lấy ý kiến cử tri tại địa phương, tiến hành Đại hội Đoàn thanh niên
trường học, Hội nghị công đoàn.
4. Các hình thức của thực tiễn
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật là
chất hoạt động có sớm nhất, cơ bản và quan trọng nhất. là
hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn. Đây là hoạt động mà con người sử dụng những
công cụ lao động tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện
cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. Sản xuất vật chất cũng là cơ sở
cho sự tồn tại các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.
Ví dụ: Người nông dân dùng máy gặt để thu hoạch lúa trên đồng; người ngư dân dùng
lưới để đánh bắt cá trên biển...
- Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác
nhau trong xã hội nhằm cải biên, cải tạo, phát triển những thiết chế xã hội, quan hệ chính
trị - xã hội thông qua các hoạt động như đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tôc,
đấu tranh vì hòa bình, dân chủ với mục đích chung để thúc đẩy xã hội phát triển.
Ví dụ: Nhân dân ta đấu tranh đánh đuổi chế độ thực dân, đế quốc để giành độc lập dân tộc.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến
hành trong những điều kiện do con người tạo ra, những cái không có sẵn trong tự
nhiên; gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác
định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này
có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. 15
Ví dụ: Con người nghiên cứu cơ chế hoạt động của virut corona để điều chế ra vaccine
ngừa Covid -19 tiêm chủng cho con người.
5. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
Vì sao lại nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? Xuất phát từ sự thật rằng mọi tri thức dù
trực tiếp hay gián tiếp đối với bất kì đối tượng con người nào, ở bất kì trình độ kinh
nghiệm hay lý luận đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho quá trình
nhận thức, cho mọi lý luận. Thông qua những hoạt động thực tiễn, con người tác động
vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con
người có thể nhận thức được chúng. Con người vốn quan hệ với thế giới bên ngoài bằng
thực tiễn chứ không phải bằng lý luận. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải
tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Lúc đầu con người
thường thu nhận tài liệu một cách chủ quan, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng
hợp, khái quát hóa... để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng
để xây dựng thành khoa học, lý luận.
Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh hay
lĩnh vực nào đi chăng nữa thì cũng phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết quả nhận
thức phải hướng dẫn và chỉ đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học không vận dụng được
để cải tạo thực tiễn thì không có bất cứ ý nghĩa nào.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức. Thực tiễn giúp con người
nhận thức toàn diện hơn về thế giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát
triển của nhận thức là kết quả của thực. Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến
đổi thế giơi, con người cũng không ngừng biến đổi theo. Từ đó con người ngày càng đi
sâu vào nhận thức và khám phá thế giới, làm sâu sắc và phong phú vốn tri thức của
mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải luôn luôn làm mới nguồn
tri thức, biết cách tổng kết kinh nghiệm, khái quảt lý luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn của con người cần tới khoa học
- từ đó dẫn đến sự ra đời của khoa học.
Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm của triết học Mác - Lênin đã
từng cho rằng: "vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan
hay không hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý. Nhận thức khoa học có tiêu chuẩn 16
logic riêng tuy nhiên chúng không thể thay thế hoàn toàn cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét
đến cùng nó còn phụ thuộc và tiêu chuẩn thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa tuyệt đối mà cũng vừa tương đối. Tuyệt đối ở đây
là bởi thực tiễn chính là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Không phải tất
cả thực tiễn có thể kiểm nghiệm được chân lý mà còn phải dựa vào thực tiễn ở mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau. Tính tương đối của thực tiễn thể hiện ở chỗ thực tiễn không
ngừng biến đổi và phát triển. Thực tiễn cũng không tránh khỏi yếu tố chủ quan bởi lẽ
thực tiễn cũng là một quá trình và được thực hiện bởi con người. Chính sự biến đổi không
ngừng của thực tiễn đã ngăn cản những tri thức của con người biến thành chân lý tuyệt
đối cuối cùng. Những tri thức liên tục bị kiểm nghiệm bởi các giai đoạn của thực tiễn có
thể thực tiễn trong quá khứ, hiện tại hay thậm chí là tương lai. Để từ đó nhận thức của
con người được bổ sung, điều chỉnh và phát triển toàn diện nhất.
Câu 6: Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng lý luận và thực tiễn
Quanhệbiệnchứnggiữalýluậnvàthựctiễn.Rútraýnghĩaphươngphápluận.Liênhệ
thựctiễncáchmạngViệtNam
Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề quan trọng của triết học.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của Triết
học Mác - Lê nin. Nhận thức đúng đắn và sâu sắc nội dung mối liên hệ giữa lý luận và
thực tiễn có ý nghĩa lớn lao đối với đời sống và sự phát triển của xã hội.
*Kháiniệmthựctiễn:
Chủnghĩaduytâmchủquan cho rằng thực tiễn là hoạt động nhận thức, hoạt động tinh
thần. Các nhà tôn giáo cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của những lực lượng siêu nhiên là
thực tiễn. Có nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng: hoạt động thực nghiệm khoa học
là thực tiễn. Đây là quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ.
Chủnghĩaduyvậtbiệnchứng: thực tiễn là một phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động
vật chất - cảm tính có tính lịch sử xã hội của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên
và xã hội. Do vậy, thực tiễn có ba đặc trưng sau:
- Thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động
vật chất, chứ không phải là hoạt động tinh thần (hay còn gọi là hoạt động lý luận). Đó là
những hoạt động mà con người phải sử dụng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác
động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Ví dụ hoạt động sản xuất ra của
cải vật chất như xây nhà, đắp đê, trồng lúa,v.v… 17
- Thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là
hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và trải
qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định. Trình độ và hình thức của hoạt động
thực tiễn có sự thay đổi qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử xã hội.
- Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục
vụ con người tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích, tính tự giác của hoạt động
thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ
vật chất để tác động và tự nhiên, xã hội nhằm cải tạo, biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích, phục vụ cho nhu cầu của mình.
Thựctiễncóbahìnhthứccơbảngồm:
1. Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là những hoạt
động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người,
là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của XH loài người, thông qua đó con
người ngày càng hoàn thiện.
2. Hoạt động CT-XH, hoạt động cải tạo các quan hệ CT-XH. Đây là hoạt động của con
người trong các lĩnh vực CT-XH nhằm cải tạo, biến đổi XH, phát triển các QHXH, hoàn
thiện các thiết chế xã hội. Chẳng hạn như đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh giai
cấp, mít tinh, biểu tình ...Đây là hình thức hoạt động thực tiễn cao nhất.
3. Hoạt động thực nghiệm khoa học (gồm KH tự nhiên và KH xã hội). Đây là hình thức
hoạt động thực tiễn đặc biệt vì trong thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra
những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu KHCN vào nhận thức và cải tạo thế giới.
Vai trò của hình thức hoạt động này ngày càng quan trọng do sự phát triển của KHCN.
Ba hình thức thực tiễn này liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó SXVC đóng
vai trò quyết định, hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới SXVC.
*Kháiniệmlýluận:
Theo chủ nghĩa DVBC, lý luận là hệ thống những tri thức, được khái quát từ kinh nghiệm
thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các
SVHT trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý
luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
Lýluậncó3đặctrưng:
Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lô gic chặt chẽ. 18
Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Lý luận là những tri
thức được khái quát từ những tri thức kinh nghiệm. Không có trí thức kinh nghiệm thực
tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất SVHT. Lý luận mang tính
trừu tượng và khái quát cao nhờ đó nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất
nhiên, tính quy luật của SVHT.
*MQHbiệnchứnggiữalýluậnvàthựctiễn:
* Giữa lý luận và thực tiễn có sự thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, thâm nhập,
chuyển hóa cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong MQH với LL, TT quyết định LL.
TT như thế nào thì LL phản ánh như thế đó. TT luôn vận động, biến đổi không ngừng vì
vậy LL cũng phải biến đổi theo. Trình độ lý luận càng cao, nhận thức thực tiễn càng sâu
sắc. Thực tiễn càng đa dạng phong phú càng làm cho lý luận phát triển. HCM: "Thống
nhất giữa LL và TT là 1 nguyên tắc căn bản của CN Mác-Lê. Lý luận mà không liên hệ
với thực tiễn là LL suông. TT không có LL hướng dẫn thì thành TT mù quáng". LL
không phản ánh hiện thực một cách thụ động mà có vai trò như kim chỉ nam vạch
phương pháp hành động có hiệu quả nhất để đạt mục đích của TT.
* MQH BC giữa LL và TT thể hiện qua vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng hoạt động thực
tiễn con người tác động vào sự vật, làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật.
Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp "vật liệu"
cho nhận thức. Không có thực tiễn thì không thể có nhận thức -> việc đo đạt ruộng đất
trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hi Lạp - La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý Talét, Pitago...
ra đời. Lý luận Mác - Lênin là sự khái quát thực tiễn CM lịch sử XH, là sự đúc kết những
tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực cụ thể để xây dựng nên hệ thống lý luận KH hoàn chỉnh.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói cách khác,
thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức giải quyết. Trên cơ sở đó, nhận thức phát triển.
Ví dụ: dịch cúm H5N1 -> nghiên cứu chế tạo vắc xin
Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan cho con người. Chẳng hạn, thông qua các hoạt
động sản xuất, chiến đấu, sáng tạo nghệ thuật... những cơ quan cảm giác như thính giác,
thị giác... được rèn luyện -> tạo cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả, đúng đắn hơn.
Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc cho con người nhận thức hiệu quả hơn
như kính thiên văn, máy vi tính... đều được sản xuất, chế tạo trong sản xuất vật chất. Nhờ
những công cụ máy móc này mà con người nhận thức sự vật chính xác, đúng đắn hơn.
Trên cơ sở đó, thúc đẩy nhận thức phát triển. 19
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi phối bởi
nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, con người phải tìm hiểu
thế giới xung quanh để tồn tại. Nghĩa là, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào
thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị
của tri thức - kết quả của nhận thức.
Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa
thành tích thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Thông qua thực
tiễn, con người mới "vật chất hóa" được tri thức, "hiện thực hóa" được tư tưởng. Thông
qua quá trình đó, con người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Phải hiểu thực tiễn
là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa là nó vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính
tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu
chuẩn khách quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể
hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển. Cho nên, khi thực tiễn
đổi thay thì nhận thức cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nghĩa là những tri thức đã đạt
được trước đây, hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn. Ví dụ: đường bay vàng
Vaitròcủalýluậnđốivớithựctiễn:
Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhờ những đặc trưng ưu trội
so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực
tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp
phần làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn.
Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để
tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng.
Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động
thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.
Dẫnchứng: HCM tiếp thu những nguyên lý phổ biến của CN Mác Lê để chỉ đạo cho thực tiễn phong trào CMVN
Phần2:Ýnghĩaphươngphápluận
- Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu: 20