lOMoARcPSD| 46342576
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Chúng ta biết rằng triết học khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi
giải quyết các vấn đề cụ thể nó buộc phải giải quyết vấn đề có ý nghĩa nền tảng
làm điểm xuất phát để giải quyết tất cả các vấn đề, đó là vấn đề giữa vật chất và
ý thức.Ăngghen viết:
“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức hay giữa tồn tại và tư duy”.
Vấn đề cơ bản của triết học được chia thành 2 mặt trả lời cho 2 câu hỏi lớn:
-Mặt thứ nhất: giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? ( bản thể luận)
Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của sự vật hiện tượng hay
sự vận động đang cần giải thích thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh
thần đóng vai trò là cái quyết định.Ta có thể giải quyết mặt thứ nhất trong vấn
đề cơ bản của triết học dựa trên 3cách sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức
2. Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất
3. Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn nhau
Hai cách giải quyết đầu tiên tuy có đối lập nhau về nội dung, tuy nhiên điểm
chung của hai cách giải quyết này đều thừa nhận mt trong hai nguyên thể (ý
thức hoặc vật chất) là nguồn gốc của thế giới. Cách giải quyết một và hai thuộc
về triết học nhất nguyên.
Triết học nhất nguyên bao gồm hai trường phái: trường phái triết học nhất
nguyên duy vật và trường phái triết học nhất nguyên duy tâm.
Cách thứ ba thừa nhận ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, cả hai nguyên
thể (ý thức và vật chất) đều là nguồn gốc của thế giới. Cách giải thích này thuộc
về triết học nhị nguyên.
-Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
(Nhận thức luận)
Nói cách khác, khi khám phá sự vật hiện tượng con người có dám tin rằng mình
nhận thức được sự vật hiện tượng hay không
lOMoARcPSD| 46342576
Đại đa số các nhà triết hc theo chủ nghĩa duy tâm cũng như duy vật đều cho
rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên:Các nhà triết
học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới( khả tri luận).
Song do vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức nên sự
nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Một số nhà triết
học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng
sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy. Một s nhà triết học
duy tâm khác theo “Bất khả tri luận” lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới
của con người.
2. Những tích cực và hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác quan niệm
về vật chất. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận định nghĩa vật chất
của lenin
+ Thời kỳ cổ đại thì các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ
thể, như Talet đã cho rằng vật chất là nước… Quan điểm này chỉ mang tính chất
trực quan, cảm tính. Nó chỉ có tác dụng chng lại CNDT và tôn giáo
+ Thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII: thời kỳ này thì các nhà triết học đã đồng
nhất vật chất với thuộc tính của vật chất, như Niutơn đã cho rằng khối lượng là
vật chất… Quan điểm này mang tính chất siêu hình, máy móc.
Các học thuyết duy vật thời cổ ở Trung Quc, Ấn Độ và Hy Lạp (Đạo gia,
thuyết Âm Dương - Ngũ Hành ở Trung Quốc; trường phái Lokayata ở Ấn Độ;
trường phái nguyên tử luận ở Hy Lạp) hoặc các học thuyết triết học duy vật thời
cận đại ở các nước Anh, Pháp, Đức (triết hc của Ph. Bêcơn, triết học tự nhiên
của R. Đềcáctơ, triết học tự nhiên của I. Kantơ,...).
- Ưu điểm và hn chế của những quan niệm đó:
+ Ưu điểm: với quan niệm về vật chất như đã nói ở trên, các nhà duy vật trước
Mác đã xác lập phương pháp luận tích cực cho sự phát triển nhận thức một cách
khoa học về thế giới, đặc biệt là trong việc giải thích về cấu tạo vật chất khách
quan của các hiện tượng tự nhiên, làm tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn
nhiều vấn đề trong việc ứng xử tích cực giữa con người và giới tự nhiên, vì sự
sinh tồn và phát triển của con người.
+ Hạn chế lịch sử: một mặt, quan niệm về vật chất ca các nhà duy vật trước
Mác chưa bao quát được mọi tồn tại vật chất trong thế giới, mặt khác quan niệm
này chủ yếu mới chỉ được tiếp cận từ giác độ cấu tạo bản thể vật chất của các sự
lOMoARcPSD| 46342576
vật, hiện tượng trong thế giới, giác độ nhận thức luận chưa được nghiên cứu
đầy đủ; tức là chưa giải quyết được triệt để phạm trù vật chất từ góc độ giải
quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học. Những hạn chế này được khắc phục
trong quan niệm về vật chất của ch nghĩa duy vật biện chứng.
Nội dung
định nghĩa vật chất
1.Vật chất là mt phạm trù triết học.
“Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong lĩnh vực
vật lý, hóa học, sinh học (nhôm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ trường…)
hay ngành khoa học thông thường khác… Cũng không thể hiểu như vật chất
trong cuộc sống hàng ngày (tiền bạc, cơm ăn áo mặc, ô tô, xe máy…).
“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm trù
rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức ca con người) vẫn chưa hình
dung được cái gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất này
trong một khoảng không gian nhất định, vì không có gì rộng hơn nó.
2. Vật chất là thực tại khách quan.
Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản
của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là
vật chất.
Dù con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay
không thì vật chất luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ. 3. Vật chất được đem
lại cho con người trong cảm giác.
Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý
thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức)
“sinh ra sau”, là tính thứ hai.
Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức
lệ thuộc vào vật chất.
Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý
thức vì chưa có con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan,
không lệ thuộc vào ý thức.
lOMoARcPSD| 46342576
Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp lên giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy ý
thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
4. Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh.
Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện
qua các dạng c thể (sắt, nhôm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…)
mà các giác quan của con người (tai, mắt, i…) có thể cảm nhận được.
Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp lại,
phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại,
chụp lại, phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận
thức của con người về vật chất càng sâu sắc, toàn diện.
Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua ch
là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.
ý nghĩa
1. Bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất.
Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong
thế giới hiện thực, vật chất có trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất,
là nguồn gốc khách quan của cảm giác (ý thức).
Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật
chất chỉ là phức hợp của những cảm giác (Platon,…), hoặc vật chất là sự tha
hóa của “ý niệm tuyệt đối” (Heghen,…).
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết
học: Vật chất có trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước.
2. Phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất.
Thuyết không thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới
khách quan, những tri thức mà con người biết được về thế giới khách quan chỉ
là hư ảo, giả dối, không có thật.
Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh…, Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác
lOMoARcPSD| 46342576
nhau, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận điểm
này đã phủ nhận thuyết không thể biết.
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết
học: Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin
khẳng định là có.
Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm sức mạnh, ý
chí, nghị lực để chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị phục vụ cuộc
sống của con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào
thế bị động, bỏ mặc số phận mình cho một thế lực siêu nhiên nào đó.
3. Khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về
vật chất.
Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng cụ
thể cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật
chất, lại có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất.
Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được hay chưa, đã biết về nó
hay chưa.
Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục
những quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là
các dạng cụ thể như cái bàn, cái ghế, ánh sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa,
không khí…; đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ
là biểu hiện của vận động cơ học.
4. Định hướng các khoa học cụ thể trong việcm kiến các dạng hoặc hình thức
mới của vật thể.
Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến mất,
luôn luôn vận động, định nghĩa vật chất của Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học
(nhà vật lý học, nhà hóa học, nhà sinh học…) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế
giới vật chất để tìm ra những kết cấu mới, những dạng thức thuộc tính, quy luật
vận động mới của vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức
của nhân loại.
lOMoARcPSD| 46342576
Ví dụ tiêu biểu là vào tháng 9/1995, tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu
Âu (CERN), theo thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành thực
nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản vật thể đầu tiên.
5. Cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội.
Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất
của Lênin đã giúp chúng ta xác định được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã
hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa đạt tới.
Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở ở các hoạt động thực tiễn của
con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con người và
phát triển xã hội.
Định nghĩa vật chất của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải
thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến c xã hội, những nguyên nhân
thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể
tìm ra các phương tán tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.
3. Quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản cht, kết cấu của ý
thức và mối quan hệ vật chất và ý thức Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hình ảnh tinh thần toàn vẹn về hiện thực khách quan, có kết cấu
phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau như tri thức, tình cảm, ý
chí… trong đó tri thức có vai trò quan trọng nhất.
Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới (kết quả của quá trình con
người phản ánh về thế giới). Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức
về tự nhiên, về xã hội, về con người…
Tình cảm phản ánh xúc động của con người trước đối tượng của hiện thực.
Giữa tri thức và tình cảm có quan hệ chặt chẽ nhau, làm tiền đề cho nhau và trở
thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.
Ý chí là năng lực xác định mục tiêu cho hành động và quyết tâm thực hiện mục
tiêu đó. Ý chí mạnh mẽ thường là trạng thái liên kết chặt chẽ giữa tri thức và
tình cảm.
Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc vật chất. Đó là nguồn
gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội a. Nguồn gốc tự nhiên
lOMoARcPSD| 46342576
Não người:
Não người có chức năng ý thức (Ý thức là chức năng của b não). Não là tổ
chức vật chất phát triển cao nhất trong sinh giới, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu
dài của giới tự nhiên. Khoa học đã chứng minh rằng hoạt động sinh lý thần kinh
của não bộ là cơ sở vật chất của ý thức
Não người có thuộc tính phản ánh. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của
hệ thống vật chất này về những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong qúa
trình tác động qua lại. Trong quá trình tiến hoá của tự nhiên, t chức vật chất
càng phát triển cao thì năng lực phản ánh càng cao. Não ngưới là tổ chức vật
chất phát triển cao nhất của sinh giới cho nên nó có năng lực phản ánh đặc biệt,
đó là sự phản ánh của ý thức.
Sự tác động của thế giới khách quan vào não người: Não người nhận sự tác
động từ thế giới khách quan thông qua các giác quan và hệ thống thần kinh cảm
giác. Thế giới khách quan là đối tượng của cảm giác. Các thông tin do cảm giác
đem lại được bộ não xử lý và phản ánh tạo ra ý thức.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới khách quan tác động vào bộ óc là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. b. Nguồn gốc xã hội
Năng lực phản ánh đặc biệt của ý thức còn được lý giải bởi nguồn gốc xã hội
của nó, đó là lao động và ngôn ngữ Lao động:
Lao động hiểu theo nghĩa là các hoạt động sáng tạo ra công cụ và sử dng công
cụ trong sản xuất để tạo ra ca cải cho xã hôï và cho bản thân người lao động.
Vai trò của lao động trong quá trình hình thành ý thức:
+ Lao động hình thành nên con người và xã hội loài người. Chỉ trong xã hội
loài người với các quan hệ xã hội, con người mới hình thành được ý thức. (Con
vật không có quan hệ xã hội nên nó không có ý thức).
+ Lao động làm cho bàn tay, khối óc, tư duy phát triển. Ý thức xuất hiện không
phải do sự tác động một cách tự nhiên của thế giới khách quan vào đầu óc con
người. Nhờ có lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực, làm
cho chúng phải bộc lộ những đặc tính, những kết cấu và những quy luật vận
động của chúng thành những hiện tượng nhất định. Những hiện tượng ấy tác
động vào não người, từ đó con người nhận thức được bản chất của thế giới hiện
thực. Do vậy lao động là phương thức hình thành và phát triển ý thức.
lOMoARcPSD| 46342576
+ Lao động là nguồn gốc hình thành ngôn ngữ. Sống trong xã hôi, con người có
nhu cầu liên kết nhau, trao đổi thông tin với nhau, “cần thiết phải nói với nhau
một cái gì đó”. Kết quả là ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình
lao động Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ đến lượt nó trở thành hiện thực trực tiếp của tư duy, ngôn ngữ càng
phong phú thì thế giới đối tượng càng được mở rộng
Ngôn ngữ là công cụ, phương tiện khái quát hóa và trừu tượng hóa hiện thực,
giúp con người đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ngôn ngữ còn là phương tiện liên kết tư duy loài người qua các thế hệ làm cho
ý thức mang tính xã hội sâu sắc. Như vậy ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát
triển tâm lý, tư duy của con người và nhân loại
Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội quan hệ chặt chẽ nhau, trong đó nguồn
gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định bản chất của ý thức là nguồn gốc xã
hội
Bản chất của ý thức bản chất của nó được thể hiện
qua khía cạnh sau đây
Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập
với cái phản ánh (tức ý thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự vật khách
quan. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất.
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ
quan, không có tính vật chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật
chất có tồn tại cảm tính.
2. Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan, nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động,
giản đơn, máy móc của sự vật. Tức là, không phải cứ sự vật tác động như thế
nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên như thế.
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo.
Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới khách quan, con người tác động vào
sự vật một cách có định hướng, chọn lc, tùy theo nhu cầu của mình (xây nhà,
cày ruộng, đào mương, xây cầu…). Chính vì thế, ý thức của con người là sự
lOMoARcPSD| 46342576
phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách
quan.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể
tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai
một cách tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại.
Thậm chí, một số người còn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị…
Tính sáng tạo ca ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của
nó là sáng tạo ca sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản
ánh.
3. Ý thức là quá trình phản ánh đặc biệt, là sự thống nhất của 3 mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi,
sông, mưa,…). Sự trao đổi này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn lọc
các thông tin cần thiết.
Hai là, con người mô hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư
duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức sáng tạo lại
hiện thực, là sự mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi
vật chất.
Ba là, chủ thể chuyển mô hình từ trong óc ra hiện thực khách quan. Đây là qúa
trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn để biến quan niệm
của mình thành dạng vật chất trong cuộc sống. Ví dụ như con người sẽ xây cầu
qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết kế đã có ở bước 2 ở trên
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau;
vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản
ánh đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người thì mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật
chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của
khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan
đểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
lOMoARcPSD| 46342576
Các yếu tố tạo thành ngun gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đều hoặc
là chính bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất nên
vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện ca ý thức b các quy luật sinh học, các quy luật xã
hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu t này thuộc
lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định
cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức
là sự phản ánh lại của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu
không có vật chất trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ không có ý thức
nên ý thức là thuộc tính, là sản phẩm cuẩ vật chất, chịu sự chi phối, quyết định
của vật chất. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những điều
này có cơ sở từ vật chất và tuân theo những quy luật của vật chất.
Vật chất quy định nội dung và hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý
nghĩa là ý thức mang những thông tin về đối tượng vật chất c thể. Những
thông tin này có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều
do mức độ tác động của vật chất lên bộ óc con người.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở
lại cật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi
sinh ra sẽ không bị vật chất gò bó mà có thể tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với
khách quan. Qua hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện
thực khách quan theo nhu cầu phát triển của con người. Và mức độ tác động
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, điều kiện, môi trường… và nếu
được tổ chức tt thì ý thức có khả năng tác động lớn đến vật chất.
lOMoARcPSD| 46342576
Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được
chứng tỏ qua việc nhận thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch,
xác định mục tiêu ý chí để hoạt động của con người có thể tác động trở lại vật
chất. Việc tác động tích cực lên vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và
ngược lại, nếu nhận tức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
4. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ
biến, nguyên lý phát triển
Nguyên lý về mi liên hệ phổ biến chính là nguyên tắc lý luận để xem xét
sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ. Chúng ràng buộc và
tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa
các mặt của một sự vật và hiện tượng trên thế giới. Và nguyên này được
biểu hiện rõ nhất qua mối quan hệ ca 6 cặp phạm trù cơ bản nêu trên. Nội
dung :dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng
trong thế giới. Thế giới này là một chỉnh thể thống nhất. các sự vật hiện
tượng trên thế giới này liên hệ tác động, chuyển hóa nhau.
Ý nghĩa của phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến
Thông qua nội dung về việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ ph biến
của các sự vật, hiện tượng thì các quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử
– cụ thể trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn đã được ra đời.
Cụ thể là:
1. Quan điểm toàn diện
Trong quan điểm toàn diện thì chúng ta cần xem xét các sự vật, hiện tượng
các khía cạnh:
Trong nhận thức hoặc trong học tập
Thứ nhất, cần xem xét các mối liên hệ bên trong các sự vật và hiện tượng.
Khi đó, cần xem xét mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố hay
các thuộc tính khác nhau ở trong chính sự vật và hiện tượng đó.
Thứ hai, cần xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật và hiện tượng.
Tức là việc xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các sự
vật và hiện tượng đó với các sự vật và hiện tượng khác bằng cả trực tiếp và
gián tiếp.
Thứ ba, cần xem xét sự vật và hiện tượng trong mi quan hệ phù hợp với
nhu cầu thực tiễn. Tức là ứng với mỗi người, mỗi thời đại và hoàn cảnh lịch
sử nhất định thì con người sẽ chỉ có một số phản ánh mang tính hữu hạn
lOMoARcPSD| 46342576
những mối quan hệ đó. Vì vậy, trí thức đạt được về sự vật và hiện tượng ch
là tương đối, không có sự trọn vẹn và đầy đủ. Khi ý thức được điều này sẽ
giúp chúng ta tránh được tuyệt đối hóa các tri thức đã có và tránh xem đó là
những chân lý luôn đúng. Do đó, để nhận thức được hết sự vật, hiện tượng
thì chúng ta phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ.
Thứ tư, tránh xa quan điểm mang tính phiến diện khi xem xét một sự vật,
hiện tượng. Phiến diện được hiểu là sự chú ý tuyệt đối vào một hoặc một số
ít mối liên hệ, có nghĩa là xem xét nhiều mối liên hệ nhưng thực chất đều là
mối liên hệ không có bản chất hay thứ yếu.
2. Quan điểm lịch sử – cụ thể
Theo như tính chất bên trên thì mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong
không gian và thời gian nhất định; đồng thời nó sẽ mang dấu ấn của không
gian và thời gian đó. Vì vậy, chúng ta cần quán triệt quan điểm về lịch sử
cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý phát triển Nội
dung:
Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong các
lĩnh vực khác nhau của thế giới, nguyên lý về sự phát triển được phát biểu
như sau:
Một là, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và
phát triển.
Hai là, phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận
động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất do việc giải quyết mâu
thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định
của phủ định.
ý nghĩa
+ Trong hoạt động nhận thức, chủ thể cần phải khách quan – toàn diện: Một
là, phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa của đối tượng nhận thức
trong sự vận động và phát triển của chính nó. Nghĩa là, xác định được: Đối
tượng đã tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh nào; Đối
tượng hiện đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra
sao; Đối tượng sẽ tồn tại như thế nào trên những nét cơ bản trong tương lai.
Hai là, xây dựng được hình ảnh chỉnh thể trong tư duy về đối tượng nhận
thức như sự thống nhất của các xu hướng, giai đoạn thay đổi của nó. Từ đó
lOMoARcPSD| 46342576
phát hiện ra đặc điểm, tính chất, quy luật vận động, phát triển (bản chất) của
đối tượng nhận thức.
Quan điểm phát triển còn đòi hỏi phải xác định sự chuyển hóa giữa những
cái đối lập nhau (mâu thuẫn) để tìm ra nguồn gốc, giữa lượng – chất để thấy
được cách thức, và giữa cái cũ – cái mới để phát hiện ra xu hướng vận động,
phát triển của đối tượng.
+ Trong hoạt động thực tiễn, khi cải tạo đối tượng chủ thể cần phải: Một là,
chú trọng đến mọi điều kiện, tình hình, khả năng của đối tượng để nhận
định đúng mọi xu hướng thay đổi có thể xảy ra đối với đối tượng. Hai là,
thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện, đối
sách thích hợp để biến đổi những điều kiện, tình hình; để phát huy hay hạn
chế những khả năng của đối tượng nhằm lèo lái đối tượng vận động, phát
triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho chúng ta.
Như vậy, quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình,
đầu óc bảo thủ định kiến, cung cách suy nghĩ sơ cứng giáo điều; nó xa lạ với
sự tuyệt đối hóa một giai đoạn nào đó trong quá trình vận động của đối
tượng nhận thức cũng như của bản thân quá trình nhận thức đối tượng, nó
cũng xa lạ với đầu óc trọng cổ, chủ nghĩa lí lịch, chủ nghĩa thực tại, chủ
nghĩa vị lai…
Phương pháp luận duy vật biện chứng đòi hỏi phải kết hợp nguyên tắc khách
quan với quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển để xây dựng quan
điểm lịch sử – cụ thể “linh hồn” phương pháp luận của triết học mácxít.
5. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập Nội dung:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là Quy luật ở vị trí “hạt
nhân” của phép biện chứng duy vật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là Quy luật về nguồn gốc,
động lực cơ bản, phổ biến ca mọi quá trình vân động và phát triển. Theo Quy
luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động,
phát triển của sự vật chính là xuất phát từ mâu thuẫn khách quan, vốn có ca
nó.
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh
với nhau.
lOMoARcPSD| 46342576
Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ , ràng buộc,
không tách rời nhau, qui định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia
làm tiền đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng
nhất của nó.
Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để ch khuynh hướng tác động
qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các
mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mi quan hệ và
điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển
hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú,
đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào
những điều kiện lịch sử, cụ thể.
Trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, sự đấu tranh là tuyệt đối
còn thống nhất là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có
sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình.
Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai
mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột gay gắt với nhau và
khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được
giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành, và quá trình
tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện
tượng luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển
hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển
trong thế giới. ý nghĩa:
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động
lực củasự vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân ch đầy đủ các mặt đối lập,
nắm được bản chất, nguồn gốc. khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
V.I.Lênin đã cho rằng: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ
phận mâu thuẫn của nó... đó là thực chất... của phép biện chứng".
- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và
giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể. Tức là biết phân
tích cụ thể từng loại màu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong
lOMoARcPSD| 46342576
quá trình hoạt độne nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí ca
các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định: những đặc điểm
của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một
cách đúng đắn nhất.
6. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận quy luật chuyển hóa từ những sự
thay dổi về lựng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thay đổi thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng. Chúng tác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
- Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển,
sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật hiện tượng đã tích lũy những thay đổi
về lượng đến mt ngưỡng nhất định.
- Quy luật này cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, cho thấy
sự thayđổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từng bước và kết hợp với sự
thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa có những bước tiến
tuần tự, vừa cónhững bước tiến đột phá.
Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
- Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện
chứng bởi vì mỗi sự vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về chất lại
vừa vừa có tính quy định về lượng, nên không có chất thiếu lượng và ngược lại.
- Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất k nào cũng dẫn đển sự
thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự
thay đổi vềchất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được
gọi là Độ.(Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là
khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản
chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn ca độ, sự vật, hiện tượng
vẫn còn là nó, chưa chuyểnhóa thành sự vật và hiện tượng khác.)
Vd: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ là
118 tuổi. Như vậy giới hạn từ 0→118 năm là “độ” của con người xét về mặt
tuổi.
Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất.
lOMoARcPSD| 46342576
- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay
đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến
những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là Điểm nút. Sự thay đổi về lượng
khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời
của chất mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước nhảy
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vd: 0°C, 100°C, 118 tuổi là điểm nút,...
- Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều
hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và
điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục
bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận
động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là
sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện
tượng.
Vd: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là 1 bước nhảy. Có bước nhảy
nàylà do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100°C Lượng tác
động trở lại cht.
- Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới
tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu ca sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng.Vd: Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi Game
online thì sẽthu nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sẽ đạt được nhiều điểm
cao hơn.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu
sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác
động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng.
Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các
quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy ý nghĩa phương pháp luận
- Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích
lũy về lượng để có biến đổi về chất, không được nôn nóng cũng như bảo thủ.
lOMoARcPSD| 46342576
Bước nhảy làm cho chất mới ra đời thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của sự
vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, những thay đổi về chất
do bước nhảy gây nên vì vậy khi lượng tích lũy đến mức giới hạn, đến điểm
nút, độ nên mun tạo ra bước nhảy phải thực hiện quá trình tích lũy về lượng.
- Thứ hai, vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất
của sự vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm
nút, do đó,trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả
khuynh; mặt
khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến
giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật,
hiện tượng. Vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong
công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan,
duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy
liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không
dám thực hiện bước nhảy mặc dù luợng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm
phát triển chỉ đơn thuần là sự biến hóa về lượng.
- Thứ ba, vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong
phú, dovậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các
hình thứccủa bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng tĩnh vực cụ thể.
Đặc biệt,trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào
điều kiện kháchquan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người.
Do đó, cần phải nângcao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá
trình chuyển hóa từ lượngđến chất một cách có hiệu quả nhất.
- Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộcvào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng, do
đó phảibiết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên
kết đó trêncơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
7. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của các cặp phạm trù cái chung
và cái riêng; nguyên nhân và kết quả; nội dung và hình thức
cặp phạm trù cái chung và cái riêng:
Cái riêng: là phạm trù triết học để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
(Cái riêng được hiểu như là một chỉnh thể độc lập với cái khác).
lOMoARcPSD| 46342576
Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
không những có ở một sự vật, một hiện tượng, mà còn lặp lại trong nhiều sự
vật, hiện tượng khác.
Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm vốn
có ở một sự vật, hiện tượng mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
Cái chung tồn tại trong cái riêng, vì cái chung là một mặt, một thuộc tính
của cái riêng, không có cái chung tồn tại bên ngoài cái riêng và nó liên hệ
không tách rời cái đơn nhất.
Mọi cái riêng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập, giữa cái đơn nhất
và cáichung. (Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất
vừa là cái chung; các mặt cá biệt, không lặp lại của sự vật, hiện tượng đó là
biểu hiện cái đơn nhất. Còn các mặt lặp lại ở nhiều sự vật hiện tượng thì biểu
hiện cái chung).
Cái riêng là cái toàn bộ bởi vì nó là một chỉnh thể đc lập với cái khác, là
cái phong phú hơn cái chung vì ngoài những điểm chung, cái riêng còn có cái
đơn nhất.
Cái chung là cái bộ phận bởi vì nó chỉ là những thuộc tính của cái riêng
nhưng nó sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung là những thuộc tính, những mối
liên hệ ổnđịnh, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
Cái đơn nhất và cái chung có mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống
nhất. Trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá lẫn nhau: khi cái đơn
nhất chuyển hoá thành cái chung thì nó thể hiện cái mới ra đời và phát triển, khi
cái chung chuyển hoá thành cái đơn nhất thì nó thể hiện cái cũ, cái lỗi thời cần
phải vứt bỏ.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong hoạt động thực
tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
Khi vận dụng cái chung, phải cá biệt hoá cái chung trong mi hoàn cảnh
cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn phải tạo ra điều thuận lợi để cái đơn nhất và
cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau nếu có lợi cho con người.
lOMoARcPSD| 46342576
cặp phạm trù nguyên nhân và kết qu;
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết
quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác
động. Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng
cũng đều biểu hiện mi liên hệ nhân quả.
Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi
những nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì
sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại,
nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau
thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng ca nhau.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết
quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Thứ hai: Sự tác đng trở lại ca kết quả đối với nguyên nhân.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả
không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực
ngược trở lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả.
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ
khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì
trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do mt nguyên nhân nào đó sinh ra,
đến lượt mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá
trình này tiếp tc mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô
lOMoARcPSD| 46342576
cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầy hay cuối cùng. Ý nghĩa
phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không
có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân.
Nhưng không phải con người thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân.
Nhiệm vụ của nhận thức khó học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó.
Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự
vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ
trong đầu óc con người, tách rời với thế giới hiện thực.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của
một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra
trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân
sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành
kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên
nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,… Đng thời phải
nắm được chiều hướng tác đng của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích
hợp tạo điều kiện cho nguyên nhântác động tích cực đến họt động và hạn
chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn
chúngta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện
thức đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mc đích.
cặp phạm trù nội dung và hình thức
+ Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được thể hiện là, khônghình
thức nào lại không chứa đựng nội dung và không có một nội dung nào lại
không tồn tại trong một hình thức nhất định. Tuy nhiên, không phải lúc nào nội
dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Bởi vì, không phải một nội dung bao
gìơ cũng chỉ được thể hiện ở một hình thức nhất định, nội dung trong điều kiện
phát triển khác nhau, lại được thể hiện ở dưới nhiều hình thức khác nhau. Cũng
như cùng một hình thức, có thể biểu hiện những nội dung khác nhau….
+ So với hình thức, nội dung luôn giữ vai trò quyết định quá trình phát triển của
sự vật, nó là yếu tố động và luôn thay đổi. Còn hình thức, là yếu tố tương đối ổn
định của sự vật. Vì vậy, sự biến đổi và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46342576
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Chúng ta biết rằng triết học khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi
giải quyết các vấn đề cụ thể nó buộc phải giải quyết vấn đề có ý nghĩa nền tảng
làm điểm xuất phát để giải quyết tất cả các vấn đề, đó là vấn đề giữa vật chất và ý thức.Ăngghen viết:
“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức hay giữa tồn tại và tư duy”.
Vấn đề cơ bản của triết học được chia thành 2 mặt trả lời cho 2 câu hỏi lớn:
-Mặt thứ nhất: giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? ( bản thể luận)
Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của sự vật hiện tượng hay
sự vận động đang cần giải thích thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh
thần đóng vai trò là cái quyết định.Ta có thể giải quyết mặt thứ nhất trong vấn
đề cơ bản của triết học dựa trên 3cách sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức
2. Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất
3. Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn nhau
Hai cách giải quyết đầu tiên tuy có đối lập nhau về nội dung, tuy nhiên điểm
chung của hai cách giải quyết này đều thừa nhận một trong hai nguyên thể (ý
thức hoặc vật chất) là nguồn gốc của thế giới. Cách giải quyết một và hai thuộc
về triết học nhất nguyên.
Triết học nhất nguyên bao gồm hai trường phái: trường phái triết học nhất
nguyên duy vật và trường phái triết học nhất nguyên duy tâm.
Cách thứ ba thừa nhận ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, cả hai nguyên
thể (ý thức và vật chất) đều là nguồn gốc của thế giới. Cách giải thích này thuộc
về triết học nhị nguyên.
-Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? (Nhận thức luận)
Nói cách khác, khi khám phá sự vật hiện tượng con người có dám tin rằng mình
nhận thức được sự vật hiện tượng hay không lOMoAR cPSD| 46342576
Đại đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm cũng như duy vật đều cho
rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên:Các nhà triết
học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới( khả tri luận).
Song do vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức nên sự
nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Một số nhà triết
học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng
sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy. Một số nhà triết học
duy tâm khác theo “Bất khả tri luận” lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người.
2. Những tích cực và hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác quan niệm
về vật chất. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận định nghĩa vật chất của lenin
+ Thời kỳ cổ đại thì các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ
thể, như Talet đã cho rằng vật chất là nước… Quan điểm này chỉ mang tính chất
trực quan, cảm tính. Nó chỉ có tác dụng chống lại CNDT và tôn giáo
+ Thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII: thời kỳ này thì các nhà triết học đã đồng
nhất vật chất với thuộc tính của vật chất, như Niutơn đã cho rằng khối lượng là
vật chất… Quan điểm này mang tính chất siêu hình, máy móc.
Các học thuyết duy vật thời cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp (Đạo gia,
thuyết Âm Dương - Ngũ Hành ở Trung Quốc; trường phái Lokayata ở Ấn Độ;
trường phái nguyên tử luận ở Hy Lạp) hoặc các học thuyết triết học duy vật thời
cận đại ở các nước Anh, Pháp, Đức (triết học của Ph. Bêcơn, triết học tự nhiên
của R. Đềcáctơ, triết học tự nhiên của I. Kantơ,...).
- Ưu điểm và hạn chế của những quan niệm đó:
+ Ưu điểm: với quan niệm về vật chất như đã nói ở trên, các nhà duy vật trước
Mác đã xác lập phương pháp luận tích cực cho sự phát triển nhận thức một cách
khoa học về thế giới, đặc biệt là trong việc giải thích về cấu tạo vật chất khách
quan của các hiện tượng tự nhiên, làm tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn
nhiều vấn đề trong việc ứng xử tích cực giữa con người và giới tự nhiên, vì sự
sinh tồn và phát triển của con người.
+ Hạn chế lịch sử: một mặt, quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước
Mác chưa bao quát được mọi tồn tại vật chất trong thế giới, mặt khác quan niệm
này chủ yếu mới chỉ được tiếp cận từ giác độ cấu tạo bản thể vật chất của các sự lOMoAR cPSD| 46342576
vật, hiện tượng trong thế giới, giác độ nhận thức luận chưa được nghiên cứu
đầy đủ; tức là chưa giải quyết được triệt để phạm trù vật chất từ góc độ giải
quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học. Những hạn chế này được khắc phục
trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nội dung định nghĩa vật chất
1.Vật chất là một phạm trù triết học.
“Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong lĩnh vực
vật lý, hóa học, sinh học (nhôm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ trường…)
hay ngành khoa học thông thường khác… Cũng không thể hiểu như vật chất
trong cuộc sống hàng ngày (tiền bạc, cơm ăn áo mặc, ô tô, xe máy…).
“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm trù
rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa hình
dung được cái gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất này
trong một khoảng không gian nhất định, vì không có gì rộng hơn nó.
2. Vật chất là thực tại khách quan.
Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản
của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Dù con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay
không thì vật chất luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ. 3. Vật chất được đem
lại cho con người trong cảm giác.
Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý
thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức)
“sinh ra sau”, là tính thứ hai.
Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức
lệ thuộc vào vật chất.
Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý
thức vì chưa có con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan,
không lệ thuộc vào ý thức. lOMoAR cPSD| 46342576
Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp lên giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy ý
thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
4. Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh.
Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện
qua các dạng cụ thể (sắt, nhôm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…)
mà các giác quan của con người (tai, mắt, mũi…) có thể cảm nhận được.
Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp lại,
phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại,
chụp lại, phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận
thức của con người về vật chất càng sâu sắc, toàn diện.
Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua chỉ
là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người. ý nghĩa
1. Bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất.
Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong
thế giới hiện thực, vật chất có trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất,
là nguồn gốc khách quan của cảm giác (ý thức).
Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật
chất chỉ là phức hợp của những cảm giác (Platon,…), hoặc vật chất là sự tha
hóa của “ý niệm tuyệt đối” (Heghen,…).
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết
học: Vật chất có trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước.
2. Phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất.
Thuyết không thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới
khách quan, những tri thức mà con người biết được về thế giới khách quan chỉ
là hư ảo, giả dối, không có thật.
Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh…, Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác lOMoAR cPSD| 46342576
nhau, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận điểm
này đã phủ nhận thuyết không thể biết.
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết
học: Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin khẳng định là có.
Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm sức mạnh, ý
chí, nghị lực để chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị phục vụ cuộc
sống của con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào
thế bị động, bỏ mặc số phận mình cho một thế lực siêu nhiên nào đó.
3. Khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.
Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng cụ
thể cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật
chất, lại có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất.
Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được hay chưa, đã biết về nó hay chưa.
Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục
những quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là
các dạng cụ thể như cái bàn, cái ghế, ánh sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa,
không khí…; đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ
là biểu hiện của vận động cơ học.
4. Định hướng các khoa học cụ thể trong việc tìm kiến các dạng hoặc hình thức mới của vật thể.
Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến mất,
luôn luôn vận động, định nghĩa vật chất của Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học
(nhà vật lý học, nhà hóa học, nhà sinh học…) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế
giới vật chất để tìm ra những kết cấu mới, những dạng thức thuộc tính, quy luật
vận động mới của vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại. lOMoAR cPSD| 46342576
Ví dụ tiêu biểu là vào tháng 9/1995, tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu
Âu (CERN), theo lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành thực
nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản vật thể đầu tiên.
5. Cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội.
Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất
của Lênin đã giúp chúng ta xác định được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã
hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa đạt tới.
Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở ở các hoạt động thực tiễn của
con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con người và phát triển xã hội.
Định nghĩa vật chất của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải
thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân
thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể
tìm ra các phương tán tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.
3. Quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý
thức và mối quan hệ vật chất và ý thức Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hình ảnh tinh thần toàn vẹn về hiện thực khách quan, có kết cấu
phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau như tri thức, tình cảm, ý
chí… trong đó tri thức có vai trò quan trọng nhất.
Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới (kết quả của quá trình con
người phản ánh về thế giới). Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức
về tự nhiên, về xã hội, về con người…
Tình cảm phản ánh xúc động của con người trước đối tượng của hiện thực.
Giữa tri thức và tình cảm có quan hệ chặt chẽ nhau, làm tiền đề cho nhau và trở
thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.
Ý chí là năng lực xác định mục tiêu cho hành động và quyết tâm thực hiện mục
tiêu đó. Ý chí mạnh mẽ thường là trạng thái liên kết chặt chẽ giữa tri thức và tình cảm.
Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc vật chất. Đó là nguồn
gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội a. Nguồn gốc tự nhiên lOMoAR cPSD| 46342576 Não người:
Não người có chức năng ý thức (Ý thức là chức năng của bộ não). Não là tổ
chức vật chất phát triển cao nhất trong sinh giới, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu
dài của giới tự nhiên. Khoa học đã chứng minh rằng hoạt động sinh lý thần kinh
của não bộ là cơ sở vật chất của ý thức
Não người có thuộc tính phản ánh. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của
hệ thống vật chất này về những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong qúa
trình tác động qua lại. Trong quá trình tiến hoá của tự nhiên, tổ chức vật chất
càng phát triển cao thì năng lực phản ánh càng cao. Não ngưới là tổ chức vật
chất phát triển cao nhất của sinh giới cho nên nó có năng lực phản ánh đặc biệt,
đó là sự phản ánh của ý thức.
Sự tác động của thế giới khách quan vào não người: Não người nhận sự tác
động từ thế giới khách quan thông qua các giác quan và hệ thống thần kinh cảm
giác. Thế giới khách quan là đối tượng của cảm giác. Các thông tin do cảm giác
đem lại được bộ não xử lý và phản ánh tạo ra ý thức.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới khách quan tác động vào bộ óc là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. b. Nguồn gốc xã hội
Năng lực phản ánh đặc biệt của ý thức còn được lý giải bởi nguồn gốc xã hội
của nó, đó là lao động và ngôn ngữ Lao động:
Lao động hiểu theo nghĩa là các hoạt động sáng tạo ra công cụ và sử dụng công
cụ trong sản xuất để tạo ra của cải cho xã hôï và cho bản thân người lao động.
Vai trò của lao động trong quá trình hình thành ý thức:
+ Lao động hình thành nên con người và xã hội loài người. Chỉ trong xã hội
loài người với các quan hệ xã hội, con người mới hình thành được ý thức. (Con
vật không có quan hệ xã hội nên nó không có ý thức).
+ Lao động làm cho bàn tay, khối óc, tư duy phát triển. Ý thức xuất hiện không
phải do sự tác động một cách tự nhiên của thế giới khách quan vào đầu óc con
người. Nhờ có lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực, làm
cho chúng phải bộc lộ những đặc tính, những kết cấu và những quy luật vận
động của chúng thành những hiện tượng nhất định. Những hiện tượng ấy tác
động vào não người, từ đó con người nhận thức được bản chất của thế giới hiện
thực. Do vậy lao động là phương thức hình thành và phát triển ý thức. lOMoAR cPSD| 46342576
+ Lao động là nguồn gốc hình thành ngôn ngữ. Sống trong xã hôi, con người có
nhu cầu liên kết nhau, trao đổi thông tin với nhau, “cần thiết phải nói với nhau
một cái gì đó”. Kết quả là ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ đến lượt nó trở thành hiện thực trực tiếp của tư duy, ngôn ngữ càng
phong phú thì thế giới đối tượng càng được mở rộng
Ngôn ngữ là công cụ, phương tiện khái quát hóa và trừu tượng hóa hiện thực,
giúp con người đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ngôn ngữ còn là phương tiện liên kết tư duy loài người qua các thế hệ làm cho
ý thức mang tính xã hội sâu sắc. Như vậy ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát
triển tâm lý, tư duy của con người và nhân loại
Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội quan hệ chặt chẽ nhau, trong đó nguồn
gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định bản chất của ý thức là nguồn gốc xã hội
Bản chất của ý thức bản chất của nó được thể hiện qua khía cạnh sau đây –
Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập
với cái phản ánh (tức ý thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự vật khách
quan. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất. –
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ
quan, không có tính vật chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật
chất có tồn tại cảm tính.
2. Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan, nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động,
giản đơn, máy móc của sự vật. Tức là, không phải cứ sự vật tác động như thế
nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên như thế.
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo.
Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới khách quan, con người tác động vào
sự vật một cách có định hướng, chọn lọc, tùy theo nhu cầu của mình (xây nhà,
cày ruộng, đào mương, xây cầu…). Chính vì thế, ý thức của con người là sự lOMoAR cPSD| 46342576
phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể
tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai
một cách tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại.
Thậm chí, một số người còn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị…
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của
nó là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh.
3. Ý thức là quá trình phản ánh đặc biệt, là sự thống nhất của 3 mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi,
sông, mưa,…). Sự trao đổi này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn lọc
các thông tin cần thiết.
Hai là, con người mô hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư
duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức sáng tạo lại
hiện thực, là sự mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chủ thể chuyển mô hình từ trong óc ra hiện thực khách quan. Đây là qúa
trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn để biến quan niệm
của mình thành dạng vật chất trong cuộc sống. Ví dụ như con người sẽ xây cầu
qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết kế đã có ở bước 2 ở trên
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau;
vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản
ánh đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người thì mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật
chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của
khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan
đểm: vật chất có trước, ý thức có sau. lOMoAR cPSD| 46342576
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đều hoặc
là chính bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất nên
vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã
hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc
lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định
cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức
là sự phản ánh lại của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu
không có vật chất trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ không có ý thức
nên ý thức là thuộc tính, là sản phẩm cuẩ vật chất, chịu sự chi phối, quyết định
của vật chất. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những điều
này có cơ sở từ vật chất và tuân theo những quy luật của vật chất.
Vật chất quy định nội dung và hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý
nghĩa là ý thức mang những thông tin về đối tượng vật chất cụ thể. Những
thông tin này có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều
do mức độ tác động của vật chất lên bộ óc con người.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở
lại cật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi
sinh ra sẽ không bị vật chất gò bó mà có thể tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với
khách quan. Qua hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện
thực khách quan theo nhu cầu phát triển của con người. Và mức độ tác động
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, điều kiện, môi trường… và nếu
được tổ chức tốt thì ý thức có khả năng tác động lớn đến vật chất. lOMoAR cPSD| 46342576
Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được
chứng tỏ qua việc nhận thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch,
xác định mục tiêu ý chí để hoạt động của con người có thể tác động trở lại vật
chất. Việc tác động tích cực lên vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và
ngược lại, nếu nhận tức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
4. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ
biến, nguyên lý phát triển
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chính là nguyên tắc lý luận để xem xét
sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ. Chúng ràng buộc và
tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa
các mặt của một sự vật và hiện tượng trên thế giới. Và nguyên lý này được
biểu hiện rõ nhất qua mối quan hệ của 6 cặp phạm trù cơ bản nêu trên. Nội
dung :dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng
trong thế giới. Thế giới này là một chỉnh thể thống nhất. các sự vật hiện
tượng trên thế giới này liên hệ tác động, chuyển hóa nhau.
Ý nghĩa của phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Thông qua nội dung về việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
của các sự vật, hiện tượng thì các quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử
– cụ thể trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn đã được ra đời. Cụ thể là: 1. Quan điểm toàn diện
Trong quan điểm toàn diện thì chúng ta cần xem xét các sự vật, hiện tượng ở các khía cạnh:
Trong nhận thức hoặc trong học tập
Thứ nhất, cần xem xét các mối liên hệ bên trong các sự vật và hiện tượng.
Khi đó, cần xem xét mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố hay
các thuộc tính khác nhau ở trong chính sự vật và hiện tượng đó.
Thứ hai, cần xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật và hiện tượng.
Tức là việc xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các sự
vật và hiện tượng đó với các sự vật và hiện tượng khác bằng cả trực tiếp và gián tiếp.
Thứ ba, cần xem xét sự vật và hiện tượng trong mối quan hệ phù hợp với
nhu cầu thực tiễn. Tức là ứng với mỗi người, mỗi thời đại và hoàn cảnh lịch
sử nhất định thì con người sẽ chỉ có một số phản ánh mang tính hữu hạn lOMoAR cPSD| 46342576
những mối quan hệ đó. Vì vậy, trí thức đạt được về sự vật và hiện tượng chỉ
là tương đối, không có sự trọn vẹn và đầy đủ. Khi ý thức được điều này sẽ
giúp chúng ta tránh được tuyệt đối hóa các tri thức đã có và tránh xem đó là
những chân lý luôn đúng. Do đó, để nhận thức được hết sự vật, hiện tượng
thì chúng ta phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ.
Thứ tư, tránh xa quan điểm mang tính phiến diện khi xem xét một sự vật,
hiện tượng. Phiến diện được hiểu là sự chú ý tuyệt đối vào một hoặc một số
ít mối liên hệ, có nghĩa là xem xét nhiều mối liên hệ nhưng thực chất đều là
mối liên hệ không có bản chất hay thứ yếu.
2. Quan điểm lịch sử – cụ thể
Theo như tính chất bên trên thì mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong
không gian và thời gian nhất định; đồng thời nó sẽ mang dấu ấn của không
gian và thời gian đó. Vì vậy, chúng ta cần quán triệt quan điểm về lịch sử –
cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý phát triển Nội dung:
Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong các
lĩnh vực khác nhau của thế giới, nguyên lý về sự phát triển được phát biểu như sau:
Một là, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.
Hai là, phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận
động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất do việc giải quyết mâu
thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định của phủ định. ý nghĩa
+ Trong hoạt động nhận thức, chủ thể cần phải khách quan – toàn diện: Một
là, phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa của đối tượng nhận thức
trong sự vận động và phát triển của chính nó. Nghĩa là, xác định được: Đối
tượng đã tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh nào; Đối
tượng hiện đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra
sao; Đối tượng sẽ tồn tại như thế nào trên những nét cơ bản trong tương lai.
Hai là, xây dựng được hình ảnh chỉnh thể trong tư duy về đối tượng nhận
thức như sự thống nhất của các xu hướng, giai đoạn thay đổi của nó. Từ đó lOMoAR cPSD| 46342576
phát hiện ra đặc điểm, tính chất, quy luật vận động, phát triển (bản chất) của
đối tượng nhận thức.
Quan điểm phát triển còn đòi hỏi phải xác định sự chuyển hóa giữa những
cái đối lập nhau (mâu thuẫn) để tìm ra nguồn gốc, giữa lượng – chất để thấy
được cách thức, và giữa cái cũ – cái mới để phát hiện ra xu hướng vận động,
phát triển của đối tượng.
+ Trong hoạt động thực tiễn, khi cải tạo đối tượng chủ thể cần phải: Một là,
chú trọng đến mọi điều kiện, tình hình, khả năng của đối tượng để nhận
định đúng mọi xu hướng thay đổi có thể xảy ra đối với đối tượng. Hai là,
thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện, đối
sách thích hợp để biến đổi những điều kiện, tình hình; để phát huy hay hạn
chế những khả năng của đối tượng nhằm lèo lái đối tượng vận động, phát
triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho chúng ta.
Như vậy, quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình,
đầu óc bảo thủ định kiến, cung cách suy nghĩ sơ cứng giáo điều; nó xa lạ với
sự tuyệt đối hóa một giai đoạn nào đó trong quá trình vận động của đối
tượng nhận thức cũng như của bản thân quá trình nhận thức đối tượng, nó
cũng xa lạ với đầu óc trọng cổ, chủ nghĩa lí lịch, chủ nghĩa thực tại, chủ nghĩa vị lai…
Phương pháp luận duy vật biện chứng đòi hỏi phải kết hợp nguyên tắc khách
quan với quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển để xây dựng quan
điểm lịch sử – cụ thể – “linh hồn” phương pháp luận của triết học mácxít.
5. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập Nội dung:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là Quy luật ở vị trí “hạt
nhân” của phép biện chứng duy vật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là Quy luật về nguồn gốc,
động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vân động và phát triển. Theo Quy
luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động,
phát triển của sự vật chính là xuất phát từ mâu thuẫn khách quan, vốn có của nó.
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau. lOMoAR cPSD| 46342576
Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ , ràng buộc,
không tách rời nhau, qui định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia
làm tiền đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất của nó.
Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động
qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các
mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và
điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển
hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú,
đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào
những điều kiện lịch sử, cụ thể.
Trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, sự đấu tranh là tuyệt đối
còn thống nhất là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có
sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình.
Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai
mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột gay gắt với nhau và
khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được
giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành, và quá trình
tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện
tượng luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển
hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển
trong thế giới. ý nghĩa: -
Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động
lực củasự vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải
tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập,
nắm được bản chất, nguồn gốc. khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
V.I.Lênin đã cho rằng: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ
phận mâu thuẫn của nó... đó là thực chất... của phép biện chứng". -
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và
giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể. Tức là biết phân
tích cụ thể từng loại màu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong lOMoAR cPSD| 46342576
quá trình hoạt độne nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của
các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định: những đặc điểm
của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
6. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận quy luật chuyển hóa từ những sự
thay dổi về lựng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thay đổi thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng. Chúng tác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại. -
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển,
sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật hiện tượng đã tích lũy những thay đổi
về lượng đến một ngưỡng nhất định. -
Quy luật này cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, cho thấy
sự thayđổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từng bước và kết hợp với sự
thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa có những bước tiến
tuần tự, vừa cónhững bước tiến đột phá.
Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau. -
Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện
chứng bởi vì mỗi sự vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về chất lại
vừa vừa có tính quy định về lượng, nên không có chất thiếu lượng và ngược lại. -
Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự
thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự
thay đổi vềchất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được
gọi là Độ.(Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là
khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản
chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng
vẫn còn là nó, chưa chuyểnhóa thành sự vật và hiện tượng khác.)
Vd: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ là
118 tuổi. Như vậy giới hạn từ 0→118 năm là “độ” của con người xét về mặt tuổi.
Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất. lOMoAR cPSD| 46342576 -
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay
đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến
những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là Điểm nút. Sự thay đổi về lượng
khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời
của chất mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước nhảy
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vd: 0°C, 100°C, 118 tuổi là điểm nút,... -
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều
hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và
điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục
bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận
động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là
sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
Vd: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là 1 bước nhảy. Có bước nhảy
nàylà do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100°C Lượng tác
động trở lại chất.
-
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới
tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng.Vd: Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi Game
online thì sẽthu nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sẽ đạt được nhiều điểm cao hơn.
→ Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt chất vả lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu
sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác
động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng.
Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các
quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy ý nghĩa phương pháp luận -
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích
lũy về lượng để có biến đổi về chất, không được nôn nóng cũng như bảo thủ. lOMoAR cPSD| 46342576
Bước nhảy làm cho chất mới ra đời thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của sự
vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, những thay đổi về chất
do bước nhảy gây nên vì vậy khi lượng tích lũy đến mức giới hạn, đến điểm
nút, độ nên muốn tạo ra bước nhảy phải thực hiện quá trình tích lũy về lượng. -
Thứ hai, vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất
của sự vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm
nút, do đó,trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả
khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến
giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật,
hiện tượng. Vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong
công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan,
duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy
liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không
dám thực hiện bước nhảy mặc dù luợng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm
phát triển chỉ đơn thuần là sự biến hóa về lượng. -
Thứ ba, vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong
phú, dovậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các
hình thứccủa bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng tĩnh vực cụ thể.
Đặc biệt,trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào
điều kiện kháchquan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người.
Do đó, cần phải nângcao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá
trình chuyển hóa từ lượngđến chất một cách có hiệu quả nhất. -
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộcvào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng, do
đó phảibiết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên
kết đó trêncơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
7. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của các cặp phạm trù cái chung
và cái riêng; nguyên nhân và kết quả; nội dung và hình thức
cặp phạm trù cái chung và cái riêng:
Cái riêng: là phạm trù triết học để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
(Cái riêng được hiểu như là một chỉnh thể độc lập với cái khác). lOMoAR cPSD| 46342576 –
Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
không những có ở một sự vật, một hiện tượng, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng khác. –
Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm vốn
có ở một sự vật, hiện tượng mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác. –
Cái chung tồn tại trong cái riêng, vì cái chung là một mặt, một thuộc tính
của cái riêng, không có cái chung tồn tại bên ngoài cái riêng và nó liên hệ
không tách rời cái đơn nhất. –
Mọi cái riêng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập, giữa cái đơn nhất
và cáichung. (Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất
vừa là cái chung; các mặt cá biệt, không lặp lại của sự vật, hiện tượng đó là
biểu hiện cái đơn nhất. Còn các mặt lặp lại ở nhiều sự vật hiện tượng thì biểu hiện cái chung). –
Cái riêng là cái toàn bộ bởi vì nó là một chỉnh thể độc lập với cái khác, là
cái phong phú hơn cái chung vì ngoài những điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. –
Cái chung là cái bộ phận bởi vì nó chỉ là những thuộc tính của cái riêng
nhưng nó sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung là những thuộc tính, những mối
liên hệ ổnđịnh, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. –
Cái đơn nhất và cái chung có mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống
nhất. Trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá lẫn nhau: khi cái đơn
nhất chuyển hoá thành cái chung thì nó thể hiện cái mới ra đời và phát triển, khi
cái chung chuyển hoá thành cái đơn nhất thì nó thể hiện cái cũ, cái lỗi thời cần phải vứt bỏ.
Ý nghĩa phương pháp luận: –
Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong hoạt động thực
tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. –
Khi vận dụng cái chung, phải cá biệt hoá cái chung trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. –
Trong hoạt động thực tiễn phải tạo ra điều thuận lợi để cái đơn nhất và
cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau nếu có lợi cho con người. lOMoAR cPSD| 46342576
cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả;
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. –
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết
quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác
động. Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng
cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả. –
Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi
những nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc. –
Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì
sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại,
nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau
thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau. –
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết
quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân. –
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả
không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực
ngược trở lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả. –
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ
khác nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì
trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại. –
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra,
đến lượt mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá
trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô lOMoAR cPSD| 46342576
cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầy hay cuối cùng. Ý nghĩa
phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả –
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không
có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân.
Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân.
Nhiệm vụ của nhận thức khó học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó.
Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự
vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ
trong đầu óc con người, tách rời với thế giới hiện thực. –
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của
một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra
trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân
sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành
kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên
nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,… Đồng thời phải
nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích
hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến họt động và hạn
chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực. –
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn
chúngta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện
thức đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
cặp phạm trù nội dung và hình thức
+ Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được thể hiện là, không có hình
thức nào lại không chứa đựng nội dung và không có một nội dung nào lại
không tồn tại trong một hình thức nhất định. Tuy nhiên, không phải lúc nào nội
dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Bởi vì, không phải một nội dung bao
gìơ cũng chỉ được thể hiện ở một hình thức nhất định, nội dung trong điều kiện
phát triển khác nhau, lại được thể hiện ở dưới nhiều hình thức khác nhau. Cũng
như cùng một hình thức, có thể biểu hiện những nội dung khác nhau….
+ So với hình thức, nội dung luôn giữ vai trò quyết định quá trình phát triển của
sự vật, nó là yếu tố động và luôn thay đổi. Còn hình thức, là yếu tố tương đối ổn
định của sự vật. Vì vậy, sự biến đổi và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt