Đề cương Triết học - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Đề cương Triết học - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác LêNin
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Nguyễn Văn Nghiệp – K7L
Đề cương triết học Mác Lenin.
Câu 1. Vì sao nói sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là một tất yếu lịch sử?
* Khái niệm triết học mác leenin: “Triết học mác Lenin là hệ thống quan điểm
DVBC về TN, XH và TD – Thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng
của GCCN và NDLĐ để nhận thức và cải tạo thế giới”
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp:
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất
hiện và lan rộng ra các nước Tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư
bản so với chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã
hội mà trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
- Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập:
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp
vô sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản
với tư sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư
sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội. Đến những năm 40 của
thế kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội
độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản. 1
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được
soi sáng bằng lý luận khoa học. Mác và Ăng ghen sáng lập Chủ nghĩa Mác là lời giải
đáp cho yêu cầu xã hội đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.
- Sự phát triển của CNTB làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB bộc lộ gay gắt
giữa LLSX có tính XHH ngày càng cao với QHSX mang tính tư nhân TBCN dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX.
1.2. Tiền đề lý luận.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu
là Hêghen và Phoiơbắc,
là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng
duy tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép
biện chứng duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.
Kinh tế chính trị học Anh, với những đại biểu xuất sắc là A.Xmit và Đ.Ricacđô, mà
đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở của hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh
Ximông và Sáclơ Phuriê và những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài người
là một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự
xuất hiện các giai cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời
phê phán chủ nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không
quan tâm tới dân nghèo. Khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp
mà trong đó, công nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được
bảo đảm những điều kiện vật chất cho cuộc sống,... là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát
triển thành lý luận cải tạo xã hội.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với
nhiều phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học. 2
Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự
phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật
và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của
toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa
thực vật với động vật.
Thuyết tiến hoá: đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật
không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở
khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do
nhu cầu nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những
thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn
do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời
của nó. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác “Cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công
nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.
Câu 2. Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác. Thực chất và ý
nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện?
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày
nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử
triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn của con người.
Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác nhìn chung, có hai nguồn
gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác
thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
2.1. Điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác.
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội. 3
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp:
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất
hiện và lan rộng ra các nước Tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư
bản so với chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã
hội mà trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
- Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập:
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp
vô sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản
với tư sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư
sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội. Đến những năm 40 của
thế kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội
độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản.
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được
soi sáng bằng lý luận khoa học. Mác và Ăng ghen sáng lập Chủ nghĩa Mác là lời giải
đáp cho yêu cầu xã hội đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.
- Sự phát triển của CNTB làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB bộc lộ gay gắt
giữa LLSX có tính XHH ngày càng cao với QHSX mang tính tư nhân TBCN dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX.
2.1.2. Điều kiện về mặt lý luận.
- Triết học cổ điển Đức
- Kinh tế chính trị học Anh
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
2.1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với
nhiều phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương 4
- Thuyết tế bào
- Thuyết tiến hoá
Từ những điều kiện trên, chủ nghĩa Mác - Lênin được ra đời.
Tóm lại, Triết học Mác cũng như toàn bộ Chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu
lịch sử, không những vì nó là sự phản ảnh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiển cách mạng
của giai cấp vô sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
2.2. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện
Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận
là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học
nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích
thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử
triết học của nhân loại đã chuyển sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc
cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không
thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ nghĩa
duy vật thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học Hy Lạp cổ đại, có
thể nói, đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng ở một số nhà triết học duy vật. Sự thống nhất này được thể hiện rõ nhất trong
triết học của Hêraclít. Tuy nhiên, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp
biện chứng trong triết học của Hêraclít còn
ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng của
Hêraclít đều còn ở trình độ thô sơ, chất phác, đúng như Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái
thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ
ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật
đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong". 5
Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển về chất
so với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này,
về cơ bản, vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời
phương pháp biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối lập
phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về
chất trong phương pháp nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp biện chứng của Hêghen lại
dựa trên nền thế giới quan duy tâm. Nói khác đi, phương pháp biện chứng của Hêghen
không gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy tâm.
Cho nên, phương pháp biện chứng đó không thực sự trở thành khoa học, mặc dù nó có
đóng góp nhất định cho sự phát triển tư duy nhân loại. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật
trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Nhưng, chủ nghĩa duy vật
nhân bản của L.Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với
phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp
biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật.
Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát
triển lên một trình độ mới về chất. Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật
và phương pháp biện chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là
bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc
cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã
hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Nghĩa
là nó chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích
xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không đánh đổ
được chủ nghĩa duy tâm một cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn nơi ẩn trú của
nó là lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác đã giải thích một
cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh
thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để nhất, hoàn bị
nhất. Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin đã khẳng định: “Triết học của Mác là một
chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị”. Rằng, “chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành
tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt
chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan
niệm về lịch sử và chính trị”. Như vậy, với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã kết
thúc thời kỳ nghiên cứu xã hội, lịch sử một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ 6
mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động và
phát triển của xã hội, của lịch sử. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như
phát minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật
phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác “chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất
lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một
hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã nảy
sinh ra như thế nào từ chế độ phong kiến”. Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của
C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể
hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động của con người. Chính
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị
thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại
nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của
con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo
thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào
giải thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã từng nhận định:
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là
cải tạo thế giới”. Cũng đã có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng
con đường không tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang
dân trí, bằng con đường giáo dục đạo đức,v.v.. Có thể nói, không một nhà triết học nào
trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới. Các nhà triết
học Khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội phong kiến lạc hậu, lỗi thời bằng
các quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu được rằng, phải thông qua hoạt động
thực tiễn của đông đảo quần chúng mới thực hiện được điều này. Ngay cả L.Phoiơbắc -
đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác - “cũng chỉ coi hoạt động lý luận là
hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định
trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi”. Không phải ngẫu nhiên mà
sau này, C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ
trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm
giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực , quan chứ
không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”. 7
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là
cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ có thể cải
tạo được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù
thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho
triết học của ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác,
không có sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là
hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản được
soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản lại là cơ sở, động lực
cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa
triết học Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với
nhau. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ
khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
Do vậy, triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô
sản và của toàn thể nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các
khoa học khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ đại, triết học
thường ẩn giấu đằng sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo, đạo đức,v.v.. Ở Hy Lạp
cổ đại, triết học được coi là “khoa học của các khoa học”. Trong thời kỳ Trung cổ, triết
học được coi là “bộ môn” của thần học, có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của Thượng
đế. Ở thời kỳ Cận đại, triết học được coi là mêthaphisica với nghĩa là nền tảng thế giới
quan của con người, như quan niệm của R.Đêcáctơ; hoặc triết học được coi là tổng thể
tri thức của con người trong quan niệm của Ph.Bêcơn, v.v.. Trong triết học cổ điển Đức,
triết học lại được coi là “khoa học của các khoa học”. Quan hệ giữa triết học Mác với
các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ
thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác
khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa
học tự nhiên. Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm
bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới;
đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của phương pháp biện chứng. Trong
quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp
luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng 8
vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học
tự nhiên ở thế kỷ XX đã nhận xét: “Các khái quát hóa triết học cần dựa trên các kết quả
khoa học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất
ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học, khi chúng chỉ ra một trong
rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”. Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã
chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn vô cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa
xã hội không tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho
triết học thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành
công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Câu 3: Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học? Nội dung vấn đề cơ bản của triết học?
* Khái niệm: Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là vấn
đề về mối quan hệ giữa tồn tại với tư duy, giữa ý thức với vật chất. * Đặc điểm:
- Đó là vấn đề rộng nhất, chung nhất đóng vai trò nền tảng, định hướng để giải
quyết những vấn đề khác
- Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học như thế nào không chỉ thể hiện được
lập trường, thế giới quan của các nhà triết học mà còn là cơ sở tạo ra phương hướng
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học
* Nội dung vấn đề cơ bản của triết học:
- Mặt thứ nhất: Vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa ý thức với
vật chất. Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào. Vật chất có trước và quyết định ý thức hoặc ngược lại ý thức có trước và quyết
định vật chất. Giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học như thế nào là cơ
sở phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành 2 trường phái đối lập nhau
là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy vật: Học thuyết cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người là chủ nghĩa duy vật
+ Chủ nghĩa duy tâm: Học thuyết cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là
cái có trước và quyết định thế giới tự nhiên là chủ nghĩa duy tâm 9
- Mặt thứ hai: Vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa khách thể
với chủ thể nhận thức hay trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay ko? Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học như nào là cơ sở
phân chia các nhà triết học và học thuyết của họ thành phái khả tri và bất khả tri.
+ Thuyết khả tri: Học thuyết khẳng định con người có khả năng nhận thức được
thế giới vật chất và sự vật hiện tượng.
Học thuyết khẳng định khả năng nhận thức của con người, con người về nguyên
tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật hay nói cách khác ý thức của con người có
được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp với bản thân sự vật.
+ Thuyết bất khả tri: Học thuyết khẳng định con người không có khả năng nhận
thức được thế giới vật chất và sự vật hiện tượng.
Học thuyết phủ nhận khả năng nhận thức của con người, con người về nguyên tắc
không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Các hình ảnh tính chất đặc điểm của đối
tượng mà các giác quan con người thu được trong quá trình nhận thức chỉ là hình thức
bên ngoài hạn hẹp và cắt xén đối tượng cho dù có tính xác thực cúng ko cho phép con
người đồng nhất chúng với đối tượng vì đó ko phải là cái tuyệt đối đáng tin cậy. Học
thuyết phủ định khả năng vô hạn của nhận thức
Câu 4. Trình bày định nghĩa phạm trù vật chất của Lenin và ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa 4.1. Khái niệm:
“Vật chất Là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác.”
4.2. Nội dung cơ bản của định nghĩa
- Vật chất là thực tại khách quan cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và ko lệ thuộc vào ý thức.
+ Vật chất là 1 phạm trù của triết học ý muốn nói phạm trù này là sản phẩm của sự
trửu tượng hóa ko có sự tồn tại cảm tính
+ Vật chất là tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức con
người và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải chủ quan
+ Mọi sự vật từ vi mô đến vĩ mô từ những cái chưa biết đến những cái đã biết, từ
những sự vật đơn giản nhất đến những hiện tượng vô cùng kì lạ dù tồn tại trong tự nhiên
hay xã hội cũng đều là những đối tượng tồn tại khách quan độc lập với ý thức nghĩa là
đều thuộc phạm trù vật chất 10
+ Cả con người và xã hội đều là một dạng của vật chất
- Vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì đem lại cho
con người cảm giác
+ Vật chất luôn biểu hiện sự tồn tại của mình dưới dạng các thực thể
+ Các thực thể này khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem
lại cho con người những cảm giác. Mặc dù ko phải mọi sự vật hiện tượng khi tác động
lên giác quan đều được giác quan con người nhận biết song nếu nó tồn tại khách quan
độc lập với ý thức con người thì nó vẫn là vật chất
+ Trả lời cho câu hỏi trong mặt thứ nhất của các vấn đề cơ bản của triết học
- Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó
+ Vật chất luôn tồn tại khách quan không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần còn
hiện tượng tinh thần lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì
có được trong các hiện tượng tinh thần ấy chẳng qua cũng chỉ là chép lại chụp lại, là bản
sao của các sự vật hiện tượng đang tồn tại hay còn gọi là hiện thực khách quan
+ Về nguyên tắc con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Trong thế giới
vật chất ko có cái gì là ko thể biết chỉ có cái đã biết và cái chưa biết do hạn chế trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định
+ Bác bỏ thuyết bất khả tri (mặt thứ 2 vấn đề cơ bản)
4.3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Định nghĩa vật chất của lenin đã giải quyết 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học
- Định nghĩa đấu tranh chống thuyết ko thể biết, chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy
vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học hiện đại về phạm trù này
- Định nghĩa này đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật
lịch sử thành 1 thể thống nhất
- Mở đường cổ vũ cho các nhà khoa học đi sâu khám phá tìm hiểu về thế giới vật chất
- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực XH
Câu 5. Tại sao nói định nghĩa vật chất của Lênin ra đời là bước ngoặt trong lịch sử triết học?
*Khái niệm: (phần trên).
*Giải thích câu hỏi: 11
Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ănghen thực
hiện. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự lệch rời giữa thế giới quan duy vật và
phép biện chứng tạo ra hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật đó là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và hình thức cao nhất của phép biện chứng là biện chứng duy vật.
- Việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát hiện vĩ đại
trong cuộc cách mạng do Mác và Ănghen thực hiện trong triết học.
- Triết học Mác ra đời đã làm cho vai trò, vị trí của triết học là quan hệ giữa triết
học với các khoa học khác có sự thay đổi.
- Triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là để cải tạo thế giới.
- Triết học Mác còn là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, nó chỉ ra
cho giai cấp công nhân con đường đấu tranh để giải phóng Mác nói "Giống như triết
học thấy ở giai cấp vô sản mới vũ khí vật chất thì giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học một vũ khí tinh thần".
- Triết học Mác có sự gắn bó giữa tính khoa họcvà tính cách mạng giữa lý luận với
thực tiễn. Đó là triết học sáng tạo.
Câu 6. Trình bày quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vận động của
vật chất và ý nghĩa phương pháp luận của nó. Thế nào là hiện tượng đứng im tương đối?
6.1. Khái niệm vận động và các hình thức vận động của vật chất:
* Khái niệm vận động:
“Vận động là 1 phương thức tồn tại của vật chất, là 1 thuộc tính cố hữu của vật
chất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể cả sự thay
đổi đơn giản cho đến tư duy”
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất
- Vật chất và vận động không tách rời nhau. Ở đâu có vật chất thì ở đó có vận
động, và ở đâu có vận động thì ở đó phải có vật chất. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào, dù
trong tự nhiên hay xã hội, dù vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, dù thuộc giới vô sinh hay
hữu sinh đều ở trong trạng thái biến đổi không ngừng. Vật chất chỉ có thể tồn tại được
bằng cách vận động và thông qua sự vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy,
nhận thức sự vận động của sự vật cũng chính là nhận thức bản thân sự vật.
- Vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến. Vận động tồn
tại vĩnh viễn ko thể tạo ra cũng ko thể bị tiêu diệt điều này đã được chứng minh bằng
quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng do đó vận động của một vật thể cụ thể có
thể tăng, giảm, nhưng vận động của toàn thế giới vật chất bao giờ cũng là một số không 12
thay đổi. Định luật chuyển hóa và bảo toàn năng lượng đã cho thấy, nếu một hình thức
vận động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác
thay thế. Các hình thức vận động có thể chuyển hóa lẫn nhau, nhưng vận động của vật
chất luôn luôn được bảo toàn cả về mặt chất và lượng.
* Các hình thức vận động cơ bản của vật chất (5 hình thức)
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện, từ,...).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, sự biến đổi các chất vô cơ, hữu
cơ trong những quá trình hóa hợp và phân giải).
- Vận động sinh học (sự biến đổi của các cơ thể sống, sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường...).
- Vận động xã hội (quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội;
sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v. của đời sống xã hội).
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, có quy luật vận động riêng.
Song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiêt với nhau, trong đó hình
thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong
đó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có
nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi
hình thức vận động cao nhất mà nó có. Ví dụ, đối với động vật thì vận động sinh học là
vận động đặc trưng, mặc dù trong cơ thể động vật còn có các vận động cơ học, vật lý và
hóa học. Không thấy được điều đó sẽ không phản ánh được bản chất của sự vật.
6.2. Đứng im tương đối
Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng. Nhưng
điều đó ko những không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện tượng đứng im tương đối.
- Đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật hiện tượng trong những mối
quan hệ điều kiện cụ thể (sự vật hiện tượng chưa thay đổi căn bản về chất nó còn là nó
chứ chưa biến đổi thành cái khác).
- Đứng im là 1 dạng vận động, là hình thức chứng thực sự tồn tại thực sự của vật
chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.
- Vận động là tuyệt đối còn đứng im là tương đối.
*Hiện tượng đứng im chỉ là tương đối và tạm thời, sở dĩ như vậy là vì: 13
- Thứ nhất, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định, chứ
ko phải trong mọi mối quan hệ cùng 1 thời điểm. Ví dụ, con tàu đứng im so với bến
cảng, còn so với mặt trời thì nó đang vận động theo sự vận động của trái đất.
- Thứ hai, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động nhất
định trong một lúc nào đó, chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong
cùng một lúc. Ví dụ, con tàu đứng im xét về hình thức vận động cơ học, trong khi đó
các hình thức vận động lý, hóa không ngừng diễn ra trong bản thân nó.
- Thứ ba, hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động - vận
động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ trạng thái ổn định này
mà vật chất biểu hiện thành các sự vật, hiện tượng cụ thể và qua đó sự vật mới có điều
kiện để thực hiện sự phân hóa tiếp theo. Bởi vậy, trạng thái đứng im tương đối biểu
hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định; nó còn là
nó, chứ chưa chuyển thành cái khác. Nhưng trạng thái thăng bằng, ổn định này sẽ bị sự
vận động là tuyệt đối phá vỡ.
Tóm lại: Trong quan hệ giữa vận động và đứng im, vận động là tuyệt đối, vĩnh
viễn, đứng im là tương đối, tạm thời; vận động là tuyệt đối không hề loại trừ mà còn
hàm chứa cả sự đứng im, còn sự đứng im không phải là một trạng thái cố định mà là
một dạng của vận động.
Câu 7. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất
của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này.
7.1. Khái niệm. “ Ý thức
là sự phản ánh năng động sáng tạo hình ảnh khách quan của thế giới VC
vào bộ óc người và được bộ óc người cải biến đi.”
7.2. Nguồn gốc của ý thức.
a. Nguồn gốc tự nhiên (Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức). * Bộ óc người:
- Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ óc con
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt đọng sinh lý thần kinh, nhưng đó phải là
bộ óc sống và hoạt động bình thường.
- Điều này lý giải vì sao những người bị tổn thương não thì ý thức tinh thần của họ
bị rối loạn, thất thường. 14
* Thế giới khách quan:
- TGKQ được phản ánh vào bộ óc người thông qua hoạt động của các giác quan,
giúp hình thành nên ý thức ở con người. phản ảnh
- Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái
hiện của hệ thống vật chất này, những đặc điểm của hộ thống vật chất khác trong quá
trình tác động qua lại. Định nghĩa vật chất của Lênin
- Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh
cao nhất của thế giới vật chất.
b. Nguồn gốc xã hội (Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành và
phát triển của ý thức). * Lao động:
– Khái niệm: Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là quá trình con
người sử dụng CCLĐ tác động vào thế giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để
thỏa mãn nhu cầu con người. - Vai trò của lao động:
+ Giúp con người cải tạp TG và hoàn thiện bản thân. (từ dáng đi khom chuyển
thành đi thẳng giải phóng 2 chi trước).
+ Hoàn thiện dần chức năng của bộ óc, tư duy phát triển, nhận thức sự vật có hệ thống và sâu sắc hơn.
+ Lao động có tác dụng “nối dài giác quan” của con người trong khám phá nhận thức thế giới.
+ Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ. * Ngôn ngữ:
- Khái niệm: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. nó trở
thành “vỏ vật chất” của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý
thức tồn tại và thể hiện ra bên ngoài. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện. - Vai trò của ngôn ngữ 15
+ Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu cần
trao đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh sự “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy”. Vì
vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và phát triển ý thức.
7.3. Bản chất của ý thức.
Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc lập,
là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức
sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não con người thông qua thực tiễn, nên: bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
- Ý thức là sự phản ảnh thế giới vào bộ óc người trên cơ sở lao động và ngôn ngữ.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội
dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan,
là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm.
- Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cùng có nghĩa là ý
thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định.
Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiệu được cái được phản ánh. Trên cơ sở đó
hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng đắn
hơn hiện thực khách quan, Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh,
dựa trên cơ sở phản ánh.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dự trên hoạt động thực
tiễn và là sản phẩn của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản
chất của ý thức là có tính xã hội.
Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn
toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm khi chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có
trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng vật chất
hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động về thế giới vật chất.
7.4. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần phải chống bệnh chủ quan duy ý chí. 16
- Do ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng thụ
động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn.
Câu 8. Trình bày nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức? Tại sao nó,
bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?
* Khái niệm – nguồn gốc ý thức: mục 7.1- 7.2
* Tại sao nó, bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?
- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có
thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính
chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con
người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại... trong đời sống tinh thần của
mình hoặc khái quát bản chất, qui luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri
thức trong các hoạt động của con người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về
thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải
biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là
vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các qui luật sinh
học mà chủ yếu là của các qui luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Câu 9: Phân tích luận điểm: “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Làm tương tự câu 8 17
Câu 10: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa của
vấn đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
10.1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. a. Khái niệm.
- “Vật chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, pháp ánh,
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
- “Ý thức: là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan hay ý thức chỉ chẳng qua
là hình ảnh của thế giới khách quan được di chuyển vào trong bộ óc người và cải biến đi.”
b. Mối quan hệ biện chứng giũa vật chất và ý thức.
Triết học Mác – Lênin khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì
vật chất quyết định ý thức và ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
* Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Chủ nghĩa Mác Leenin khẳng định vật chất có trước ý thức, quyết định ý thức, ý
thức là cái phản ánh, cho nên là cái có sau, là cái bị quyết định. Ý thức là thuộc tính của
một dạng vật chất sống có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt. Đó là bộ óc người. Do vậy,
không có bộ óc người thì không thể có ý thức. Hơn nữa, ý thức tồn tại phụ thuộc vào
hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
- Vật chất là nhân tố quyết định phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn.
- Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức.
- Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó.
- Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
- Vật chất là điều kiện để biến ý thức thành hiện thực
* Vai trò của ý thức đối với vật chất.
Nhờ có ý thức, con người nhận thức đựơc quy luật vận động, phát triển của thế
giới khách quan. Mặc dù vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thức cũng có tính năng
động, sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể tác động
trở lại vật chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nào đó các điều kiện
vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan. 18
- Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực phát triển cuả vật chất.
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người; vì vậy con người phải tôn trọng tính khách quan, đồng
thời phát huy tính năng động, chủ quan của mình.
- Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi
phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm
cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan.
=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc phụ
bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
- Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan.
* Đối với hoạt động thực tiễn của bản thân:
- Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác.
- Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác,...
Câu 11: Trình bày nội dung “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” và ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên lý này? Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
* Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến A. Khái niệm
- Mối liên hệ là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ các mối quan hệ rằng buộc
tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yêu tố, bộ phận trong 1 đối tượng
hoặc giữa các đối tượng với nhau.
- Liên hệ là quan hệ giữa 2 đối tượng nếu sự thay đổi của 1 trong chúng nhất định
làm đối tượng kia thay đổi
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối liên hệ chung nhất phổ biến nhất có ở mọi
sự vật hiện tượng diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên xã hội tư duy 19
- Những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới
- Cô lập (tách rời) là trạng thái của đối tượng khi sự thay đổi của đối tượng này ko
ảnh hưởng đến các đối tượng khác ko làm chúng thay đổi B. Tính chất
- Mọi đối tượng đều trong trạng thái vừa cô lập vừa liên hệ quy định và chuyển hóa lẫn
nhau (vd: quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường)
- Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật: các mối
liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm
đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự
vật, hiện tượng (hoặc trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập
không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng
các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ: Thể hiện ở chỗ bất kì nơi đâu trong tự nhiên
hay trong xã hội tư duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng. Mối liên hệ qua lại, quy
định, chuyển hóa lẫn nhau ko những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng tự nhiên xã hội tư
duy mà còn diễn ra giữa các mặt các yếu tố các quá trình của mỗi SV HT.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò,
vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn
khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
C. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
- Đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem xét sự vật
trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của
chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ
sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể Yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận
thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai
trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những điều kiện cụ thể để từ đó có được
những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như 20
vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần áp dụng quan điểm toàn diện và cần phải tránh xa,
khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình và còn phải tránh, khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện. * Liên hệ
-Trong cuộc sống khi giải quyết các tình huống cần phải xem xét quá trình cũng
như các hoạt động từ quá khứ đến hiện tại trong các mối liên hệ qua lại lẫn nhau để có
cách giải quyết xử lý tốt nhất.
- Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các
sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được
sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp.
Do đó vận dụng quan điểm về sự phát triển vào thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay, trong điều kiện Chủ nghĩa xã hội đã thoái trào và sụp đổ; Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng chống phá các nước Xã hội chủ
nghĩa còn lại thì quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là kiên quyết chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện
đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh
co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật phát
triển tất yếu của lịch sử.
- Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các sự vật
phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của
sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được sự phát
triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự phát triển vào
thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, trong điều kiện Chủ nghĩa xã
hội đã thoái trào và sụp đổ; Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng
chống phá các nước Xã hội chủ nghĩa còn lại thì quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam là kiên quyết chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và
nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới
đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ
nghĩa xã hội vì đó là quy luật phát triển tất yếu của lịch sử
Câu 12: Trình bày nội dung “Nguyên lý về sự phát triển” và ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên lý này. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. a. Khái niệm:
“Phát triển là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên của
SV từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn” 21
b. Nội dung nguyên lý của sự phát triển:
* Nguồn gốc của sự phát triển:
- Nằm trong chính bản thân của sự vật hiện tượng.
- Là kết quả của việc giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình
tồn tại và phát triển của sự vật.
* Tính chất của sự phát triển: - Tính khách quan:
Do nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân của SV, HT.
Đó là quá trình giải quyết những mâu thuẫn vố có trong quá trình tồn tại và phát
triển của sự vật, làm cho SV luôn phát triển.
Do đó phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người - Tính phổ biến:
Diễn ra trong mọi lĩnh vữ TN, XH, TD; trong tất cả moi SV, HT và trong mọi quá
trình, mọi giai đoạn của SV, HT đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng
dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan. - Tính đa dạng phong phú:
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi SV, HT, song mỗi SV, mỗi HT, mỗi
lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở
những không gian và thời gian khác nhau sự vật sẽ phát triển khác nhau.
+ Trong tự nhiên: phát triển thể hiện ở sự tăng cường khả năng thích nghi cơ thể
trước môi trường, ở khả năng tự sinh sản ra chính mình với trình dộ ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Trong xã hội: phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục TN, cải tạo XH nhằm giải phóng con người.
+ Trong Tư Duy: phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đúng
đắn hơn hiện thực khách quan. - Tính thừa kế:
Tiếp thu, bổ sung cái mới.
*Khuynh hướng của sự phát triển:
- Phát triển không ngoại trừ sự lặp lại, thậm chí tạm thời đi xuống trong trường hợp
cá biệt, nhưng xu hướng chung là đi lên, tiến bộ.
- Phát triển bao hàm cả sự phủ định cái cũ và nảy sinh cái mới, SV dường như lặp
lại cái cũ dựa trên cơ sở cao hơn. 22
Do vậy, sự phát triển được hình dung như “Đường xoáy ốc” theo chiều tiến lên từ thấp đến cao.
c. Ý nghĩa phương pháp luận.
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức
thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần
phải có quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến,
đối lập với sự phát triển.
Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát
triển là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi
hỏi chúng ta phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó
trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại
và tương lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai trò
nhân tố chủ quan của con nguời để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng qui luật.
Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac-Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong
nhận thức và thưc tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, phải có
quan điểm phát triển trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
d. Liên hệ với thực tiễn VN.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn,
nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung của
các nước xã hội chủ nghĩa như: Bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý
chí… dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng
định “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như
từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới. Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan
điểm phát triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như tình
hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những
căn bệnh chung của các nước Xã hội chủ nghĩa và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản 23
trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán
với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các
sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được
sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự phát
triển vào thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, trong điều kiện Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng chống phá các nước Xã hội chủ
nghĩa thì quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải kiên quyết chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện
đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh
co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật phát
triển tất yếu của lịch sử.
Câu 13. Trình bày nội dung của cặp phạm trù cái chung cái riêng. Ý nghĩa của vấn
đề này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. * Nội dung. A. Khái niệm Cái riêng
là phạm trù triết học dùng để chỉ 1 sự vật, 1 hiện tượng nhất định. Cái
chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ lặp lặp lại phổ biến ở nhiều SV, HT, quá trình. Cái
đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chỉ vốn có ở 1 sự vật, hiện tượng (1 cái riêng) nào đó mà ko lặp lại ở SV HT nào khác.
B. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
- Cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện mình. Nghĩa là
ko có cái chung nào tồn tại thuần túy tách rời khỏi cái riêng.
+ Sở dĩ cái chung được gọi là cái chung vì nó được khái quát từ nhiều cái riêng.
- Cái riêng là cái toàn bộ phong phú hơn cái chung. Còn cái chung là cái bộ phận
nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
+ Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì nó phản ánh những thuộc tính chung bản chất
lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật.
+ Còn cái riêng phong phú hơn cái chung vì nó tổng hợp cái chung và cái đơn nhất. 24
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
- Trong quá trình phát triển của sự vật trong những điều kiện nhất định, cái đơn
nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau.
+ Cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất đó là quá trình tồn tại và tiêu vong dần dần của cái cũ.
+ Cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung đó là quá trình ra đời và phát triển của cái mới.
C. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng. Nên muốn tìm cái chung cần xuất phát từ
những cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ.
- Để giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì ko thể lảng tránh việc
giải quyết những vấn đề chung.
- Vì cái chung sâu sắc hơn cái riêng nên phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng
và khi áp dụng cái chung vào cái riêng phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng cái riêng.
- Cần tạo điều kiện để cái chung bất lợi và cái đơn nhất có lợi có thể chuyển hóa được nhau. * Liên hệ.
Trong cuộc sống khi giải quyết các tình huống cần phải xem xét quá trình cũng
như các hoạt động từ quá khứ đến hiện tại trong các mối liên hệ qua lại lẫn nhau để có
cách giải quyết xử lý tốt nhất.
Câu 14: Trình bày nội dung của cặp phạm trù “Nguyên nhân và kết quả”. Ý nghĩa
của vấn đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
a, Nội dung cặp phạm trù “Nguyên nhân và kết quả”. * Khái niệm.
“Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong 1 SV hoặc giữa các SV với nhau gây ra những biến đổi nhất định nào đó”
“Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi xuất hiện do sự tác động
lẫn nhau của các mặt trong 1 SV hoặc giữa các SV với nhau gây ra”
*Phân biệt: Nguyên nhân – Nguyên cớ - Điều Kiện. 25
- Nguyên cớ là cái xuất hiện cùng với nguyên nhân, nhưng nó không sinh ra kết quả.
- Điều kiện là những yếu tố giúp nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng bản thân điều
kiện không sinh ra kết quả.
* Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả.
- Tính khách quan: không có SV, HT nào mà không có nguyên nhân, mà chỉ có
chúng ra chưa tìm ra nguyên nhân của HT đó, và cũng không có 1 HT nào không sinh ra
kết quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.
- Tính phổ biến: mọi SV, HT đều nảy sinh từ những SV, HT khác. Trong đó cái
sinh ra cái khác gọi là nguyên nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.
* Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả:
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên guyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả
chỉ xuất hiện sau khi đã có nguyên nhân tác động.
+ Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể.
+ Một kết quả có thể gây nên bởi nhiều nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ
hay tác động đồng thời cùng một lúc.
- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
VD: Thi được kết quả cao vui vẻ, tạo động lực chăm học hơn.
+ Kết quả là do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại ảnh
hưởng trở lại với nguyên nhân
+ Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo 2 chiều hướng: kết quả có thể thúc đẩy hoặc
cản trở sự hoạt động của nguyên nhân.
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí được cho nhau:
+ 1 SV, HT nào đấy trong MQH này là nguyên nhân, nhưng trong MQH khác nó
lại là kết quả. Một SV, HT nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở
trong 1 quan hệ xác định cụ thể.
+ Trong tính vô thận của TG vật chất, không có hiện tượng nào được coi là nguyên
nhân đầu tiên và cũng không có hiện tượng nào được coi là kết quả cuối cùng. Do vậy,
MQH nhân quả vô cùng, vô tận. 26
B, Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cần tìm nguyên nhân của hiện tượng ở trong chính hiện tượng đó.
- Phải tìm nguyên nhân trong mối liên hệ xảy ra trước khi xuất hiện kết quả.
- Cần phân loại các nguyên nhân cho đúng để có cơ sở tác động thích hợp.
- Cần khai thác, tận dụng các kết quả đã đã đạt được để tạo điều kiện để thúc đẩy
nguyên nhân phát huy tác dụng theo hướng tích cực. Câu 15: Bỏ câu này
Câu 16. Phân tích nội dung quy luật “Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập”. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
a. Nội dung quy luật “Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập”. * Vị trí quy luật.
- Là 1 trong 3 quy luật của phép BCDV.
- Là hạt nhân của phép BCDV.
- Quy luật vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
- Các mặt đối lập tồn tại ở tất cả.
* Khái niệm mâu thuẫn: - Mâu thuẫn biện
chứng là sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau của hai mặt đối lập biện chứng.
- Những mặt đối lập là những mặt có đặc điểm, thuộc tính, tính quy định có khuynh
hướng phát triển trái ngược nhau tồn tại khách quan trong sự vật.
- Thống nhất của các mặt đối lập được hiểu theo 3 nghĩa: Các mặt đối lập nương tựa
vào nhau, làm điều kiện, tiền đề tồn tại cho nhau; giữa hai mặt đối lập có những yếu tố
đồng nhất, giống nhau, tương đồng nhau; giữa hai mặt đối lập có trạng thái cân bằng, tác động ngang nhau.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.
* Các tính chất chung của mâu thuẫn: 27
- Tính khách quan: các mặt đối lập là cái vốn có, tồn tại bên trong SV, không phải do
con người nghĩ ra và áp đặt cho chúng.
- Tính phổ biến: mâu thuẫn tồn tại trong mọi SV, HT, mọi lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội đến tư duy con người.
- Tính đa dạng phong phú: mỗi SV, HT luôn có nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, mỗi
loại có vai trò khác nhau đối với quá trình vận động và phát triển của SV.
* Các hình thức của mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn bên trong là mâu thuân do sự tác đông giữa các mặt, các khuynh hướng
trong cùng một sự vật.
- Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác.
- Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chát của sự vật quy định sự phát triển ở
tất cả các giai đoạn của sự vật.
- Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phưng diện nào đó của sự vật.
- Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật.
- Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời tồn tại trong một gia đoạn phát triển nào đó của sự vật,
nhưng không phải đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối.
- Mâu thuẫn đối kháng
- Mâu thuẫn không đối kháng
* Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, sự bài trừ, phủ định thẩm
thấu, triển khai của các mặt đối lập.
- Tác động lẫn nhau: sự tác động của các điện tích âm dương.
- Sự bài trừ, phủ địng lẫn nhau: đấu tranh giai cấp trong XH. 28
- Thẩm thấu lẫn nhau: thầy truyền kiến thức cho trò.
- Triển khai các mặt đối lập: sử dụng các chuyên gia tư bản, kế thừa thành tựu CNTB.
* Nội Dung Quy Luật:
- Sự thống nhất của các mặt đối lập cấu thành mâu thuẫn biện chứng là tương đối vì:
+ Mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự “thống nhất” và “đấu tranh” của các mặt đối
lập chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định khi SV chưa chuyển hóa thành cái khác.
+ Đứng im ở phương diện này còn vận động ở phương diện khác.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì:
+ Mọi SV, HT luôn trong quá trình vận động, biến đổi, trong thống nhất có đấu
tranh, trong đấu tranh có thống nhất.
+ Đấu tranh của mặt đối lập làm cho SV cũ mất đi, SV mới ra đời do các mặt đối lập
luôn có xu hướng bài trừ, phủ định, triển khai, chuyển hóa lẫn nhau.
Vì vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự phát triển.
* Quá trình đáu tranh của các mặt đối lập: Thống nhất Khác biệt Đấu tranh Chuyển hóa.
* Thực chất quy luật: Mọi SV, HT đều chứa đựng những khuynh hướng đối lập tạo
thành những mâu thuẫn trong bản thân mình, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập tạo thành xung lựu nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của
cái cũ và ra đời cá mới. (Nguồn gốc vận động, phát triển).
b. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển nên trong thực tiễn ta cần phải
xác định mẫu thuận và giải quyết nó.
- Để xác định mâu thuẫn cần phải xác định các mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. 29
- Khi giải quyết mâu thuẫn phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn. Tìm
ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn một cách hiệu quả.
- Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng. 2 mâu thuẫn này giải quyết khác
nhau. (Không đối kháng là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nên cách giải quyết không dùng vũ lực).
*Vận dụng vào Việt Nam.
Những mâu thuẫn phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Ổn định và đổi mới về chính
trị là hai mặt đối lập thống nhất biện chứng. Có ổn định thì mới đổi mới được. Muốn ổn
định được thì cần phải giải quyết những mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Mâu thuẫn giữa hình thái trước đây và nền kinh tế thị trường.
- Mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Câu 17. Phân tích nội dung của quy luật “Chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” (quy luật lượng chất). Ý
nghĩa phương pháp luận? A. Khái niệm
Chất là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự
vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là nó
mà không phải cái khác
Ví dụ, cái bàn, cái ghế, v.v.
- Để hiểu chất là gì cần hiểu thuộc tính là gì? Thuộc tính về chất là một khía cạnh
nào đó về chất của sự vật được bộc lộ ra khi tác động qua lại với các sự vật khác. Mỗi
sự vật có nhiều thuộc tính. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của
sự vật. Như vậy, sự vật cũng có nhiều chất. Chất của sự vật là khách quan, vì đó là chất
của sự vật, không do ai gán cho sự vật. Nó do thuộc tính của sự vật quy định. 30
Lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, biểu thị con số các thuộc tính,
các yếu tố cấu thành sự vật.
- Lượng được thể hiện thành số lượng, đại lượng, trình độ, quy mô, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển. Chẳng hạn chỉ kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ,
trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh hay chậm v.v. Ví dụ, khi nói sinh viên năm thứ hai,
thì sinh viên là chất để phân biệt với công nhân, bộ đội, còn năm thứ hai chính là lượng,
chỉ trình độ của sinh viên.
- Lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Đối với những sự vật liên quan tới
tình cảm khi nhận thức lượng không thể xác định bằng các đại lượng con số mà phải
trừu tượng hoá bằng định tính. Ví dụ, lòng tốt, tình yêu, v.v.
*Lưu ý là sự phân biệt chất và lượng cũng chỉ là tương đối. Cái trong mối quan hệ
này được coi là chất thì trong mối quan hệ khác được coi là lượng. Ví dụ, số 4 trong mối
quan hệ phân biệt với các số nguyên, dương khác thì nó được coi là chất. Nhưng trong
mối quan hệ số 4 có tổng số bằng 4 số 1 cộng lại, hay bằng 2 số 2 cộng lại thì khi ấy nó được coi là lượng.
B. Nội dung quy luật.
* Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất:
- Mỗi sự vật đều có lượng, chất và chúng thay đổi trong quan hệ chặt chẽ với nhau.
Lượng thay đổi nhanh hơn chất, nhưng không phải mọi thay đổi của lượng đều ngay lập
tức làm thay đổi căn bản về chất. Sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất chỉ
trong giới hạn nhất định. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất
cũ mất đi, chất mới ra đời.
- Giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm thay
đổi về chất được gọi là độ. Nói cách khác, độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất
giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc
giảm đi) chưa làm cho sự thay đổi căn bản về chất của sự vật diễn ra. Ví dụ, độ của chất
sinh viên là từ khi nhập học tới trước khi bảo vệ thành công đồ án, luận văn tốt nghiệp.
- Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ làm cho sự thay
đổi về chất của vật diễn ra được gọi là điểm nút. Thời điểm bảo vệ thành công đồ án, 31
hoặc luận văn tốt nghiệp của sinh viên là điểm nút để chuyển từ chất sinh viên lên chất cử nhân.
- Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước
nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu
của một giai đoạn phát triển mới. Bước nhảy vọt làm cho sự vật phát triển bị gián đoạn.
* Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng:
Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng mới (làm thay đổi quy
mô, nhịp điệu, tốc độ v.v phát triển của sự vật). Ví dụ, khi trở thành cử nhân thì tốc độ
đọc, hiểu vấn đề tốt hơn khi còn là sinh viên, v.v. Như vậy, không chỉ sự thay đổi về
lượng gây nên những thay đổi về chất mà cả sự thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi về lượng.
* Các hình thức của bước nhảy:
- Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng, phong phú với
nhiều hình thức khác nhau. Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành: o
Bước nhảy đột biến, chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở tất cả
các bộ phận cơ bản, cấu thành sự vật. o
Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. o
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ
phận, các yếu tố cấu thành sự vật. o
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, bộ phận của sự vật đó.
Trong lĩnh vực xã hội, thay đổi về lượng được gọi là “tiến hoá”, thay đổi về chất
được gọi là “cách mạng”.
Tóm lại, sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành độ của sự vật.
Những thay đổi về lượng dần dần đến giới hạn nhất định thì xảy ra bước nhảy, chất cũ 32
bị phá vỡ, chất mới ra đời cùng với độ mới. Đó chính là cách thức phát triển của sự vật.
Quá trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động, biến đổi.
C. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Để có đủ tri thức về sự vật phải nhận thức đầy đủ cả mặt chất và mặt lượng của nó.
- Ko ngừng tích lũy về lượng để đạt đến sự thay đổi về chất. Tránh thái độ chủ
quan chưa đủ về lượng để đạt đến sự thay đổi về chất. Tránh thái độ chủ quan chưa đủ
lượng đã thực hiện bước nhảy.
- Tích lũy đủ về lượng phải kiên quyết thực hiện bước nhảy và sử dụng linh hoạt các bước nhảy.
- Tìm cách tác động vào phương thức liên kết của các sự vật để có sự vật mới.
Câu 18. Phân tích nội dung quy luật “Phủ định của phủ định”. Ý nghĩa phương pháp luận. A. Khái niệm
Phủ định biện chứng là sự phủ định tự thân của sự vật; là sự phủ định tạo điều
kiện, tiền đề cho sự phát triển.
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác kết cấu vật chất này bằng kết cấu sự vật khác. B. Tính chất
Tính khách quan: Sự vật hiện tượng tự phủ định mình do mâu thuẫn bên trong gây ra.
Tính kế thừa: Loại bỏ các yếu tố ko phù hợp và cải tạo các yếu tố của sự vật hiện
tượng cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật hiện tượng mới.
Tính sáng tạo: Cái mới tiến bộ hơn cái cũ. Ko có cái mới nào ra đời từ hư vô.
- Phủ định biện chứng là vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển. C. Nội dung
- Đường xoáy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất đặc trưng quá trình phát triển biện
chứng ở tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. 33
- Sự phát triển dường như lặp lại những trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan
trọng nhất của quy luật phủ định của phủ định.
- Sự phát triển của sự vật qua 2 hoặc nhiều lần phủ định biện chứng dường như trở
lại sự vật xuất phát ban đầu nhưng cao hơn.
- Quy luật phủ định của phủ định phản ánh mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ
định và cái phủ định do có kế thừa nên nó lưu giữ nội dung tích cực của các giai đoạn
trước trên cơ sở mới cao hơn. D. Ý nghĩa
- Vì cái mới xuất hiện là cái tất yếu phải xuất hiện phù hợp với quy luật phát triển
của sự vật hiện tượng cho nên chúng ta phải có thái độ ủng hộ cái mới.
- Cần chống 2 khuynh hướng:
+ Thái độ phủ định sạch trơn sự vật cũ ko biết tiếp thu những cái hay trong quá khứ.
+ Thái độ bảo thủ khư khư giữ cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Câu 19: Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. * Khái niệm.
“Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử –
xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.”
- Các hình thức của thực tiễn. Hoạt
động sản xuất vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao
đổi của con người, là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn. 34 Hoạt
động cải tạo xã hội (chính trị -xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo
hiện thực xã hội, cải biến những quan hệ xã hội như đấu tranh giai cấp,
đấu tranh giải phóng dân tộc, mít tinh, biểu tình… Hoạt
động thực nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực
nghiệm bao gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực
nghiệm xã hội được tiến hành trong điều kiện nhân tạo Các
hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, nghệ thuật, pháp
luật, đạo đức v.v được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của xã hội
“Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người; là quá
trình tao thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người.”
- Đặc trưng của nhận thức:
o Có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lôgic chặt chẽ.
o Cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn.
o Lý luận có thể phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
– Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức. Không có thực tiễn thì không thể có nhận thức
– Thực tiễn là mục đích của nhận thức..
– Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của nhận thức..
* Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
– nhận thức đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận khoa học, thông
qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi thực tiễn.
– nhận thức khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên tập hợp quần chúng để
tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đồng đảo quần chúng. 35
- nhận thức đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp hoạt động
thực tiễn chủ động, tự giác, làm cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.
* Ý nghĩa phương pháp:
Trong quá trình nhận thức phải luôn thấy rõ vai trò của hoạt động thực tiễn, không
xa rời thực tiễn. Trong học tập và nghiên cứu khoa học phải kết hợp hoạt động sản xuất
với học tập với phương châm “học đi đôi với hành” mới có kết quả. Luôn bám sát thực
tiễn, dựa vào thực tiễn, tránh chủ quan, duy ý chí, quan liêu, giáo điều. Tránh sự tuyệt
đối hóa vai trò của thực tiễn để tránh rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ
nghĩa. Đặc biệt đối với sinh viên trường Đại học Kiểm sát Hà Nội - những nhà làm luật
tương lai, thấy được vai trò của thực tiễn với nhận thức là vô cùng quan trọng trong điều
tra xét xử, giúp xử đúng người đúng tội, tránh oan sai, bỏ xót tội phạm...
20. Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận.
A. Khái niệm, nguồn gốc, bản chất
“Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, là quá trình
tạo thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người”
- Nhận thức là 1 quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá trình đi từ chưa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ chưa biết đến đầy đủ đến biết đầy đủ hơn
- Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận
thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người
- Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan 1 cách tích cực, chủ động, sáng
tạo bởi con người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể
I. Khâu thứ nhất: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
* Nhận thức cảm tính
- Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gắn liền với thực tiễn
- Ở giai đoạn này nhận thức của con người phản ánh trực tiếp khách thể thông qua các giác quan 36 + Cảm giác:
Là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của quá trình nhận thức ở giai đoạn cảm tính
Nảy sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên các giác quan con người, đưa
lại cho con người những thông tin trực tiếp đơn giản nhất về 1 thuộc tính riêng lẻ của sự vật
Cảm giác chính là hình ảnh chủ quan của thế gian khách quan + Tri giác:
“Là 1 hình thức nhận thức của giai đoạn trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)”
Là kết quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều cảm giác của con người
Tri giác là tổng hợp của nhiều cảm giác
Tri giác đem lại hình ảnh trọn vẹn hơn cảm giác nhưng vẫn là hình ảnh trực tiếp, cảm tính về sự vật + Biểu tượng:
“là hình ảnh của sự vật được con người giữ lại trong trí nhớ.”
Là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính
Là hình ảnh sự vật được tái hiện trong óc nhờ trí nhớ (khác cảm giác với tri giác)
Giống tri giác ở chỗ vẫn là hình ảnh cảm tính nhưng tương đối hoàn chỉnh hơn về sự vật.
Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng.
Nhận thức cảm tính chưa đem lại hiểu biết sâu sắc khái quát trong tính chỉnh thể
về sự vật thế nên để hiểu được bản chất sự vật sâu sắc hơn hoàn chỉnh hớn nhận
thức phải chuyển lên hình thức cao hơn là nhận thức lý tính
* Tư duy trừu tượng. (Nhận thức lý tính)
“Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.”
- Bắt nguồn từ trực quan sinh động.
- Thông qua tư duy trừu tượng con người phản ánh sự vật 1 cách gián tiếp khái quát hơn đầy đủ hơn.
- Tư duy trừu tượng, hay nhận thức lý tính, được thể hiện ở các hình thức như khái
niệm, phán đoán và suy lý: 37 + Khái niệm:
“Là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát gián tiếp 1 hoặc
1 số thuộc tính chung có tính bản chất nào đó của 1 nhóm sự vật, hiện tượng
được biểu thị bằng 1 từ hay 1 cụm từ”. (VD: thủ đô, tổ quốc…)
Được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người
Để phản ánh đúng thực tiễn khái niệm cũng luôn phải phát triển biến đổi cho phù hợp
Đều nằm trong mối liên hệ với các khái niệm khác + Phán đoán:
“Là hình thức liên hệ các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng
của thế giới trong ý thức của con người”
Được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ thành 1 mệnh đề bao gồm lượng từ, chủ từ, hệ từ, vị từ
Hệ từ đóng vai trò quan trọng nhất vì nó biểu thị mối quan hệ của sự vật phản ánh
Có 3 loại cơ bản: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù, phán đoán phổ biến
* Suy lý (suy luận và chứng minh)
“Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều
phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận.”
Ví dụ: Ta có 2 phán đoán làm tiền đề: “Giấy rất dễ cháy” và “Sách làm từ dấy”.
Từ 2 phán đoán này, ta đi đến phán đoán mới: “Sách rất dễ cháy”.
Nếu như phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm, thì suy lý là sự liên hệ giữa
các phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng, thể hiện quá
trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa
biết một cách gián tiếp.
* Sự thống nhất biện chứng giữa trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) và tư
duy trừu tượng (nhận thức lý tính).
– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc
điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan.
Trực quan sinh động là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật. Còn tư duy trừu
tượng là phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát. 38
Trực quan sinh động mang lại những hình ảnh bề ngoài, chưa sâu sắc về sự vật. Còn tư
duy trừu tượng phản ánh được những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến, tất yếu
của sự vật. Do đó, tư duy trừu tượng phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ,
tác động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau.
Chúng cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là hệ thần
kinh của con người và điều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử – xã hội.
– Trực quan sinh động là cơ sở của tư duy trừu tượng. Không có trực quan sinh động thì
không có tư duy trừu tượng. Trái lại, trực quan sinh động mà không có tư duy trừu
tượng thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật.
Vì vậy, cần phải phát triển trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng; tư duy trừu tượng
sẽ giúp trực quan sinh động trở nên chính xác. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan
xen vào nhau trong quá trình nhận thức.
– Một hình thức đặc biệt của nhận thức là trực giác.
Trực giác là năng lực nắm bắt trực tiếp chân lý không cần lập luận lô-gic trước.
Trực giác có những tính chất như bỗng nhiên, bất ngờ, tính trực tiếp và tính không ý
thức được. Tuy nhiên, tính bỗng nhiên, bất ngờ của trực giác không có nghĩa nó không
dựa gì trên tri thức trước đó mà nó dựa trên những kinh nghiệm, những hiểu biết được tích lũy từ trước.
Trực giác là tri thức trực tiếp song có liên hệ với tri thức gián tiếp. Trực giác được môi
giới bởi toàn bộ thực tiễn và nhận thức có trước của con người, bởi kinh nghiệm của quá khứ.
Tính không ý thức được của trực giác không có nghĩa nó đối lập với ý thức, với những
quy luật hoạt động của lô-gic. Trực giác là kết quả hoạt động trước đó của ý thức. Trực
giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và tri thức dẫn đến sự “bùng nổ” bằng nhiều thao
tác tư duy phát triển ở trình độ khác nhau.
Trực giác là sản phẩm của tài năng và sự say mê, sự kiên trì lao động khoa học một cách nghiêm túc.
II. Khâu thứ hai: Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
– Nhận thức đến trình độ tư duy trừu tượng rồi thi ta phải quay trở về thực tiễn để kiểm
tra. Chỉ có qua thực tiễn ta mới có thể xác định được nhận thức đó là đúng đắn hay sai lầm. 39
Mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải
tạo thế giới. Đến lượt mình, hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
– Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình biện chứng của nó. Trên cơ
sở hoạt động thực tiễn, một chu trình nhận thức mới lại bắt đầu và cứ thế mãi mãi.
B. Ý nghĩa phương pháp luận.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta quán triệt quan điểm thực tiễn.
Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn;
lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn (thước đo) nhận thức; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò
của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Câu 21: Tại sao nói sản xuất vật chất và phương thức sản xuất là cơ sở của sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người? * Khái niệm.
“Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để
tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển – nhu cầu phong
phú và vô tận của con người”.
– Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài người.
Đó là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người.
Ở thế giới loài vật không có hoạt động sản xuất. Có thể nói, điểm khác biệt căn bản
giữa xã hội loài người với thế giới động vật là ở chỗ: Con người lao động sản xuất, còn loài vật thì không.
* Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội
– Hoạt động sản xuất xã hội bao gồm:
+ Sản xuất vật chất: Ví dụ như sản xuất xe máy, tủ lạnh, lúa gạo, thịt, cá, xà phòng…
+ Sản xuất tinh thần: Ví dụ như sáng tác bài hát, tiểu thuyết, phim… 40
+ Sản xuất ra bản thân con người: Đó là hoạt động duy trì nòi giống của con người.
Trong các loại hoạt động sản xuất nêu trên, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở
của sự tồn tại và phát triển của xã hội, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội.
– Khi sản xuất vật chất tức là con người đã lao động.
Chính lao động đã đem lại những thay đổi to lớn và mang tính quyết định cho con người như:
+ Cơ thể con người không ngừng hoàn thiện và phát triển, có dáng đi thẳng, không
còn gù lưng như loài vượn. Có sự phân hóa chức năng giữa chân, tay và bộ óc. Các giác
quan của con người cũng phát triển.
+ Trong quá trình lao động sản xuất, con người xuất hiện nhu cầu “nói
chuyện” với nhau. Nếu không giao tiếp được với nhau, con người không thể lao động sản xuất.
Do đó, tiếng nói, chữ viết (tức là ngôn ngữ) xuất hiện, trở thành phương tiện để
giao tiếp, trao đổi, truyền bá tri thức, kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Nhờ lao động sản xuất, buôn bán, tiêu thụ hàng hóa, giữa con người xuất hiện
những mối quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực như chính trị, tôn giáo, đoàn thể, nghệ thuật…
– Sản xuất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng từ cấp độ tối
thiểu đến cấp độ thưởng thức như ăn, mặc, nghe nhạc, xem phim, đi lại, đi du lịch…
Muốn thỏa mãn những nhu cầu trên thì con người phải sản xuất. Bởi vì sản xuất là
điều kiện của tiêu dùng. Sản xuất càng phát triển thì hàng hóa càng nhiều, tiêu dùng
càng phong phú và ngược lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại, phát triển nếu
không tiến hành sản xuất vật chất.
– Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội.
Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, nền sản xuất của cải xã hội không
ngừng phát triển từ thấp đến cao.
Từ chỗ chỉ dùng công cụ lao động bằng đá (thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy),
con người dần dần chế tạo được công cụ bằng đồng (vào thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ
đại), sắt (vào thời kỳ đồ sắt từ thời cổ đại đến trung đại). 41
Sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp để phục vụ sản xuất, con người đã biết
dùng máy móc động cơ hơi nước, các hệ thống cơ khí hóa, hiện đại hóa (vào thời cận đại và hiện đại).
Ngày nay, công cụ sản xuất của con người đã rất hiện đại, vượt quá sự tưởng
tượng của loài người cách đây không lâu.
Mỗi khi nền sản xuất phát triển đến một giai đoạn mới thì cách thức sản xuất của
con người thay đổi, năng suất lao động tăng cao, quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất thay đổi…, kéo theo sự thay đổi trong mọi mặt của đời sống xã hội.
Như vậy, chính là nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và
phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh
thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó.
Bởi thế, đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, ta chỉ có thể đạt tới một sự giải
thích có căn cứ nếu sự giải thích ấy được bắt nguồn từ nền sản xuất vật chất của xã hội.
Câu 22: Sản xuất vật chất là gì. Vai trò của sản xuất đối với sự tồn tại của xã hội
* Sản xuất vật chất là gì
- Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
* Vai trò của sản xuất đối với sự tồn tại của xã hội
- Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người, là
hoạt động ko ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Sự sản xuất xã hội tức là sản xuất và tái sản xuất ra đời sông hiện thực, bao gồm
3 phương diện: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, sản xuất ra bản thân con người.
+ Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
+ Sản xuất bản thân con người ở phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ và nuôi
dạy con cái để duy trì nòi giống; ở phạm vi xã hội là sự tăng trưởng dân sô phát triển con người.
+ Sản xuất vật chất quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời sống xã hội.
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người: sản xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con 42
người” nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người
Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người: sản
xuất vật chất là cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế vật chất giữa người với
người từ đó tạo nên quan hệ giữa người với người về chính trị, pháp luật,… nhờ
sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình con
người đông thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã
hội với tất cả sự phong phú phức tạp của nó
Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người: nhờ
hoạt động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư
duy, tình cảm…Sản xuất vật chất còn là điều kiện cơ bản quyết định nhất đối với
sự hình thành phát triển phẩm chất xã hội của con người
Để nhận thức và cải tạp xã hội phải xuất phát từ đời sống sản xuất từ nền sản
xuất vật chất xã hội. Ko thể dùng tinh thần để giải thích đời sống tinh thần, để
phát triển xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế vật chất.
Câu 23: Lực lượng sản xuất là gì? Cấu trúc của lực lượng sản xuất?
* Khái niệm lực lượng sản xuất
Trong qúa trình thực hiện sản xuất vật chất, con người tác động vào giới tự nhiên,
chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó
được khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất.
“Lực lượng sản xuất là
sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động.” * Cấu trúc LLSX:
Lực lượng sản xuất là sức sản xuất của xã hội, lực lượng sản xuất bao gồm: Người
lao động và tư liệu sản xuất: VD: công nhân, máy móc…
- Người lao động gồm: sức khoẻ, kỹ năng và tri thức. VD: công nhân, nông dân
- Tư liệu sản xuất gồm: công cụ lao động và đối tượng lao động. VD: đất đai, cày cuốc
+ Công cụ lao động: Công cụ sản xuất và phương tiện vật chất khác. VD: máy móc, cày bừa…
+ Đối tượng lao động: có 2 loại một loại có sẵn trong tự nhiên, một loại do lao
động con người tạo ra. VD: kim loại, than đá…
Trong lực lượng sản xuất, chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá cao vai trò của người
lao động và công cụ lao động. Người lao động là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản 43
xuất. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Công cụ lao động là khí quan vật chất “nối dài”, “nhân lên” sức mạng của con
người trong quá trình biến đổi giới tự nhiên. Nó là yếu tố quyết định trong tư liệu sản
xuất. trình độ phát triển của công cụ lao động vừa là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa thời đại kinh tế – kỹ
thuật trong lịch sử. C.Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ
chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ, chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”.
Câu 24. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất. Ý nghĩa phương pháp luận đối với sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay. A. Khái niệm
“Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở một quá trình lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất bao gồm 2 mặt là lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.”
“Lực lượng sản xuất: Là mối quan hệ giữa người lao động với tư liệu sản xuất tạo
ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự
nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.” - Người lao
động là con người có tri thức, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo
nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội
- Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động
“Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất”
+ Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa
vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản
phẩm đáp ứng theo yêu cầu sản xuất của con người
Ví dụ: những công cụ lao động như cày, cuốc, máy kéo, dệt, máy, xe tải…;
những nhiên liệu sản xuất như xăng, dầu, điện…
Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất cùng với công
cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá
trình sản xuất vật chất 44
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng để tạo ra của cải
vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội (Là yếu tố cách mạng nhất trong LLSX) + Đối tượng lao
động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con
người dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục
đích sử dụng của con người
Ví dụ: sắt, thép, xi măng, sỏi, bông, len, sợi vải… Đó là những vật liệu, nguyên
liệu “thô” để làm đầu vào của sản xuất
B. Đặc điểm LLSX
- Đặc trưng chủ yếu của LLSX là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động.
- Thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất là năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
- Người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định vì người lao động là
chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động.
- LLSX luôn có tính khách quan.
- Trình độ của LLSX là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động.
- LLSX có tính lịch sử, tính khách quan, tính xã hội.
- LLSX thuộc về con người.
* Người lao động là nhân tố quan trọng nhất trong LLSX vì:
- Người lao động có lợi ích đây là động lực tự thân của LLSX.
- Người lao động có kĩ năng tay nghề kinh nghiệm điều này tạo nên nguồn vốn của sản xuất.
- Người lao động có trình độ học vấn là điều kiện để phát triển nhanh LLSX.
C. Quan hệ sản xuất
- Kết cấu của quan hệ sản xuất là:
Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất
Quan hệ về tổ chức quản lí sản xuất
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Các mặt này tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau.
Mang tính khách quan, quyết định mọi quan hệ xã hội. 45
D. Mối quan hệ biện chứng
* Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
1. Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX
- LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức. Trong mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức thì nội dung quy định hình thức do đó LLSX quy định QHSX còn QHSX tác
động trở lại to lớn đối với LLSX. Khi LLSX thay đổi thì QHSX phải thay đổi theo cho
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX đó.
- Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết định. LLSX
phát triển đến một mức độ nhất định làm cho QHSX phải biến đổi theo phù hợp với nó.
- Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp biện
chứng, sự phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là sự phù hợp giữa một yếu tố động (LLSX
luôn biến đổi) với một yếu tố mang tính ổn định tương đối (QHSX ổn định hơn, ít biến đổi hơn).
2. Sự tác động ngược trở lại của QHSX đối với LLSX
- Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì thúc đẩy LLSX phát
triển, nếu ko phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
- QHSX tác động trở lại LLSX theo hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực:
+ Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp các yếu
tố cấu thành nên QHSX: quan hệ sở hữu, quản lí, phân phối và yếu tố tạo nên LLSX.
+ Sự không phù hợp của QHSX đối với LLSX thể hiện ở: QHSX lạc hậu so với
trình độ của LLSX; Các yếu tố của QHSX không đồng bộ, có yếu tố vượt quá xa so với trình độ của LLSX.
- Sự phát triển không ngừng của LLSX là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. Nếu
muốn giải quyết mâu thuẫn để tạo ra một PTSX mới hay sự phù hợp mới thì phải kích thích LLSX phát triển.
Quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
E. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở Việt Nam.
- Trước đổi mới: Chúng ta vận dụng quy luật này chưa tốt cả nhận thức và hoạt
động thực tiễn xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt trong khi
đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xây dựng chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi đó trình độ lực lượng sản xuất còn thấp
kém và phát triển không đồng đều. 46
- Từ đổi mới 1986 đến nay: Chúng ta có những chủ trương đổi mới để sửa chữa
những sai lầm để cải tạo Xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Đó là xóa bỏ chế độ tập
trung quan liêu bao cấp phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Đối với lực lượng sản xuất: Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc phát triển
lực lượng sản xuất thông qua sự công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
+ Đối với quan hệ sản xuất: Được chú trọng trên cả 3 mặt quan hệ xã hội đối với tư
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý, quan hệ trong phân phối sản phẩm làm ra.
Câu 25: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. * Khái niệm:
“Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX, và với một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy”.
* Các yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế – xã hội:
Một hình thái kinh tế – xã hội có 3 yếu tố cơ bản cấu thành: - Một là: các
LLSX của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định, đóng vai trò
quyết định quan hệ sản xuất - Hai là: hệ
thống QHSX được hình thành trên cơ sở thực trạng phát triển của
LLSX, đóng vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng và các quan hệ xã hội khác.
- Ba là: hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh tế,
đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá…. của các quan hệ sản xuất của xã hội.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên, mỗi hình thái kinh tế – xã hội còn có các yếu tố
khác như: Quan hệ dân tộc, quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình…
* Ý nghĩa phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế – xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự
ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân là lý luận hình thái kinh tế – xã
hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.
- Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở
của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản 47
xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch
sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan
của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ
bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển
của phương thức sản xuất xã hội với cốt lõi là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
- Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp
một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các
phương tiện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt
chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ
bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các chế độ xã hội khác nhau.
- Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội
là một quá trình lịch sử – tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách
quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết
đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các
quy luật vận động, phát triển của xã hội.
Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế – xã hội là những giá
trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân
loại, lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc
thù trong các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. V.I. Lênin từng
dạy rằng: lý luận đó “không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn
vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.
Câu 26. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Ý nghĩa phương pháp luận của nó trong đổi mới ở VN. A. Khái niệm
1. Cơ sở hạ tầng là gì?
“Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.”
- Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:
Quan hệ sản xuất thống trị
Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó
Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau (
đặc trưng cho cơ sở hạ tầng đó)
Mỗi quan hệ sản suất có vị trí vai trò khác nhau 48
Ví dụ: Trong hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa (thống trị), quan hệ sản xuất phong kiến (đã lỗi thời của xã hội
trước) và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm mống của tương lai)
2. Kiến trúc thượng tầng là gì?
“Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những thiết
chế tương ứng và những quan hệ nội tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.”
- Về mặt kết cấu, kiến trúc tượng tầng gồm các thành tố:
Những quan điểm, tư tưởng xã hội: Đó là những quan điểm về chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…
Những thiết chế xã hội tương ứng: Đó là nhà nước (gồm quốc hội, chính phủ,
quân đội, công an, tòa án…), đảng phái, giáo hội, hội nghề nghiệp và những đoàn thể xã hội khác.
Trong đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển
riêng. Nhưng chúng đều liên hệ với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ
sở hạ tầng, trong đó nhà nước là yếu tố có quyền lực mạnh mẽ nhất. Chính nhờ có nhà
nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành tư tưởng thống trị toàn xã hội.
– Hệ tư tưởng và thiết chế của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của
toàn bộ kiến trúc thượng tầng.
- Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm tư
tưởng và cuộc đấu tranh chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối kháng.
- Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng.
B. Mối quan hệ biện chứng
1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Đó là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế – xã hội.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng bởi vì quan hệ vật chất quyết định
quan hệ tinh thần và xét đến cùng kinh tế quyết định chính trị xã hội. Do đó, giai cấp
nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì nó cũng thống trị về mặt kiến trúc thượng tầng xã hội.
- Kiến trúc thượng tầng không thể khởi phát từ đâu ngoài cơ sở hạ tầng của nó. Cơ
sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế ấy.
– Nếu cơ sở hạ tầng có sự thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng
tầng cũng thay đổi theo. Quá trình thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn cách 49
mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn
ra trong bản thân mỗi hình thái kinh tế – xã hội.
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua quá trình đấu
tranh giai cấp gay go, phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét đến cùng là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ
trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng sau đó nó mới làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi theo.
2. Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lên cơ sở hạ tầng.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chức năng chính trị xã hội của nó.
- Kiến trúc thượng tầng có chức năng bảo vệ, là công cụ đắc lực để củng cố, duy trì
sự phát triển của cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đồng thời đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ
và kiến trúc thượng tầng cũ.
- Đồng thời, mỗi bộ phận, yếu tố khác nhau thuộc kiến trúc thượng tầng cũng đều
có khả năng tác động ít nhiều lên cơ sở hạ tầng. Trong đó, nhà nước có vai trò đặc
biệt quan trọng, có khả năng tác động lớn nhất và trực tiếp nhất lên cơ sở hạ tầng (đặc
biệt trong xã hội chủ nghĩa)
- Tất nhiên, sự vận động của các bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng không phải
bao giờ cũng theo một hướng duy nhất. Đôi khi, giữa các bộ phận này cũng nảy sinh
tình trạng không đồng đều, thậm chí mâu thuẫn, chống đối nhau.
- Nếu không có chính quyền của giải cấp công nhân và nhân dân lao động thì
không thể xây dựng được cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và xóa bỏ cơ sở hạ tầng
cũ, tạo lập cơ sở hạ tầng mới.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng nếu phù hợp, cùng chiều phát triển với cơ
sở hạ tầng thì sự tác động đó mang lại hiệu quả thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Còn trong
trường hợp nếu làm trái quy luật thì sự tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ
tầng sẽ là tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội.
C. Liên hệ với thực tế tình hình quá độ ở Việt Nam hiện nay
1. Cơ sở hạ tầng
– Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các
kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau.
Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở
hữu toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư 50
nhân. Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư
nhân; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Ví dụ:
Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline, Vinamilk…
Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở các địa phương.
Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Huyndai Vietnam…
Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động
lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát
triển hết mọi tiềm năng.
2. Kiến trúc thượng tầng
– Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định:
Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây
dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên
phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân
dân là người làm chủ xã hội.
Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính
phủ, quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là
để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Câu 27: Phân tích luận điểm: Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên.
“Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy”. 51
1. Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch
sử chịu sự tác động, chi phối của các quy luật xã hội khách quan.
– Mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định có các thành tố tương ứng là lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Các thành tố đó tác động qua lại với nhau theo những quy luật xã hội khách quan:
Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
– Xét đến cùng, sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh
tế – xã hội khác bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức một mức độ nhất định mà quan hệ sản
xuất hiện tồn trở nên mâu thuẫn, chật hẹp, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất
đó, thì tất yếu sẽ diễn ra cách mạng xã hội để xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp.
Khi đó cơ sở hạ tầng mới cũng xuất hiện, kéo theo kiến trúc thượng tầng mới
tương ứng. Và đương nhiên, hình thái kinh tế – xã hội mới xuất hiện thay thế cho hình
thái kinh tế – xã hội cũ.
Như thế, sự phát triển, thay thế nhau từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế – xã
hội chịu sự tác động, chi phối của các quy luật nội tại: Quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng.
Rõ ràng, đây là quá
trình lịch sử – tự nhiên. Tức là quá trình này không phải
ngẫu nhiên. Tuy là quá trình diễn ra thông qua hoạt động của con người (tức là mang
tính “lịch sử”), nhưng không phải do con người, vĩ nhân hoặc đấng siêu nhiên nào đó
sắp đặt, mà là quá trình tự thân, theo quy luật khách quan (tức là mang tính “tự nhiên”).
2. Quy luật chi phối các hình thái kinh tế – xã hội là quy luật xã hội, thể hiện thông qua
hoạt động của con người, nhưng không vì thế mà quy luật đó không mang tính khách quan.
Quy luật xã hội không những phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà ngược
lại, khi xét đến cùng, quy luật xã hội quyết định, chi phối cả ý thức, ý chí của con người.
Mỗi hình thái kinh tế – xã hội được coi như một cơ thể xã hội phát triển theo những quy luật vốn có của nó.
Sống trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, con người làm ra lịch sử của mình, đó là
xã hội. Nhưng xã hội của con người vận động theo quy luật khách quan không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, không phụ thuộc vào vĩ nhân hay mệnh trời.
– Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự tiến hóa của các hình thái kinh tế – xã hội. 52
Quá trình tiến hóa là quá trình kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế – xã hội như:
Xã hội cộng sản nguyên thủy được kế tiếp bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, sau đó được kế
tiếp bằng xã hội phong kiến, tiếp đó là sự kế tiếp của xã hội tư bản chủ nghĩa… Quá
trình tiến hóa đó là khách quan, là quá trình lịch sử – tự nhiên.
3. Lịch sử phát triển ở một số quốc gia có thể có những đặc trưng riêng biệt, nhưng sự
riêng biệt đó vẫn là một bộ phận của quá trình lịch sử – tự nhiên.
– Khi nghiên cứu quy luật phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, C. Mác đi
đến kết luận khoa học rằng sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế – xã hội mới thay thế cho
hình thái tư bản chủ nghĩa: Đó là hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai
đoạn đầu là hình thái xã hội chủ nghĩa.
Với sự ra đời của nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nhân
loại đã được kiểm chứng kết luận của Mác.
Sự sụp đổ của Liên Xô không phải là sụp đổ của tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà là
sự thất bại của một mô hình không thích hợp. Mô hình phát triển của Trung Quốc đã
phần nào đã chứng minh điều này.
– Như thế, nếu xem xét ở phạm vi toàn nhân loại thì sự phát triển của các hình thái
kinh tế – xã hội trên thực tế đã theo một tuần tự từ thấp lên cao, tuần tự của quá trình
lịch sử – tự nhiên.
Song, nếu chỉ xét riêng ở phạm vi một quốc gia riêng lẻ, thì do các yếu tố lịch sử,
không gian và thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái
kinh tế – xã hội một cách tuần tự, mà có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nào đó.
Ví dụ: Việt Nam và Lào là hai quốc gia đã bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa để
quá độ từ hình thái phong kiến lên hình thái xã hội chủ nghĩa.
Rõ ràng, một số quốc gia như Việt Nam, Lào… dù là quốc gia riêng biệt nhưng
vẫn là bộ phận thuộc nhân loại, gắn với nhân loại. Sự bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa
ở các quốc gia đó không hề mâu thuẫn với tính tuần tự của các hình thái kinh thế – xã
hội trên toàn nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của C. Mác có ý nghĩa khái quát đối với toàn
nhân loại, nên nếu chỉ lấy hoàn cảnh đóng khung ở một quốc gia riêng biệt để minh họa
phản bác thì minh họa đó không mang có giá trị.
– Sở dĩ có hiện tượng “phát triển rút ngắn”, bỏ qua một hoặc một vài hình thái
kinh tế – xã hội ở một số quốc gia là vì có quy luật kế thừa của lịch sử loài người.
Quy luật kế thừa luôn cho phép một cộng đồng người vốn có xuất phát điểm thấp,
cơ sở kinh tế lạc hậu có thể giao lưu, hợp tác, kế thừa từ những cộng đồng người khác
đang có trình độ phát triển cao hơn. 53