Đề cương về giáo dục học | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Đề cương về giáo dục học | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40420603 GIÁO DỤC HỌC
Câu 1. Các khái niệm cơ bản của Giáo dục học Bài làm
1. Các khái niệm cơ bản của giáo dục học:
Giáo dục (theo nghĩa rộng):
Tác động có MĐ, có kế hoạch, có tổ chức + phương pháp khoa học của nhà giáo dục
tới người được giáo dục hình thành nhân cách cho họ
Giáo dục (theo nghĩa hẹp): lý tưởng, tình cảm, niềm tin, hành vi, cư xử đúng đắn &
Tổ chức hoạt động&giao lưu hình thành cho người được giáo dục nét tính cách của nhân cách Dạy học
Tác động qua lại giữa người dạy & người học lĩnh hội tri thức khoa học + hđ nhận
thức & thực tiễn hình thành thế giới quan + phẩm chất theo MĐ giáo dục.
2. Phân biệt các khái niệm trên
Các khái niệm trên gắn với các quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng), quá trình giáo dục
(theo nghĩa hẹp) và quy trình dạy học được phân biệt ở sự khác nhau về việc thực hiện chức
năng trội cuả của chúng:
Chức năng trội của GD (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách toàn diện ở người học
sinh bao gồm cả năng lực và phẩm chất.
Chức năng trội của GD (theo nghĩa hẹp): phát triển về mặt phẩm chất ở người học sinh.
Chức năng trội của DH: phát triển về mặt năng lực ở người học sinh
Câu 2. Chức năng xã hội của giáo dục
1. Khái niệm Giáo dục:
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục và đổi
tượng người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
2. Các chức năng xã hội của giáo dục:
Chức năng kinh tế − sản xuất; chức năng chính trị − xã hội và chức năng tư tưởng − văn hóa.
a) Chức năng kinh tế − sản xuất.
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao
hơn, thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát triển
những năng lực chung và năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một năng
suất lao động cao hơn, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Giúp có nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao, có tay nghề vững vàng, năng động,
sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những yêu cầu , đ òi hỏi của xã hội
phát triển. Dạy học theo tiếp cận năng lực là một trong giải pháp quan trọng để phát
triển năng lực hành động cho người học trong các nhà trường, đáp ứng được yêu cầu của
thị trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm: lOMoAR cPSD| 40420603
Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội .
Tiếp tục thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực hành
động cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
b) Chức năng chính trị − xã hội
Giáo dục tác động đến các bộ phận, các thành phần xã hội (các giai cấp, các tầng lớp,
các nhóm xã hội...) làm thay đổi tính chất mối quan hệ giữa các bộ phận, thành phần
đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,
củng cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội, nhằm duy trì,
củng cố thể chế chính trị - xã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, làm
cho các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội ngày càng xích lại gần nhau. Ở
nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho quyền lực của dân,
do dân, vì dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân, Giáo dục phục vụ cho
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm:
Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Giúp học sinh hiểu, tin tưởng và thực hiện theo đường lối , chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước.
c) Chức năng tư tưởng − văn hóa.
Xây dựng một hệ tư tưởng chỉ phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong
xã hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tư tưởng xã hội được thẩm đến từng con người, giáo dục
hình thành ở con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn mực
đạo đức xã hội. Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của
cộng đồng được bảo tồn và phát triển, trở thành hệ thống giá trị của từng con người.
Kết luận sư phạm:
Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân,
nhằm tạo cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời. Sử dụng sức mạnh của
các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là chức năng quan
trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng - văn hóa.
Câu 3: Tính chất của giáo dục. Bài làm 1. Khái niệm. lOMoAR cPSD| 40420603
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục) và đối
tượng (người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
2. Các tính chất của giáo dục(3) :
a) Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục.
Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người, nó là một phần không thể tách rời của đời sống xã
hội, giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau.
Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi xã hội không tồn
tại, là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người, là con đường đặc
trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
b) Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự qui định của xã hội)
Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn phát
triển của lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế
- xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương
ứng cũng biến đổi theo.
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và đáp ứng các yêu cầu kinh tế - xã hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn
biến đổi trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, không có một nền giáo dục
rập khuôn cho mọi hình thái kinh tế – xã hội, cho mọi giai đoạn của mỗi hình thái kinh
tế - xã hội cũng như cho mọi quốc gia, chính vì vậy giáo dục mang tính lịch sử.
Ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau về mục đí ch, nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn được hoàn
thiện dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
c) Tính giai cấp của giáo dục.
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định - giai cấp thống trị xã hội.
Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố vai trò thống trị của mình.
Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp – đối
với giai cấp bị bóc lột, bị thống trị.
Giáo dục làm phương tiện đấu tranh, lật đổ giai cấp thống trị.
Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục và nó chi phối,
định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục.
Ở Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta là hướng tới xoá bỏ áp bức bóc lột, từ đó hướng
tới sự bình đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang cơ chế thị trường,
bên cạnh những mặt tích cực cơ bản vẫn có những mặt trái khó tránh được, nhà nước
ta đã cố gắng đưa ra những chính sách đảm bảo công bằng trong giáo dục như:
Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào tạo
lên cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v,v.. lOMoAR cPSD| 40420603
Tiến hành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục.
Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo cơ hội
học tập cho mọi tầng lớp nhân dân.
d) Bên cạnh những tính chất trên, giáo dục còn có những tính chất dưới đây: Tính đại chúng Tính nhân văn Tính dân tộc Tính thời đại
Câu 4. Giáo dục đối với sự phát triển nhân cách.
Bài làm 1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục) và đối
tượng người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
2. Khái niệm sự phát triển cá nhân
Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng định
trình độ phát triển nhân cách của chính cá nhân. Sự phát triển nhân cách cá nhân được biểu
hiện qua những dấu hiệu sau:
Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ
bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động của cơ thể.
Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá
nhân: trình độ nhận thức, khả năng tư duy, quan điểm, lập trường, thói quen, xúc cảm,
tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, vv...
Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ
với những người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động cải
biến, phát triển xã hội.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân Yếu tố di truyền Bẩm sinh Yếu tố môi trường Yếu tố hoạt động cá nhân Yếu tố giáo dục lOMoAR cPSD| 40420603
4. Vai trò của yếu tố giáo dục
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách, bởi
vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lí tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
Ba lực lượng giáo dục là gia đình, nhà trưởng và các đoàn thể xã hội, trong đó nhà
trường có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực hiện mục đích, nội dung
giáo dục bằng các phương pháp khoa học có tác động mạnh nhất giúp cho học sinh hình
thành năng lực ngăn ngừa, đấu tranh với những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường hoặc di truyền bẩm sinh.
5. Vai trò của yếu tố giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện:
Giáo dục vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh và tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong muốn.
Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà
các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự phát.
Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành phẩm chất lệch lạc
không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính là kết quả quan trọng của
giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc người phạm pháp.
Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng
do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có
phương pháp giáo dục, rèn luyện đặc biệt củng với sự hỗ trợ của các phương tiện khoa
học có thể giúp cho người khuyết tật, thiểu năng phục hồi một phần chức năng đã mất
hoặc phát triển các chức năng khác nhằm bù trừ những chức năng bị khiếm khuyết,
giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng dông
Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích
ứng với các yếu tố di truyền, bám sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu
tố ảnh hưởng đến quá trình đó theo một gia tốc phù hợp mã di truyền và môi trường
không thể thực hiện được.
6. Kết luận sư phạm
Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Biến quy trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học Tổ chức
quá trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS
Yêu cầu giáo dục mang tính vừa sức với HS
Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục lOMoAR cPSD| 40420603
Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tổ chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động cá nhân
của học sinh nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục Câu 5.
Đặc điểm của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp.
Bài làm 1. Khái niệm về quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người
được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
2. Đặc điểm của quá trình giáo dục
a) Quá trình giáo dục diễn ra dưới những tác động phức hợp.
Sự phát triển nhân cách của người được giáo dục chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu
tố: khách quan, chủ quan; bên trong, bên ngoài; trực tiếp, gián tiếp; có chủ định, không có chủ định.
Quá trình giáo dục diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi con người, do đó quá trình giáo dục
cũng luôn chịu sự tác động của rất nhiều những yếu tố đó.
Yếu tố khách quan là những yếu tố môi trường KT-XH, KHCN ảnh hưởng tới quá
trình giáo dục (GD nhà trưởng), ảnh hưởng tới người được giáo dục. Ví dụ như:
điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội, phong tục, tập quán, các hoạt động văn
hóa, giáo dục, xã hội ngoài nhà trường, các hoạt động thông tin tuyên truyền qua
các phương tiện và các kênh thông tỉn khác nhau...có ảnh hưởng tới.
Yếu tố chủ quan là các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích, nội dung, phương
pháp, phương tiện...) cách tổ chức được chủ thể và khách thể của quá trình giáo
dục tác động để nó vận hành và phát triển nhằm đem lại hiệu quả giáo dục; các yếu
tố tâm lí, trình độ được giáo dục, điều kiện, hoàn cảnh gia đình,... của đối tượng
giáo dục; các mối quan hệ sư phạm được tạo ra trong quá trình tác động qua lại
giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với các lực lượng giáo dục khác.
Yếu tố chủ quan là các thành tố của quá trình giáo dục (mục đích, nội dung, phương
pháp, phương tiện...), cách tổ chức được chủ thể và khách thể của quá trình giáo dục
tác động để nó vận hành và phát triển nhằm đem lại hiệu quả giáo dục; các yếu tố tâm
lí, trình độ được giáo dục, điều kiện, hoàn cảnh gia đình,... của đối tượng giáo dục; các
mối quan hệ sư phạm được tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với
giáo viên, giữa học sinh với các lực lượng giáo dục khác.
Quá trình giáo dục luôn diễn ra dưới những tác động vừa phức tạp, vừa hỗn hợp của rất
nhiều các yếu tố. Tuy nhiên, các yếu tố tác động đến quá trình giáo dục với nhiều mức
độ khác nhau, chúng có thể thống nhất, hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục, cũng
có thể có mâu thuẫn làm hạn chế, suy giảm, thậm chí làm vô hiệu hóa kết quả của quá
trình giáo dục. Chính vì vậy, quá trình giáo dục chỉ có thể đạt được mục tiêu của mình
khi nhà giáo dục biết chủ động phối hợp thống nhất các tác động giáo dục (gia đình,
nhà trường, xã hội) nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động
tiêu cực tác động tới người được giáo dục.
b) Quá trình giáo dục là một quá trình diễn ra lâu dài
Mục tiêu của quá trình giáo dục là hình thành quan điểm, thể giới quan, nhân sinh
quan, niềm tin, lý tưởng, chăm chút nhân cách của người công dân, người lao động mà xã lOMoAR cPSD| 40420603
hội yêu cầu ở người được giáo dục. Để thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi quá trình giáo dục
phải diễn ra một thời gian dài mới đạt được kết quả và thực tiễn giáo dục đã cho thấy: giáo
dục diễn ra suốt cuộc đời mỗi người. Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
Việc hình thành hành vi và thói quen hành vi đúng đắn ở người được GD, đòi hỏi
quá trình giáo dục phải tác động đến nhận thức, tạo lập xúc cảm, tình cảm tích cực
đối với hành vi đó đồng thời người được giáo dục phải trải qua một quá trình luyện
tập, trải nghiệm để lặp đi lặp lại hành vi đó trở thành thói quen bền vững gắn với
nhu cầu của họ. Vì vậy quá trình giáo dục đòi hỏi trong một thời gian dài, liên tục
mới có được kết quả.
Trong quá trình hình thành quan điểm, thải độ, niềm tin, thói quen hành vi mới phù
hợp với các CMXH quy định ở người được giáo dục, bản thân người được giáo
dục cũng luôn phải diễn ra cuộc đấu tranh động cơ giữa cái cũ và cái mới cần phải
hinh thảnh quan điểm, niềm tin, giá trị, hành vi, thói quen hành vi mới). Thông
thường, những cái cũ, lạc hậu thường tồn tại dai dẳng khó thay đổi, đặc biệt là
những thói quen hành vi xấu đã được tạo lập ở mỗi người. Nếu người được giáo
dục không quyết tâm thay đổi thì cái cũ lại nhanh chóng quay trở lại và cái mới khó được hình thành.
Vì vậy, quá trình giáo dục muốn đạt được mục tiêu, hiệu quả giáo dục đòi hỏi nhà giáo
dục không được nôn nóng, vội vàng đốt cháy giai đoạn mà cần phải kiên trì, bền bỉ, liên tục
tác động cùng với sự tự giác, nỗ lực quyết tâm tự rèn luyện của người được giáo dục.
c) Quá trình giáo dục mang tính cá biệt, cụ thể
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mỗi cá
nhân con người. Người được giáo dục có sự khác nhau về tuổi tác, trình độ, tính cách,
điều kiện hoàn cảnh... Vì vậy, trong những điều kiện môi trường giáo dục xác định, với
những đối tượng giáo dục cụ thể...Quá trình giáo dục luôn có những tác động phù hợp.
Tính cá biệt, cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện như sau:
Quá trình giáo dục phải tính đến đặc điểm của từng nhóm đối tượng, từng đối tượng
giáo dục cụ thể: đặc điểm tâm sinh lý, trình độ được giáo dục, kinh nghiệm sống,
thải độ, hành vi, thói quen, điều kiện hoàn cảnh sống,...khi thực hiện tổ chức các
hoạt động giáo dục và đưa ra những quyết định của nhà giáo dục.
Quá trình giáo dục diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể. Do đó quá trình giáo dục phải trên cơ sở những điều kiện
cụ thể của tình huống giáo dục để có những yêu cầu và tác động phù hợp đối với
người được giáo dục.
Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý luyện tập và rèn luyện các thao tác, kĩ năng
hành động ở người được giáo dục thể hiện theo các yêu cầu, nội dung, chuẩn mực
xã hội về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong đời sống của cá nhân nhưng vẫn thể hiện
nét tính cách độc đáo riêng của mỗi con người.
Bên cạnh những tác động chung, đòi hỏi nhà giáo dục cần phải có những tác động
riêng phù hợp với từng đối tượng giáo dục trong từng bối cảnh cụ thể. Tuyệt đối lOMoAR cPSD| 40420603
tránh các cách giáo dục rập khuôn máy móc, hình thức bởi, với cách giáo dục đó
sẽ mang lại thất bại, tác động phản giáo dục.
Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể của một quá trình giáo dục cho từng đối
tượng, từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể, đối với từng mặt, từng yêu cầu cụ
thể...., trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
d) Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Qúa trình dạy học và quá trình giáo dục là hai quá trình bộ phận của quá trình sư phạm
tổng thể có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất của hai quá
trình này là cùng hướng tới phát triển nhân cách toàn diện cho người học đáp ứng các
yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên, mỗi quá trình có chức năng, nhiệm vụ riêng nên giữa
chúng có sự tác động qua lại, hỗ trợ, đan xen bổ sung cho nhau cũng đem lại sự phát
triển nhân cách của người học.
Nhiệm vụ của quá trình dạy học không những chi hình thành cho người học tri trứe, kỳ
năng kỹ xảo, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ mà còn hình thành phẩm chất nhân
cách của người công dân, người lao động. Hay ta thường nói: thông qua “dạy chữ” để “dạy người”.
Ngược lại: nhờ có quá trình giáo dục mà người được giáo dục xây dựng được thế giới
quan khoa học, động cơ thái độ học tập đúng đắn, thói quen hành vi tích cực... Chính
kết quả giáo dục này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động học tập của người học nói
riêng, hoạt động dạy học nói chung vận động phát triển.
Mục đích cuối cùng của giáo dục là phát triển con người có đủ tài và đức để đáp ứng
các yêu cầu của xã hội, đủ sức cạnh tranh và phát triển. Vì vậy trong công tác giáo dục
nói chung, giáo dục ở nhà trường nói riêng tránh tách rời hai quá trình giáo dục và quá trình dạy học.
Bản chất của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp
2. Cơ sở xác định bản chất của quá trình giáo dục
a) Quy trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách trong xã hội
Nhân cách của mỗi người được thể hiện không chỉ thông qua lời nói mà quan trọng là
ở hành vi và thói quen hành vi ở họ trong cuộc sống. Vì vậy, mục đích của quá trình
giáo dục là hình thành ở người được giáo dục hành vi và thói quen hành vi phù hợp với
các chuẩn mực xã hội (CMXH) quy định.
Sự phát triển nhân cách con người là kết quả của quá trình hoạt động và giao lưu của
con người trong xã hội. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội” (Mác).
Vì vậy để hình thành nhân cách con người có hành vi, thói quen hành vi phù hợp với
các CMXH quy định đòi hỏi quá trình giáo dục phải tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt
động và các quan hệ giao lưu của người được giáo dục , nhằm thu hút sự tham gia của
họ vào quá trình giáo dục trên cơ đó đạt được mục tiêu giáo dục đặt ra, 8
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
b) Mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong quá trình giáo dục
Trong quá trình giáo dục, mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục (cá
nhân hoặc tập thể) là quan hệ sư phạm, một loại quan hệ xã hội đặc thù. Quan hệ sư
phạm này luôn luôn chịu sự chi phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã
hội, kinh tế, khoa học - kĩ thuật ..., đặc biệt là quan hệ chính trị xã hội.
Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ thuộc vào mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa
vai trò chủ đạo của nhà giáo dục và vai trò tự giác, tích cực tự giáo dục của người được
giáo dục. Xét cho cùng, sự nỗ lực của nhà giáo dục và người được giáo dục trong quá
trình giáo dục là nhằm giúp người được giáo dục chuyển hóa những yêu cầu của CMXH
quy định thành hành vi, thói quen hành vi tương ứng ở họ trên cơ sở đó thực hiện tốt
các nhiệm vụ giáo dục.
Vì vậy, quá trình giáo dục chỉ đem lại hiệu quả khi quá trình giáo dục phát huy được
vai trò tự giác, tích cực tự giáo dục của người được giáo dục tham gia vào quá trình
giáo dục. Trên cơ sở đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục
3. Bản chất của quá trình giáo dục
a) Quá trình giáo dục - quá trình xã hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các yêu cầu
khách quan thành vêu cầu chủ quan của cá nhân.
Quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở thành những
thành viên xã hội. Những thành viên này phải thỏa mãn được hai mặt: vừa phù hợp
(thích ứng) với các yêu cầu xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác động
cải tạo, xây dựng xã hội làm cho nó tốn tại và phát triển. Những nét bản chất của cá
nhân con người chính là do các mối quan hệ xã hội hợp thành. Quá trình giáo dục là
quá trình làm cho đối tượng giáo dục ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị của
nó, biết vận dụng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa - xã hội, đạo
đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình, ứng xử ... nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và yêu cầu của xã hội.
Khi đứa trẻ mới sinh ra, ý thức, nhân cách của nó chưa được hình thành. Các chuẩn
mực, các quy tắc ... của xã hội vốn tồn tại khách quan bên ngoài, độc lập với đứa trẻ.
Quá trình trẻ lớn lên trong môi trường văn minh của xã hội loài người, thẩm thấu những
giá trị văn hóa của loài người để tạo ra nhân cách của chính mình - quá trình xã hội hóa
con người. Đó là quá trình giúp trẻ biến những yêu cầu khách quan của xã hội thánh ý
thức, thảnh niềm tin và thái độ, thành những thuộc tinh, những phẩm chất nhân cách
của cá nhân. Bên cạnh đó, quá trình này cũng giúp đối tượng biết loại bỏ khỏi bản thân
những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn dư cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội hiện đại.
b) Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho đối
tượng giáo dục
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất ngưởi – bản chất xã hội trong mỗi
cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã hội. 9 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Triết học Mác - xít đã khẳng định: Bản chất xã hội của con người chỉ có được khi nó
tham gia vào đời sống xã hội đích thực thông qua hoạt động vi giao lưu ở một môi
trường văn hóa (văn hóa vật chất và tinh thần).
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con người và
cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Tâm
lý học đã khẳng định: hoạt động và giao lưu vừa là nguồn gốc của là động lực của sự
hình thành và phát triển nhân cách.
Các thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người muốn tồn tại và phát triển phải có
hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người)
được tổ chức một cách khoa học với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến,
phong phú, cá nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu đó thì sẽ có rất nhiều
cơ hội tốt cho sự phát triển.
Chính vì vậy quá trình giáo dục vừa mang tính chất của hoạt động, vừa mang tính chất
của giao lưu, Giáo dục là một quá trình tác động qua lại mang tính xã hội giữa nhà giáo
dục và đối tượng giáo dục, giữa các đối tượng giáo dục với nhau và với các lực lượng,
các quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường.
Như vậy, bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các
hoạt động và giao lưu cho người được giáo dục tham gia một cách tự giác, tích cực,
độc lập, sáng tạo nhằm chuyển hóa những yêu cầu của các chuẩn mực của xã hội
quy định thành hành vi và thói quen hành vi tương ứng ở họ trên cơ đó thực hiện
tốt các nhiệm vụ giáo dục.
Câu 7. Nội dung giáo dục trong nhà trường phổ thông Bài làm
Các nội dung giáo dục cơ bản trong nhà trường bao gồm:
Giáo dục đạo đức và ý thức công dân. Giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục lao động và hướng nghiệp Giáo dục thể chất
A. Giáo dục đạo đức và ý thức công dân
1.1. Giáo dục đạo đức
a) Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống và có
kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục để bồi dưỡng cho họ những phẩm
chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội.
b) Nhiệm vụ giáo dục đạo đức
Giúp học sinh hình thành thế giới quan, nhân sinh quận khoa học, năm được những quy
luật cơ bản của sự phát triển xã hội, có ý thức thực hiện nghĩa vụ của người công dân,
từng bước trang bị cho học sinh định hướng chính trị kiên định, rõ răng. 10
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Giúp học sinh hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, có ý thức học tập, làm việc tuân thủ theo hiển pháp và pháp luật.
Bồi dưỡng cho học sinh năng lực phản đoán, đánh giá đạo đức, hình thành niềm tin đạo
đức, yêu cầu học sinh phải thấm nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức do xã hội
quy định. biết tiếp thu văn minh nhân loại kết hợp với đạo đức truyền thống và văn hóa của dân tộc.
c) Nội dung giáo dục đạo đức
Giáo dục chủ nghĩa yêu nước
Giáo dục lý tưởng sống tốt đẹp mang lại hạnh phúc cho bản thân và cho cộng đồng xã hội.
Giáo dục ý thức đạo đức trong các mối quan hệ xã hội theo những chuẩn mực xã hội
đặt ra: yêu thương, tôn trọng, khoan dung, đoàn kết, hợp tác, sáng tạo, bảo vệ lẽ phải,
hướng tới những điều “chân, thiện, mĩ".
Giáo dục hành vi văn minh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ví dụ: Dạy môn đạo
đức bài: Đi học đúng giờ (lớp 1): Giáo dục HS thực hiện tốt nội quy cua trường lớp,
biết nhắc nhở các bạn cùng thực hiện nội quy; bài: Gia đình của em ( đạo đức 1): Giáo
dục HS biết yêu thương mọi người trong gia đình, biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ mọi
người trong gia đình.
d) Các con đường giáo dục đạo đức
Thông qua giảng dạy, học tập các môn khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn giúp học
sinh tinh thảnh thể giới quan, nhân sinh quan và các phẩm chất nhân cách.
Qua giảng dạy các môn Văn học, Lịch sử, Địa lí...giúp học sinh biết được cội nguồn
của đất nước, lịch sử phát triển của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử. Từ đó hình
thành tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc, sẵn sàng lao động để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Qua giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân giúp học sinh hình thành các khái niệm
chính trị, đạo đức, pháp luật, tạo lập thói quen tư duy và hành động theo hiến pháp và pháp luật.
Thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục và sinh hoạt tập thể đa dạng, phong phú.
Hoạt động lao động - sản xuất, thể dục, thể thao, văn hóa, văn nghệ, học tập, tham
quan...Qua các hoạt động này học sinh được trải nghiệm về các chuẩn mực đạo đức.
Tổ chức các sinh hoạt tập thể, giao lưu, phong trào thi đua, phong trào rèn luyện đạo
đức, lối sống văn minh trong lớp, trong trường.
Tổ chức các hoạt động chính trị, xã hội để nâng cao tư tưởng chính trị cho học sinh
như tham dự các ngày lễ kỉ niệm lịch sử của đất nước, các lễ hội dân tộc ở địa
phương, hoạt động đền ơn đáp nghĩa.
Tổ chức và xây dựng các đoàn thể học sinh thật vững mạnh như: Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí minh, Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là các tổ chức 11 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
chính trị của tuổi trẻ, trường học lớn để giáo dục chính trị, đạo đức, văn hóa cho học sinh.
1.2. Giáo dục ý thức công dân
a) Khái niệm giáo dục ý thức công dân
Giáo dục ý thức công dân là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống
và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục để bồi dưỡng cho họ nhận
thức về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân đối với nhà nước và có những
hành vi thiết thực để trở thành người công dân có ích cho đất nước.
b) Nhiệm vụ giáo dục ý thức công dân
Giáo dục chính trị - tư tưởng cho học sinh: giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, giáo
dục cho học sinh hiểu rõ chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, mục tiêu xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, làm cho học sinh quan tâm đến các vấn đề chính trị, xã
hội đang diễn ra trong nước và thể giới; rèn luyện cho chọc sinh quan tâm đến những
vấn đề chính trị, xã hội đang diễn ra trong nước và trên thế giới; rèn luyện cho học sinh
và thói quen và kĩ năng tham gia các hoạt động xã hội, tham gia vào các phong trào
chính trị, văn hóa được tổ chức ở địa phương và nhà trường.
Giáo dục cho học sinh ý thức và hinh vi pháp luật: giúp cho học sinh hiểu biết về nghĩa
vụ nghĩa vụ và quyền lợi của công dân để biết sống và hành động theo pháp luật, có ý
thức đấu tranh với những biểu hiện vi phạm pháp luật, có ý thức tuyên truyền, giúp đỡ
mọi người xung quanh thực hiện đúng pháp luật.
c) Nội dung giáo dục ý thức công dân trong nhà trường phổ thông
Đường lối phát triển của của Đảng và Nhà nước. Lí tưởng cách mạng
Diễn biến chính trị trong và ngoài nước
Quyền và nghĩa vụ của trẻ em trong quan hệ với gia đình, nhà trường, xã hội như: quyền
được nuôi dưỡng, giáo dục; quyền được học tập, vui chơi, lao động...nghĩa vụ học tập,
rèn luyện và phấn đấu trở thành người công dân có ích cho Đất nước; nghĩa vụ tuân
theo các quy định của pháp luật.
VD: Bài: Gia đình của em (đạo đức 1): Ngoài việc GD HS biết yêu thương mọi người
trong gia đình, các em con biết được quyền cuả mình (được quan tâm, chăm sóc, đi
học, ..). và nghĩa vụ (chăm học, giúp đỡ mọi người trong gia đình)
d) Các con đường giáo dục ý thức công dân
Thông qua giảng dạy các bộ môn trong nhà trường
Thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng: tham quan, tuyên truyền, giao lưu, tổ
chức các cuộc thi tìm hiểu.
B. Giáo dục thẩm mỹ
a) Khái niệm giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mĩ là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống và có
kế hoạch của nhà giáo dục tới học sinh nhằm hình thành cho họ quan điểm thẩm mĩ và
năng lực cảm thụ, thưởng thức, sáng tạo cái dẹp đúng đắn cho học sinh. 12
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
b) Nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ
Giúp học sinh hình thành quan điểm thẫm mi đúng đắn, nâng cao năng lực thẩm mĩ
như: cảm thụ, đánh giá và cao nhất là năng lực sảng tạo cái đẹp trong tự nhiên, trong
cuộc sống và trong nghệ thuật,
Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ phù hợp với các giá trị văn hóa
của dân tộc và văn minh của thời đại.
Làm cho học sinh luôn hưởng tới cái đẹp và hành động theo cái đẹp, biểu hiện và sáng
tạo cải đẹp ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống hàng ngày từ giao tiếp cho đến tổ chức
cuộc sống để từ đó tu dưỡng đạo đức để tạo nên cái đẹp về nhân cách.
c) Nội dung giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục cái đẹp trong nghệ thuật: Giáo dục nghệ thuật chiếm vị trí chủ yếu trong
nội dung giáo dục thẫm mĩ. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống dưới nhiều hình thức đa
dạng như văn học, âm nhạc, múa, điện ảnh, truyền hình... và được tập trung điển hình
và mang tính tiêu biểu hơn vì thế nó có sức truyền cảm và có tác dụng to lớn. Giáo dục
cái đẹp trong tự nhiên: Tự nhiên chính là nguồn tư liệu sống không bao giờ cạn kiệt
của giáo dục thẩm mĩ. Phong cảnh quê hương, đất nước; các danh lam thắng cảnh, môi
trường tự nhiên nơi học tập và sinh sống... đều có những vẻ đẹp khác nhau.
Giáo dục cái đẹp trong xã hội: Cái đẹp trong xã hội hết sức phong phú và đa dạng.
Cái đẹp thể hiện trong mỗi nhân cách con người, trong hành vi, thái độ mà con người
ứng xử với nhau trong cuộc sống.
VD: Dạy các bài TNXH về cây cối giup HS biết yêu thiên nhiên, biết bao về thiên nhiên.
d) Các con đường giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường
Thông qua giảng dạy các bộ phận đặc biệt là các môn thuộc khoa học xã hội và nhân
văn. Các môn này giúp học sinh nhận thức những khái niệm cơ bản về văn hóa - thẩm
mĩ, nhận ra những giá trị đích thực của văn hóa, văn minh nhân loại và dân tộc.
Thông qua giáo dục nghệ thuật, thông qua giảng dạy các bộ môn nghệ thuật như thơ
ca, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, truyền hình...và thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ
như hội thi sáng tác, biểu diễn các hình thức nghệ thuật: ca hát, nhảy, múa, vẽ tranh,
chơi các dụng cụ âm nhạc,
Thông qua xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà trường và xã
hội: Môi trường văn hóa là nơi con người giao tiếp, ứng xử với nhau dựa trên những
giá trị tốt đẹp như yêu thương, chia sẻ, đồng cảm, tôn trọng, hợp tác...và củng hưởng
tới những điều tốt đẹp. Ở nhà trường, cảnh quan và các mối quan hệ giao lưu được thể
hiện từ trang phục, ngôn ngữ, ánh mắt, nét mặt...đều là phương tiện quan trọng để giáo
dục thẩm mĩ cho học sinh.
Thông qua tiếp xúc với thiên nhiên và xã hội; Nhà giáo dục tổ chức cho học sinh đi
tham quan, du lịch đến các danh lam thăng cảnh và di tích lịch sử, công trình văn hóa...
để bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc. 13 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
C. Giáo dục lao động và hướng nghiệp 1. Giáo dục lao động
a) Khái niệm giáo dục lao động:
Giáo dục lao động là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống và có
kể hoạch của nhà giáo dục tới học sinh nhằm hình thành cho học sinh quan điểm đúng
đắn về lao động, hình thành thái độ tích cực đối với lao động, nhu cầu và thói quen đối với lao động.
b) Nhiệm vụ giáo dục lao động
Giáo dục cho học sinh thái độ đúng đẫn đối với lao động; có tinh thần trách nhiệm cao
đối với công việc, nghề nghiệp; có thói quen lao động cần cù, bền bỉ, có ý thức tổ chức,
kỉ luật, lao động sáng tạió, cân củ, có kỉ luật, có trách nhiệm, có bổn phận và nghĩa vụ
vì lợi ích của bản thân, gia đình vủ xã hội.
Cung cấp cho học sinh học vẫn kĩ thuật tổng hợp, tư duy kĩ thuật hiện đại đặc biệt là khoa học công nghệ.
Cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản về ngành, nghề và thị trường lao động.
Chuẩn bị cho học sinh có những kĩ năng lao động kĩ thuật nghề nghiệp ở một lĩnh vực
nghề nghiệp nhất định của đất nước và địa phương. 14
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Bồi dưỡng tình yêu thương, quỷ trọng, tôn trọng đối với người lao động, trân trọng các thành quả lao động,
Hình thành thói quen lao động có văn hóa: làm việc có kế hoạch, khoa học, biết tiết
kiệm, biết cách lao động và nghỉ ngơi hợp lí.
c) Nội dung giáo dục lao động
Nội dung chương trình lao động cho học sinh trong nhà trường phổ thông thể hiện trong
chương trình môn Công nghệ được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Nội dung giáo dục lao động hiện nay trong nhà trưởng cần hướng vảo việc trang bị cho
học sinh tri thức, kĩ thuật công nghệ, nghề nghiệp, phát triển kĩ năng lao động, chuẩn
bị cho các em lựa chọn nghề và sẵn sàng tham gia lao động.
Các loại hình lao động trong nhà trường phổ thông:
Lao động học tập: là dạng lao động cơ bản, chiếm thời gian nhiều nhất trong các hoạt
động của học sinh trong nhà trường mục đích chủ yếu là cung cấp cho học sinh hệ
thống kiến thức khoa học. Hoạt động học tập chỉ thực sự là một dạng lao động
mang tính giáo dục đối với học sinh khi có sự tham gia tích cực của trí tuệ và được
tổ chức một cách khoa học và hợp lí.
Lao động sản xuất của học sinh trong nhà trường là dạng lao động có ý nghĩa to lớn,
đó là sự tham gia trực tiếp của học sinh vào một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó đem
lại sản phẩm cụ thể thông qua đó hình thành những phẩm chất quý báu của người lao động.
Lao động công ích xã hội: Lao động công ích của học sinh rất phong phú như tu sửa
trưởng lớp, sân chơi, thư viện, dọn dẹp đường phố, bảo vệ môi trường sinh thái...
Lao động tự phục vụ: Được học sinh tiến hành ở gia đình như vệ sinh nhà cửa, sửa
chữa đồ dùng sinh hoạt, chăm sóc cây cối, vật nuôi... tiến hành ở nhà trưởng như:
vệ sinh trưởng lớp, sửa chữa đồ dùng học tập, chăm sóc vườn trường... VD: Dạy
bài: Em tắm gội sạch sẽ (Đạo đức 1): Giúp HS biết cách lao động tự phục vụ, tự
chăm sóc bản thân để đảm bảo sức khỏe.
d) Các con đường giáo dục lao động
Thông qua dạy học các môn khoa học tự nhiên, xã hội - nhân văn, thủ công và công
nghệ Các môn học này cung cấp kiến thức và phương thức lao động theo khoa học và
hình thành kĩ năng vận dụng khoa học vào đời sống.
Tổ chức cho học sinh trực tiếp tham gia vào lao động với nhiều hình thức khác nhau
như lao động học tập, lao động công ích, lao động tự phục vụ...để học sinh được trải
nghiệm về ý nghĩa mà lao động mang lại cho bản thân và cho người khác.
Thông qua tham quan các cơ sở sản xuất theo kể hoạch, phân bổ nội dung của giáo dục
lao động theo trình tự giáo dục, Giáo dục lao động thông qua tham quan vừa giúp học
sinh hình thành tâm lí, ý thức, vừa học tập kĩ thuật để chuẩn bị bước vào cuộc sống.
2. Giáo dục hướng nghiệp. 15 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
a) Khái niệm giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục hướng nghiệp là những tác động của nhà giáo dục có tính định hướng nghề
nghiệp nhằm giúp học sinh lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở trường,
nguyện vọng của cả nhân và phù hợp với yêu cầu về nhân lực của thị trường lao động.
b) Nhiệm vụ và nội dung giáo dục hướng nghiệp
Định hướng nghề nghiệp: Cung cấp thông tin về sự phát triển nghề nghiệp trong xã hội
nhất là những nghề đang cần nhiều nguồn nhân lực.
Tư vấn nghề nghiệp Tư vấn nghề nghiệp là hoạt động giúp cá nhân, đặc biệt là thanh
thiếu niên trong quá trình định hướng, tim chọn cũng như thay đổi nghề.
Tuyển chọn nghề: Người làm công tác tư vấn nghề nghiệp sử dụng một phác đồ nghề
nghiệp để giới thiệu cho học sinh, chỉ ra cho học sinh thấy được mức độ phù hợp hay
không phù hợp giữa nhận thức, khả năng của cá nhân với yêu cầu thực tế khách quan
của nghề để học sinh quyết định chọn nghề gì. VD: Dạy môn giáo dục công dân lớp 8:
Giúp HS có hướng lựa chọn nghề theo sở thích và khả năng cua bản thân để các em có
thể chọn nghề phù hợp cho minh sau nay.
c) Các con đường giáo dục hướng nghiệp
Thông qua dạy học các môn khoa học cơ bản đặc biệt là mộn kĩ thuật: Các môn học
này cung cấp học học sinh những kiến thức cơ bản và có hệ thống và khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và tư duy. Giáo viên liên hệ bài giảng với các ngành nghề có liên quan
với các yêu cầu về thị trường lao động và những phẩm chất cần có phù hợp với công
việc lao động nghề nghiệp.
Thông qua tổ chức cho học sinh học các nghề phổ thông tại các trung tâm hướng nghiệp
dạy nghề như chăn nuôi, lắm vườn... các nhà sửa chữa dân dụng, nghề truyền thống... .
Tổ chức cho học sinh tham quan các nhà máy, xí nghiệp, các cơ quan văn hóa, xã hội,
các viện nghiên cứu khoa học; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về nghề.
Thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa tìm hiểu về nghề, giao lưu với các chuyên gia
tư vấn tâm li, tư vấn nghề để giải đáp các thắc mắc khi học sinh lựa chọn nghề và tuyên
truyền tới phụ huynh học sinh.
Tổ chức các trung tâm hưởng nghiệp ở trường phổ thông.
D. Giáo dục thể chất a) Khái niệm
Giáo dục thể chất là sự tác động có mục đích, kế hoạch của nhà giáo dục đến đối tượng
giáo dục nhằm nâng cao sức khỏe, hình thành và phát triển các yếu tố tâm lý và thể chất của học sinh.
b) Nhiệm vụ giáo dục thể chất
Hình thành các loại hình vận động và các phẩm chất vận động cho học sinh. Tăng cường
thể chất, sức khóc cho học sinh. Tổ chức cho học sinh rèn luyện thân thể, thúc đẩy cơ 16
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
thể học sinh phát triển bình thường, tăng cường thể chất và sức khỏe cho học sinh, phát
triển toàn diện năng lực hoạt động cơ bản của cơ thể cũng như nâng cao thể chất, năng
cao năng lực thích ứng với môi trường tự nhiên cho học sinh.
Giúp học sinh dần dần nắm vững tri thức cơ bản và những kĩ năng, kĩ xảo của vận động
thể dục thể thao, tạo nên thói quen tự giác rèn luyện thân thể một cách khoa học. Truyền
thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, hướng dẫn học sinh phòng ngừa bệnh tật,
bảo vệ và tăng cường sức khỏe tâm sinh lí.
Thông qua thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh tạo nên phong
cách đạo đức tốt đẹp.
c) Nội dung giáo dục thể chất
Vận động thể dục thể thao: Đây là nội dung chủ yếu để phát triển sức khỏe cho học
sinh. Vận động thể dục thể thao bao gồm các bài thể dục buổi sáng, giữa giờ, các môn
thể thao như điều kinh, bóng đá, cầu lông, bơi lội....
Vệ sinh nhà trường: yêu cầu nhà trường cần xây dựng chế độ học tập, sinh hoạt hợp lí.
Thiết bị sinh hoạt trong nhà trường như bàn ghế, cửa sổ, cửa ra vào, hướng ánh sáng,
độ phản quang của bảng...đều đòi hỏi phải phù hợp với mức độ học tập và tình trạng
phát triển cơ thể của học sinh..
VD: Môn thể dục dạy học sinh các bài thể dục phát triển chung, một số môn thể thao
giúp các em phát triển cơ thể, nâng cao sức khoe, hình thanh và phát triển các yếu tố
tâm lý và thể chất cho HS.
d) Các con đường giáo dục thể chất
Thông qua giang dạy môn thể dục
Tổ chức rèn luyện thể dục buổi sáng, giữa giờ
Tổ chức các hội khỏe thi đấu các môn thể dục, thể thao trong trường và giữa các trường trong khu vực
Tổ chức tham quan, du lịch kết hợp thi đấu thể thao
Tổ chức các câu lạc bộ ngoại khóa mời các chuyên gia huấn luyện.... Kết luận:
Nội dung giáo dục cơ bản và nội dung giáo dục mới ở các nhà trường rất rộng và phong phú.
Để đảm bảo chất lượng khi dạy các nội dung này, người quản lý cần nằm chắc các nội
dung, xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể của từng môn học, từng khối lớp. Tổ chức
triển khai các nội dung dạy học đầy đủ. Chỉ đạo các tổ chuyên môn, các đồng chí giáo
viên tích cực đổi mới phương pháp DH, hình thức tổ chức dạy học, sử dụng đồ dùng
hiệu qua, tích cực sử dụng CNTT trong các hoạt động dạy học để các nội dung giáo
dục được học sinh lĩnh hội một cách tích cực, tự nhiên.
Từ đó chuyển thành những hành động tự giác, có ý thức, giúp học sinh có kiến thức, kĩ
năng toàn diện để học tiếp lên cấp trung học cơ sở đáp ứng mục tiêu giáo dục.
Câu 8. Phương pháp giáo dục trong nhà trường phổ thông 17 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
1. Khái niệm phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là hệ thống cách thức hoạt động của nhà giáo dục và người được
giáo dục thực hiện trong sự thống nhất với nhau nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo
dục phù hợp với mục đích giáo dục đặt ra.
2. Hệ thống phương pháp giáo dục
Quá trình giáo dục là một quá trình phức tạp, các phương pháp giáo dục được hiểu trên
nhiều bình diện khác nhau và có cách phân chia nhóm phương pháp giáo dục gọi tên khác nhau.
Sau đây là một số cách phân loại các phương pháp giáo dục:
Dựa trên cơ sở lực lượng giáo dục tham gia vào quá trình giáo dục: Nhóm phương
pháp giáo dục gia đình, nhóm phương pháp giáo dục xã hội, nhóm phương pháp
giáo dục đoàn thể, nhóm phương pháp giáo dục như trường.
Dựa trên cơ sở nội dung giáo dục: phương pháp giáo dục đạo đức, phương pháp giáo
dục thẩm mỹ, phương pháp giáo dục pháp luật....
Dựa trên cơ sở đặc điểm tâm lý lứa tuổi của đối tượng giáo dục: phương pháp giáo
dục tre trước tuổi học, phương pháp giáo dục học sinh tiểu học, phương pháp giáo dục học sinh THPT...
Dựa trên cơ sở tiếp cận phương thức tác động giáo dục trực tiếp hay gián tiếp đối
tượng giáo dục: phương phản giáo dục tác động “tay đội”, phương phủy “bùng nổ
sư phạm”, phương pháp giáo dục tác động song song, phương pháp tạo dư luận...
Dựa trên cơ sở quy trình các khâu của quá trình giáo dục: Nhóm các phương pháp
hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục về các chuẩn mực xã hội quy
định (Đàm thoại, Kể chuyện, Giảng giải, Nêu gương); Nhóm các phương pháp tổ
chức hoạt động hình thành hành vi và thói quen hành vi ứng xử cho người được
giáo dục phù hợp với các chuẩn mực xã hội (CMXH) quy định (Phương pháp giao
việc, Phương pháp tập luyện, Phương pháp ven luyện); Nhóm các phương pháp
kích thích và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục phù hợp với các
CMXH quy định (Khen thưởng, Trách phạt, Phương pháp thi đua )
Các cách phân chia phương pháp giáo dục nêu trên đều dựa trên các cách tiếp cận khác
nhau và tùy thuộc vào mục đích, mục tiêu giáo dục đặt ra mà nhà giáo dục lựa chọn, sử
dụng các phương pháp giáo dục cho phù hợp. Tuy nhiên, cách phân loại phổ biến các
phương pháp giáo dục được đa số các nhà giáo dục lựa chọn hiện nay là cách phân loại
dựa trên cơ sở lôgic của quá trình giáo dục.
a) Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân của người được giáo dục
Ý thức cá nhân là một thể thống nhất giữa tri thức và niềm tin của cá nhân về các chuẩn
mực xã hội quy định. Vì vậy, quá trình giáo dục muốn hình thành ý thức cá nhân cho
người được giáo dục thì cần tác động tới nhận thức và xúc cảm, tình cảm của người
được giáo dục đối với các chuẩn mực xã hội quy định. 18
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Các phương pháp giáo dục có ưu thế trong việc tác động tới nhận thức, cảm xúc của
người được giáo dục đối với các chuẩn mực xã hội bao gồm: Đàm thoại, Kể chuyện, Giảng giải, Nêu gương. Đàm thoại
Đàm thoại là phương pháp trò chuyện chủ yếu giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
về các chủ đề có liên quan đến các CMXH nói chung, các chuẩn mực đạo đức, pháp
luật, thẩm mỹ nói riêng bằng một hệ thống các câu hỏi do nhà giáo dục chuẩn bị trước.
Các loại đàm thoại: tùy vào mục tiêu của hoạt động đàm thoại, ta có các loại như: đàm
thoại gợi mở, đàm thoại củng cố, hệ thống hóa.
Ý nghĩa của phương pháp đàm thoại:
Thông qua đàm thoại, người được giáo dục có cơ hội giải thích, đánh giá những sự
kiện, hiện tượng có liên quan đến các hành vi tích cực hay tiêu cực, giải thích những
tình huống đạo đức, pháp luật...trên cơ sở đó nắm vững được những tri thức về các
CMXH quy định và từ đó rút ra những kết luận bổ ích cho bản thân.
Thông qua đàm thoại, người được giáo dục có điều kiện để khắc sâu, phát triển, hệ
thống hoả những vấn đề có liên quan đến các CMXH đã được giáo dục, từ đó hình
thành, phát triển xe cảm, tình cảm tích cực đối với các CMXH.
Thông qua đàm thoại, người được giáo dục có điều kiện để khắc sâu, phát triển, hệ
thống hoá những vấn đề có liên quan đến các CMXH đã được giáo dục, từ đó hình
thành, phát triển xúc cảm, tình cảm tích cực đối với các CMXH.
Qua đàm thoại sẽ hình thành và phát triển được ở người được giáo dục niềm tin đối
với các CMXH và trên cơ sở đó hình thành được ý thức cá nhân của người được
giáo dục đổi với các CMXH quy định.
Yêu cầu thực hiện phương pháp đàm thoại:
Công tác chuẩn bị đàm thoại: Nhà giáo dục cần xác định rõ chủ đề, mục tiêu, nội
dung của buổi đàm thoại; xây dựng hệ thống câu hỏi (chính - phụ) và thông báo
cho người được GD chuẩn bị trước.
Tổ chức đàm thoại: Người tổ chức nêu lên chủ đề, mục tiêu, nội dung và các câu hỏi
đặt ra của buổi đàm thoại; Sau đó tổ chức trò chuyện giữa nhà giáo dục với người
được giáo dục và giữa những người được giáo dục với nhau; Các ý kiến được lật
đi lật lại cho đến khi hoàn thành mục tiêu chủ đề đảm thoại.
Kết thúc đàm thoại: Nhà giáo dục cần kích thích những người được giáo dục rút ra
những kết luận, bài học cần thiết đối với bản thân và những người xung quanh. Sau
cùng nhà giáo dục tổng kết đánh giá kết quả đàm thoại. Kể chuyện
Kể chuyện là phương pháp tác động rất mạnh mẽ tới cảm xúc của người nghe thông
qua cách thức kể chuyện của người kế và các nhân vật, tình huống trong nội dung của
cốt truyện. Vì vậy, kể chuyện là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong quá trình
giáo dục với những người được giáo dục nhỏ tuổi.
Định nghĩa kể chuyện là phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói, điệu bộ, cử chỉ, nét
mặt để thuật lại một cách sinh động một câu chuyện có ý nghĩa giáo dục. 19 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Ý nghĩa của phương pháp kể chuyện:
Qua nội dung truyện kể và cách thức kể chuyện, người được giáo dục sẽ hình thành
phát triển trí thức, xúc cảm tình cảm tích cực, niềm tin đúng đắn đối với các CMXH.
Người được giáo dục sẽ học tập được những gương tốt và tránh được những gương
phản diện với óc phế phản nhận xét, đánh giá thông qua nội dung câu chuyện.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp kể chuyện: 20
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Lựa chọn truyện kể: Nhà giáo dục cần trên cơ sở mục tiêu giáo dục, với đối tượng
giáo dục cụ thể xác định chủ đề truyện kể; Lựa chọn cốt truyện được xây dựng
phong phú, hấp dẫn chửa đựng các tình huống giáo dục hướng tới mục tiêu giáo
dục; Lưu ý khối lượng truyện kể phai phủ hợp về mặt thời gian, phù hợp với trình
độ nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý người được giáo dục.
Người kể chuyện phải thể hiện lời nói sinh động, giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt
phải phù hợp với các tình tiết, các nhân vật trong cốt truyện. Nhằm gây sự tập trung
chủ ý, cảm xúc mạnh mẽ cho người được giáo dục; lưu ý có thể có thể kết hợp với
bằng hình, các bức tranh ảnh minh hoạ cho những tình huống nổi bật.
Sau khi kể chuyện: Đối với người được giáo dục tuổi nhỏ, nhà giáo dục có thể yêu
cầu trẻ tập kể lại và nêu một số câu hỏi cho người được giáo dục trao đổi nhằm
khắc sâu những bài học về các CMXH, củng cố niềm tin đối với các CMXH và
phát triển năng lực tưởng tượng sáng tạo của người được giáo dục. Giảng giải
Giảng giải là phương pháp trong đó, nhà giáo dục dùng lời nói để giải thích, chứng
minh các CMXH đã được qui định, nhằm giúp cho người được giáo dục hiểu và nắm
được ý nghĩa, nội dung, qui tắc thực hiện các chuẩn mực này.
Ý nghĩa phương pháp giảng giải:
Người được giáo dục nắm vững những tri thức về các CMXH một cách tự giác trên
cơ sở những luận cứ, luận chứng khoa học, ví dụ cụ thể, rõ ràng... thông qua cách
phân tích, giảng giải của nhà giáo dục,
Thông qua giảng giải giúp hình thành niềm tin ở người được giáo dục về các CMXH quy định.
Qua giảng giải người được giáo dục tránh được các tình trạng: nắm các CMXH, mù
quáng, máy móc, hình thức dẫn đến những hành vi tương ứng không tự giác.
Yêu cầu trong quá trình giảng giải:
Chuẩn bị nội dung diễn giải đầy đủ, chính xác, đáp ứng các câu hỏi: Tại sao? Nội
dung gồm? Thực hiện theo qui tắc nào? Khi giảng giải phải:
Lời nói: rõ ràng, khúc triết, không lan man dài dòng.
Lập luận: chính xác, dễ hiểu, lô gic.
Minh hoạ: Tranh ảnh, băng hình (nếu cần), giáo dục thực tế gần gũi đời thường
của người được giáo dục.
Có thể và nên thu hút người được giáo dục tham gia vào giải thích chứng minh...
và rút ra kết luận trong quá trình giảng giải.
Nên liên hệ để người được giáo dục liên hệ với thực tế, với bản thân. Nêu gương
Nêu gương là phương pháp dùng những tấm gương sáng của các cá nhân hoặc của tập
thể để kích thích những người được giáo dục học tập và làm theo.
Phương pháp nêu gương có thể dùng những tấm gương tốt để người được giáo dục học
tập và gương xấu để tránh những hành vi tương tự. 21 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Nêu gương tốt (chính diện) nhằm giúp người được giáo dục khắc phục những khó
khăn gặp phải của bản thân, học tập và làm theo gương tốt, hướng vào những hành
vi tích cực làm việc thiện). Ví dụ về những tấm gương tốt: học sinh học giỏi, giúp
đỡ bạn, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, luôn có trách nhiệm, nhiệt
tình trong các hoạt động, “sinh viên nghèo vượt khó”, “các nhà doanh nghiệp trẻ”,
lao động giỏi, dùng cảm hy sinh vì nước vì dân, ...
Nêu gương xấu (gương phản diện) nhằm giúp người được giáo dục phân tích, tránh
hành vi tương tự. Ví dụ gương xấu như: lười học, chơi bời lêu lổng, cờ bạc rượu
chè, ăn cắp, gây gổ, ăn nói vô lễ, chốn thuế...
Ý nghĩa phương pháp nêu gương:
Qua nêu gương, nhà giáo dục sẽ giúp người được giáo dục phát triển năng lực phê
phán, đánh giá được hành vi của người khác và rút ra những kết luận bổ ích.
Người được giáo dục biết học những gương tốt đồng thời biết trảnh gương xấu trong
cuộc sống và các hoạt động thực tiễn.
Qua việc phân tích, đánh giá của nhà giáo dục về những tấm gương sẽ giúp người
được giáo dục hình thành niềm tin về các CMXH và mong muốn có những hành
vi phù hợp với các CMXH quy định.
Yêu cầu thực hiện phương pháp nêu gương:
Trên cơ sở; mục tiêu, nội dung giáo dục cụ thể, đặc điểm tâm sinh lý của người được
giáo dục, nhà giáo dục lựa chọn những tấm gương sáng và gương phản diện cho
phù hợp. Tránh lạm dụng những gương phản diện vì dễ dẫn tới tác dụng phản giáo dục.
Những tấm gương lựa chọn phải thoả mãn điều kiện sau đây:
Gần gũi với cuộc sống đời thường của người được giáo dục, tránh xa lạ, không thích hợp.
Có tính điển hình, cụ thể. Tránh lan man, chung chung.
Phải có tính khả thi với người được giáo dục. “Tránh" quá lý tưởng nên người
được giáo dục chit có thể “chiêm ngưỡng” mà không bắt chước được.
Trong quá trình nêu gương, nhà giáo dục nên khuyến khích người được giáo dục liên
hệ thực tế, nêu những tấm gương cần học tập, phê phán và tham gia tích cực vào
phân tích, đánh giá những tấm gương đỏ dể rút ra kết luận bổ ích.
Nhà giáo dục cần phải tự rèn luyện, xây dựng nhân cách bản thân trở thành là một
tấm gương sáng trước người được giáo dục.
Tóm lại: Các phương pháp giáo dục nêu trên (đàm thoại, kể chuyện, giang giai, nếu gương)
sẽ giúp cho người được giáo dục có những tri thức cần thiết về các CMXH mà thực chất
là giúp họ hiểu và nắm được những giá trị xã hội cần tôn trọng và những giá trị đi ngược
giá trị xã hội đồng thời mong muốn có được những hành vi phù hợp với cục CMXH. Các
phương pháp này sẽ là cơ sở để hình thành hành vi tương ứng ở người được giáo dục đối với các CMXH quy định. 22
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
b) Nhóm các phương pháp hình thành hành vi và thói quen hành vi của người được giáo dục.
Trên cơ sở những hiểu biết và cảm xúc tích cực đối với các CMXH được hình thành ở
người được giáo dục . Người được giáo dục mong muốn được thể hiện, trải nghiệm
những hiểu biết đó trong các hoạt động thực tiễn cuộc sống.
Vì vậy nhóm phương pháp giáo dục tổ chức các hoạt động thực tiễn nhằm tạo môi
trường để người được giáo dục được trải nghiệm biển nhận thức, cảm xúc tích cực với
các CMXH quy định thành hành vi, thói quen hành vi tương ứng ở họ.
Các phương pháp giáo dục có trụ thể trong việc tạo môi trường hoạt động thực tiễn cho
người được giáo dục tham gia bao gồm: giao việc (yêu cầu sư phạm), luyện tập, rèn luyện (trải nghiệm)
Phương pháp giao việc (phương pháp yêu cầu sư phạm)
Giao việc là phương pháp nhà giáo dục lôi cuốn người được giáo dục vào các hoạt động
đa dạng với những công việc nhất định, với những nghĩa vụ cá nhân và xã hội nhất định
mỗi người được giáo dục phải hoàn thành.
Ý nghĩa của phương pháp giao việc: Qua thực hiện công việc, hoạt động được giao
người được giáo dục sẽ hình thanh những hành vi, thoi quen phụ hợp với các yêu cầu
công việc được giao, yêu cầu của các CMXH quy định và được thể hiện những kinh
nghiệm ứng xử của mình trong mỗi quan hệ đa dạng.
Yêu cầu thực hiện phương pháp giáo việc:
Trước khi giao việc, nhà giáo dục cần giúp người được giáo dục ý thức đầy đủ về ý
nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của công việc phải làm và kích thích họ tự giác,
tích cực hoạt động thực hiện công việc được giao.
Nhà giáo dục đưa ra những yêu cầu cụ thể mà người được giáo dục phải hoàn thành
và giúp họ định hướng đúng đắn toàn bộ chuỗi hành động phải hoàn thành,
Giao việc phải tính tới hứng thú, năng khiếu, điều kiện thực tiễn và tính khả thi của
hoạt động của người được giáo dục nhằm phát huy thế mạnh ở họ trong hoạt động.
Quá trình thực hiện hoạt động nhà giáo dục cần theo dõi, giúp đỡ tạo điều kiện (nếu
cẩn) để người được GD hoàn thành mọi yêu cầu của công việc được giao,
Cần kiểm tra đánh giá công khai kết quả hoàn thành công việc của cá nhân hay tập
thể người được giáo dục. Lưu ý: nhà giáo dục luôn có nhận xét cụ thể, những chỉ
dẫn hỗ trợ và khuyến khích, động viên người được giáo dục tiếp tục tham gia các hoạt động thực tiễn.
Cần kiểm tra đánh giá công khai kết quả hoàn thành công việc của cá nhân hay tập
thể người được giáo dục. Lưu ý: nhà giáo dục luôn có nhận xét cụ thể, những chỉ
dẫn hỗ trợ và khuyến khích, động viên người được giáo dục tiếp tục tham gia các hoạt động thực tiễn.
Có thể phát huy ý thức tự quản của tập thể học sinh bằng việc để tập thể học sinh
giao việc cho cá nhân trong các hoạt động của lớp mà không nhất thiết giáo viên giao việc.
Phương pháp tập luyện 23 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Tập luyện là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục thực hiện một cách đều
dặn và có kế hoạch các hoạt động nhất định, nhằm biến những hành động có thành
những thói quen ứng xử ở người được giáo dục.
Ý nghĩa của phương pháp luyện tập:
Người được giáo dục có môi trường hoạt động thực tiễn để trải nghiệm, củng cố,
phát triển niềm tin đối với các CMXH và biến ý thức cá nhân và các CMXH thành
những hành vi tương ứng ở họ.
Người được giáo dục có môi trường hoạt động thực tiễn để lặp đi lặp lại các hành vi
hoạt động theo quy trình xác định trên cơ sở đó tạo lập thành những thói quen hành
vi ứng xử tương ứng ở họ, đảm bảo tính bền vững của hành vi ứng xử phù hợp với
các CMXH quy định ở người được giáo dục.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp luyện tập:
Nhà giáo dục cần giúp cho người được giáo dục năm được quy tắc hành vi và hình
dung rõ hành vi đó cần thực hiện như thế nào? để giúp họ có thể định hướng cho
việc thực hiện hành vi qua tập luyện.
Trong những trường hợp cần thiết, nhà giáo dục có thể lắm mẫu cho người được giáo
dục về những hành vi cần tập luyện.
Cẩn tạo điều kiện cho người được giáo dục tập luyện theo quy tắc hành vi, theo mẫu hành vi đã giới thiệu.
Nhà giáo dục cần khuyến khích người được giáo dục tập luyện thường xuyên, lặp đi
lặp lại những hành vi đã tập luyện qua việc thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày,
các hoạt động thực tiễn của cuộc sống.
Nhà giáo dục cần tiến hành kiểm tra uốn nắn thường xuyên hành vi hoạt động của
người được giáo dục theo yêu cầu quy trình chuẩn đồng thời khuyến khích, động
viên họ tự kiểm tra, tự luôn nặn hành vi của mình trong quá trình luyện tập.
Phương pháp rèn luyện
Rèn luyện là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục được thể nghiệm ý thức,
tình cảm, hành vi của mình về các CMXII trong những tình huống dạ dụng của cuộc
sống. Qua đó hình thành và củng có được những hành vi phù hợp với các CMXH đã quy định.
Ý nghĩa của phương pháp rèn luyện:
Thông qua những tình huống, hoạt động mới, đa dạng của cuộc sống thực, người
được giáo dục được trải nghiệm là chinh mình đưa ra những quyết định và chịu
trách nhiệm với những quyết định đó. Trên cơ sở đó nhận ra mình là ai, những cải
phù hợp và chưa phù hợp từ đó điều chính bản thân đáp ứng yêu cầu của CMXH.
Chính trong quá trình “thâm nhập” vào những tình huống mới, đa dạng của cuộc
sống. người được giáo dục phải tiến hành cuộc đấu tranh động cơ để tự xác định
động cơ đúng đãn, định hưởng cho hoạt động nhằm giải quyết đúng đắn những tình
huống đó. Điều đó sẽ giúp cho ý thức về các CMXH ở người được giáo dục được
khắc sâu, phát triển đảm bảo những hành vi, hoạt động tương ứng mang tính tự
giác, bền vững cao và hình thành thói quen hành vi tương ứng ở họ. 24
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Quá trình được trải nghiệm, lặp đi lặp lại những hành vi đó trong những tình huống
khác nhau của cuộc sống thực sẽ giúp người được giáo dục biến những hành vi đó
trở thành thói quen bền vững.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp rèn luyện:
Tạo cơ hội cho người được giáo dục “Thâm nhập” vào những tình huống đa dạng từ
đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó của cuộc sống thực,
Tạo cơ hội cho người được giáo dục dựa vào kết quả của tập luyện, lặp đi lặp lại
những hành vi đó trong những tình huống khác nhau của cuộc sống thực để những
hành vi đó trở thành thói quen bền vững.
Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra của nhà giáo dục và tự kiểm tra của người được giáo dục .
Tổ chức liên tục có hệ thống các hoạt động thông qua tình huống tự nhiên của cuộc
sống thực hoặc tạo ra những tình huống thích hợp nhằm thu hút người được giáo dục tich cực tham gia.
c) Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của
người được giáo dục.
Trong quá trình giáo dục tác động đến ý thức, hành vi và tạo lập thói quen hành vi ứng
xử ở người được giáo dục phù hợp với các CMXH, không phải mọi tác động đều được
người được giáo dục hưởng ứng một cách tích cực và đem lại hiệu quả giáo dục. Vì
vậy, quá trình giáo dục luôn cần thêm các phương pháp kich thich hoạt động và điều
chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục hướng tới mục tiêu giáo dục đặt ra.
Nhóm phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử của người được
giáo dục bao gồm các phương pháp: Khen thưởng, trách phạt và thi đua. Khen thưởng
Khen thưởng là phương pháp biểu thị sự đồng tình, sự đánh giá tích cực của nhà giáo
dục đối với thái độ, hành vi ứng xử của người được giáo dục trong những tình huống
nhất định nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đặt ra.
Ý nghĩa của khen thưởng:
Khen thưởng là cách thức để khẳng định hành vi của người được giáo dục là đúng
đắn, phù hợp với các CMXH đã quy định.
Qua việc khen thưởng sẽ giúp người được giáo dục tự khẳng định những hành vi tốt
của minh, củng cố và phát triển niềm tin đối với các CMXH có liên quan đến những
hành vi tốt của minh đã thực hiện.
Khen thưởng sẽ kích thích người được giáo dục duy trì, phát triển những hành vi tích
cực đồng thời tránh được những hành vi tiêu cực không phù hợp các CMXH.
Vì vậy có thể nói: khen thưởng là phương pháp rất quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc đối
với người được giáo dục, khen thưởng mang lại sức mạnh và niềm tin cho người được
giáo dục trong quá trình học tập và rèn luyện bản thân.
Các hình thức khen thưởng:
Để lựa chọn đưa ra quyết định về hình thức và mức độ khen thưởng phù hợp với
người được giáo dục , đòi hỏi nhà giáo dục cần căn cứ vào tính chất, mức độ, phạm
vi ảnh hưởng, động cơ, sự nỗ lực của người được giáo dục ... đối với hành vi tieh 25 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
cực đó mà nhà giáo dục có hình thức, mức độ khen thưởng phù hợp, Ví dụ: về các
mức độ khen thưởng đối với hành vi tích cực của người được giáo dục (theo chiều tăng dân):
Tỏ thái độ đồng tình, ủng hộ những hành vi tốt một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tỏ lời khen với những hành vi tốt.
Biểu dương những hành vi tốt,
Tặng giấy khen, bằng khen có kèm thưởng (Lưu ý: thường có thể bằng nhiều
hình thức như vật phẩm, tiền mặt, học bổng, chuyến du lịch...) Yêu cầu khi thực hiện khen thưởng:
Đảm bảo khen thưởng trên cơ sở hành vi thực tế đạt được của người được giáo dục,
VD: Nhà giáo dục cần xem xét hành vi đó thể hiện có phù hợp với các CMXH
hay không? Có động cơ đúng đắn không? Có tính phổ biến, tính thường xuyên không?
Đảm bảo khen thường phải khách quan, công bằng không vì thiên vị mà đánh giá
cao, thành kiến mà đánh giá thấp.
Đảm bảo khen thưởng phải kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, tránh khen thưởng ở những
nơi không thích hợp, tuỳ tiện quá sớm hay quá muộn.
Đảm bảo kết hợp khen thưởng thường xuyên với khen thưởng quả trình.
Đảm bảo khen thưởng phải gây được dư luận tập thể đồng tình, ủng hộ. Vì khi dư
luận tập thể đồng tình, ủng hộ sẽ làm tăng thêm giá trị, ý nghĩa của hành vi tốt,
kích thích người được GD tiếp tục phát triển hành vi tốt và kích thích, định hướng
cho những người khác noi theo những hành vi tốt. Trách phạt.
Trách phạt là phương pháp biểu thị sự không đồng tình, sự phản đối, sự phê phán những
hành vi sai trái của người được giáo dục so với các CMXH quy định.
Ý nghĩa của việc trách phạt:
Trách phạt sẽ buộc người mắc lỗi trong ứng xử phải ngừng ngay hành vi sai trái một
cách tự giác, nâng cao ý thức tự kim chẻ trong tương lai không tái phạm nữa mà
trái lại có những hành vi đúng đắn, tích cực phù hợp với các CMXH quy định.
Tạo cơ hội nhắc nhở những người khác không vi phạm các CMXH, không rơi vào
những hành vi sai trái như người bị trách phạt.
Các hình thức trách phạt: Tùy vào từng trường hợp mà nhà giáo dục có thể đưa ra quyết
định hình thức, mức độ trách phạt phù hợp theo mức độ tăng dần như sau: Nhắc nhở
(khuyên bảo), chê trách, phê bình, cảnh cáo, buộc thôi học, đuổi học.
Khi đưa ra quyết định lựa chọn hình thức, mức độ trách phạt đòi hỏi nhà giáo dục cần
căn cứ vào các yếu tố sau đây:
Loại hình của hành vi sai lệch là học tập, lao động hay ứng xử ? sẽ có cách trách phạt khác nhau.
Tính chất của hình vi sai lệch (Nghiêm trọng hay không nghiêm trọng? thường xuyên
hay không thường xuyên? cô tình hay vô ý?).
Phạm vi và mức độ tai hại do hành vi sai lệch gây ra (Tai hại nhiều hay ít?, ở diện rộng hay diện hẹp?) Yêu cầu khi trách phạt: 26
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Đảm bảo trách phạt phải khách quan: Nhà giáo dục phải thận trọng xem xét đánh giá
những hành vi sai lệch của người được giáo dục, cũng như đưa ra những quyết định về
mức độ, hình thức trách phạt sao cho đúng đắn, chính xác và thoả đáng. Tránh tình
trạng đánh giá sai, không phù hợp với thực tế (Quá cao hay quá thấp)
Đảm bảo trách phạt phải công bằng: Nhà giáo dục khi đưa ra quyết định trách phạt cần
phải công bằng với mọi người, tránh thiên vị mà trừng phạt nhẹ, thành kiến mà trừng phạt nặng.
Đảm bảo khi trách phạt phải làm cho người được giáo dục thấy rõ được sai lầm của mình
và chấp nhận hình thức, mức độ trách phạt đối với mình “Tâm phục, khẩu phục”: Khi
trách phạt phải làm cho người được giáo dục thấy rõ được lý do bị trách phạt, tính tất
yếu của sự trách phạt; Người được giáo dục thể hiện thái độ ân hận về lỗi lầm của minh
và chấp nhận tính hợp lý của hình thức và mức độ trách phạt. Có như vậy người được
giáo dục mới quyết tâm sửa chữa sai lái, không tái phạm,
Đảm bảo tôn trọng nhân phẩm của người bị trách phạt: Khi trách phạt nhà giáo dục không
được làm nhục, không xúc phạm tới thể xác người bị trách phạt: Không dùng trách phạt
dẻ trả thù; Phải chi ra hướng để giúp cho người bị trách phạt sửa chữa sai lầm một cách
tích cực và tự tin; đồng thời luôn tỏ thái độ chân thành, lòng tin tưởng ở sự tiến bộ của họ.
Đảm bảo tính cá biệt trong trách phạt: Khi trách phạt, nhà giáo dục cần quan tâm tới đặc
điểm tâm sinh lý (xu hướng, năng lực, vốn kinh nghiệm, tính cách, điều kiện hoàn
cảnh...) của từng cá nhân người mắc lỗi trong từng bối cảnh cụ thể để có cách thức giáo dục phù hợp.
Đảm bảo trách phạt của nhà giáo dục phải tạo được dư luận tập thể đồng tình với sự trách
phạt. Sự đồng tình của dư luận tập thể với việc trách phạt của nhà giáo dục sẽ tạo thêm
sức mạnh hỗ trợ người bị trách phạt quyết tâm nhanh chóng sửa chữa sai lầm đồng thời
ngăn chặn những người khác không vi phạm sai lầm.
Lưu ý: trong 2 phương pháp trên thì nhà giáo dục phải lấy khen thưởng làm chủ yếu và
trách phạt là cần thiết để giúp người được giáo dục phát huy trụ điểm, khắc phục nhược điểm.
Phương pháp thi đua
Thi đua là phương pháp thông qua các phong trào hoạt động tập thể nhằm kích thich
khuynh hướng tự khẳng định ở người được giáo dục, thúc đẩy họ đua tài gắng sức, hãng
hải nỗ lực vươn lên ở vị trí hàng đầu và lôi cuốn những người khác cũng tiến lên giành
thành tích cá nhân hay tập thể cao nhất.
Phong trào thi đua có thể tổ chức trong các hoạt động học tập, lao động, vệ sinh trường
lớp, văn hóa văn nghệ, thể dục, thể thao... của tập thể các lớp, các câu lạc bộ ở nhà
trường... VD: “Người đạt điểm cao nhất trong tháng”, “Người có nhiều đóng góp xây
dựng bài nhất trong tháng”...“Lớp học Xanh, sạch, đẹp”...
Ý nghĩa của phương pháp thi đua:
Thi đua kích thích nhu cầu khẳng định bản thân của người được giáo dục. Những
người được giáo dục sẽ nỗ lực hết mình tham gia vào quá trình hoạt động thi đua
để dành thắng lợi cao nhất trên cơ sở đó đạt được các mục tiêu giáo dục đặt ra. 27 Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40420603
Thi đua tạo môi trường hoạt động tích cực và hiệu quả của những người giáo dục
tham gia trên cơ sở đó mục tiêu giáo dục đạt được hiệu quả cao.
Trong hoạt động thi đua, với sự nỗ lực hết mình của người tham gia, người được giáo
dục sẽ tự nhận thức, đánh giá được bản thân mình trên cơ sở đó có sự điều chỉnh
kịp thời đối với bản thân.
Yêu cầu khi thực hiện phương pháp thi đua:
Mục tiêu thi đua phải được xác định: cụ thể, rõ ràng và thiết thực
Các hoạt động thi đua cần phải động viên được tất cả mọi người được giáo dục hãng
hái tham gia với động cơ đúng đắn.
Các hình thức hoạt động thi đua phải thể hiện sự sáng tạo, mới mẻ, hấp dẫn người
được giáo dục tham gia.
Thi đua cần có phương thức đánh giá kết quả thi đua tường minh, công khai kích
thích sự tham gia hết minh của các thành viên và cần có so sánh công khai kết quả
thi đua mà họ đạt được.
Tiến hành sở tổng kết các hoạt động thi đua đều đặn để giúp người được giáo dục
điều chỉnh kịp thời hoạt động của bản thân trên cơ đó đạt hiệu quả cao nhất của hoạt động thi đua.
Nhà giáo dục cần biểu dương khen thưởng công bằng, thích đáng các cá nhân và tập
thể đạt thành tích cao hoặc có nhiều nỗ lực trong thi đua. 28
Downloaded by kim kim (dawnhousedecor@gmail.com)