Đề cương tự luận môn Triết học MácLênin

Bộ  câu hỏi ôn tập học phần Triết học MácLênin bao gồm câu hỏi tự luận(có đáp án) giúp sinh viên củng cố kiến thức và đạt điểm cao trong bài thi kết thúc học phần.

lOMoARcPSD|3 7752136
lOMoARcPSD|3 7752
ĐỀ CƯƠNG TỰ LUẬN TRIẾT
Câu 1: Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin. Ý nghĩa phương pháp luận:
1. Định nghĩa:
Trong thời kỳ lịch sử khái niệm vật chất đã bị xuyên tạc bởi những nhà triết học duy tâm, khẳng định bản
chất của vật chất, theo những nhà khoa học duy tâm đưa ra quan điểm bản chất của thế giới ý
thức, ý thức thứ nhất, vật chất tinh thứ hai; ý thức trước quyết định vật chất. (Mặt khác, chủ
nghĩa duy tâm tôn giáo cũng thường mối liên hệ mật thiết với nhau để cùng tồn tại phát triển.)
Chủ nghĩa duy tâm hai hình thức bản chủ nghĩa duy tâm chủ quan chủ nghĩa duy tâm khách
quan. Ch nghĩa duy tâm chủ quan đã thừa nhận tinh thứ nhất của ý thức con người, khẳng định mọi sự
vật, hiện tượng chỉ phức hợp những cảm giác của nhân. Đại biểu Gióocgiơ Béccli ông nhà triết
học duy tâm chủ quan, vị linh mục người Anh.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Lênin đã chỉ ra bản chất của vật chất như sau:
"Vật chất phạm trù triết học được dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác"
*Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin trên những ý nghĩa sau:
Việc chỉ ra thuộc tinh bản nhất, ph biến nhất chính thuộc tinh tồn tại khách quan đã giúp cho
chúng ta thể phân biệt được sự khác nhau bản giữa phạm trù vật chất với phạm trù triết học, khoa
học chuyên ngành. Từ đó khắc phục được những hạn chế trong các quan niệm của những nhà triết học
trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định được những thuộc không thuộc về vật chất.
Lênin đã giải quyết triệt để được vấn đề bản của triết học, đó vật chất cái trước ý thức
cái sau, vật chất quyết định cho ý thức. Qua đó thể thấy rằng con người thể nhận thức được thế
giới quan thông qua sự sao chép, chụp lại phản ánh đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất
của Lênin đã tạo ra sở nền tảng, tiền đề để thể xây dựng quan niệm duy vật về hội.
2. Ý nghĩa Phương pháp luận:
- Định nghĩa vật chất của nin ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển chủ nghĩa duy vật nhận
thức khoa học:
+ Khẳng định bản chất của thế giới vật chất, vật chất trước, ý thức sau, VC quyết định YT, YT chỉ
sự phản ánh, chỉ sản phẩm của vật chất đồng thời định nghĩa cũng khẳng định con người khả
năng nhận thức được thế giới, khả năng chụp lại, chép lại, phản ánh thế giới vật chất
+ Bác bỏ quan điểm xuyên tạc của chủ nghĩa duy tâm về chủ nghĩa duy vật khẳng định bản chất của
chủ nghĩa duy vật vẫn tiếp tục phát triển
+ Mở đường cho các nhà khoa học tự nhiên trong việc tim ra các hình thức mới của vật chất để chứng
minh sự phong phú của cấu trúc vật chất
+ Cung cấp thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức hoạt động cải tạo thực tiễn
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức. Ý nghĩa phương pháp
luận:
lOMoARcPSD|3 7752136
1. Mối quan hệ:
Vật chất
"Vật chất phạm t triết học được dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác"
Ý thức
Dựa trên luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm bản chất của ý thức sự phản ánh
hiện thực khách quan một cách năng động sáng tạo bởi bộ óc người.
Bản chất của ý thức được hiểu trên các nội dung sau:
Thứ nhất, ý thức sự phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức sự phản ánh, cái phản ánh; thế giới
vật chất khách quan cái được phản ánh.
Thứ hai, phản ánh ý thức phản ánh năng động, sáng tạo đối với thế giới khách quan. Phản ánh của ý
thức là loại phản ánh đặc biệt, diễn ra trong quá trình con người lao động cải tạo thế giới.
C,Mác, Ph.Ăngghen diễn đạt về tinh năng động, sáng tạo trong phản ánh ý thức như sau: Ý thức “chẳng
qua chỉ vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người được cải biến đi trong đó”. Còn theo
V.I.Lênin, ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Vật chất quyết định ý thức
Vật chất cái trước, ý thức cái sau; vật chất trong mối quan hệ với ý thức vai trò quyết định.
Đây nguyên tắc đặc biệt quan trọng, được xem nguyên tắc xuất phát điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được hiểu trên những nội dung:
Thứ nhất, vật chất nguồn gốc sinh ra ý thức. Ý thức sản phẩm của bộ óc, một dạng vật chất t
chức cao nhất. Không bộ óc người thì không thể ý thức. Mặt khác, nếu không sự tác động của
thế giới khách quan vào bộ óc thì cũng không thể ra đời ý thức. Hơn nữa ý thức chỉ thể hình thành
trong quá trình lao động, thông qua cơ chế phản ánh của vật chất, thể hiện qua phương tiện ngôn ngữ.
Tóm lại, nếu không tất cả những yếu t như vừa nêu (bộ óc người, thế giới khách quan tác động vào
bộ óc người, hoạt động lao động, chế phản ánh, ngôn ngữ) thì ý thức không được hình thành. Như
vậy, vật chất nguồn gốc của ý thức.
Thứ hai, vật chất quy định nội dung, bản chất của ý thức. Ý thức sự phản ánh của vật chất, thế
điều kiện vật chất, hoàn cảnh sinh sống, các mối quan hệ hội… của con người đều được phản ánh,
đều được chép lại, chụp lại trong ý thức, nghĩa điều kiện vật chất quy định nội dung bản chất của ý
thức. Triết gia cổ điển Đức L.Phoiơbắc từng cho rằng khi sống trong túp lều tranh, người ta suy nghĩ khác
với khi trong cung điện. ràng, trong thực tế, tưởng, tinh cảm, tâm lý, ý chí,… của con người bị
quy định bởi hoàn cảnh trong đó họ sinh sống.
lOMoARcPSD|3 7752136
Thứ ba, vật chất không chỉ quy định nội dung còn quy định cả hình thức biểu hiện cũng như sự thayđổi,
biến đổi, phát triển của ý thức.
Ý thức luôn cái phản ánh nên do cái bị phản ánh quy định, khi cái bị phản ánh thay đổi thì đương
nhiên kéo theo sự thay đổi của cái phản ánh. Trong lịch sử hội, mỗi giai đoạn lịch sử, tương ứng với
tinh chất của phương thức sản xuất vật chất, tinh chất của các quan hệ kinh tế trong hội những sự
phát triển với những đặc trưng khác nhau của lĩnh vực ý thức, tinh thần.
=> Như vậy, vật chất quyết định ý thức, ngược lại, ý thức cũng có tác động trở lại to lớn đối với vật chất.
(Ví dụ:
Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên sở hoạt động sinh thần kinh của bộ não người.
Nhưng khi bộ não con người bị tổn thương thì hoạt động ý thức cũng bị rối loạn.
A sinh sống vùng không hội tiếp cận với công nghệ thông tin, việc tiếp cận còn nhiều hạn chế,
cũng như khi đi học thì A cũng thiếu đội ngũ giáo viên giảng vậy. Tức về điều kiện sở hạ tầng không
đáp ứng nên A không kiến thức, hiểu biết nhiều về các sản phẩm công nghệ thông tin, thậm chí không
biết sử dụng. Tuy nhiên, đối với B - sống Thủ đô, t nhỏ B hội học tập, tiếp cận với các công nghệ
thông tin hiện đại, cha m cũng như thầy chỉ dạy, vậy B dễ dàng sử dụng tiếp cận các công
nghệ thông tin những công nghệ mới nhất. Như vậy, thể thấy điều kiện vật chất sẽ quyết định ý
thức. )
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Sau khi ra đời, ý thức tinh độc lập tương đối, tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Vai trò tác động trở lại của ý thức thể hiện chỗ:
Thứ nhất, ý thức thể làm biến đổi hiện thực vật chất khách quan để phục vụ cho nhu cầu của con
người. Trong thực tế, con người không thỏa mãn với thiên nhiên vốn có, bằng ý thức của mình, thông
qua hoạt động thực tiễn, con người đã cải tạo, chinh phục giới tự nhiên, tạo ra một thiên nhiên thứ hai,
thứ ba… để phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhiều thành tựu của con người trong quá
trình chinh phục giới tự nhiên hiện nay đáng kinh ngạc, thể hiện vai trò cùng to lớn của ý thức.
Thứ hai, khi nói tới vai t của ý thức cần phải hiểu rằng về thực chất, đó vai trò của con người. Bản
thân ý thức tự không trực tiếp thay đổi được hiện thực. Ý thức đó phải được trở thành những mục
đích, kế hoạch, ch trương, biện pháp… cho hoạt động của con người, tiếp đó, thông qua các lực lượng
thực tiễn, ý thức mới cải biến được hiện thực.
Thứ ba, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất cùng to lớn, nhưng thể diễn ra theo hai
khả năng: ý thức, tưởng tiên tiến, phản ánh đúng quy luật khách quan sẽ thúc đẩy sự phát triển của
hiện thực vật chất ngược lại, ý thức tưởng lạc hậu, lỗi thời, phản ánh không đúng quy luật khách
quan sẽ kìm hãm sự phát triển của hiện thực vật chất.
Trong mối quan hệ giữa vật chất ý thức, hoạt động thực tiễn của con người đóng vai trò quan trọng.
Vật chất phản ánh vào đầu óc con người để hình thành ý thức bao gi cũng diễn ra cùng với hoạt động
thực tiễn, ngược lại, ý thức muốn cải biến được điều kiện vật chất cũng phải thông qua hoạt động thực
tiễn. Hoạt động thực tiễn cầu nối, khâu trung gian giữa vật chất ý thức.
lOMoARcPSD|3 7752136
dụ:
Khi nhiệt độ 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước đá đã cung cấp một
nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá).
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động
Tri thức con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt động quan
sát, phân tich để tác động vào đối tượng vật chất buộc những đối tượng đó phải thể hiện những
thuộc tinh, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện thực khách
quan để thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch mới có thể thành công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin không nghiên cứu
đánh giá tinh hình đối tượng vất chất.
- Phát huy tinh năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy khả
năng của mình luôn tim tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn luyện,
tu dưỡng, nâng cao năng lực không bỏ cuộc giữa chừng.
Câu 3: Nguyên về mối liên h phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận:
lOMoARcPSD|3 7752136
lOMoARcPSD|3 7752136
Câu 4: Nguyên về sự phát triển. Ý nghĩa phương pháp luận:
lOMoARcPSD|3 7752136
lOMoARcPSD|3 7752136
Câu 5: Thực tiễn vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
1. Thực tiễn:
nhiều cách hiểu lý giải khác nhau về thực tiễn; nếu chủ nghĩa duy tâm mới chỉ cho rằng thực tiễn
như hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó hoạt động vật chất,
hoạt động lịch sử hội; trong khi đó chủ nghĩa duy vật trước Mác lại cho rằng thực tiễn một hành
động vật chất của con người nhưng lại xem đó hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Đến tận khi
C.Mác Ph.Ăngghen đã kế thừa phát triển sáng tạo những quan điểm thực tiễn của các nhà triết
học trước đó, đưa ra một quan điểm đúng đắn thực tiễn như sau:
"Thc tin toàn b hot động vt cht có mc đích, mang tính lịch s - hi của
con người nhm ci bn thế giới khách quan".
Thực tiễn hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối
tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Đây hoạt động đặc trưng của bản chất con ngườ, nói tới
thực tiễn là hoạt động tinh tự giác cao của con người, khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng,
thụ động của động vật.
Không phải mọi hoạt động mục đích của con người đều thực tiễn. Hoạt động duy, hoạt động
nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học đều những hoạt động mục đích của con người
nhưng chỉ hoạt động tinh thần không phải thực tiễn.
dụ:
Người công nhân vệ sinh dùng chổi hót rác để thu quét những đống rác bên vệ đường làm
sạch môi trường; hay hoạt động lao động của người công nhân trong nhà máy, nghiệp tác động vào
máy móc trên những dây chuyền sản phẩm để tạo ra những sản phẩm đưa ra thị trường phục v con
người...
Thực tiễn ba hình thức bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất (là hoạt động sớm nhất, bản quan trọng nhất. hình thức
hoạt động bản của thực tiễn. Đây là hoạt động con người sử dụng những công cụ lao động tác
lOMoARcPSD|3 7752136
động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại
phát triển của mình. Sản xuất vật chất cũng sở cho sự tồn tại các hình thức thực tiễn khác cũng như
tất cả các hoạt động sống khác của con người.)
dụ: Người nông dân dùng máy gặt để thu hoạch lúa trên đồng; người ngư dân dùng lưới đ đánh
bắt trên biển...
-
Hoạt động chính trị - hội
(là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau
trong hội nhằm cải biên, cải tạo, phát triển những thiết chế hội, quan hệ chính trị - hội thông
qua các hoạt động như đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tôc, đấu tranh hòa bình, dân chủ
với mục đích chung để thúc đẩy hội phát triển.)
dụ: Nhân dân ta đấu tranh đánh đuổi chế độ thực dân, đế quốc để giành độc lập dân tộc.
-
Hoạt động thực nghiệm khoa học
(là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành
trong những điều kiện do con người tạo ra, những cái không sẵn trong t nhiên; gần giống, giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển
của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này vai trò trong sự phát triển của hội, đặc biệt trong
thời k cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.)
dụ:
Con người nghiên cứu chế hoạt động của virut corona đ điều chế ra vaccine ngừa Covid -19
tiêm chủng cho con người.
2. Vai t của thực tiễn đối với nhận thức:
Thứ nhất,
thực tiễn sở, mục đích, là động lực chủ yếu trực tiếp của nhận thức
Vì sao lại nói thc tin là cơ sở ca nhn thc? Xut phát t s tht rằng mi tri thc
dù trc tiếp hay gián tiếp đi vi bất kì đi tượng con ngưi nào, bt kì trình đ
kinh nghim hay lý lun đu bt ngun t thc tin. Thc tin cung cp i liệu cho
quá trình nhn thc, cho mi luận. Thông qua nhng hot động thc tiễn, con
ngưi c đng vào thế gii bên ngoài, buc chúng phi bộc lộ nhng thuc tính,
nhng quy luật đ con ngưi th nhận thức đưc chúng. Con người vn quan hệ
vi thế gii n ngoài bng thc tin ch không phi bằng lun. Chính từ trong
quá trình hot động thực tin ci tạo thế gii mà nhận thức con ngưi đưc hình
thành và phát trin. c đu con ngưi thưng thu nhn tài liu mt cách ch quan,
sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hp, khái quát a... đ phn ánh bn
chất, quy lut vn động ca các s vt, hiện tượng đ xây dng thành khoa học, lý
lun.
Thc tiễn còn là mc đích ca nhận thc. Bi lẽ nhận thc về vn đề, khía cạnh
hay nh vc nào đi chăng na thì ng phi quy v phc v thc tiễn. Do vây, kết
qu nhn thc phi ng dẫn và ch đo thc tiễn. Nếu lý lun, khoa hc không
vn dng được để cải to thc tiễn thì không bt c ý nghĩa nào.
Thc tiễn là động lực ch yếu trc tiếp của nhận thc. Thc tiễn gp con ngưi
nhn thc toàn din hơn v thế gii. Nhng nhu cu, nhim v và phương hưng
phát trin ca nhn thc kết qu ca thc. Trong quá trình hot đng thực tin
m biến đổi thế gi, con người ng không ngng biến đổi theo. Từ đó con ngưi
lOMoARcPSD|3 7752136
ngày càng đi sâu vào nhn thc và khám phá thế gii, m sâu sc và phong phú
vn tri thc ca mình v thế giới xung quanh. Nhu cu thc tiễn đòi hỏi phi ln
luôn m mới ngun tri thc, biết cách tng kết kinh nghim, khái qut lun đ từ
đó thúc đy sự ra đi phát triển ca các ngành khoa hc. Hot động thc tin
ca con ngưi cần tới khoa hc - từ đó dn đến s ra đi của khoa hc.
Thứ hai, thực tiễn tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm của triết học Mác - Lênin đã từng cho rằng:
"vấn đề tim hiểu xem duy con người thể đạt tới chân khách quan hay không hoàn toàn không
phải một vấn đề luận, một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải chứng
minh chân lý. Nhận thức khoa học tiêu chuẩn logic riêng tuy nhiên chúng không thể thay thế hoàn
toàn cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó còn phụ thuộc tiêu chuẩn thực tiễn.
Thực tiễn tiêu chuẩn của chân vừa tuyệt đối cũng vừa tương đối. Tuyệt đối đây bởi thực
tiễn chính tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Không phải tất c thực tiễn thể kiểm
nghiệm được chân còn phải dựa vào thực tiễn mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Tính tương đối
của thực tiễn thể hiện chỗ thực tiễn không ngừng biến đổi phát triển. Thực tiễn cũng không tránh
khỏi yếu tố chủ quan bởi lẽ thực tiễn cũng một quá trình được thực hiện bởi con người. Chính sự
biến đổi không ngừng của thực tiễn đã ngăn cản những tri thức của con người biến thành chân tuyệt
đối cuối cùng. Những tri thức liên tục bị kiểm nghiệm bởi các giai đoạn của thực tiễn thể thực tiễn
trong quá khứ, hiện tại hay thậm chí tương lai. Để từ đó nhận thức của con người được bổ sung, điều
chỉnh phát triển toàn diện nhất.
Câu 6: Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa luận
thực tiễn :
- Phải quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người. Đường lối, chủ trương, CS của
Đảng, PL của NN, Chính sách của địa phương của ngành chỉ đúng đắn, phù hợp khi đáp ứng được nhu
cầu của TT, phù hợp với TT, xuất phát từ thực tiễn của địa phương, của ngành đất nước.
Hai là, nghiên cứu luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành -> Bám sát TT, hướng vào
thực tiễn. Vận dụng LL vào CMVN, vào công tác cán bộ
Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận cũng như chủ
trương, đường lối, chính sách. TT luôn vận động biến đổi không ngừng vậy cần phải thường xuyên
tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển nhận thức nâng lên thành LL để LL ấy quay lại phục vụ cho TT.
Việc tổng kết TT làm cho con người thêm nhiều tri thức mới, bài học kinh nghiệm. Trong quá trình xây
dựng CNXH nước ta phải luôn chú ý đến việc tổng kết thực tiễn để những định hướng phù hợp với
tinh hình đất nước thời đại -> Đẩy mạnh công tác nghiên cứu LL, tổng kết hệ thống sự nghiệp XD
BV Tổ quốc, rút ra những kết luận đúng đắn.
- Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của luận. Phải luôn tôn trọng TT, căn cứ vào
TT để kiểm tra tinh đúng đắn của nhận thức luận cũng như đường lối, chủ trương, chính sách…Một
đường lối, chủ trương đúng đắn hay sai lầm chỉ thể nhận biết qua thực tiễn, vận dụng vào TT
lOMoARcPSD|3 7752136
- Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm (là khuynh hướng
tưởng hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, đ cao vốn kinh nghiệm bản thân, coi
thường, hạ thấp luận, không chịu nâng cao trình độ luận) bệnh giáo điều (khuynh hướng
tưởng hành động tuyệt đối hóa luận, cường điệu vai trò của LL, coi thường hạ thấp kinh nghiệm
thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác, nước khác một
cách rập khuôn máy móc, không tinh đến điều kiện thực tiễn cụ thể của mình).
- Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm” , tránh nói
một đằng, làm một nẻo ; i nhiều làm ít ; nói không làm...
Câu 7: Hình thái kinh tế - hội vai trò của từng yếu tố. Liên hệ với thực tiễn
Việt Nam hiện nay:
1. Hinh thái kinh tế - hội:
Hình thái kinh tế - hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi chủ nghĩa duy vật
biện chứng về hội) dùng để chỉ hội từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. chính các hội
cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống hội tồn tại trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội một hệ thống hoàn chỉnh, cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt bản
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - hội
vị trí riêng tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Cấu trúc bản của hình thái kinh tế hội bao gồm:
Lực lượng sản xuất: nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh
tế - hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định
sự hình thành, phát triển thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
Quan hệ sản xuất: Tạo thành sở h tầng của hội quyết định tất cả mọi quan hệ hội
khác. Mỗi hình thái kinh tế - hội một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ hội.
Tổng hợp lại những quan hệ sản xuất cấu thành cái người ta gọi những quan hệ hội, cái gọi
hội lại một hội một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một hội tinh chất độc đáo,
riêng biệt. hội cổ đại, hội phong kiến, hội bản đều những tổng hợp các quan hệ sản xuất
theo loại đó mỗi tổng thể ấy đồng thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử
nhân loại
Kiến trúc thượng tầng được hình thành phát triển phù hợp với sở hạ tầng, nhưng nó lại công cụ
để bảo vệ, duy trì phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Các yếu t khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - hội còn quan hệ về gia
đình, dân tộc các quan hệ hội khác. còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tưởng lĩnh
vực hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại,
thống nhất với nhau gắn với quan hệ sản xuất cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
lOMoARcPSD|3 7752136
2. Liên hệ:
Điều khác biệt căn bản về chất so với các luận thuyết chính trị-xã hội trong lịch sử, học thuyết hình
thái kinh tế-xã hội của Mác sự thống nhất biện chứng giữa luận thực tiễn, giữa tinh khoa học
tinh đảng. thế, đã nhiều nước chọn học thuyết hình thái kinh tế - hội sở luận để xây
dựng Chủ nghĩa hội. Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn luôn khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội mục tiêu, động lực, phản ánh
quy luật phát triển của cách mạng Việt nam, sợi chỉ đó xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng.
Kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa hội phù hợp với xu thế của thời đại điều kiện cụ thể của
Việt Nam.
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa hội bỏ qua việc xác lập quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa, t trên khía
cạnh lịch sử luận vẫn không trái với học thuyết hình thái kinh tế - hội của chủ nghĩa Mác trái lại
còn bổ sung, làm phong phú hơn tinh đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác.
Thời đại ngày này chúng ta đang sống thời đại quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội
trên phạm vi toàn thế giới. Đó một quá trình quá độ nhất định, cải biến về chính trị đối với những
nước đã trải qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa một quá trình quá độ từ các nước chưa trải
qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cái mới chưa hoàn toàn được hình
thành, cái chưa hoàn toàn mất đi, thậm chí lấn án cái mới, các mâu thuẫn tồn tại trong giai đoạn này
vừa đấu tranh triệt tiêu lẫn nhau, nhưng cũng vừa đấu tranh thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa hội không trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa bản, thực chất đó
không trải qua việc xác lập quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa, còn những thành quả, giá trị con người
tạo ra trong giai đoạn phát triển chủ nghĩa bản như: toàn cầu hóa, khoa học kỹ thuật, khoa học công
nghệ, kinh tế thị trường sẽ đòn bẩy cho phép chúng ta thể đi tắt, đón đầu, để hoạch định chủ
trương, chính sách nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Kề từ khi Chủ nghĩa hội Liên
các nước Đông Âu đi vào thoái trào, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới
nhằm xóa bỏ sự trì trệ của nền kinh tế, xác lập lại mối tương quan giữa lực lượng sản xuất quan h
sản xuất trong hội.
Nhận thấy được vai trò quan trọng của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, Việt
Nam đã tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, kịp thời quyết định nhiều chủ trương, chính sách mới về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ mới, hiện đại; phá bỏ
chế quản quan liêu, bao cấp, vận dụng kinh tế thị trường, làm cho mọi thành phần kinh tế, kể c
kinh tế bản, nhân, kinh tế vốn đầu nước ngoài điều kiện phát huy vai trò trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội. vậy, lực lượng sản xuất Việt Nam phát triển không ngừng, sản xuất luôn mở
rộng, của cải vật chất, hàng hóa trở nên dồi dào; từ “công xưởng” đã trở thành trung tâm tài chính,
thương mại của khu vực thế giới. Nhờ lực lượng sản xuất này đã tạo nên những quan hệ sản xuất
mới, phù hợp trong thời kỳ quá độ; chế độ chính trị, các quan hệ thượng tầng kiến trúc được củng cố
vững chắc; những tiền đề cho xây dựng chủ nghĩa hội, trước hết về sản xuất vật chất, phát triển
kinh tế, làm cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng lớn mạnh.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân được cải thiện rệt. Đất nước chưa bao giờ được đồ, tiềm lực, vị
thế uy tin như ngày nay.
thể khẳng định rằng với những Việt Nam đã, đang xây dựng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
lOMoARcPSD|3 7752136
hội, nhất thành quả sau 35 năm đổi mới đất nước đã cho thấy đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam
một tất yếu khách quan, sự lựa chọn của lịch sử khát vọng của nhân dân ta. Quá trình quá độ lên
chủ nghĩa hội phía trước còn rất nhiều khó khăn, thách thức, song với việc vận dụng linh hoạt, sáng
tạo luận hình thái kinh tế hội của chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chúng
ta tin tưởng con đường tiến lên chủ nghĩa hội của chúng ta nhất định thắng lợi.
Câu 8: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay:
1. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình đ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách
rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy luật bản nhất của sự vận động, phát triển
hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng
bắt nguồn từ sự biến đổi phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết công cụ lao động.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ của công cụ lao động,
trình độ, kinh nghiệm năng lao động của con người, trình đ tổ chức phân công lao động hội,
trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ lực lượng sản xuất tinh chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử hội, lực
lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ tinh chất nhân lên tinh chất hội hóa. Khi sản xuất dựa trên
công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu tinh chất
nhân. Khi sản xuất đạt đến trình đ khí, hiện đại, phân công lao động hội phát triển thì lực lượng
sản xuất tinh chất hội hóa.
Sự vận động, phát triển quá trình sản xuất quyết định làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với
nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất
phát triển. Điều đó nghĩa là, tạo điều kiện sử dụng kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
liệu sản xuất do đó lực lượng sản xuất sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan h sản xuất từ chỗ phù
hợp trở nên không phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kiềm
hãm lực lượng sản xuất phát triển.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng tinh độc lập tương đối
tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất,
tác động đến thái độ con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phản công lao động hội, đến
phát triển ứng dụng khoa học công nghệ,… do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản
lOMoARcPSD|3 7752136
xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất động lực thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy luật phổ biến
tác Động trong toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ
công nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu lệ, chế độ phong kiến, chế đ bản chủ nghĩa đến
hội cộng sản tương lai do sự tác động của hệ thống các quy luật hội, trong đó quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy luật bản nhất.
2. Liên hệ thực tiễn với Việt Nam hiện nay:
a. Sự hình thành phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện nay nước ta
Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan hệ
sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu quan hệ khác, do quên mất điều
bản nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa hội từ một hội tiền bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ
công hữu với chủ nghĩa hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hóa tập thể hóa. Không thấy các
bước đi tinh quy luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân xét về thực chất là theo đường lối “đẩy mạnh cải tạo hội chủ
nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ công
hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân tập thể”. Quan niệm cho rằng thể đưa quan hệ
sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất hội này đã mâu thuẫn với những cái phân tich trên.
Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình thức kinh tế
hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh
phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên cần thiết về mặt này trên thực tế chúng ta
chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất từ đó khắc phục những khó khăn tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan h sản
xuất mới với những hình thức bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn
luôn thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao.
Trên sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi phát
triển chủ nghĩa bản và luôn bán tự do rộng rãi lợi cho sự phát triển sản xuất. Mới đây các nhà báo
của nước ngoài phỏng vấn Tổng thư Khả Phiêu rằng “với một người bằng cấp về quân sự nhưng
không bằng cấp về kinh tế ông thể đưa nước Việt Nam tiến lên không”, trả lời phỏng vấn Tổng
thư khẳng định rằng Việt Nam chúng tôi khác với các nước chỗ chúng tôi đào tạo một người lính thì
người lính ấy phải khả năng cầm súng làm kinh tế rất giỏi, ông còn khẳng định không chấp
nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của bản, nhưng không phải triệt tiêu bản trên đất nước
Việt Nam vẫn quan hệ với chủ nghĩa bản trên sở lợi cho đôi bên như vậy cho phép phát
triển thành phần kinh tế bản sáng suốt. Quan điểm từ đại hội VI cũng đã khẳng định không nhưng
khôi phục thành phần kinh tế bản nhân kinh tế cả thế phải phát triển chúng rộng rãi theo
chính sách của Đảng Nhà nước.
Nhưng điều quan trọng phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ
quá độ. Để thực hiện vai t này một mặt phải thông qua sự nêu gương về các mặt năng suất, chất
lượng hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước. Đối với thành phần kinh tế bản nhân
lOMoARcPSD|3 7752136
kinh tế thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải
những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tinh chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. như thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao
động.
nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung hai lực lượng chính: lực ợng sản xuất
của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng
sản xuất ngoài quốc doanh (thường gọi dân doanh, thuộc kinh tế nhân).
c. Công nghiệp hóa vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tinh chất trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất vận động không ngoài biện chứng nội tại của phương thức
sản xuất, vấn đề công nghiệp hóa gắn chặt với hiện đại hóa, trước hết phải được xem xét từ duy triết
học. Trước khi đi vào công nghiệp hóa hiện đại hóa muốn thành công trên đất nước thì phải tiềm
lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tinh chất trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới nhân tố
bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa với tiềm năng lao động lớn cần cù,
thông minh, sáng tạo kinh nghiệm lao động nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt
hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất
nước về công nghiệp hóa hiện đại hóa trước hết trên sở một cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền
với một cấu các thành phần kinh tế hợp quy luật, cũng như cấu một hội hợp giai cấp. Cùng với
thời lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước dân giàu nước mạnh công bằng văn minh hãy còn phía trước nội dung bản
trong việc thực hiện phải nhận thức đúng đắn v quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tinh chất
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Câu 9: Mối quan hệ biện chứng giữa sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng.
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.:
1. MQH biện chứng giữa CSHT KTTT:
sở hạ tầng
- toàn bộ những quan hệ sản xuất của một hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành
kết cấu kinh tế của hội đó.
- Cấu trúc của sở hạ tầng bao gồm:
+ Quan hệ sản xuất thống trị: QHSX hiện tại, bản, chủ đạo trong hình thái kinh tế - hội đó.
+ Quan hệ sản xuất tàn : QHSX của hình thái kinh tế - hội trước đó.
+ Quan hệ sản xuất mầm mống: QHSX của hình thái kinh tế - hội tương lai.VD:
lOMoARcPSD|3 7752136
Trong chế độ chiếm hữu lệ thì
QHSX thống trị: Chiếm hữu lệ, tàn dư: Cộng sản nguyên thủy; mầm mống: Phong kiến.
Kiến trúc thượng tầng
- toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…với những
thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể…được hình thành trên 1 sở hạ
tầng nhất định.
VD: Tương ứng với quan điểm, tưởng về tôn giáo giáo hội/các tổ chức tôn giáo, với quan điểm về
pháp luật nhà nước…
=> Khẳng định vai trò của sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng: sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng.
a. sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
CSHT sản sinh ra KTTT: Mỗi sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng, tác
dụng bảo vệ sở hạ tầng đó
(VD: Trước đây, vào khoảng t 2000-4000 năm tcn, trên thế giới xuất hiện hình thái kinh tế chiếm
hữu nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu lệ, đất đai các liệu sản xuất khác hầu hết thuộc sở hữu
nhân của các chủ nô, kể cả lệ, từ đó hình thành nên kiểu nhà nước chủ nô. sở kinh tế hội
(hay CSHT) của nhà nước chủ nhân tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước
(hay KTTT) cũng như quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô. lệ địa vị cùng thấp kém,
họ bị coi tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ quyền tuyệt đối đối với lệ, khai thác bóc lột
sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chế.)
Khi CSHT thay đổi thì KTTT cũng biến đổi theo sớm hay muộn.VD:
CSHT quy định tinh chất của KTTT: giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt
chính trị đời sống tinh thần của hội, các giai cấp còn lại vào vị trí bị thống trị
Nh
ư
v
y, c
ơ
s
h
t
ng quy
ế
t
đị
nh ki
ế
n tr
ú
c th
ượ
ng t
ng; ki
ế
n tr
ú
c thượng tầng chỉ sự phản ánh
sở hạ tầng, phụ thuộc vào sở hạ tầng
b, Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều tác động đến sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi
yếu tố khác nhau vai trò khác nhau, cách thức tác động khác nhau.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng
tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế
phát triển; nếu tác động ngược lại, sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển hội.
Tuy kiến trúc thượng tầng tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi
được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
lOMoARcPSD|3 7752136
-Nghiên cứu mối quan hệ giữa sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng, cần đề phòng 2 khuynh hướng sai
lầm :
Tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố kinh tế, coi nhẹ vai trò của yếu tố tưởng, chính trị, pháp ( nếu
không sẽ rơi vào chủ nghĩa duy kinh tế )
Tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố chính trị, tưởng, pháp lý, biến các yếu t đó thành tinh thứ nhất so
với kinh tế ( nếu không sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí )
2. Liên hệ với Việt Nam hiện nay:
a,Thực trạng sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng nước ta hiện nay:
Về sở hạ tầng: - Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao phát triển tương đối toàn diện. Đất
nước đã sự thay đổi bản toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế hội. Kinh tế tăng trưởng
khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rệt. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế
chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cấu
kinh tế chuyển dịch chậm. Nguy tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực trên
thế giới vẫn còn tồn tại.
Về kiến trúc thượng tầng: - Qua 40 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa hội con đường đi lên
chủ nghĩa hội ngày càng sáng tỏ n; hệ thống quan điểm luận về công cuộc đổi mới, về hội
hội chủ nghĩa con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam đã hình thành trên những nét bản”
- Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề:
+ duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề tầm quan điểm, chủ trương lớn
chưa được làm nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức thiếu dứt khoát trong hoạch
định chính sách, chỉ đạo điều hành.
+ Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất năng
lực, vừa thiếu tinh tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
+ Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản của NN lúc nơi chưa ràng,
chồng chéo, buông lỏng.
+ Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ, hoàn chỉnh; đạo đức
lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn, tội phạm, tệ nạn XH xu hướng gia
tăng; sự tấn công của các mặt trái chế thị trường cũng như những âm mưu chống phá của các thế lực
thù địch với VN càng ngày càng lộ gia tăng.
+ Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.
b, Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng phát triển nền kinh tế hội Việt
Nam hiện nay:
Về CSHT: - Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức
nhiệm vụ trọng tâm.
lOMoARcPSD|3 7752136
+ Tranh thủ các hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn
quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế các sản phẩm kinh tế giá trị tăng cao dựa nhiều
vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn nông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu bước đi thích
hợp làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò hiệu lực quản của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức năng định hướng sự
phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chế; chính sách trên sở tôn trọng các
nguyên tắc của thị trường. Thực hiện quản Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can
thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường doanh nghiệp…
+ Phát triển đồng bộ quản hiệu quả sự vận hành các loại thị trường bản theo chế cạnh
tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất hội, thực hiện
công bằng ngày một tốt hơn. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh tế với nước
ngoài.
Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh trình đ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt
động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, coi xây dựng Đảng
nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển luận, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ
nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tinh quốc tế, tinh giai cấp, tinh dân tộc, tinh nhândân;
trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế hội để quản mọi mặt của
hội văn minh hiện đại.
lOMoARcPSD|3 7752136
+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ
tăng cường pháp chế XHCN.
+ Phân định chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban ngành, các tổ chức
quần chúng t trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ
công bằng hội.
- Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng trang, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan
mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế lật đổ chế độ.
Câu 10: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại hội ý thức hội. Liên hệ với
thực tiễn Việt Nam hiện nay.:
1. MQH:
a, Tồn tại hội ý thức hội
Tồn tại hội khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất những điều kiện sinh hoạt vật chất của
hội, mối quan hệ vật chất- hội giữa con người với tự nhiên giữa con người với nhau; trong đó
quan hệ giữa con người với tự nhiên quan vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là quan hệ cơ
bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành hội loài người không phụ thuộc
vào ý thức hội. Tồn tại hội gồm các thành phần chính như: phương thức sản xuất vật chất; điều
kiên tự nhiên- môi trường địa lý; dân số mật đ dân số.. trong đó phương thức sản xuất vật chất
thành phần bản nhất.
Ý thức hội mặt tinh thần của đời sống hội, bao gồm tinh cảm, tập quán, truyền thống, quan
điểm, tưởng, luận,... nảy sinh từ tồn tại hội phản ánh tồn tai hội trong những giai đoạn
phát triển khác nhau. Hiểu đơn giản, ý thức hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau,
mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. ý thức hội cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những
mức độ khác nhau( ý thức hội thông thường ý thức luận( khoa học); tâm hội hệ
tưởng) các hình thái của ý thức hội.( ý thức chính trị, hội, đạo đức, tôn giáo, nghê thuật, triết
học, khoa học...)
b, Mối quan hệ giữa tồn tại hội ý thức hội
Thứ nhất: Tồn tại hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, sinh ra quyết định ý thức. Trong lĩnh
vực hội thì quan hệ này đươc biểu hiện là: tồn tại hội trước, sinh ra và quyết định ý thức
hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại hội nào thì sinh ra ý thức hội ấy. Tức người ta không thể tim nguồn gốc tưởng ấy
trong đầu óc con người, phải tim trong chính tồn tại hội. Do đó, tồn tại xã hội để giải cho ý
thức hội.
- Khi tồn tại hội thay đổi một cách căn bản, nhất khi phương thức sản xuất đã thay đổi thì sớm hay
muộn ý thức hôi cũng phải thay đổi theo.
lOMoARcPSD|3 7752136
Th hai: Ý thức hội thường lạc hậu n so với tồn tại hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi hội mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức hội đó sinh ra
vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biêt trong lĩnh vực tâm hội như
trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại hội do những nguyên nhân sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên trực tiếp của những hoạt động
thực tiễn của con người; thường diễn ra với tốc độ nhanh ý thức hội thể không phản ánh kịp
thời và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức hội cái phản ánh tồn tại hội nên nói chung chỉ biến đổi
sau khi sự biến đổi của tồn tại hội.
- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tinh lạc hậu, bảo thủ của một số hình
thái hội.
- Ý thức hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong
hội.
Th ba: Ý thức hội có th ợt trước tồn tại hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt những tưởng khoa học tiên tiến,
thể vượt trước sự phát triển của tồn tại hội, dự báo được tương lai, tác dụng tổ chứ chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của con người, ớng hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do
sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức hội c động trở lại tồn tại hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức
hội, còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ nhận tác dụng tich
cực của ý thức hội trong đời sống hội. Mức độ ảnh hưởng của tưởng đối với sự phát triển của
hội phụ thuộc vào những điều kiện lich sử cụ thể, vào tinh chất của các mối quan hệ kinh tế tưởng
đó sinh ra.
c, Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại hội ý thức hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống hội. vây,
công cuộc cải tạo hội cũ, xây dựng hôi mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại
hội ý thức hội.
Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại hội điều kiện bản nhất để thay đổi ý thức hội. Quán triêt
nguyên tắc phương pháp luận y luôn trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Một mặt phải coi trọng
cuộc cách mạng tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tich cực của đời sống hội tinh thần hội
đối với quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước.
2. Liên hệ thực tiễn với Việt Nam hiện nay:
Đại dịch Covid - 19 bùng phát tại Việt Nam kể từ đầu năm 2020 đến nay, trải qua đợt dịch lần thứ 4 (kể
từ 27/04/2021), phần diễn biến phức tạp hơn, phạm vi lan rộng, nhanh nhiều tỉnh thành, ảnh
hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế - hội nước ta. Điều đó, đem lại thách thức to lớn cho
Đảng Nhà nước ta trong việc đề ra những c lủ trương, chính sách hợp để thực hiện “mục tiêu kép”:
lOMoARcPSD|3 7752136
vừa thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch đem cuộc sống trở lại bình thường với người dân, đồng
thời nỗ lực khôi phục phát triển kinh tế - xậ hội gắn với thực hiện an sinh hội, trong đó việc chăm
lo đời sống tinh thần của người dân. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù ý thức hội và
đời sống tồn tại hội, soi rọi vào tinh hình thục tế trong công tác phòng, chống dịch hiện nay của Đảng,
Nhà nước nhân dân ta, những điểm nổi bật cụ thể như sau:
Trước tinh hình phức tạp của dịch bệnh, xét về mặt tư tưởng, quan điểm, Đảng Nhà nước ta chủ
động, linh hoạt, kịp thời đề ra nhiều chủ trương, Chỉ thị, Kết luận, Quyết định góp phần gọi toàn dân
đồng sức, đồng lòng nêu cao tinh thần đoàn kết, quyết tâm cùng nhau đẩy lùi dịch bệrh. Với những chủ
trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước qua những lời kêu gọi tuyên truyền, Chỉ thị nêu trên (biểu hiện
của quan điểm, tưởng trong ý thức hội) đã góp phần nâng cao được ý thức công dân về phòng,
chống dịch, mặt khác, phát huy được tinh thần đoàn kết, truyền thống “tương thân tương ái”, “lá lành
đùm rách”, cùng với giải pháp vắc-xin, tin chắc rằng chúng ta sẽ chiến thắng được đại dịch, nhân dân
sẽ được trở lại cuộc sống bình thường mới, đời sống tinh thần của người dân, của hội được nâng cao
hơn nữa.
Thông qua các hoạt động chống phá, bọn phản động, bọn thời không chỉ tác động đến ý thức
hội của người dân còn tác động mãnh liệt đến đời sống tồn tại hội. Trong thời gian qua, trên các
website, facbook, youtube, bloger nhân, các đài truyền hình nước ngoài đã xuất hiện hàng loạt những
bài viết, video clip bình luận, những thông tin sai sự thật, giả mạo về tinh hình chống dịch như: “cần thay
đổi kịch bản chống dịch; Phong tỏa cấm người dân giúp nhau, thì dân làm sao sống?”; “chính quyền
Việt Nam lừa dối dân bằng chiêu bài “xã hội hóa vaccine”, đến khi nào dân mới được tiêm vaccine?”;
nào “Kêu cứu”, nào “thành phố Hồ Chí Minh vỡ trận”; “Đại dịch Covid-19, kinh tế suy thoái cộng
thêm lụt, người dân lâm vào khó khăn, đói kém, vậy Đảng Cộng sản vẫn tưng bừng tổ chức đại
hội...”. Đó những luận điệu mang tinh chất phản động, mị dân, kích động, i kéo những phần tử
hội, bất mãn trong ngoài nước, nhất người lao động, công nhân, những tầng lớp yếu thế, đi đến
dao động, suy giảm lòng tin đối với Đảng, thủ đoạn này thể hiện tinh chất thâm độc, tàn ác trách
nhiệm đối với những kẻ tự xưng những người nêu quan điểm của mình “vì dân”.
thể khẳng định một điều rằng, giữa “đời sống tồn tại hội” “ý thức hội” hai khái niệm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa tương đồng, vừa điểm khác biệt.
Điều đó hoàn toàn không mâu thuẫn với luận nhận thức mácxít, bởi sự khác biệt giữa chúng là nằm
ngoài vấn đề nhận thức luận. Trong hoạt động phòng, chống dịch bệnh Covid-19 hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta đã biết vận dụng linh hoạt và sáng tạo mối quan hệ giữa hai phạm trù này, để nâng cao đời sống
tồn tại hội, cho người dân, cần sự đoàn kết, nhất trí của cả hệ thống chính trị. Để hiện thực hóa
quan điểm của Đảng, Nhà nước, lời kêu gọi của Tổng Thư, đòi hỏi cần phải phát huy được “liều vắc-
xin hữu hiệu nhất” trong các liều vắc-xin hữu hiệu - đó “ý thức công dân”. Đồng thời, cần phải luôn
luôn cảnh giác với các thế lực t địch, những tưởng phản động tác động xấu đến ý thức, đời sống
tinh thần của người dân, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước nhân dân. Giải quyết hài hòa vấn đề này,
tin chắc rằng, với tinh thần, chống dịch như chống giặc”, với quyết tâm “không ai bị bỏ lại phía sau”,
“chiến thắng đại dịch cho bằng được”, chúng ta nhất định sẽ vượt qua khó khăn trước mắt, chúng ta
nhất định sẽ thắng lợi.
Câu 11: Quan điểm triết học Mác Lênin về bản chất con người. Liên hệ với việc
phát triển con người Việt Nam hiện nay. :
lOMoARcPSD|3 7752136
1. Quan điểm:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề con người nội dung bản trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung Triết học
Mác - Lênin nói riêng. Con người trong tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin vừa mục tiêu vừa động
lực của sự phát triển hội. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
càng nhận thức đầy đ sâu sắc hơn về nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất
nước, coi trọng việc phát huy tối đa sức mạnh con người nhằm tạo động lực để giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Xuất phát từ vai trò quyết định đối với thành công của sự nghiệp đổi mới, vấn đề xây
dựng con người phát huy nhân t con người đang được đặt ra như một yêu cầu cấp bách.
NỘI DUNG
Điều kiện quyết định của sự hình thành con người, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác lao động. Lao
động xuất hiện đánh dấu sự chuyển biến từ t tiên động vật thành con người. Trong lao động, con người
thường xuyên biến đổi những điều kiện tồn tại của mình, cải tạo chúng cho phù hợp với những nhu cầu
thường xuyên phát triển của mình, xây dựng nên thế giới văn hoá vật chất tinh thần của mình. Hoạt
động lao động phát triển làm biến đổi toàn bộ bản chất tự nhiên của tổ tiên con người. Về mặt hội,
lao động đưa đến sự hình thành những chất mới - chất hội của con người, như ngôn ngữ, duy, giao
tiếp, quan niệm, định hướng giá trị, thế giới quan… Không chỉ thế, lao động còn đưa đến sự cải tạo bản
năng con người trên hai bình diện bắt bản năng phục tùng sự kiểm soát của trí cải tạo bản năng
thành trạng thái mới về chất của hoạt động nhận thức. Tất cả những điều ấy làm xuất hiện một loài sinh
vật mới - Homo sapiens (người khôn). Nhấn mạnh tinh phổ biến của yếu tố hội trong con người.
C.Mác đã khẳng định: “Trong tinh hiện thực của nó, bản chất con người tổng hoà những quan hệ
hội”. Bản chất con người không phải “cái trừu tượng cố hữu của nhân riêng biệt” như người ta
nghĩ, tinh lịch sử cụ thể. Tổng hợp những nét bản chất của con người, thể nói, con người
một thực thể tinh, ch thể của lao động, của những quan hệ hội giao tiếp.
Trên sở quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về con người với
cách thực thể sinh học hội. Thông qua cấu trúc này, C.Mác đã làm sáng tỏ mối quan hệ con người
tự nhiên hội ”. Ông cho rằng, “điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định tổ chức thể của những
nhân ấy” mọi khoa học “đều phải xuất phát từ những sở tự nhiên ấy”.
Mặt sinh học của con người thể hiện ra trong các hiện tượng hình thái sinh học, di truyền học, các
quá trình thần kinh não một số quá trình khác của thể con người. C.Mác thừa nhận quan điểm
coi cái duy nhất tạo nên bản chất con người đặc tinh sinh học. Mặt hội nói về thế giới tinh thần
bên trong của con người - đó những quá trình ý thức thức, ý chí, ấn tượng, trí nhớ, tinh cách,
tinh khí,… Mỗi mặt riêng rẽ trên không làm được hiện tượng con người trong tinh chỉnh thể của nó.
Khi chúng ta tiếp cận con người với cách một thực thể tinh, thì tinh (tư duy) của con người
một hiện tượng sinh học tâm hội, được tổ chức một cách phức tạp.
Mặt sinh học mặt hội tồn tại một cách thống nhất, không tách rời trong con người. cấp độ sinh
học, con người nằm trong mối liên hệ tự nhiên của các hiện tượng phục tùng tinh tất yếu tự nhiên.
bản tinh hội, con người hướng về tồn tại hội, về hội, về lịch sử loài người văn hoá. Như vậy,
con người thể thống nhất hoàn chỉnh, thực thể sinh học - hội hình thành nên từ hai mặt: tự
nhiên hội. Yếu tố sinh học trong con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố hội, cải biên,
lOMoARcPSD|3 7752136
hoà quyện vào tồn tại trong yếu tố hội. Tự nhiên hội thống nhất với nhau trong bản chất con
người.
Con người một thực thể sinh học hội được cụ thể hoá trong những nhân hiện thực. Bản chất
của nhân cách sự kết tinh tiềm năng điều chỉnh tinh thần, trung tâm của tự ý thức, nguồn gốc
của ý chí hạt nhân của tinh cách, chủ thể của hành động tự do quyền lực tối cao trong đời sống
nội tâm của con người.
Trong nhân cách, điều quan trọng không chỉ thấy cái chung, mà phải còn phải thấy cái đơn nhất
tinh. Tính đa dạng phong phú của tinh con người hình thức biểu hiện sự phát triển cao đẹp của
hội, nhu cầu thực sự của sự phát triển hội lành mạnh, được tổ chức một cách hợp lý.
Mối liên hệ giữa nhân với hội trước hết được biểu hiện thông qua tập thể ban đầu (tập thể gia
đình, tập thể lớp học, tập thể lao động) đ gia nhập vào hội. Tập thể ban đầu hội quy nhỏ
của hội loài người trình độ tổ chức cao nhất của các hệ thống sống. Chính đây, nhân hội
trực tiếp tác động lẫn nhau, nhân được hình thành về mặt tinh thần, thể xác hấp thụ được mức
độ này hay mức độ khác cái đã được tạo ra bằng lao động của những thế h trước.
Những hình thức giao tiếp trong tập thể tạo thành những mối liên hệ hội. Mỗi nhân mang trong
mình dấu ấn của tập thể và mỗi tập thể cũng mang trong mình dấu ấn của các thành viên. Trong tập thể,
nhân không chìm đi, không tan ra, nổi lên và tự khẳng định mình. Trình độ giải phóng hội luôn
được thể hiện ra sự tự do của nhân con người. nhân được giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải
phóng hội đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng
nhân. Con người tự giải phóng cho nh qua đó, giải phóng hội, thúc đẩy tiến bộ hội.
Cùng với việc xem xét con người với cách một thực thể sinh học hội, với cách nhân cách,
C.Mác còn làm sáng tỏ vị thế vai trò của con người trong lịch sử. Theo C.Mác, khuynh hướng chung
của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi lực lượng sản xuất hội; trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thước đo năng lực thực tiễn của con người hội.
Sự vận động phát triển của lịch sử sự vận động chuyển giao lực ợng sản xuất giữa các thế hệ con
người. Nhờ sự chuyển giao ấy con người hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình
thành lịch sử loài người”. Lực lượng sản xuất c quan hệ sản xuất càng phát triển thì lịch sử càng trở
thành lịch sử loài người. Với quan niệm ấy, C.Mác khẳng định: “Lịch sử hội của con người luôn chỉ
lịch sử của sự phát triển nhân của những con người”. Khả năng và ng lực sáng tạo tiềm tàng của
con người thông qua hoạt động thực tiễn đã làm nên các cuộc cách mạng trong những thời đại văn minh
của nó, từ nền văn minh ng nghiệp, văn minh công nghiệp đến nền văn minh tin học hiện nay. Với khả
năng năng lực đó, con người chính động lực cho sự phát triển kinh tế hội, chủ th sáng tạo
nên những nền văn minh trong lịch sử nhân loại. Như vậy, thể nói, trong quan niệm của C.Mác, con
người không chỉ chủ thể của lao động sản xuất, còn chủ thể của hoạt động lịch sử, kẻ sáng tạo
ra lịch sử.
2. Liên hệ:
Các c là lãnh t ch mng vĩ đại n khoa hc thiên tài của thế giới.
Người sáng lập ra ch nghĩa cộng sản khoa học, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, ch nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị học khoa học, lãnh
tụ và người thầy của giai cấp ng nhân quốc tế. Ngưi đã đ lại cho nhân
lOMoARcPSD|3 7752136
loại một kho tàng ởng quý u, trong đó có tưởng v bản chất con
người. Quan điểm này đã góp phần quan trọng trong chiếc ợc phát triển
con người nước ta hiện nay.
Trong Bản luận cương nổi tiếng về L. Phoi ơ bắc, Các Mác viết “Trong tinh hiện thực của nó, bản chất con
người tổng hoà những quan hệ hội”. Luận điểm trên của chủ nghĩa Mác về bản chất con người đã
khắc phục được những hạn chế trong quan niệm về con người của chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ
nghĩa duy tâm, đồng thời đã đặt nền tảng cho quan điểm duy vật lịch sử trong việc xem xét con người.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã xem xét vấn đề bản chất con người từ hoạt động thực tiễn,
từ quan hệ hiện thực của con người. Như vậy, quan điểm của C.Mác đã cho chúng ta một phương pháp
luận khoa học trong việc nhìn nhận, đánh giá con người trong tổng hoà các quan hệ hội hiện thực.
Khẳng định vai trò của con người, C.Mác viết: “Xã hội sản xuất ra con người với tinh cách như thế nào thì
sản xuất ra hội như thế ấy”. Kế thừa tưởng của C. Mác, Lênin cũng khẳng định vai trò quyết
định của con người: Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại người công nhân, người lao
động”. tưởng bản v con người của các nhà kinh điển nêu trên đến H Chí Minh được phát triển
thành luận điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa hội trước hết phải con người hội chủ nghĩa”. Đó
cũng những luận điểm tinh nền tảng của chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Vn dụng chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận thức một cách đúng đắn v
chiến lược phát triển con người khẳng định bằng Nghị quyết, chủ trương chính sách thật sự coi
trọng con người, coi con người nhân tố tinh quyết định để xây dựng thành công hội mới.
Đảng ta rất chú trọng đến việc phát huy nhân tố con người coi đây mục tiêu động lực của toàn bộ
sự nghiệp cách mạng. Từ Đại hội VI Đại hội đổi mới, Đảng ta đã chú trọng đến quyền làm chủ của nhân
dân lao động “thực chất tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân,
hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng hội mới”, đào tạo con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức động lực mạnh mẽ nhất để
xây dựng hội mới, đồng thời mục tiêu của chủ nghĩa hội.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào
tạo, khoa học, công nghệ, coi đó quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người động lực trực
tiếp của sự phát triển”. Với Đại hội VIII của Đảng, đất nước chuyển hẳn sang thời kỳ phát triển mới.
Những thành tựu to lớn, nhiều mặt của hơn 10 năm đổi mới đất nước không chỉ đưa đất nước ta ra khỏi
khủng hoảng kinh tế hội mà còn tạo nên những điều kiện tiền đề cần thiết đ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. tưởng chủ đạo của chiến lược phát triển con người của Đại hội
VIII là thực hiện “chính sách hội đúng đắn hạnh phúc con người động lực to lớn phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội”. Vấn đề con người chiến
lược phát triển con người đã được Đại hội VIII của Đảng cụ thể hoá thành các quốc sách lớn thích ứng
với những yêu cầu mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó các chính sách nhằm
phát huy nguồn lực con người thực hiện công bằng hội. Mục đích cao nhất của hệ thống chính sách
này nhằm phát triển trí tuệ của người Việt Nam, nguồn vốn quyết định nhất, quý giá nhất của chúng ta
trong sự nghiệp đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các chủ trương chính sách nhằm phát huy nhân tố con người theo tinh thần Đại hội IX xuất phát từ
quan điểm cho rằng nhân dân người sáng tạo ra lịch sử, chủ nhân thực sự của hội, chủ thể của
mọi hoạt động kinh tế, văn hoá hội mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng phục vụ nhân
dân. Quan điểm đúng đắn đó được thể hiện chủ trương “phát triển giáo dục đào tạo một trong
lOMoARcPSD|3 7752136
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, điều kiện để phát huy
nguồn lực con người yếu t bản để phát triển hội, tăng trưởng kinh tế nhanh bền vững”. Tiếp
nối tinh thần Đại hi IX, Đại hội X, XI, XII khẳng định: mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện… văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách,
kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường xây
dựng bảo vệ tổ quốc. Xây dựng con người Vit Nam phát triển toàn din phải trở thành mục tiêu
của chiến lược phát triển”.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đã đang được
phát huy mạnh mẽ, chúng ta hoàn toàn thể tin tưởng rằng, với những quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin cũng như những quan điểm chủ trương đúng đắn của Đảng về chiến lược phát triển con
người thời kỳ đổi mới, tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đang ngày càng được khơi dậy,
được nhân lên và phát triển, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều này càng ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta hiện nay, khi
nguồn lực tài chính vật chất còn nhiều hạn hẹp và trong thời đại kinh tế trí thức hiện nay, nguồn lực
con người với tiềm năng năng lực sáng tạo cùng phong phú đang ngày càng trở thành nguồn gốc
quan trọng nhất của sự giàu phát triển toàn diện đất nước.
| 1/25

Preview text:

lOMoARcPSD|37752136 lOMoARcPSD|37752
ĐỀ CƯƠNG TỰ LUẬN TRIẾT
Câu 1: Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin. Ý nghĩa phương pháp luận: 1. Định nghĩa:
Trong thời kỳ lịch sử khái niệm vật chất đã bị xuyên tạc bởi những nhà triết học duy tâm, khẳng định bản
chất của vật chất, theo những nhà khoa học duy tâm có đưa ra quan điểm bản chất của thế giới là ý
thức, ý thức là thứ nhất, vật chất là tinh thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất. (Mặt khác, chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau để cùng tồn tại và phát triển.)
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách
quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan đã thừa nhận tinh thứ nhất của ý thức con người, khẳng định mọi sự
vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân. Đại biểu là Gióocgiơ Béccli ông là nhà triết
học duy tâm chủ quan, vị linh mục người Anh.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Lênin đã chỉ ra bản chất của vật chất như sau:
"Vật chất là phạm trù triết học được dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"

*Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin ở trên có những ý nghĩa sau:
Việc chỉ ra thuộc tinh cơ bản nhất, phổ biến nhất chính là thuộc tinh tồn tại khách quan đã giúp cho
chúng ta có thể phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa phạm trù vật chất với phạm trù triết học, khoa
học chuyên ngành. Từ đó khắc phục được những hạn chế trong các quan niệm của những nhà triết học
trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định được những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Lênin đã giải quyết triệt để được vấn đề cơ bản của triết học, đó là vật chất là cái có trước và ý thức là
cái có sau, vật chất quyết định cho ý thức. Qua đó có thể thấy rằng con người có thể nhận thức được thế
giới quan thông qua sự sao chép, chụp lại và phản ánh đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất
của Lênin đã tạo ra cơ sở nền tảng, tiền đề để có thể xây dựng quan niệm duy vật về xã hội.
2. Ý nghĩa Phương pháp luận:
- Định nghĩa vật chất của Lê nin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
+ Khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, vật chất có trước, ý thức có sau, VC quyết định YT, YT chỉ
là sự phản ánh, chỉ là sản phẩm của vật chất đồng thời định nghĩa cũng khẳng định con người có khả
năng nhận thức được thế giới, có khả năng chụp lại, chép lại, phản ánh thế giới vật chất
+ Bác bỏ quan điểm xuyên tạc của chủ nghĩa duy tâm về chủ nghĩa duy vật và khẳng định bản chất của
chủ nghĩa duy vật vẫn tiếp tục phát triển
+ Mở đường cho các nhà khoa học tự nhiên trong việc tim ra các hình thức mới của vật chất để chứng
minh sự phong phú của cấu trúc vật chất
+ Cung cấp thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoARcPSD|37752136 1. Mối quan hệ: Vật chất là gì
"Vật chất là phạm trù triết học được dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác" Ý thức là gì
Dựa trên lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm bản chất của ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan một cách năng động sáng tạo bởi bộ óc người.
Bản chất của ý thức được hiểu trên các nội dung sau:
Thứ nhất, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh; thế giới
vật chất khách quan là cái được phản ánh.
Thứ hai, phản ánh ý thức là phản ánh năng động, sáng tạo đối với thế giới khách quan. Phản ánh của ý
thức là loại phản ánh đặc biệt, diễn ra trong quá trình con người lao động cải tạo thế giới.
C,Mác, Ph.Ăngghen diễn đạt về tinh năng động, sáng tạo trong phản ánh ý thức như sau: Ý thức “chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”. Còn theo
V.I.Lênin, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Vật chất quyết định ý thức
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất trong mối quan hệ với ý thức có vai trò quyết định.
Đây là nguyên tắc đặc biệt quan trọng, được xem là nguyên tắc xuất phát điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được hiểu trên những nội dung:
Thứ nhất, vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức. Ý thức là sản phẩm của bộ óc, một dạng vật chất có tổ
chức cao nhất. Không có bộ óc người thì không thể có ý thức. Mặt khác, nếu không có sự tác động của
thế giới khách quan vào bộ óc thì cũng không thể ra đời ý thức. Hơn nữa ý thức chỉ có thể hình thành
trong quá trình lao động, thông qua cơ chế phản ánh của vật chất, thể hiện qua phương tiện ngôn ngữ.
Tóm lại, nếu không có tất cả những yếu tố như vừa nêu (bộ óc người, thế giới khách quan tác động vào
bộ óc người, hoạt động lao động, cơ chế phản ánh, ngôn ngữ) thì ý thức không được hình thành. Như
vậy, vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Thứ hai, vật chất quy định nội dung, ở bản chất của ý thức. Ý thức là sự phản ánh của vật chất, vì thế
điều kiện vật chất, hoàn cảnh sinh sống, các mối quan hệ xã hội… của con người đều được phản ánh,
đều được chép lại, chụp lại trong ý thức, nghĩa là điều kiện vật chất quy định nội dung và bản chất của ý
thức. Triết gia cổ điển Đức L.Phoiơbắc từng cho rằng khi sống trong túp lều tranh, người ta suy nghĩ khác
với khi ở trong cung điện. Rõ ràng, trong thực tế, tư tưởng, tinh cảm, tâm lý, ý chí,… của con người bị
quy định bởi hoàn cảnh trong đó họ sinh sống. lOMoARcPSD|37752136
Thứ ba, vật chất không chỉ quy định nội dung mà còn quy định cả hình thức biểu hiện cũng như sự thayđổi,
biến đổi, và phát triển của ý thức.
Ý thức luôn là cái phản ánh nên nó do cái bị phản ánh quy định, khi cái bị phản ánh thay đổi thì đương
nhiên kéo theo sự thay đổi của cái phản ánh. Trong lịch sử xã hội, ở mỗi giai đoạn lịch sử, tương ứng với
tinh chất của phương thức sản xuất vật chất, tinh chất của các quan hệ kinh tế trong xã hội là những sự
phát triển với những đặc trưng khác nhau của lĩnh vực ý thức, tinh thần.
=> Như vậy, vật chất quyết định ý thức, ngược lại, ý thức cũng có tác động trở lại to lớn đối với vật chất. (Ví dụ:
Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người.
Nhưng khi bộ não con người bị tổn thương thì hoạt động ý thức cũng bị rối loạn.
A sinh sống ở vùng sâ không có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin, việc tiếp cận còn nhiều hạn chế,
cũng như khi đi học thì A cũng thiếu đội ngũ giáo viên giảng vậy. Tức là về điều kiện cơ sở hạ tầng không
đáp ứng nên A không có kiến thức, hiểu biết nhiều về các sản phẩm công nghệ thông tin, thậm chí không
biết sử dụng. Tuy nhiên, đối với B - sống ở Thủ đô, từ nhỏ B có cơ hội học tập, tiếp cận với các công nghệ
thông tin hiện đại, có cha mẹ cũng như thầy cô chỉ dạy, vì vậy B dễ dàng sử dụng và tiếp cận các công
nghệ thông tin dù là những công nghệ mới nhất. Như vậy, có thể thấy điều kiện vật chất sẽ quyết định ý thức. )
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Sau khi ra đời, ý thức có tinh độc lập tương đối, có tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Vai trò tác động trở lại của ý thức thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, ý thức có thể làm biến đổi hiện thực vật chất khách quan để phục vụ cho nhu cầu của con
người. Trong thực tế, con người không thỏa mãn với thiên nhiên vốn có, bằng ý thức của mình, thông
qua hoạt động thực tiễn, con người đã cải tạo, chinh phục giới tự nhiên, tạo ra một thiên nhiên thứ hai,
thứ ba… để phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhiều thành tựu của con người trong quá
trình chinh phục giới tự nhiên hiện nay là đáng kinh ngạc, thể hiện vai trò vô cùng to lớn của ý thức.
Thứ hai, khi nói tới vai trò của ý thức cần phải hiểu rằng về thực chất, đó là vai trò của con người. Bản
thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được hiện thực. Ý thức đó phải được trở thành những mục
đích, kế hoạch, chủ trương, biện pháp… cho hoạt động của con người, tiếp đó, thông qua các lực lượng
thực tiễn, ý thức mới cải biến được hiện thực.
Thứ ba, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất là vô cùng to lớn, nhưng có thể diễn ra theo hai
khả năng: ý thức, tư tưởng tiên tiến, phản ánh đúng quy luật khách quan sẽ thúc đẩy sự phát triển của
hiện thực vật chất và ngược lại, ý thức tư tưởng lạc hậu, lỗi thời, phản ánh không đúng quy luật khách
quan sẽ kìm hãm sự phát triển của hiện thực vật chất.
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, hoạt động thực tiễn của con người đóng vai trò quan trọng.
Vật chất phản ánh vào đầu óc con người để hình thành ý thức bao giờ cũng diễn ra cùng với hoạt động
thực tiễn, ngược lại, ý thức muốn cải biến được điều kiện vật chất cũng phải thông qua hoạt động thực
tiễn. Hoạt động thực tiễn là cầu nối, là khâu trung gian giữa vật chất và ý thức. lOMoARcPSD|37752136 Ví dụ:
Khi ở nhiệt độ 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước đá đã cung cấp một
nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá).
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt động quan
sát, phân tich để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tinh, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện thực khách
quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch mới có thể thành công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không nghiên cứu
đánh giá tinh hình đối tượng vất chất.
- Phát huy tinh năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy khả
năng của mình và luôn tim tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên rèn luyện,
tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng.
Câu 3: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoARcPSD|37752136 lOMoARcPSD|37752136
Câu 4: Nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa phương pháp luận: lOMoARcPSD|37752136 lOMoARcPSD|37752136
Câu 5: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: 1. Thực tiễn:
Có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau về thực tiễn; nếu chủ nghĩa duy tâm mới chỉ cho rằng thực tiễn
như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất,
là hoạt động lịch sử xã hội; trong khi đó chủ nghĩa duy vật trước Mác lại cho rằng thực tiễn là một hành
động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Đến tận khi
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm và thực tiễn của các nhà triết
học trước đó, đưa ra một quan điểm đúng đắn và thực tiễn như sau:
"Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải biên thế giới khách quan".
Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối
tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng của bản chất con ngườ, nói tới
thực tiễn là hoạt động có tinh tự giác cao của con người, khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng,
thụ động của động vật.
Không phải mọi hoạt động có mục đích của con người đều là thực tiễn. Hoạt động tư duy, hoạt động
nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học đều là những hoạt động có mục đích của con người
nhưng chỉ là hoạt động tinh thần không phải là thực tiễn.
Ví dụ: Người công nhân vệ sinh dùng chổi và hót rác để thu quét những đống rác bên vệ đường làm
sạch môi trường; hay hoạt động lao động của người công nhân trong nhà máy, xí nghiệp tác động vào
máy móc trên những dây chuyền sản phẩm để tạo ra những sản phẩm đưa ra thị trường phục vụ con người. .
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất (là hoạt động có sớm nhất, cơ bản và quan trọng nhất. là hình thức
hoạt động cơ bản của thực tiễn. Đây là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ lao động tác lOMoARcPSD|37752136
động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và
phát triển của mình. Sản xuất vật chất cũng là cơ sở cho sự tồn tại các hình thức thực tiễn khác cũng như
tất cả các hoạt động sống khác của con người.)
Ví dụ: Người nông dân dùng máy gặt để thu hoạch lúa trên đồng; người ngư dân dùng lưới để đánh bắt cá trên biển. .
- Hoạt động chính trị - xã hội (là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau
trong xã hội nhằm cải biên, cải tạo, phát triển những thiết chế xã hội, quan hệ chính trị - xã hội thông
qua các hoạt động như đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tôc, đấu tranh vì hòa bình, dân chủ
với mục đích chung để thúc đẩy xã hội phát triển.)
Ví dụ: Nhân dân ta đấu tranh đánh đuổi chế độ thực dân, đế quốc để giành độc lập dân tộc.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học (là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành
trong những điều kiện do con người tạo ra, những cái không có sẵn trong tự nhiên; gần giống, giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển
của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong
thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.)
Ví dụ: Con người nghiên cứu cơ chế hoạt động của virut corona để điều chế ra vaccine ngừa Covid -19
tiêm chủng cho con người.
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
Vì sao lại nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? Xuất phát từ sự thật rằng mọi tri thức
dù trực tiếp hay gián tiếp đối với bất kì đối tượng con người nào, ở bất kì trình độ
kinh nghiệm hay lý luận đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho
quá trình nhận thức, cho mọi lý luận. Thông qua những hoạt động thực tiễn, con
người tác động vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính,
những quy luật để con người có thể nhận thức được chúng. Con người vốn quan hệ
với thế giới bên ngoài bằng thực tiễn chứ không phải bằng lý luận. Chính từ trong
quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình
thành và phát triển. Lúc đầu con người thường thu nhận tài liệu một cách chủ quan,
sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa... để phản ánh bản
chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để xây dựng thành khoa học, lý luận.
Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh
hay lĩnh vực nào đi chăng nữa thì cũng phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết
quả nhận thức phải hướng dẫn và chỉ đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học không
vận dụng được để cải tạo thực tiễn thì không có bất cứ ý nghĩa nào.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức. Thực tiễn giúp con người
nhận thức toàn diện hơn về thế giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng
phát triển của nhận thức là kết quả của thực. Trong quá trình hoạt động thực tiễn
làm biến đổi thế giơi, con người cũng không ngừng biến đổi theo. Từ đó con người lOMoARcPSD|37752136
ngày càng đi sâu vào nhận thức và khám phá thế giới, làm sâu sắc và phong phú
vốn tri thức của mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải luôn
luôn làm mới nguồn tri thức, biết cách tổng kết kinh nghiệm, khái quảt lý luận để từ
đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn
của con người cần tới khoa học - từ đó dẫn đến sự ra đời của khoa học.
Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm của triết học Mác - Lênin đã từng cho rằng:
"vấn đề tim hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không
phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý. Nhận thức khoa học có tiêu chuẩn logic riêng tuy nhiên chúng không thể thay thế hoàn
toàn cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó còn phụ thuộc và tiêu chuẩn thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa tuyệt đối mà cũng vừa tương đối. Tuyệt đối ở đây là bởi thực
tiễn chính là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Không phải tất cả thực tiễn có thể kiểm
nghiệm được chân lý mà còn phải dựa vào thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Tính tương đối
của thực tiễn thể hiện ở chỗ thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển. Thực tiễn cũng không tránh
khỏi yếu tố chủ quan bởi lẽ thực tiễn cũng là một quá trình và được thực hiện bởi con người. Chính sự
biến đổi không ngừng của thực tiễn đã ngăn cản những tri thức của con người biến thành chân lý tuyệt
đối cuối cùng. Những tri thức liên tục bị kiểm nghiệm bởi các giai đoạn của thực tiễn có thể thực tiễn
trong quá khứ, hiện tại hay thậm chí là tương lai. Để từ đó nhận thức của con người được bổ sung, điều
chỉnh và phát triển toàn diện nhất.
Câu 6: Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn :
- Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người. Đường lối, chủ trương, CS của
Đảng, PL của NN, Chính sách của địa phương của ngành chỉ đúng đắn, phù hợp khi nó đáp ứng được nhu
cầu của TT, phù hợp với TT, xuất phát từ thực tiễn của địa phương, của ngành và đất nước.
Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành -> Bám sát TT, hướng vào
thực tiễn. Vận dụng LL vào CMVN, vào công tác cán bộ
Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận cũng như chủ
trương, đường lối, chính sách. TT luôn vận động và biến đổi không ngừng vì vậy cần phải thường xuyên
tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển nhận thức nâng lên thành LL để LL ấy quay lại phục vụ cho TT.
Việc tổng kết TT làm cho con người có thêm nhiều tri thức mới, bài học kinh nghiệm. Trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước ta phải luôn chú ý đến việc tổng kết thực tiễn để có những định hướng phù hợp với
tinh hình đất nước và thời đại -> Đẩy mạnh công tác nghiên cứu LL, tổng kết có hệ thống sự nghiệp XD
và BV Tổ quốc, rút ra những kết luận đúng đắn.
- Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận. Phải luôn tôn trọng TT, căn cứ vào
TT để kiểm tra tinh đúng đắn của nhận thức lý luận cũng như đường lối, chủ trương, chính sách…Một
đường lối, chủ trương đúng đắn hay sai lầm chỉ có thể nhận biết qua thực tiễn, vận dụng vào TT lOMoARcPSD|37752136
- Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm (là khuynh hướng
tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, đề cao vốn kinh nghiệm bản thân, coi
thường, hạ thấp lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận) và bệnh giáo điều (khuynh hướng tư
tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý luận, cường điệu vai trò của LL, coi thường và hạ thấp kinh nghiệm
thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác, nước khác một
cách rập khuôn máy móc, không tinh đến điều kiện thực tiễn cụ thể của mình).
- Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm” , tránh nói
một đằng, làm một nẻo ; nói nhiều làm ít ; nói mà không làm. .
Câu 7: Hình thái kinh tế - xã hội và vai trò của từng yếu tố. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay:
1. Hinh thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật
biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội
cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản
là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội
có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh
tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định
sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội
khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Tổng hợp lại những quan hệ sản xuất cấu thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, cái gọi là xã
hội mà lại là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tinh chất độc đáo,
riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những tổng hợp các quan hệ sản xuất
theo loại đó mà mỗi tổng thể ấy đồng thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại
Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ
để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia
đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh
vực xã hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại,
thống nhất với nhau gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất. lOMoARcPSD|37752136 2. Liên hệ:
Điều khác biệt căn bản về chất so với các luận thuyết chính trị-xã hội có trong lịch sử, học thuyết hình
thái kinh tế-xã hội của Mác là sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa tinh khoa học và
tinh đảng. Vì thế, đã có nhiều nước chọn học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận để xây
dựng Chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn luôn khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, là động lực, phản ánh
quy luật phát triển của cách mạng Việt nam, là sợi chỉ đó xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng.
Kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, xét trên khía
cạnh lịch sử lý luận vẫn không trái với học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác mà trái lại
còn bổ sung, làm phong phú hơn tinh đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác.
Thời đại ngày này mà chúng ta đang sống là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Đó là một quá trình quá độ nhất định, cải biến về chính trị đối với những
nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và một quá trình quá độ từ các nước chưa trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cái mới chưa hoàn toàn được hình
thành, cái cũ chưa hoàn toàn mất đi, thậm chí lấn án cái mới, các mâu thuẫn tồn tại trong giai đoạn này
vừa đấu tranh triệt tiêu lẫn nhau, nhưng cũng vừa đấu tranh thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản, thực chất đó
là không trải qua việc xác lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, còn những thành quả, giá trị con người
tạo ra trong giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản như: toàn cầu hóa, khoa học kỹ thuật, khoa học công
nghệ, kinh tế thị trường sẽ là đòn bẩy cho phép chúng ta có thể đi tắt, đón đầu, để hoạch định chủ
trương, chính sách nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Kề từ khi Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
các nước Đông Âu đi vào thoái trào, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới
nhằm xóa bỏ sự trì trệ của nền kinh tế, xác lập lại mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội.
Nhận thấy được vai trò quan trọng của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, Việt
Nam đã tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, kịp thời quyết định nhiều chủ trương, chính sách mới về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ mới, hiện đại; phá bỏ
cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, vận dụng kinh tế thị trường, làm cho mọi thành phần kinh tế, kể cả
kinh tế tư bản, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có điều kiện phát huy vai trò trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lực lượng sản xuất ở Việt Nam phát triển không ngừng, sản xuất luôn mở
rộng, của cải vật chất, hàng hóa trở nên dồi dào; từ “công xưởng” đã trở thành trung tâm tài chính,
thương mại của khu vực và thế giới. Nhờ lực lượng sản xuất này đã tạo nên những quan hệ sản xuất
mới, phù hợp trong thời kỳ quá độ; chế độ chính trị, các quan hệ thượng tầng kiến trúc được củng cố
vững chắc; những tiền đề cho xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết là về sản xuất vật chất, phát triển
kinh tế, làm cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng lớn mạnh.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tin như ngày nay.
Có thể khẳng định rằng với những gì Việt Nam đã, đang xây dựng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã lOMoARcPSD|37752136
hội, nhất là thành quả sau 35 năm đổi mới đất nước đã cho thấy đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
một tất yếu khách quan, là sự lựa chọn của lịch sử và là khát vọng của nhân dân ta. Quá trình quá độ lên
chủ nghĩa xã hội phía trước còn rất nhiều khó khăn, thách thức, song với việc vận dụng linh hoạt, sáng
tạo lý luận hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chúng
ta tin tưởng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta nhất định thắng lợi.
Câu 8: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay:
1. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách
rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là
bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động,
trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội,
trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ lực lượng sản xuất là tinh chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực
lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tinh chất cá nhân lên tinh chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên
công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tinh chất cá
nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng
sản xuất có tinh chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển quá trình sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với
nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất
phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
và tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù
hợp trở nên không phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kiềm
hãm lực lượng sản xuất phát triển.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tinh độc lập tương đối
và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất,
tác động đến thái độ con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phản công lao động xã hội, đến
phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,… và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản lOMoARcPSD|37752136
xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến
tác Động trong toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ
công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã
hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
2. Liên hệ thực tiễn với Việt Nam hiện nay:
a. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện nay ở nước ta
Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan hệ
sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và quan hệ khác, do quên mất điều cơ
bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ
công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hóa và tập thể hóa. Không thấy rõ các
bước đi có tinh quy luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ công
hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể”. Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ
sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái phân tich trên.
Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình thức kinh tế – xã
hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh
và phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên là cần thiết về mặt này trên thực tế chúng ta
chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất từ đó khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản
xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn
luôn thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao.
Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát
triển chủ nghĩa tư bản và luôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất. Mới đây các nhà báo
của nước ngoài phỏng vấn Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng “với một người có bằng cấp về quân sự nhưng
không có bằng cấp về kinh tế ông có thể đưa nước Việt Nam tiến lên không”, trả lời phỏng vấn Tổng bí
thư khẳng định rằng Việt Nam chúng tôi khác với các nước ở chỗ chúng tôi đào tạo một người lính thì
người lính ấy phải có khả năng cầm súng và làm kinh tế rất giỏi, và ông còn khẳng định là không chấp
nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản, nhưng không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước
Việt Nam và vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy cho phép phát
triển thành phần kinh tế tư bản là sáng suốt. Quan điểm từ đại hội VI cũng đã khẳng định không nhưng
khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cả thế mà phải phát triển chúng rộng rãi theo
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ
quá độ. Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự nêu gương về các mặt năng suất, chất
lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và lOMoARcPSD|37752136
kinh tế cá thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải
có những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tinh chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính: lực lượng sản xuất
của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng
sản xuất ngoài quốc doanh (thường gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).
c. Công nghiệp hóa vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tinh chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện chứng nội tại của phương thức
sản xuất, vấn đề công nghiệp hóa gắn chặt với hiện đại hóa, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết
học. Trước khi đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa và muốn thành công trên đất nước thì phải có tiềm
lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tinh chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với tiềm năng lao động lớn cần cù,
thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt
hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất
nước về công nghiệp hóa – hiện đại hóa trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền
với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với
thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước vì dân giàu nước mạnh công bằng văn minh hãy còn phía trước mà nội dung cơ bản
trong việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tinh chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Câu 9: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.:
1. MQH biện chứng giữa CSHT và KTTT: Cơ sở hạ tầng
- Là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành
kết cấu kinh tế của xã hội đó.
- Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm:
+ Quan hệ sản xuất thống trị: QHSX hiện tại, cơ bản, chủ đạo trong hình thái kinh tế - xã hội đó.
+ Quan hệ sản xuất tàn dư: QHSX của hình thái kinh tế - xã hội trước đó.
+ Quan hệ sản xuất mầm mống: QHSX của hình thái kinh tế - xã hội tương lai.VD: lOMoARcPSD|37752136
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ thì
QHSX thống trị: Chiếm hữu nô lệ, tàn dư: Cộng sản nguyên thủy; mầm mống: Phong kiến.
Kiến trúc thượng tầng
- Là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…với những
thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể…được hình thành trên 1 cơ sở hạ tầng nhất định.
VD: Tương ứng với quan điểm, tư tưởng về tôn giáo là giáo hội/các tổ chức tôn giáo, với quan điểm về
pháp luật là nhà nước…
=> Khẳng định vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
CSHT sản sinh ra KTTT: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng, có tác
dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó
(VD: Trước đây, vào khoảng từ 2000-4000 năm tcn, trên thế giới có xuất hiện hình thái kinh tế chiếm
hữu nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản xuất khác hầu hết thuộc sở hữu
tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ, từ đó hình thành nên kiểu nhà nước chủ nô. Cơ sở kinh tế xã hội
(hay CSHT) của nhà nước chủ nô là nhân tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước
(hay KTTT) cũng như quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp kém,
họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác bóc lột
sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chế.)
Khi CSHT thay đổi thì KTTT cũng biến đổi theo dù sớm hay muộn.VD:
CSHT quy định tinh chất của KTTT: giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt
chính trị và đời sống tinh thần của xã hội, các giai cấp còn lại ở vào vị trí bị thống trị
⇒ Như vậy, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; kiến trúc thượng tầng chỉ là sự phản ánh cơ
sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng
b, Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi
yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng
tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế
phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi
được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN lOMoARcPSD|37752136
-Nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, cần đề phòng 2 khuynh hướng sai lầm :
Tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố kinh tế, coi nhẹ vai trò của yếu tố tư tưởng, chính trị, pháp lý ( nếu
không sẽ rơi vào chủ nghĩa duy kinh tế )
Tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố chính trị, tư tưởng, pháp lý, biến các yếu tố đó thành tinh thứ nhất so
với kinh tế ( nếu không sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí )
2. Liên hệ với Việt Nam hiện nay:
a,Thực trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay:
Về sơ sở hạ tầng: - Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Đất
nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh tế tăng trưởng
khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế
chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới vẫn còn tồn tại.
Về kiến trúc thượng tầng: - Qua 40 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã
hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”
- Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề:
+ Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn
chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch
định chính sách, chỉ đạo điều hành.
+ Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất và năng
lực, vừa thiếu tinh tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
+ Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của NN có lúc có nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
+ Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ, hoàn chỉnh; đạo đức
lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn, tội phạm, tệ nạn XH có xu hướng gia
tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị trường cũng như những âm mưu chống phá của các thế lực
thù địch với VN càng ngày càng lộ rõ và gia tăng.
+ Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.
b, Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Về CSHT: - Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm. lOMoARcPSD|37752136
+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn
quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu và bước đi thích
hợp làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức năng định hướng sự
phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế; chính sách trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc của thị trường. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can
thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp…
+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện
công bằng ngày một tốt hơn. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh tế với nước ngoài. Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tinh quốc tế, tinh giai cấp, tinh dân tộc, tinh nhândân;
trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội để quản lý mọi mặt của
xã hội văn minh hiện đại. lOMoARcPSD|37752136
+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ
tăng cường pháp chế XHCN.
+ Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban ngành, các tổ chức
quần chúng từ trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
- Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan
mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.
Câu 10: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Liên hệ với
thực tiễn Việt Nam hiện nay.:
1. MQH:
a, Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội, là mối quan hệ vật chất- xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó
quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hê vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là quan hệ cơ
bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và không phụ thuộc
vào ý thức xã hội. Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như: phương thức sản xuất vật chất; điều
kiên tự nhiên- môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số. trong đó phương thức sản xuất vật chất là
thành phần cơ bản nhất.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tinh cảm, tập quán, truyền thống, quan
điểm, tư tưởng, lý luận,. . nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tai xã hội trong những giai đoạn
phát triển khác nhau. Hiểu đơn giản, ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau,
là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những
mức độ khác nhau( ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận( khoa học); tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội.( ý thức chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghê thuật, triết học, khoa học. .)
b, Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong lĩnh
vực xã hội thì quan hệ này đươc biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã
hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tim nguồn gốc tư tưởng ấy
trong đầu óc con người, mà phải tim nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản xuất đã thay đổi thì sớm hay
muộn ý thức xã hôi cũng phải thay đổi theo. lOMoARcPSD|37752136
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội cũ đó sinh ra
vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biêt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội như
trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những nguyên nhân sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động
thực tiễn của con người; thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp
thời và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi
sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tinh lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến,
có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai, và có tác dụng tổ chứ chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do
sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã
hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ nhận tác dụng tich
cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã
hội phụ thuộc vào những điều kiện lich sử cụ thể, vào tinh chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra.
c, Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vây,
công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hôi mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội. Quán triêt
nguyên tắc phương pháp luận này luôn trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Một mặt phải coi trọng
cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tich cực của đời sống xã hội tinh thần xã hội
đối với quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước.
2. Liên hệ thực tiễn với Việt Nam hiện nay:
Đại dịch Covid - 19 bùng phát tại Việt Nam kể từ đầu năm 2020 đến nay, trải qua đợt dịch lần thứ 4 (kể
từ 27/04/2021), có phần diễn biến phức tạp hơn, phạm vi lan rộng, nhanh ở nhiều tỉnh thành, có ảnh
hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội nước ta. Điều đó, đem lại thách thức to lớn cho
Đảng và Nhà nước ta trong việc đề ra những c lủ trương, chính sách hợp lý để thực hiện “mục tiêu kép”: lOMoARcPSD|37752136
vừa thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch đem cuộc sống trở lại bình thường với người dân, đồng
thời nỗ lực khôi phục phát triển kinh tế - xậ hội gắn với thực hiện an sinh xã hội, trong đó có việc chăm
lo đời sống tinh thần của người dân. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù ý thức xã hội và
đời sống tồn tại xã hội, soi rọi vào tinh hình thục tế trong công tác phòng, chống dịch hiện nay của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta, có những điểm nổi bật cụ thể như sau:
Trước tinh hình phức tạp của dịch bệnh, xét về mặt tư tưởng, quan điểm, Đảng và Nhà nước ta chủ
động, linh hoạt, kịp thời đề ra nhiều chủ trương, Chỉ thị, Kết luận, Quyết định góp phần gọi toàn dân
đồng sức, đồng lòng nêu cao tinh thần đoàn kết, quyết tâm cùng nhau đẩy lùi dịch bệrh. Với những chủ
trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước qua những lời kêu gọi tuyên truyền, Chỉ thị nêu trên (biểu hiện
của quan điểm, tư tưởng trong ý thức xã hội) đã góp phần nâng cao được ý thức công dân về phòng,
chống dịch, mặt khác, phát huy được tinh thần đoàn kết, truyền thống “tương thân tương ái”, “lá lành
đùm lá rách”, cùng với giải pháp vắc-xin, tin chắc rằng chúng ta sẽ chiến thắng được đại dịch, nhân dân
sẽ được trở lại cuộc sống bình thường mới, đời sống tinh thần của người dân, của xã hội được nâng cao hơn nữa.
Thông qua các hoạt động chống phá, bọn phản động, bọn thời cơ không chỉ tác động đến ý thức xã
hội của người dân mà còn tác động mãnh liệt đến đời sống tồn tại xã hội. Trong thời gian qua, trên các
website, facbook, youtube, bloger cá nhân, các đài truyền hình nước ngoài đã xuất hiện hàng loạt những
bài viết, video clip bình luận, những thông tin sai sự thật, giả mạo về tinh hình chống dịch như: “cần thay
đổi kịch bản chống dịch; Phong tỏa mà cấm người dân giúp nhau, thì dân làm sao sống?”; “chính quyền
Việt Nam lừa dối dân bằng chiêu bài “xã hội hóa vaccine”, đến khi nào dân mới được tiêm vaccine?”;
nào là “Kêu cứu”, nào là “thành phố Hồ Chí Minh vỡ trận”; “Đại dịch Covid-19, kinh tế suy thoái cộng
thêm lũ lụt, người dân lâm vào khó khăn, đói kém, vậy mà Đảng Cộng sản vẫn tưng bừng tổ chức đại
hội. .”. Đó là những luận điệu mang tinh chất phản động, mị dân, kích động, lôi kéo những phần tử cơ
hội, bất mãn trong và ngoài nước, nhất là người lao động, công nhân, những tầng lớp yếu thế, đi đến
dao động, suy giảm lòng tin đối với Đảng, thủ đoạn này thể hiện tinh chất thâm độc, tàn ác và vô trách
nhiệm đối với những kẻ tự xưng là những người nêu quan điểm của mình là “vì dân”.
Có thể khẳng định một điều rằng, giữa “đời sống tồn tại xã hội” và “ý thức xã hội” là hai khái niệm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa tương đồng, vừa có điểm khác biệt.
Điều đó hoàn toàn không mâu thuẫn với lý luận nhận thức mácxít, bởi vì sự khác biệt giữa chúng là nằm
ngoài vấn đề nhận thức luận. Trong hoạt động phòng, chống dịch bệnh Covid-19 hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta đã biết vận dụng linh hoạt và sáng tạo mối quan hệ giữa hai phạm trù này, để nâng cao đời sống
tồn tại xã hội, cho người dân, cần có sự đoàn kết, nhất trí của cả hệ thống chính trị. Để hiện thực hóa
quan điểm của Đảng, Nhà nước, lời kêu gọi của Tổng Bí Thư, đòi hỏi cần phải phát huy được “liều vắc-
xin hữu hiệu nhất” trong các liều vắc-xin hữu hiệu - đó là “ý thức công dân”. Đồng thời, cần phải luôn
luôn cảnh giác với các thế lực thù địch, những tư tưởng phản động tác động xấu đến ý thức, đời sống
tinh thần của người dân, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Giải quyết hài hòa vấn đề này,
tin chắc rằng, với tinh thần, “chống dịch như chống giặc”, với quyết tâm “không ai bị bỏ lại phía sau”,
“chiến thắng đại dịch cho bằng được”, chúng ta nhất định sẽ vượt qua khó khăn trước mắt, chúng ta
nhất định sẽ thắng lợi.
Câu 11: Quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất con người. Liên hệ với việc
phát triển con người ở Việt Nam hiện nay. :
lOMoARcPSD|37752136 1. Quan điểm: ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề con người là nội dung cơ bản trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và Triết học
Mác - Lênin nói riêng. Con người trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển xã hội. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước, coi trọng việc phát huy tối đa sức mạnh con người nhằm tạo động lực để giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Xuất phát từ vai trò quyết định đối với thành công của sự nghiệp đổi mới, vấn đề xây
dựng con người và phát huy nhân tố con người đang được đặt ra như một yêu cầu cấp bách. NỘI DUNG
Điều kiện quyết định của sự hình thành con người, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác là lao động. Lao
động xuất hiện đánh dấu sự chuyển biến từ tổ tiên động vật thành con người. Trong lao động, con người
thường xuyên biến đổi những điều kiện tồn tại của mình, cải tạo chúng cho phù hợp với những nhu cầu
thường xuyên phát triển của mình, xây dựng nên thế giới văn hoá vật chất và tinh thần của mình. Hoạt
động lao động phát triển làm biến đổi toàn bộ bản chất tự nhiên của tổ tiên con người. Về mặt xã hội,
lao động đưa đến sự hình thành những chất mới - chất xã hội của con người, như ngôn ngữ, tư duy, giao
tiếp, quan niệm, định hướng giá trị, thế giới quan… Không chỉ thế, lao động còn đưa đến sự cải tạo bản
năng con người trên hai bình diện là bắt bản năng phục tùng sự kiểm soát của lý trí và cải tạo bản năng
thành trạng thái mới về chất của hoạt động nhận thức. Tất cả những điều ấy làm xuất hiện một loài sinh
vật mới - Homo sapiens (người khôn). Nhấn mạnh tinh phổ biến của yếu tố xã hội trong con người.
C.Mác đã khẳng định: “Trong tinh hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội”. Bản chất con người không phải là “cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt” như người ta
nghĩ, mà có tinh lịch sử – cụ thể. Tổng hợp những nét bản chất của con người, có thể nói, con người là
một thực thể có lý tinh, là chủ thể của lao động, của những quan hệ xã hội và giao tiếp.
Trên cơ sở quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về con người với
tư cách thực thể sinh học – xã hội. Thông qua cấu trúc này, C.Mác đã làm sáng tỏ mối quan hệ con người
– tự nhiên – xã hội ”. Ông cho rằng, “điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những
cá nhân ấy” và mọi khoa học “đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy”.
Mặt sinh học của con người thể hiện ra trong các hiện tượng hình thái – sinh lý học, di truyền học, các
quá trình thần kinh – não và một số quá trình khác của cơ thể con người. C.Mác thừa nhận quan điểm
coi cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tinh sinh học. Mặt xã hội là nói về thế giới tinh thần
bên trong của con người - đó là những quá trình ý thức và vô thức, ý chí, ấn tượng, trí nhớ, tinh cách,
tinh khí,… Mỗi mặt riêng rẽ trên không làm rõ được hiện tượng con người trong tinh chỉnh thể của nó.
Khi chúng ta tiếp cận con người với tư cách một thực thể có lý tinh, thì lý tinh (tư duy) của con người là
một hiện tượng sinh học – tâm lý – xã hội, được tổ chức một cách phức tạp.
Mặt sinh học và mặt xã hội tồn tại một cách thống nhất, không tách rời trong con người. Ở cấp độ sinh
học, con người nằm trong mối liên hệ tự nhiên của các hiện tượng và phục tùng tinh tất yếu tự nhiên. Ở
bản tinh xã hội, con người hướng về tồn tại xã hội, về xã hội, về lịch sử loài người và văn hoá. Như vậy,
con người là thể thống nhất hoàn chỉnh, là thực thể sinh học - xã hội hình thành nên từ hai mặt: tự
nhiên và xã hội. Yếu tố sinh học trong con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội, mà cải biên, lOMoARcPSD|37752136
hoà quyện vào và tồn tại trong yếu tố xã hội. Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất con người.
Con người là một thực thể sinh học – xã hội được cụ thể hoá trong những cá nhân hiện thực. Bản chất
của nhân cách là sự kết tinh tiềm năng điều chỉnh – tinh thần, là trung tâm của tự ý thức, là nguồn gốc
của ý chí và hạt nhân của tinh cách, là chủ thể của hành động tự do và quyền lực tối cao trong đời sống nội tâm của con người.
Trong nhân cách, điều quan trọng không chỉ là thấy cái chung, mà phải còn phải thấy cái đơn nhất là cá
tinh. Tính đa dạng và phong phú của cá tinh con người là hình thức biểu hiện sự phát triển cao đẹp của
xã hội, là nhu cầu thực sự của sự phát triển xã hội lành mạnh, được tổ chức một cách hợp lý.
Mối liên hệ giữa cá nhân với xã hội trước hết được biểu hiện thông qua tập thể ban đầu (tập thể gia
đình, tập thể lớp học, tập thể lao động) để gia nhập vào xã hội. Tập thể ban đầu là xã hội ở quy mô nhỏ
của xã hội loài người – trình độ tổ chức cao nhất của các hệ thống sống. Chính ở đây, cá nhân và xã hội
trực tiếp tác động lẫn nhau, cá nhân được hình thành về mặt tinh thần, thể xác và hấp thụ được ở mức
độ này hay mức độ khác cái đã được tạo ra bằng lao động của những thế hệ trước.
Những hình thức giao tiếp trong tập thể tạo thành những mối liên hệ xã hội. Mỗi cá nhân mang trong
mình dấu ấn của tập thể và mỗi tập thể cũng mang trong mình dấu ấn của các thành viên. Trong tập thể,
cá nhân không chìm đi, không tan ra, mà nổi lên và tự khẳng định mình. Trình độ giải phóng xã hội luôn
được thể hiện ra ở sự tự do của cá nhân con người. Cá nhân được giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải
phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá
nhân. Con người tự giải phóng cho mình và qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Cùng với việc xem xét con người với tư cách một thực thể sinh học – xã hội, với tư cách nhân cách,
C.Mác còn làm sáng tỏ vị thế và vai trò của con người trong lịch sử. Theo C.Mác, khuynh hướng chung
của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi lực lượng sản xuất xã hội; trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người và xã hội.
Sự vận động và phát triển của lịch sử là sự vận động chuyển giao lực lượng sản xuất giữa các thế hệ con
người. Nhờ sự chuyển giao ấy mà con người “hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình
thành lịch sử loài người”. Lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất càng phát triển thì lịch sử càng trở
thành lịch sử loài người. Với quan niệm ấy, C.Mác khẳng định: “Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là
lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”. Khả năng và năng lực sáng tạo tiềm tàng của
con người thông qua hoạt động thực tiễn đã làm nên các cuộc cách mạng trong những thời đại văn minh
của nó, từ nền văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp đến nền văn minh tin học hiện nay. Với khả
năng và năng lực đó, con người chính là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội, là chủ thể sáng tạo
nên những nền văn minh trong lịch sử nhân loại. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của C.Mác, con
người không chỉ là chủ thể của lao động sản xuất, mà còn là chủ thể của hoạt động lịch sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử. 2. Liên hệ:
Các Mác là lãnh tụ cách mạng vĩ đại và nhà khoa học thiên tài của thế giới.

Người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị học khoa học, là lãnh
tụ và người thầy của giai cấp công nhân quốc tế. Người đã để lại cho nhân lOMoARcPSD|37752136
loại một kho tàng tư tưởng quý báu, trong đó có tư tưởng về bản chất con
người. Quan điểm này đã góp phần quan trọng trong chiếc lược phát triển
con người ở nước ta hiện nay.
Trong Bản luận cương nổi tiếng về L. Phoi ơ bắc, Các Mác viết “Trong tinh hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Luận điểm trên của chủ nghĩa Mác về bản chất con người đã
khắc phục được những hạn chế trong quan niệm về con người của chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ
nghĩa duy tâm, đồng thời đã đặt nền tảng cho quan điểm duy vật lịch sử trong việc xem xét con người.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã xem xét vấn đề bản chất con người từ hoạt động thực tiễn,
từ quan hệ hiện thực của con người. Như vậy, quan điểm của C.Mác đã cho chúng ta một phương pháp
luận khoa học trong việc nhìn nhận, đánh giá con người trong tổng hoà các quan hệ xã hội hiện thực.
Khẳng định vai trò của con người, C.Mác viết: “Xã hội sản xuất ra con người với tinh cách như thế nào thì
nó sản xuất ra xã hội như thế ấy”. Kế thừa tư tưởng của C. Mác, Lênin cũng khẳng định vai trò quyết
định của con người: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là người công nhân, người lao
động”. Tư tưởng cơ bản về con người của các nhà kinh điển nêu trên đến Hồ Chí Minh được phát triển
thành luận điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Đó
cũng là những luận điểm có tinh nền tảng của chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận thức một cách đúng đắn về
chiến lược phát triển con người và khẳng định bằng Nghị quyết, chủ trương và chính sách thật sự coi
trọng con người, coi con người là nhân tố có tinh quyết định để xây dựng thành công xã hội mới.
Đảng ta rất chú trọng đến việc phát huy nhân tố con người và coi đây là mục tiêu động lực của toàn bộ
sự nghiệp cách mạng. Từ Đại hội VI – Đại hội đổi mới, Đảng ta đã chú trọng đến quyền làm chủ của nhân
dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân,
hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”, đào tạo con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực mạnh mẽ nhất để
xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào
tạo, khoa học, công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người – động lực trực
tiếp của sự phát triển”. Với Đại hội VI I của Đảng, đất nước chuyển hẳn sang thời kỳ phát triển mới.
Những thành tựu to lớn, nhiều mặt của hơn 10 năm đổi mới đất nước không chỉ đưa đất nước ta ra khỏi
khủng hoảng kinh tế xã hội mà còn tạo nên những điều kiện và tiền đề cần thiết để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tư tưởng chủ đạo của chiến lược phát triển con người của Đại hội
VI I là thực hiện “chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Vấn đề con người và chiến
lược phát triển con người đã được Đại hội VI I của Đảng cụ thể hoá thành các quốc sách lớn thích ứng
với những yêu cầu mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là các chính sách nhằm
phát huy nguồn lực con người và thực hiện công bằng xã hội. Mục đích cao nhất của hệ thống chính sách
này nhằm phát triển trí tuệ của người Việt Nam, nguồn vốn quyết định nhất, quý giá nhất của chúng ta
trong sự nghiệp đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các chủ trương chính sách nhằm phát huy nhân tố con người theo tinh thần Đại hội IX là xuất phát từ
quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của
mọi hoạt động kinh tế, văn hoá xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân
dân. Quan điểm đúng đắn đó được thể hiện ở chủ trương “phát triển giáo dục đào tạo là một trong lOMoARcPSD|37752136
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Tiếp
nối tinh thần Đại hội IX, Đại hội X, XI, XI khẳng định: mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện… văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách,
kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục tiêu
của chiến lược phát triển”.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đã và đang được
phát huy mạnh mẽ, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, với những quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin cũng như là những quan điểm và chủ trương đúng đắn của Đảng về chiến lược phát triển con
người thời kỳ đổi mới, tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đang ngày càng được khơi dậy,
được nhân lên và phát triển, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta hiện nay, khi mà
nguồn lực tài chính và vật chất còn nhiều hạn hẹp và trong thời đại kinh tế trí thức hiện nay, nguồn lực
con người với tiềm năng và năng lực sáng tạo vô cùng phong phú đang ngày càng trở thành nguồn gốc
quan trọng nhất của sự giàu có và phát triển toàn diện đất nước.
Document Outline

  • 1.Định nghĩa:
  • 2.Ý nghĩa Phương pháp luận:
  • 1.Mối quan hệ:
  • Ý thức là gì
  • Vật chất quyết định ý thức
  • Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
  • 2.Ý nghĩa phương pháp luận:
  • 1.Thực tiễn:
    • Thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
  • 2.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
  • 1.Hinh thái kinh tế - xã hội:
  • 2.Liên hệ:
  • 1.Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tr
  • 2.Liên hệ thực tiễn với Việt Nam hiện nay:
    • a. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều t
    • c. Công nghiệp hóa vận dụng tuyệt vời quy luật qua
  • 1.MQH biện chứng giữa CSHT và KTTT:
    • Cơ sở hạ tầng
    • Kiến trúc thượng tầng
    • a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
    • b, Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
    • Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
  • 2.Liên hệ với Việt Nam hiện nay:
    • a,Thực trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tần
  • 1.MQH:
    • a, Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
    • b, Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hộ
    • Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với t
    • Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã
    • Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã
    • c, Ý nghĩa phương pháp luận
  • 2.Liên hệ thực tiễn với Việt Nam hiện nay:
  • 1.Quan điểm:
    • ĐẶT VẤN ĐỀ
    • NỘI DUNG
  • 2.Liên hệ:
    • Các Mác là lãnh tụ cách mạng vĩ đại và nhà khoa họ