Đề cương triết - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Triết học với tính cách là một khoa học xuất hiện rất sớm trong thời kỳ cổ đại, tuy nhiên sự hìnhthành và phát triển của triết học, quan niệm về triết học cũng thay đổi và phát triển gắn liền vớinhững điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHƯƠNG I
1.Đặc trưng của tri thức triết học và sự biến đổi đối tượng nghiên cứu của triết học qua các
giai đoạn lịch sử?
A. Khái niệm “Triết học”, nguồn gốc của triết học
Triết học với tính cách là một khoa học xuất hiện rất sớm trong thời kỳ cổ đại, tuy nhiên sự hình
thành và phát triển của triết học, quan niệm về triết học cũng thay đổi và phát triển gắn liền với
những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Triết học xuất hiện ở chế độ chiếm hữu nô lệ, khoảng
thế kỷ thứ VIII - VI trước công nguyên. Sự ra đời của triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi mà trình độ nhận thức của con người
có khả năng khái quát và trừu tượng hóa những cái riêng lẻ, cụ thể để nắm bắt được cái chung,
cái bản chất và qui luật của hiện thực. Bởi, đối tượng triết học là thế giới vật chất và con người
được nó nghiên cứu dưới dạng các qui luật chung và phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc xã hội khẳng định triết học chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp. Bởi, nó
phản ánh và bảo vệ lợi ích cho những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
Cho nên, triết học mang tính giai cấp. Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau mà
sự phân chia chúng cũng chỉ có tính tương đối. Thuật ngữ triết học theo từ nguyên chữ Hán có
nghĩa là “trí”, bao hàm sự hiểu biết sâu rộng của con người về hiện thực và vấn đề đạo lý của con
người. Còn theo gốc Hy lạp có nghĩa là “yêu mến sự thông thái” hoặc “làm bạn với trí tuệ”, xuất
phát từ một thành ngữ La tinh cổ có tên là: philosophia. Như vậy, nội dung thuật ngữ triết học
bao hàm hai yếu tố: đó là yếu tố nhận thức (sự hiểu biết của con người, sự giải thích hiện thực
bằng hệ thống tư duy lôgíc) và yếu tố nhận định (đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động) về mặt xã hội.
Cho nên, dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học biểu hiện khả năng nhận
thức và đánh giá của con người, nó tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội. Khái quát
lại, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới là các hệ thống lý luận của triết học với tính cách là
một khoa học và nó khác với hệ thống lý luận của các khoa học cụ thể ở tính chất chung và phổ
biến nhất của nó về hiện thực.
Hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về vị trí, vai trò của con người không chỉ
khẳng định con người có khả năng nhận thức các qui luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; mà còn
khẳng định vai trò của triết học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của con người thông qua hoạt
động thực tiễn và con người là chủ thể của lịch sử.
B. Sự biến đổi đối tượng của triết học qua các giai đoạn lịch sử
Đối tượng của triết học là thế giới vật chất và con người được triết học nghiên cứu dưới dạng các
qui luật chung và phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của
triết học cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử. Nhưng triết học bao giờ cũng đặt ra và
giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người.
Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên1, bao hàm trong nó tri thức về
tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm
sau này coi triết học là khoa học của các khoa học. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đã đạt được
nhiều thành tựu và nó ảnh hưởng to lớn đối vơi sự lịch sử phát triển của các khoa học.
Thời trung cổ, ở Tây âu khi quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì
triết học tự nhiên bị thay thế bởi triết học kinh viện2, phụ thuộc vào thần học chỉ còn nhiệm vụ lý
giải và chứng minh cho Kinh thánh.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ở thế kỷ XV, XVI đã tạo ra cơ sở vững chắc cho sự phục
hưng triết học và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, các khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học
thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập so với triết học. Chủ nghĩa duy
vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đã đạt tới đỉnh
cao ở thế kỷ XVII – XVIII như chủ nghĩa duy vật của Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ, Điđrô, Xpinôza,
v.v… trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là triết học
Hêghen. Điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển của khoa học đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự
ra đời của triết học Mác, đoạn tuyệt với quan niệm triết học “khoa học của các khoa học”. Triết
học mácxít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu các qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học phương Tây hiện đại muốn từ bỏ quan niệm truyền thống về triết học, xác định đối
tượng nghiên cứu riêng cho mình, nhưng triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận
những vấn đề về thế giới quan, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và
tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người.
Câu 2: Vấn đề cơ bản của triết học. Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học?
A. Vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất (hay
giữa tư duy và tồn tại / tinh thần và tự nhiên). Trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự
cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Angghen đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản lớn của
mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn
tại” . Sở dĩ gọi vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất, tư duy và tồn tại là vấn đề cơ
bản của triết học vì: Thứ nhất, đây chính là vấn đề liên quan trực tiếp tới vấn đề quan
hệ giữa linh hồn của con người với thể xác mà ngay từ thời cổ xưa con người đã đặt
ra. Chính từ việc giải thích những giấc mơ, người xưa đi tới quan niệm về sự tách rời
giữa linh hồn và thể xác, về sự bất tử của linh hồn. Từ đó nảy sinh vấn đề quan hệ
giữa linh hồn con người với thế giới bên ngoài. Khi triết học ra đời với tư cách lý luận
về thế giới và về quan hệ giữa con người với thế giới thì nó không thể không giải
quyết vấn đề này. Thứ hai, suy cho cùng, tất cả các hiện tượng xảy ra trong thế giới
đều có thể qui về một trong hai mảng hiện tượng lớn nhất trong thế giới - hoặc nó
thuộc mảng hiện tượng vật chất, hoặc nó thuộc mảng hiện tượng tinh thần. Vấn đề
quan hệ giữa tinh thần và vật chất, hay giữa tư duy và tồn tại chính là vấn đề quan hệ
giữa hai mảng hiện tượng lớn nhất này trong thế giới. Triết học với tư cách lý luận
chung nhất về thế giới không thể không đề cập, giải quyết quan hệ giữa chúng. Điều
đó được biểu hiện ở chỗ, tất cả các học thuyết triết học, dù chúng có sự khác nhau
như thế nào thì cũng phải trả lời các câu hỏi như: Tư duy con người có quan hệ thế
nào với sự vật bên ngoài? Thế giới được tạo ra trong đầu óc con người có quan hệ thế
nào với thế giới tồn tại bên ngoài đầu óc con người? Tư duy con người có khả năng
hiểu biết được tồn tại bên ngoài hay không? v.v.. - Thứ ba, vấn đề quan hệ giữa tư duy
và tồn tại, giữa ý thức và vật chất được coi là vấn đề cơ bản hay tối cao của triết học
còn vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết mọi vấn đề khác của triết học.
Thực tế của lịch sử tư tưởng triết học cho thấy, tuỳ thuộc vào thái độ, lập trường biểu
hiện trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất mà người ta có thái
độ, quan điểm tương ứng trong việc giải quyết các vấn đề khác của triết học, thậm chí
là cả những vấn đề không thuần tuý triết học như chính trị, đạo đức, v.v.. Có thể
khẳng định ngắn gọn: vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất, hay giữa tư duy và tồn
tại là vấn đề cơ bản của mọi triết học, mà nếu không giải quyết vấn đề này thì một
học thuyết nào đó không thể gọi là học thuyết triết học đúng nghĩa được. Việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học chính là tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới
quan của bất kỳ một học thuyết triết học hay một triết gia nào. Về nội dung, vấn đề cơ
bản của triết học có hai mặt, mà ở mỗi mặt, các nhà triết học phải trả lời cho một câu
hỏi lớn: Một là, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào? Hai là, ý thức con người có thể phản ánh trung thực thế giới bên ngoài
không? nói cách khác, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
A. Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, người ta căn cứ vào: Quan hệ giữa vật
chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào.
*Chủ nghĩa duy vật cho rằng: vật chất( tồn tại, tự nhiên) có trước, ý thức( tư duy, tinh thần) có
sau, vật chất quyết định ý thức.
-Nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với với lợi
ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử.
-Thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và
chủ nghĩa duy vật biện chứng.( Trang 17)
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ( TK 5 SCN trở về TCN)
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại
Đặc điểm: Đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của nó ( đất, nước, lửa,
không khí,...), coi đó là điểm xuát phát của thế giới.
Lấy chính bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến Thần linh hay Thượng đế.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình (TK XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ thứ XIX).
Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của cơ học, có ảnh hưởng lớn đến quan điểm của các
nhà triết học thời kỳ này. Do đó, các nhà triết học thời kỳ này nhìn nhận sự vận động của
thế giới một cách cứng nhắc.
Chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc – phương pháp
nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở
trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại, không vận động, không phát triển.
Góp phần chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng ( do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế
kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin và những người mácxít kế tục, bảo vệ và phát triển)
Kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó + sử dụng khá triệt để thành tựu
của khoa học đương thời.
Đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác, siêu hình
Là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.
Phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại và là một công cụ hữu hiệu giúp
những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy
*Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: ý thức( tư duy, tinh thần) là cái có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất.
-Nó có nguồn gốc từ nhận thức và nguồn gốc xã hội,thường gắn liền với lợi ích các giai cấp tầng
lớp áp bức bóc lột nhân dân lao động. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thường có mối quan hệ mật thiết với nhau.
3. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
A. Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt
lập, tách rời với các sự vật khác; xem xét sự vật trong trạng thái không vận
động, không biến đổi.
Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ quan niệm cho rằng muốn nhận thức một
đối tượng nào đó trước hết phải tách đối tượng đó ra khỏi mọi mối quan hệ với
các sự vật, hiện tượng khác; đồng thời phải nhận thức đối tượng trong trạng thái
không vận động, không biến đổi. Việc xem xét đối tượng sự vật theo quan niệm
như vậy cũng có tác dụng nhất định. Tuy nhiên, sai lầm căn bản của phương
pháp siêu hình chính là đã tuyệt đối hoá trạng thái tĩnh tương đối của đối tượng
sự vật. Trong thực tế, các sự vật, hiện tượng không tồn tại trong trạng thái tĩnh,
bất biến một cách tuyệt đối. Trái lại, các sự vật hiện tượng luôn nằm trong
những mối quan hệ và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng.
Ph.Ăngghen đã từng vạch rõ sự hạn chế của phương pháp siêu hình là “Chỉ nhìn
thấy những sự vật mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những vật ấy, chỉ
nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự
tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy
mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng” .
B. Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái
quan hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau với các sự vật khác xung quanh; xem xét
sự vật trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng của nó.
Phương pháp biện chứng là hệ quả tất yếu của quan điểm biện chứng, – quan
điểm khẳng định các sự vật hiện tượng đều luôn tồn tại trong trạng thái vận
động và trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Do đó, muốn nhận thức đúng về sự
vật, cần phải nhận thức, xem xét sự vật trong trạng thái vận động, biến đổi
không ngừng của nó, trong trạng thái quan hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau giữa
nó với các sự vật khác xung quanh.
Có thể kết luận rằng: Sự khác biệt căn bản giữa phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng là ở chỗ, phương pháp siêu hình nhìn nhận sự vật bằng
một tư duy cứng nhắc, máy móc; còn phương pháp biện chứng nhìn nhận, xem
xét sự vật với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Phương pháp biện chứng không
chỉ nhìn thấy những sự vật cụ thể mà còn thấy mối quan hệ qua lại giữa chúng;
không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành, sự diệt vong
của chúng; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái động của sự
vật; không chỉ “thấy cây mà còn thấy cả rừng”. Đối với phương pháp siêu hình
thì, sự vật hoặc tồn tại, hoặc không tồn tại; hoặc là thế này, hoặc là thế khác;
“hoặc là… hoặc là…”, chứ không thể vừa là thế này vừa là thế khác; “vừa là…
vừa là…”. Đối với phương pháp biện chứng thì, một sự vật vừa là thế này vừa là
thế kia, “vừa là… vừa là…”. Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực
khách quan đúng như nó đang tồn tại. Vì vậy, phương pháp biện chứng trở
thành công cụ hữu hiệu giúp con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.
4. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Được thể hiện qua chức năng của triết học. Triết học có nhiều chức năng như:
Chức năng nhận thức, chức năn đánh giá, chức năng giáo dục…. Nhưng quan
trọng nhất kà chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vai trò của con người
trong thế giới. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của
con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới dù muốn hay không con
người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Thế giới quan
đóng vai trò là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người.
Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận thức, quan sát, nhìn
nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh. Từ đó giúp con người định hướng thái
độ và cách thức hoạt động sinh sống của mình. Triết học ra đời với tư cách là hạt
nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quán trình
tự giác dựa trên sự tổng kế kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo
việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Đây là hệ thống
những quan điểm chung nhất đóng vai trò xây dựng, lựa chọn vận dụng các phương pháp.
Phương pháp luận chia thành nhiều cấp độ: phương pháp luận ngành, phương pháp
luận chung và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học). Tuy
không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là một bộ
phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào.Phương pháp luận
triết học đóng vai trò chỉ đạo, định hướng trong quá trình tìm kiếm, lựa chọn và
vận dụng các phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phần III: Sự ra đời và phát triển của Th Mác Lê Nin
Câu 1: Vì sao có thể nói sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử?
Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử vì nó chính là một sản phẩm lý
luận của sự phát triển lịch sử nhân loại xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX với những
điều kiện, tiền đề khách quan của nó.
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Điều kiện kinh tế - xã hội:
– Trong những năm 40 của thế kỉ XIX, cách mạng trong công nghiệp thành
công,năng suất lao động tăng cao, làm xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa (chiến thắng phương thức sản xuất phong kiến), giúp chủ nghĩa tư bản ra đời
và phát triển (Anh, Đức, Pháp) “Chủ nghĩa tư bản ra đời chưa được 100 năm
nhưng sản xuất ra được khối lượng hàng hóa bằng tất cả những thế kỉ trước cộng lại”.
– Trong chủ nghĩa tư bản xuất hiện 2 giai cấp đối lập về lợi ích vô sản và tư sản,
mâu thuẫn vô cùng gay gắt dẫn đến đấu tranh giai cấp nhưng giai cấp vô sản lại
thất tại (do thiếu lí luận cách mạng đúng đắn soi đường). (Phong trào hiến chương Anh).
– Xuất hiện do nhu cầu thực tiễn của cuộc cách mạng vô sản đang cần lý luận cách
mạng để soi đường thì sự xuất hiện triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói
chung đã đáp ứng được nhu cầu và trở thành vũ khí lý luận cho giai cấp vô sản giải phóng mình. Tiền đề lý luận: Tiền đề lý luận:
Sự ra đời triết học Mác không chỉ là sản phẩm tất yếu của những điều kiện kinh tế -
xã hội của xã hội TBCN giữa thế kỷ XIX mà còn là sản phẩm tất yếu của sự phát
triển hợp qui luật của lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Mác ra đời là một sự kế
thừa biện chứng những học thuyết, lý luận trước kia mà trực tiếp và rõ nét nhất là
triết học cổ điển Đức, kính tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hồi thế kỉ XIX.
lý luận trước kia mà trực tiếp và rõ nét nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính
trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hồi thế kỷ XIX.
– Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và của Phoiơbắc, là
nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Đối với triết học của Hêghen, một
mặt C.Mác và Ph.Ănghgen phê phán tính chất duy tâm thần bí trong triết học này,
mặt khác hai ông đánh giá rất cao tư tưởng biện chứng của nó. C.Mác coi tư tưởng
biện chứng trong hệ thống triết học duy tâm của Hêghen là “hạt nhân hợp lý” cần
phải được kế thừa, cải tạo. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen,
C.Mác không chỉ dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật mà còn trực tiếp cải
tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử của
nó. Từ đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên triết học mới, trong đó, chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
– Kế thừa kinh tế chính trị học ở Anh (D.Ricácđô và A.Smít) tìm ra giá trị thặng dư, tư
hữu tài sản, phân chia giai cấp, qua đó xây dựng nên chủ nghĩa duy vật lịch sử.
– Kế thừa chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp (Xanh Ximông, Phuriê, Ôwen) để
hình thành nên xã hội cộng sản chủ nghĩa, tìm ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân và biến chủ nghĩa xã hội không tưởng thành khoa học.
Tiền đề khoa học tự nhiên:
– Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng: chứng minh tính thống nhất trong
thế giới vô cơ và chứng minh thế giới vật chất luôn vận động, các dạng vận động và chuyển hoá lẫn nhau.
– Thuyết tế bào: chứng minh tính thống nhất trong thế giới hữu cơ, bác bỏ quan niệm
duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc sự hình thành của thế giới thực vật và động vật.
– Thuyết tiến hóa của Đác-uyn: là bằng chứng khoa học chứng minh về nguyên lý về
sự tiến hóa trong học thuyết của Mác, sự tiến hóa đi từ thấp đến cao và có tính kế thừa.
Nhân tố chủ quan trong sự ra đời triết học Mac:
- Xuất thân từ tầng lớp trên nhưng C.Mác và Ph.ngghen đều tích cực tham gia hoạt động thực
Nhân tố chủ quan trong sự ra đời triết học Mác:
-Xuất thân từ tầng lớp trên nhưng C.Mác và Ph.Ăngghen đều tích cực tham gia hoạt động thực tiễn.
-Hiểu sâu sắc cuộc sống khốn khổ của giai cấp công nhân trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa nên đã đứng trên lợi ích của giai cấp công nhân.
- Xây dựng hệ thống lý luận để cung cấp cho giai cấp công nhân một công cụ sắc
bén để nhận thức và cải tạo thế giới.
Kết luận: Tóm lại, sự ra đời
của triết học Mác nói riêng và
chủ nghĩa Mác nói chung là 1
Kết luận: Tóm lại, sự ra đời của TH Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung
là một tất yếu lịch sử. Nó là kết quả của 1 nền kinh tế xã hội đương thời, là sản
phẩm của tri thức nhân loại, là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và
đồng thời là sản phẩm của sự sáng tạo và tính nhân văn trong Mác và Ăngghen.
Câu 2:Vì sao có thể nói sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học?
Trước khi triết học Mác ta đời,
thế giới quan khoa học và
phương pháp luận biện chứng
-Trước khi TH Mác ra đời, thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện
chứng khoa học luôn tách rời nhau. Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại cũng có
một số nhà tư tưởng có sự khoa học luôn tách rời nhau. Trong thống nhất giữa thế
giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khoa học. Tuy nhiên, sự
thống nhất này còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả thế giới quan khoa học, cả phương
pháp luận biện chứng khoa học đều còn ở trình độ thô sơ. Trong triết học Mác chủ
nghĩa duy vật thống nhất hữu cơ với phép biện chứng. Đồng thời, chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng đều được C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển lên một trình độ
mới về chất hơn hẳn so với trước đó.
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch
sử, một bộ phận của triết học
Mác chính là thành tựu vĩ
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch
sử, một bộ phận của triết học
Mác chính là thành tựu vĩ
-Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, một bộ phận của TH Mác chính là thành
tự vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Với việc xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử
của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và
triệt để, biểu hiện sự mở rộng học thuyết này từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến
chỗ nhận thức xã hội loài người.
Với sự ra đời triết học Mác, vai
trò xã hội của triết học cũng
như vị trí của triết học trong
-Với sự ra đời của TH Mác, vai trò xã hội của TH cũng như vị trí của TH trong hệ
thống tri thức khoa học đã có sự biến đổi. Nếu như đối với triết học trước kia chủ
yếu đóng vai trò giải thích thế giới thì triết học Mác ra đời không chỉ giải thích thế
giới mà chủ yếu là công cụ cải tạo thế giới. Triết học Mác trở thành công cụ nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân
và quần chúng lao động. Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công
nhân, là “vũ khí lý luận”của giai cấp này trong công cuộc cải tạo xã hội, giải phóng
bản thân và giải phóng loài người nói chung. Tương tự, giai cấp công nhân chính là
vũ khí vật chất, là lực lượng vật chất quan trọng của triết học Mác, để nhờ đó, triết
học Mác thể hiện được vai trò cải tạo thế giới của mình.
triết học Mác cũng trở thành thế
giới quan và phương pháp luận chung cần
thiết cho sự phát triển của các
khoa học cụ thể. Đồng thời, sự
ra đời triết học Mác cũng
chấm dứt quan niệm của triết
học cũ coi triết học là học của các khoa học=, đứng
trên mọi khoa học. Trái lại, triết
học Mác khẳng định về vai trò
của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội đối với sự phát
triển của bản thân triết học;
trong đó, tùy vào sự phát
triển của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội, đòi hỏi triết
học cũng phải biến đổi theo,
phải thay đổi hình thức cho phù hợp.
triết học Mác cũng trở thành thế
giới quan và phương pháp luận chung cần
thiết cho sự phát triển của các
khoa học cụ thể. Đồng thời, sự
ra đời triết học Mác cũng
chấm dứt quan niệm của triết
học cũ coi triết học là học của các khoa học=, đứng
trên mọi khoa học. Trái lại, triết
học Mác khẳng định về vai trò
của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội đối với sự phát
triển của bản thân triết học;
trong đó, tùy vào sự phát
triển của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội, đòi hỏi triết
học cũng phải biến đổi theo,
phải thay đổi hình thức cho phù hợp.
triết học Mác cũng trở thành thế
giới quan và phương pháp luận chung cần
thiết cho sự phát triển của các
khoa học cụ thể. Đồng thời, sự
ra đời triết học Mác cũng
chấm dứt quan niệm của triết
học cũ coi triết học là học của các khoa học=, đứng
trên mọi khoa học. Trái lại, triết
học Mác khẳng định về vai trò
của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội đối với sự phát
triển của bản thân triết học;
trong đó, tùy vào sự phát
triển của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội, đòi hỏi triết
học cũng phải biến đổi theo,
phải thay đổi hình thức cho phù hợp.
triết học Mác cũng trở thành thế
giới quan và phương pháp luận chung cần
thiết cho sự phát triển của các
khoa học cụ thể. Đồng thời, sự
ra đời triết học Mác cũng
chấm dứt quan niệm của triết
học cũ coi triết học là học của các khoa học=, đứng
trên mọi khoa học. Trái lại, triết
học Mác khẳng định về vai trò
của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội đối với sự phát
triển của bản thân triết học;
trong đó, tùy vào sự phát
triển của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội, đòi hỏi triết
học cũng phải biến đổi theo,
phải thay đổi hình thức cho phù hợp.
Ngoài ra, triết học Mác cũng trở
thành thế giới quan và phương pháp luận chung cần
thiết cho sự phát triển của các
khoa học cụ thể. Đồng thời, sự
ra đời triết học Mác cũng