Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh phát triển năng lực đa phương thức
Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh phát triển năng lực đa phương thức với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40387276
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài : MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP ĐA PHƯƠNG THỨC
CHO HỌC SINH QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
“NÓI VỀ CUỘC SỐNG QUANH EM”
Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn:
Họ và tên người thực hiện : Nguyễn Thị Tường Vi
Chức vụ : Giáo viên
Sinh hoạt tổ chuyên môn : Tổ 4
Thanh Khê, tháng 12 năm 2019 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 40387276
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Năng lực : NL Giao tiếp : GT Học sinh : HS Giáo viên : GV Giáo dục : GD Tiểu học : TH Trải nghiệm : TN Dạy học : DH Tiếng Việt : TV lOMoAR cPSD| 40387276 I MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài -
Nhà Tâm lí học Xô Viết A.A. Leeonchev đã viết: “GT là một hệ thống
những quá trình có mục đích và động cơ đảm bảo sự tương tác giữa người này với
người khác trong hoạt động tập thể, thực hiện các mối quan hệ xã hội và nhân cách,
các quan hệ tâm lí và sử dụng phương tiện đặc thù mà trước hết là ngôn ngữ”. Nhà
triết học Đức Ludwig Feuerbach cũng đã viết: “Con người riêng lẻ, như một thứ gì
đó biệt lập, không chứa đựng trong nó bản chất người. Bản chất người chỉ tồn tại
trong GT, trong sự thống nhất của con người với con người, trong sự thống nhất chỉ
dựa trên hiện thực của sự khác nhau giữa tôi và bạn...”. GT là đặc trưng quan trọng
nhất trong hành vi của con người, nó không những là điều kiện quan trọng bậc nhất
của sự hình thành và phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách mà còn giúp cho con người
đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Đối với HS nói chung, HSTH nói riêng, GT không những có vai trò quan trọng
trong sự hình thành và phát triển nhân cách mà còn là bộ phận cấu thành hoạt động
chủ đạo trong cấu trúc NL. GT là phương thức, công cụ cơ bản để tiếp nhận tri thức.
Nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng và hiệu quả của GD TH. Để GT thành công,
hiệu quả, HS một mặt phải sở hữu và vận hành tốt các phương tiện ngôn ngữ; mặt
khác cần có những trải nghiệm cần thiết trong cuộc sống, biết lắng nghe, nhận hiểu
thế giới xung quanh. Coi trọng GT trong quá trình DH tiếng mẹ đẻ, các nhà GD hiện
đại còn đồng thời chú ý đến việc giúp HS có những trải nghiệm xúc cảm cần thiết,
học cách “trò chuyện” với vạn vật để có thể tương tác tốt hơn trong các hoạt động DH, GD... -
Trong cấu trúc các NL tiếng Việt, nói là NL rất được chú trọng bởi hoạt
động nói năng giúp HS gắn kết, thiết lập các mối quan hệ xã hội, tự bộc lộ và khẳng
định mình. Nếu trẻ cuối bậc TH thực hành các bài tập phát triển NL nói theo những
chủ đề mang tính khái quát, trừu tượng như thông điệp hoà bình, vẻ đẹp con người
và cuộc sống, ý thức khẳng định mình... thì HS các lớp 1, 2, 3 lại chia sẻ về thế giới
quanh em theo các chủ đề quen thuộc như bạn trong nhà, gia đình, nhà trường, thiên
nhiên rộn rã... Trong giai đoạn hiện nay, cùng với định hướng học - TN, các hoạt động
luyện nói cho HSTH càng được tăng cường và kết nối chặt chẽ hơn với những tương
tác thực tiễn. Thiết kế hoạt động TN “Nói về cuộc sống quanh em” cho HS lớp 2 là lOMoAR cPSD| 40387276
một thử nghiệm dạy tích hợp nhằm giải quyết bài toán về học thông qua TN đang
được đặt ra trong bối cảnh đổi mới GD phổ thông Việt Nam. Phát triển các NL chuyên
biệt thông qua việc để HS từng bước chạm vào thế giới sinh động, muôn sắc màu mà
mỗi ngày các em đều nhìn thấy, nghe thấy, rung động cùng, chính vì lẽ đó, là việc
làm có tính cấp thiết. Đó cũng là giải pháp sư phạm giúp gia tăng “chất sống” cho
các bài nói (viết), khắc phục được tình trạng nói (viết) theo khuôn mẫu, sáo mòn,
thiếu sức thuyết phục. -
Chương trình GD phổ thông - chương trình tổng thể ban hành tháng
7/2017 đề cập khá thường xuyên đến “GT đa phương thức”. GT đa phương thức chú
trọng khai thác cả phương thức GT bằng ngôn ngữ - lời nói và ngôn ngữ - cơ thể lẫn
việc sử dụng các phương tiện, công cụ hỗ trợ như hình ảnh, vật thật, mô hình... Tham
gia hoạt động TN với nhiều phương thức GT khác nhau gắn với các chủ đề gần gũi
như cây cối, bạn bè mến thương, chim chóc, sông biển..., HS lớp 2 nói riêng, HSTH
nói chung sẽ có những TN rất thú vị, đặc biệt là cảm xúc, niềm hứng khởi. “Đa
phương thức” GT không chỉ giúp HS phát triển NLGT bằng ngôn ngữ mà còn có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, rèn luyện kĩ năng sử dụng, huy động các phương
thức khác nhau trong việc chuyển tải nội dung thông tin, biểu đạt tình cảm. Với các
hoạt động học tập - TN, nói - TN, HS có khả năng tự phát triển NLGT đa phương
thức, hoàn thành mục tiêu phát triển NL sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giai đoạn mới.
Chọn nghiên cứu đề tài Một số biện pháp giúp học sinh phát triển năng lực
giao tiếp đa phương thức cho học sinh lớp 2 qua hoạt động trải nghiệm “Nói về
cuộc sống quanh em”, tôi kì vọng có thể bước đầu thử nghiệm tổ chức hoạt động
TN - một hoạt động GD bắt buộc trong hệ thống các môn học, hoạt động đặc thù ở
nhà trường phổ thông theo hướng tích hợp phát triển NL ngôn ngữ. Đây cũng chính
là hướng đi nhằm bước đầu hướng đến giải quyết một vấn đề mới đặt ra cho GD Việt
Nam trong DH tiếng mẹ đẻ, đó là “DH chú trọng GT đa phương thức”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích nghiên cứu
Từ những phân tích, đánh giá về lí luận và thực tiễn, đề tài tập trung thiết kế
hoạt động TN “Nói về cuộc sống quanh em” nhằm phát triển NLGT đa phương thức cho HS lớp 2.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu lOMoAR cPSD| 40387276 -
Hệ thống lí luận và thực tiễn về NLGT, hoạt động TN, hoạt động luyện
nóivà định hướng DH theo quan điểm GT. -
Khảo sát thực trạng phát triển NLGT thông qua tổ chức hoạt động TN ởtrường TH. -
Thiết kế hoạt động TN “Nói về cuộc sống quanh em” nhằm phát
triểnNLGT đa phương thức cho HS lớp 2. -
Thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của hoạt động TN “Nói về cuộc sốngquanh em”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu -
Hoạt động TN nhằm phát triển NLGT đa phương thức cho HS lớp 2. b)
Phạm vi nghiên cứu - NLGT đa phương thức. -
Hoạt động TN “Nói về cuộc sống quanh em” cho HS lớp 2.
4. Thời gian nghiên cứu - Bắt đầu: 10/01/2019
- Kết thúc: 10/12/2019 5. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Sử dụng để nghiên cứu cơ sở lí luận
và thực tiễn của đề tài thông qua thu thập, tổng hợp, thống kê và xử lí tài liệu liên
quan đến GT đa phương thức và hoạt động TN của HS trong nhà trường TH.
b) Phương pháp điều tra, khảo sát: Sử dụng các phương pháp khảo sát
bằng phỏng vấn sâu, quan sát sư phạm để đánh giá NLGT (nói) của HSTH; thực trạng
tổ chức hoạt động TN ở trường TH; những khó khăn và nhu cầu tham gia hoạt động
TN của người học; đánh giá về hiệu quả bước đầu khi tham gia hoạt động TN được
đề xuất trong đề tài.
c) Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Sử dụng nhằm kiểm tra tính khả
thi của thiết kế hoạt động TN “Nói về cuộc sống quanh em”. lOMoAR cPSD| 40387276
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận
a) Năng lực giao tiếp đa phương thức
- Định hướng dạy học theo quan điểm giao tiếp + Giao tiếp
GT là một phần tất yếu trong cuộc sống của con người. Con người GT theo
nhiều cách khác nhau để diễn tả mong muốn, yêu cầu, xây dựng và duy trì mối quan
hệ. GT là một NL hay kĩ năng đóng vai trò quan trọng, then chốt trong sự phát triển
toàn diện của HS bởi hoạt động học tập, vui chơi, TN đều phải thông qua GT, phải từ
GT để chiếm lĩnh các kĩ năng, kiến thức, kinh nghiệm sống, từ đó hoàn thiện nhân cách.
Từ góc độ của ngôn ngữ học, G.A. Miler nêu nhận định khá giản đơn về GT:
“GT xảy ra khi một tin nào đó được truyền từ điểm này sang điểm khác”. Nắm được
nội hàm của việc GT về mối quan hệ tương tác giữa hành vi lời nói và phi lời nói
trong quá trình chuyển tải thông điệp cuộc sống, Saville Troike mang đến định nghĩa
khá thú vị: “GT là quá trình chia sẻ ý nghĩa thông qua hành vi lời nói và phi lời nói”.
Nhóm tác giả Phạm Minh Hạc - Lê Khanh - Trần Trọng Thủy từ việc khẳng định rằng
tâm lí con người do khách quan quy định, được nảy sinh bằng hoạt động và giao lưu
đã đi đến kết luận: “GT là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ giữa người với
người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa người ta với nhau”. Gắn bó thiết thân
với vấn đề GT đa phương thức, định nghĩa của nhóm tác giả Đỗ Hữu Châu - Đỗ Việt
Hùng, theo chúng tôi, là khá đầy đủ và thuyết phục: “GT là quá trình trao đổi thông
tin giữa ít nhất hai chủ thể GT diễn ra trong một ngữ cảnh và tình huống nhất định,
bằng một hệ thống tín hiệu nhất định”. + DH theo quan điểm GT:
Bắt đầu từ sự nhận hiểu về GT và vai trò của GT, DH ngôn ngữ theo quan điểm
GT trở thành định hướng trung tâm trong nhà trường phổ thông. Manh nha từ thập kỉ
40 của thế kỉ XX, quan điểm GT là tư tưởng cơ bản trong DH tiếng ở nhiều nước trên
thế giới và nhanh chóng phát triển cùng với quá trình lĩnh hội ngôn ngữ, giao lưu văn
hóa, ngôn ngữ. Xuất phát từ tiền đề quan trọng về chức năng GT của ngôn ngữ và
mối quan hệ của nó với phát triển tư duy, rất nhiều nhà tâm lí học, GD học như L.S. lOMoAR cPSD| 40387276
Vygotskij, M.R. Lvop, A.N. Leonchiep, Rodgers, David Nunan, J. Richards đã phát
triển thành các đường hướng, quan điểm DHGT. Vấn đề DH tiếng theo quan điểm
GT cũng được đề cập trong chuyên san của Hội Ngôn ngữ ứng dụng thế giới (AILA):
“DH ngôn ngữ phải gắn với GT vì GT là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ; vấn đề
cấu trúc, cú pháp, kiến thức về tự vựng được đưa xuống hàng thứ hai”.
Bắt nhịp với các xu hướng tích cực về phát triển NL ngôn ngữ cho HS trong
nhà trường phổ thông, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã bàn luận khá nhiều về
DH theo định hướng GT. Nhóm tác giả Phan Phương Dung - Đặng Kim Nga cho
rằng: “Do ngôn ngữ là phương tiện GT quan trọng nhất của loài người và TV là
phương tiện GT quan trọng nhất của người Việt Nam, DHTV theo quan điểm GT là
một định hướng đúng đắn. Theo quan điểm này, môn TV ở TH phải coi GT là mục
tiêu, là nội dung DH và cũng là cách thức hoạt động DH” [7, tr.70]. Cũng xuất phát
từ quan điểm hành dụng, tác giả Lê Phương Nga đặc biệt chú trọng tư tưởng tối giản
hóa quá trình nhận diện, phân tích, phân loại; tối ưu hóa quá trình sử dụng ngôn ngữ
nhằm “thỏa mãn cho mục đích dạy tiếng như một công cụ GT”.
DH theo quan điểm GT thực chất là “DH vì mục đích GT”, “dạy về GT và dạy
trong GT”. Muốn vậy, HS cần phải được đặt trong các tình huống GT ở trong bài học
hay thông qua hoạt động TN, hoạt động ngoài giờ lên lớp để từ đó biết cách điều
chỉnh hành vi ngôn ngữ và hành vi kèm lời. Nguyên lí này sẽ dẫn đến những cấu trúc
nội dung mang tính đặc thù riêng. Chẳng hạn như cách lựa chọn chủ đề, chủ điểm
cho các hoạt động thực hành nói, viết; cách sắp xếp các yêu cầu phát triển kĩ năng, từ
tích luỹ vốn từ đến hệ thống hoá và cuối cùng là biến vốn từ đó thành những thực thể
sống động. DH theo quan điểm GT cũng đặt ra vấn đề về lựa chọn phương pháp,
phương thức biểu đạt, truyền tải, định hướng. Các phương pháp DHTV thường được
sử dụng ở TH là phân tích ngôn ngữ, luyện tập theo mẫu và thực hành GT. Trong quá
trình tổ chức các bài tập thực hành ngôn ngữ, GT vừa là cách thức vừa là mục đích
học tập. Thông qua GT và bằng con đường GT, HS thường xuyên luyện tập sử dụng
lời nói, từ đó kĩ năng GT được hình thành một cách toàn diện và bền vững. Hoạt động
GT bằng lời nhất định phải thông qua các nhiệm vụ luyện tập tạo lập, sản sinh ngôn
bản. Bên cạnh đó, sự chi phối của ngữ cảnh, của các yếu tố kèm lời hay hiểu biết về
nhân vật GT, của các phương thức GT phong phú và đa dạng cũng là những vấn đề
được các nhà GD quan tâm. lOMoAR cPSD| 40387276 + NLGT đa phương thức
Trong những thập kỉ qua, khái niệm NLGT có những biến đổi nhất định cùng
với sự phát triển của nền kinh tế xã hội và công nghệ. Theo cách hiểu truyền thống,
từ rất lâu, NLGT gói gọn trong “khả năng biết đọc, biết viết”. Năm 1958, tổ chức GD,
Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) định nghĩa người có NLGT là
“người có thể đọc hiểu và viết những câu đơn giản về cuộc sống thường nhật của
mình” [25, tr.12]. Sau này, các nhà tâm lí học, GD học phân tích khái niệm này theo
nhiều chiều kích khác nhau. Về nghĩa rộng, NLGT không chỉ giới hạn ở khả năng đọc
và viết mà đang ngày càng tiếp tục mở rộng. Theo đó, ý nghĩa truyền tải không dừng
ở việc chuyển tải thông điệp qua kênh ngôn ngữ tự nhiên mà còn có thể được bổ sung
hoặc thậm chí thay thế bằng các kênh khác hoặc sự kết hợp các kênh khác nhau như
âm thanh, hình ảnh, cử chỉ, điệu bộ,... Nói cách khác, để được coi là có NLGT trong
thế giới đương đại thì con người cần phải sở hữu khả năng GT vượt ra khỏi kênh ngôn
ngữ viết hay nói. “GT đa phương thức” vì vậy là khái niệm được xác lập và ứng dụng
mạnh mẽ ở nhà trường phổ thông (Kalantzis and Cope, 2012).
Trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa, đa văn hóa như hiện nay, con người cần
phải có khả năng GT phù hợp với các ngữ cảnh xã hội, văn hóa khác nhau. Các yếu
tố của ngữ cảnh xã hội bao gồm đề tài GT (Field), mối quan hệ của các tham thể trong
GT (Tenor), kênh và quy cách GT (Mode). Các yếu tố của ngữ cảnh văn hóa gồm
mục đích xã hội (Social purposes) và bối cảnh văn hóa (Cultural settings). Do đó,
khía cạnh “văn hóa” hoặc “sự đa dạng xã hội” cũng cần được bổ sung vào khái niệm
năng lực GT truyền thống (Kalantzis and Cope, 2012).
Vai trò vô cùng quan trọng của NLGT đối với đời sống của các cá nhân và
cộng đồng là điều không thể phủ nhận. Có được một quan niệm tiến bộ về NLGT,
phản ánh đúng bản chất của GT và vai trò của nó trong xã hội hiện đại là một điều vô
cùng quan trọng đối với các nhà nghiên cứu, nhà khoa học làm chương trình và những
người hoạch định chính sách về GD.
Như vây, GT đa phương thức được diễn giải như sau: “GT đa phương thức là
hình thức GT sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, không chỉ phương tiện ngôn ngữ
mà cả phương tiện GT phi ngôn ngữ”; “NLGT đa phương thức là khả năng của mỗi
cá nhân để trao đổi thông tin bằng ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ hay các
phương tiện vật chất mang tín hiệu GT”; “HS cần biết kết hợp các phương tiện GT lOMoAR cPSD| 40387276
một cách thành thạo nhằm mang lại hiệu quả GT tốt”. Theo đó, NLGT đa phương
thức được rèn luyện và phát triển với các mức độ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí,
lứa tuổi, môi trường học tập, môi trường GT.
b) Hoạt động luyện nói trong mối quan hệ với việc phát triển năng lực giao tiếp đa phương thức - Hoạt động luyện nói
Ngôn ngữ là sự thể hiện sâu sắc nhất một nền văn hóa và yếu tố văn hóa hiện
diện trong mọi bình diện của ngôn ngữ. Ngôn ngữ và văn hóa có mối liên hệ không
thể tách rời. Vì vậy, dạy TV không thể tách rời với việc dạy văn hóa GT. Việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng lời nói trong GT theo các định hướng cụ thể sẽ giúp HS sử
dụng đúng các phương tiện ngôn ngữ và các phương tiện, phương thức khác theo
đúng “chuẩn văn hoá”, đồng thời phù hợp với bối cảnh hoà nhập, quốc tế hoá.
Nhiệm vụ hàng đầu của môn TV ở TH là rèn kĩ năng GT (nghe, nói, đọc, viết)
cho HS; nhiệm vụ cung cấp kiến thức TV được coi là thứ yếu, có vai trò hỗ trợ cho
việc phát triển kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ. Nhất quán với mục tiêu môn học, chương
trình đặc biệt chú trọng việc hình thành kĩ năng nói toàn diện, bao gồm cả sản sinh
và tiếp nhận lời nói, gắn với cả hai dạng lời nói là khẩu ngữ và bút ngữ. Những kĩ
năng này được thể hiện thành nội dung vừa sức, gần với thực tiễn, được triển khai
tích hợp theo nguyên tắc đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Các nội dung
DH đều gắn với thực tiễn nói năng gần gũi với đời sống của HS. Trong các tiết học
TV, hoạt động luyện nói được GV tổ chức để hình thành kĩ năng nói cho các em. Từ
đó, kĩ năng vận hành lời nói của các em không chỉ hình thành nhanh mà còn bền vững
và có khả năng phát triển tốt trong học tập cũng như GT.
Cùng với nội dung dạy các kiến thức về tiếng mẹ đẻ, cần chú ý hơn nữa đến
việc hướng dẫn cho HS những quy tắc, những chuẩn mực khi sử dụng ngôn ngữ. Bởi
lẽ đó, chương trình TV đã đề xuất rất nhiều bài tập phát triển lời nói, trong đó các bài
tập thực hành được đa dạng hoá về hình thức. Sự phong phú về nguồn ngữ liệu trong
các bài tập này không chỉ giúp HS thuần thục kĩ năng mà còn giúp các em bắt đầu
những bước vững vàng trong cuộc sống. Ví dụ, dạy HS lớp 1, 2 biết giới thiệu đơn
giản về bản thân, gia đình, trường học, bạn bè, thầy cô giáo... Theo quan điểm GT,
nội dung DHTV ở TH ưu tiên những kiến thức phục vụ trực tiếp cho hoạt động rèn lOMoAR cPSD| 40387276
kĩ năng lời nói của HS. Định hướng này thể hiện ở tất cả các bình diện của hệ thống
ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách học.
- Mối quan hệ giữa hoạt động luyện nói với việc phát triển năng lực giao tiếpđa phương thức
Để có thể thực hành nói một cách hiệu quả, trước tiên cần có kĩ năng phát âm,
sau đó là kĩ năng nói đúng từ, đúng câu, đúng ý. Để nói thành bài, một mặt phải dựa
trên những kĩ năng bộ phận trên, mặt khác cần dùng đến các kĩ năng khác như sắp
xếp ý, tứ, nội dung; kĩ năng liên kết câu, liên kết đoạn tạo nên tính mạch lạc của bài
nói; kĩ năng vào đề và duy trì nội dung sao cho logic, hấp dẫn; kĩ năng hiểu biết về
văn hoá và đời sống trong hành vi bộc lộ khen ngợi, chúc mừng, xin lỗi, cảm ơn, chào
hỏi, cam kết, hứa hẹn, cho, tặng, trong hành vi chỉ đạo, tuyên bố, thể hiện... Qua đây
HS được tiếp nhận một cách tự nhiên các giá trị văn hoá ứng xử của người Việt thông
quá các hoạt động luyện nói.
Có hai hình thức sản sinh lời nói, đó là nói và viết. Hoạt động nói là hoạt động
dễ tiếp cận, có tính phổ dụng. Nó được thực hiện qua bốn giai đoạn: định hướng (1),
lập chương trình (2), hiện thực hóa chương trình (3) và kiểm tra - điều chỉnh (4).
(1) Định hướng trong sản sinh lời nói là xác định nhân tố GT chi phối nội dung
và hình thức ngôn bản. Để xác định được nhân tố GT, người nói cần lần lượt đặt và
trả lời câu hỏi về mỗi nhân tố. Ví dụ: Cần nói với ai? Nói để làm gì? Nói gì? Nói
trong hoàn cảnh nào? Nói như thế nào?
Trong hoạt động luyện nói, cần sử dụng kết hợp nhiều phương thức GT, nhiều
phương tiện GT khác nhau như phương tiện phi ngôn ngữ (cử chỉ, hành động, ánh
mắt, cụ cười, nét mặt...) và những phương tiện vật chất mang tín hiệu GT (đèn giao
thông, biển báo, màu sắc, cờ, còi, khói, ánh sáng). Khi đã xác định được nhân tố GT
cần kết hợp với các phương tiện GT đặc thù, HS có thể hình thành và phát triển được NLGT đa phương thức.
NLGT đa phương thức và hoạt động luyện nói là khái niệm thuộc về cùng một
phạm trù. HS trang bị được cho mình NLGT đa phương thức cũng đồng nghĩa với
việc thực hiện hiệu quả hoạt động luyện nói, giúp quá trình nói diễn ra một cách dễ
dàng, tự nhiên, hấp dẫn. Nói cách khác, khi hoạt động nói có sự vận dụng linh hoạt,
uyển chuyển các phương thức, phương tiện khác nhau, các em đã chạm đến NLGT lOMoAR cPSD| 40387276
đa phương thức và do vậy, lời nói sẽ trở nên sinh động hơn, truyền tải được thông
điệp, ý nghĩa, bày tỏ được cảm xúc, khiến người nghe cảm thấy hứng thú hơn.
Dạy sử dụng TV là dạy HS cách dùng tiếng mẹ đẻ trong cả hai dạng ngôn ngữ
nói và viết, với bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, là dạy HS cả lĩnh hội và sản sinh
ngôn bản bằng. Trên cơ sở mối quan hệ này, chương trình sắp xếp việc học đọc, học
viết song song với việc học nghe, học nói ở tất cả các lớp. Dạy các em sử dụng tiếng
Việt để GT và học tập cần chú trọng cả hai phương diện dạy lĩnh hội (hiểu) được lời
nói, bài viết có sẵn và lời nói, bài viết trong hoàn cảnh GT tự nhiên, trong các cuộc
hội thoại và độc thoại hằng ngày. Mặt khác còn dạy HS diễn đạt rõ ràng, chính xác ý
nghĩ, tình cảm, nhận thức, biết sử dụng linh hoạt và hiệu quả các phương tiện ngôn
ngữ, phi ngôn ngữ, vật chất vào trong GT. Đó cũng là lí do chương trình TV chú trọng
dạy HS đọc hiểu và nghe hiểu, dạy HS nói và viết mọi loại văn bản cần dùng trong
đời sống. Dạy kĩ năng nghe, nói trong độc thoại và hội thoại: dạy nghe các loại văn
bản phù hợp với trình độ HSTH, tập trung vào dạy nghe, hiểu. Dạy nghe trong hội
thoại gắn với sinh hoạt ở TH (nghe nhớ được lời người nói, hiểu nội dung lời nói,
bước đầu nhận biết thái độ tình cảm lời nói qua nội dung, giọng điệu, điệu bộ...). Dạy
nói trong hội thoại: dạy các nghi thức lời nói trong GT thông thường, GT nghi thức
trang trọng, GT trong sinh hoạt ở trường và dạy cách trao đổi, bàn bạc một vấn đề
thông thường. Dạy nói thành bài để giới thiệu về bản thân, gia đình, bạn bè, lớp học,
trường học, về xã hội... với một người khác.
Như vậy, trong hoạt động luyện nói cần rèn luyện cả cách vận hành các phương
tiện ngôn ngữ, phương tiện phi ngôn ngữ và phương tiện vật chất gắn với các tình
huống GT để hình thành cho HS NLGT đa phương thức. Để từ đó, HS hoàn thiện
mình và trở thành những con người mới đáp ứng các yêu cầu về NL, phẩm chất của xã hội hiện đại.
c. Hoạt động trải nghiệm và định hướng phát triển năng lực Tiếng Việt cho học sinh tiểu học
- Khái quát về hoạt động trải nghiệm
Hoạt động TN được biết đến với tư cách là một quan điểm GD do David Kolb
(1939) đề xuất. Năm 1970, David Kolb cùng Ron Fry phát triển lí thuyết TN và năm
1984, ông xuất bản mô hình học tập, gây được sự chú ý cũng như tạo thêm nguồn
cảm hứng cho nhiều nhà nghiên cứu. lOMoAR cPSD| 40387276
Với Kurt Lewin, ông chủ trương sử dụng “những kinh nghiệm rời rạc” (cách
diễn đạt của Kurt Lewin) của cá nhân để “đánh giá thử” các khái niệm trừu tượng,
sau đó chia sẻ về giá trị hoặc tính ứng dụng của chúng để thu nhận các thông tin phản
hồi. Tính liên tục phát triển của nhận thức được đáp ứng là nhờ vào các hoạt động
phản hồi. K. Lewin đã từng kết luận, những thất lại trong học tập là do thiếu vắng các phản hồi.
Từ việc kế thừa những ý tưởng cơ bản, D.A. Kolb đã hoàn thiện lí thuyết về
Học tập TN với những đặc điểm nổi bật: (1) Học tập được tiếp nhận tốt nhất là trong
quá trình chứ không phải là kết quả; (2) Học tập là một quá trình liên tục được khởi
nguồn từ kinh nghiệm; (3) Quá trình học tập đòi hỏi giải pháp cho những sự xung đột
về sự thích nghi của các phương thức đối lập biện chứng về thế giới; (4) Học tập bao
gồm các tương tác giữa con người với môi trường; (5) Học tập là quá trình tạo ra tri
thức, là kết quả của các giao dịch giữa kiến thức xã hội và kiến thức cá nhân.
Như vậy, lí thuyết học tập của Kolb chính là: “Học tập là quá trình trong đó
kiến thức được tạo ra từ sự chuyển đổi kinh nghiệm” và các giai đoạn trên đòi hỏi
người học phải có những phong cách, khả năng học tập riêng phù hợp với chúng. Mặc
dù lí thuyết của D.A. Kolb không tránh khỏi những hạn chế và có những phản hồi
không khả quan từ phía các nhà nghiên cứu như Rogers, Miettinen, Vince hay Kelly,
tuy nhiên, D.A. Kolb vẫn nổi lên với tư cách là con người đã làm thay đổi tư duy GD,
đặc biệt là cụ thể hóa tư tưởng lấy HS làm trung tâm của J. Deway.” [26] Nhìn chung,
từ rất nhiều những nghiên cứu khác nhau, có thể hiểu hoạt động TN là hoạt động “Có
động cơ, có đối tượng để chiếm lĩnh, được tổ chưc bằng các việc làm cụ thể của HS,
được thực hiện trong thực tế, được sự định hướng, hướng dẫn của nhà trường”. Đối
tượng để TN nằm trong thực tiễn. Qua TN thực tiễn, người học có được kiến thức, kĩ
năng, tình cảm và ý chí nhất định. Sự sáng tạo sẽ có được khi phải giải quyết các
nhiệm vụ thực tiễn phải vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giả quyết vấn đề, ứng
dụng trong tình huống mới, không theo chuẩn đã có.
Hoạt động TN là hoạt động GD mới của cả ba cấp học, được phát triển từ các
hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khoá của chương trình hiện
hành, được thiết kế thành các chuyên đề tự chọn nhằm giúp HS phát triển các NL, kĩ
năng, niềm tin, đạo đức... nhờ vân dụng những tri thức, kiến thức, kĩ năng, tháị độ đã
học từ nhà trường và những kinh nghiêm của bản thân vào thực tiễn cuộ c ̣ sống một lOMoAR cPSD| 40387276
cách sáng tạo thông qua các hình thức và phương pháp chủ yếu như: dã ngoại, tham
quan, câu lạc bô, hoạt độ ng xã hộ i, tình nguyệ n, diễn đàn, giao lưu, trò ̣ chơi, cắm
trại, thực hành lao đông...̣
- Hoạt động trải nghiệm trong chương trình giáo dục phổ thông mới
Hoạt động TN xuất hiện trong chương trình GD phổ thông theo Đề án đổi mới
chương trình, sách giáo khoa GD phổ thông sau năm 2015. Để đạt được mục tiêu phát
triển NLHS, nội dung sách giáo khoa được viết mới và hoạt động TN trở thành một
nội dung học tập được cấu trúc độc lập trong kế hoạch GD thuộc chương trình phổ
thông mới. Mục đích của hoạt động này là “hình thành và phát triển những phẩm chất,
tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kĩ năng sống và những NL chung cần có ở con người
trong xã hội hiện đại”. Nội dung tổ chức các hoạt động TN được thiết kế thành các
chủ điểm linh hoạt có kiến thức gắn với đời sống thực tiễn, tích hợp nhiều lĩnh vực
GD giúp HS có nhiều cơ hội TN. Nếu các phương pháp tổ chức chú trọng tính đa
chiều thì các hình thức tổ chức lại tập trung vào tính đa dạng nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho HS tự hoạt động. Để phù hợp với nội dung và phương pháp, khâu kiểm tra
đánh giá tất yếu phải sử dụng đến hình thức đánh giá định tính trong đó nhấn mạnh
đến kinh nghiệm cá nhân HS.
Hoạt động TN không chỉ thuần túy được xem như các hoạt động ngoài giờ lên
lớp, các hoạt động tập thể mà nó cần được hiểu là một hoạt động GD theo nghĩa rộng.
Cụ thể nó cũng là một môn học với đầy đủ mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức và kiểm tra đánh giá. Điểm khác biệt duy nhất là hoạt động TN chú trọng
đến việc hình thành và phát triển những phẩm chất và giá trị của HS dựa trên những
hoạt động do chính các em tham gia và TN trong một không gian được mở rộng, gắn
liền nhà trường với nhịp sống sôi động của hiện thực xã hội. Nếu hoạt động TN được
nhìn đơn giản như các hoạt động ngoài giờ lên lớp thì công sức của D.A. Kolb cùng
với sự nỗ lực của nhiều chuyên gia GD sẽ thật sự không có chỗ đứng. Có thể chúng
ta không vận hành hết tất cả mọi yêu cầu trong tư tưởng của D.A. Kolb trong môi
trường GD Việt Nam nhưng nên phân biệt rõ ràng giữa hoạt động TN và hoạt động
ngoài giờ lên lớp, chúng có những điểm chung riêng nào để tránh đồng bộ hai hoạt
động trên. Chỉ có như vậy mới mang lại hiệu quả đích thực.
Với chương trình hiện hành, có thể coi hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động
tập thể, hoạt động theo chủ điểm và cả hoạt động Đoàn - Đội là những TN. Trong lOMoAR cPSD| 40387276
chương trình mới, Hoạt động TN cùng với DH các môn học như TV, Toán, Khoa học,
Đạo đức,... làm thành 2 loại hoạt động GD chính của nhà trường. Trong chương trình
của một số nước, hoạt động GD thường có tên gọi là hoạt động ngoại khóa, hoạt động
ngoài giờ lên lớp, hoạt động TN (hoặc hoạt động TN sáng tạo).
Hoạt động TN trong chương trình GD phổ thông mới là hoạt động có tính mở,
vừa kế thừa tất cả các hoạt động GD phù hợp, có hiệu quả của chương trình GD phổ
thông hiện hành, vừa bổ sung, đổi mới nhiều hoạt động khác nhằm đáp ứng được mục
tiêu và yêu cầu của chương trình mới.
- Mục tiêu tích hợp phát triển năng lực giao tiếp trong hoạt động trải nghiệm
Theo mô hình GD phát triển NL, ngay trong quá trình GD, HS cần giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể gần với đời sống thực mà kiến thức, kĩ năng của mỗi môn học
truyền thống không thể đáp ứng được. Vì vậy, tích hợp là một phần tất yếu của mô
hình GD này. Thay vì để cho HS tự “tích hợp” kiến thức, kĩ năng đã học trong những
môn riêng biệt để giải quyết các vấn đề mà các em phải đối mặt khi vào đời thì nhà
trường hiện đại chịu trách nhiệm “tích hợp” ngay trong quá trình DH. Xét trên bình
diện chương trình phổ thông nói chung, tích hợp giữa các môn học cũng là hệ quả tất
yếu của định hướng GD phát triển NL. Tích hợp không chỉ trong các bộ phận của
môn học mà tích hợp cả các môn khác nhau nhưng có cùng vấn đề, kiến thức liên
quan đến nhau. Muốn làm được điều đó thì thông qua hoạt động TN mới có thể giải
quyết triệt để được. Để tham gia hoạt động TN, HS phải huy động hết tất cả những gì
mình có, cả về kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm sống mới có thể giải quyết được
những vấn đề đã được tích hợp, bởi chính các vấn đề được tích hợp mang nội dung
kiến thức nhiều, kĩ năng nhiều và đòi hiểu kinh nghiệm sống nhiều nếu chỉ DH đơn
thuần trên lớp thì sẽ thô cứng, không có nhiều thời gian, nhàm chán, không mang lại hiệu quả cao.
DH tích hợp là định hướng giúp HS phát triển khả năng huy động tổng hợp
kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn
đề trong học tập và trong cuộc sống, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri
thức và rèn luyện kĩ năng; phát triển được NL cần thiết, nhất là NL giải quyết vấn đề.
Tính tích hợp thể hiện qua sự huy động, kết hợp, liên hệ các yếu tố có liên quan với
nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết có hiệu quả một vấn đề và thường đạt được
nhiều mục tiêu khác nhau. lOMoAR cPSD| 40387276
Coi trọng và tăng cường hoạt động TN là một đổi mới căn bản của chương
trình GD mới. Mỗi hoạt động TN đều có yêu cầu vận dụng tổng hợp nhiều lĩnh vực
kiến thức, kĩ năng nên thường có tác động đến nhiều lĩnh vực GD khác nhau, phụ
thuộc chủ yếu vào nội dung và hình thức của hoạt động.
Nôi dung hoạt độ ng TN gồm phần bắt buộ c và tự chọn, được thiết kế theọ
nguyên tắc tích hợp, hoặc đồng tâm kết hợp với tuyến tính. Nôi dung hoạt độ ng TṆ
được xây dựng thành các chủ đề mang tính chất mở và tương đối độc lập với nhau
dựa trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, sản xuất, khoa học công nghệ, GD, văn
hoá, chính trị xã hôi... của địa phương, vùng miền, đất nước và quốc tế để HS và ̣ nhà
trường lựa chọn, tổ chức thực hiện một cách phù hợp, hiệu quả.
- Cần phải DH tích hợp vì các lí do sau:
+ Đổi mới GD tập trung phát triển phẩm chất và NL người học. Kinh nghiệm
quốc tế cũng như thực tiễn Việt Nam cho thấy DH tích hợp giúp việc học tập của HS
gắn liền với thực tiễn hơn, giúp HS phát triển các phẩm chất và NL cần thiết.
- Mỗi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và con người là một thể
thốngnhất, ít nhiều đều có mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác; nhiều sự
vật, hiện tượng có những điểm tương đồng và cùng một nguồn cội… Vì vậy, để
nhận biết hoặc giải quyết mỗi sự vật, hiện tượng ấy, cần huy động tổng hợp các
kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau. DH tích hợp phù hợp với yêu cầu đó.
+ Chương trình hiện hành chưa quán triệt tốt quan điểm tích hợp nên có nhiều
môn học và các môn học khó tránh khỏi trùng lặp về nội dung. Theo quan điểm tích
hợp, các kiến thức liên quan với nhau sẽ được lồng ghép vào cùng một môn học nên
tránh được sự trùng lặp không cần thiết về nội dung giữa các môn học và vì vậy số
lượng môn học và thời lượng học tập sẽ giảm bớt.
+ Do quá trình phát triển của thực tiễn nên nhiều kiến thức, kĩ năng chưa có
trong các môn học, nhưng lại rất cần chuẩn bị cho HS để có thể đối mặt với những
thách thức của cuộc sống; do đó cần tích hợp GD các kiến thức và kĩ năng đó thông qua các môn học.
Chủ trương DH tích hợp trong chương trình mới có một số điểm khác so với
chương trình hiện hành như: tăng cường tích hợp nhiều nội dung trong cùng một
môn học, xây dựng một số môn học tích hợp mới ở các cấp học, tinh thần chung là lOMoAR cPSD| 40387276
tích hợp mạnh ở các lớp học dưới và phân hoá dần ở các lớp học trên; yêu cầu tích
hợp được thể hiện cả trong mục tiêu, nội dung, phương pháp và thi, kiểm tra, đánh giá GD.
2. Thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm nhằm phát triển năng lực
giao tiếp đa phương thức cho học sinh lớp 2
Trong chương trình GD phổ thông hiện hành, hình thức tổ chức GD chủ yếu
là DH trên lớp, chưa coi trọng việc tổ chức các hoạt động xã hội, hoạt động TN.
Phương pháp GD và đánh giá chất lượng nhìn chung còn lạc hậu, chưa chú trọng dạy
cách học và phát huy tính chủ động, khả năng sáng tạo của HS.
Hoạt động TN trên thực tế đã từng tồn tại rất lâu trước đó trong các môn học
và các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt tập thể ở trường học. GV và HS đã tiến hành
các hoạt động đó mà đôi khi chưa ý thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò của nó đối với
sự hình thành và phát triển phẩm chất, NL của con người. Các hoạt động tham quan,
dã ngoại, sân khấu hóa nói chung yêu cầu cũng nhẹ nhàng, diễn ra trong thời gian
ngắn, chỉ để giúp HS tiếp xúc với thực tế, có cái nhìn, cách đánh giá sát thực với hiện
tượng, sự kiện. Còn đã gọi là TN thì không thể làm như cũ được, làm đòi hỏi thực
chất, chiều sâu, độ chín. Trước đây, trong trường phổ thông không có hoạt động TN
được quy định thành số tiết học bắt buộc, mà chỉ có hoạt động ngoại khóa, thực hành,
tham quan, dã ngoại, lao động, GD địa phương... Nội dung hoạt động gắn liền với các
môn học, do GV chủ động xây dựng, thời lượng ngắn…
Nhìn chung, chương trình hiện nay tuy có nhiều ưu điểm nhưng chưa thật sự
thiết thực, chưa coi trọng kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức; chưa đáp ứng các
yêu cầu về mục tiêu GD đạo đức, lối sống; chưa coi trọng việc tổ chức hoạt động xã
hội, hoạt động TN. Trong chương trình GD phổ thông mới, vai trò của hoạt động TN
sẽ được nhấn mạnh dưới góc độ phát triển phẩm chất, NL của người học, vì vậy, việc
tổ chức các hoạt động TN phù hợp rất quan trọng. Thông qua các hoạt động thực
hành, những việc làm cụ thể, HS sẽ phát huy vai trò cụ thể, tính tích cực, chủ động,
tự giác và sáng tạo của bản thân. Các em được tham gia vào tất cả các khâu của quá
trình hoạt động từ thiết kế, chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả. Bên cạnh đó, các
em còn được bày tỏ quan điểm ý tưởng và lựa chọn ý tưởng của chính mình. Do vậy
mà các em thật sự hào hứng và rất tích cực khi được học tập dưới dạng hoạt động TN.
Hoạt động học tập TN là các hoạt động GD thực tiễn được tiến hành song song với lOMoAR cPSD| 40387276
hoạt động DH trong nhà trường. Hoạt động TN là một bộ phận của quá trình GD được
tổ chức ngoài giờ học các môn văn hóa ở trên lớp và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động DH.
Trong hoạt động TN, HS phải huy động hết tất cả những gì mình có về kiến
thức, kĩ năng, phương tiện ngôn ngữ, phi ngôn ngữ, vật chất để nâng cao NLGT, lĩnh
hội những tri thức mới. Chính vì vậy, đòi hỏi nhà trường, GV và gia đình đặc biệt
quan tâm để giúp các em hoàn thiện và phát triển trong môi trường tích cực. Nếu
không được hiểu rõ, không được chuẩn bị, không có cơ chế hợp lí thì có thể nhìn thấy
trước hoạt động TN đề ra trong dự thảo cũng sẽ chỉ là phiên bản của hoạt động ngoài
giờ lên lớp được thực hiện cầm chừng, hình thức. Hiện nay nhiều trường đang thực
hiện học tập dưới dạng hoạt động TN. Đây được coi là chìa khóa thực hiện việc học
đi đôi với hành, học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống
ngay trong lớp, trong trường. Đây cũng được coi là phương pháp thật sự ưu việt cho
sự phát triển khả năng sáng tạo, giúp HS tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành các kĩ
năng, giá trị và phẩm chất của bản thân. Hầu hết HS khi được học tập dưới dạng này
đều tỏ ra thích thú hứng khởi. Rất nhiều em thể hiện rõ NL của mình qua các hoạt
động TN trong các môn học.
Hoạt động TN là điểm khởi tạo lí tưởng trong đó mỗi HS đều được hoạt động,
đều bộc lộ mình và phát triển - phát triển tính tích cực hoá hoạt động học tập của HS,
cho phép đo đếm kết quả học tập, ghi nhận từng bước tiến bộ. Hoạt động học tập của
từng HS được cá thể hoá: các em bộc lộ NL tiếp thu, GV nắm bắt để tác động trực
tiếp như khích lệ, động viên, điều chỉnh hoàn thiện. HS còn hợp tác học hỏi, hỗ trợ
nhau trong học tập, vui chơi. Hoạt động của HS trong TN tích hợp môn TV: Hoạt
động GT và hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lí thuyết. Cả hai loại hoạt động
trên của HS có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau: làm việc độc lập,
làm việc theo nhóm, đặc biệt còn được sử dụng nhiều phương tiện GT khác nhau như
phương tiện ngôn ngữ, phương tiện phi ngôn ngữ và phương tiện vật chất mang tín hiệu GT. lOMoAR cPSD| 40387276
3. Biện pháp giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp đa phương thức
qua hoạt động trải nghiệm “Nói về cuộc sống quanh em”
a) Thiết kế hoạt động trải nghiệm
- Hoạt động 1. NÓI VỀ THỜI GIAN BIỂU CỦA EM
+ Hoạt động 1.1. Xác định mục tiêu
Nói từ 2 - 4 câu về thời gian biểu của nhóm (lịch hoạt động, mong muốn thực
hiện, các thành viên tham gia,...)
Tương tác nhóm 4, kết hợp viết và trang trí để tạo thành sản phẩm “Thời gian
biểu” hỗ trợ bài nói
+ Hoạt động 1.2. Thể hiện nội dung (1)
Từ các vật liệu đã chuẩn bị, HS cắt, dán, trang trí, tô màu... để tạo
thànhmột khung bảng thời gian biểu.
Mục đích: Cùng trải nghiệm hoạt động xây dựng kế hoạch hoạt động của
nhóm, viết vẽ để trang trí cho Thời gian biểu để tạo sự gắn kết, tạo không khí thoải
mái cho việc hình thành kĩ năng nói một cách tự nhiên.
Kết quả mong đợi: HS cùng phối hợp, tương tác, lên ý tưởng về cả nội dung
Thời gian biểu lẫn sản phẩm thiết kế cắt dán, trang trí... (2)
HS thảo luận viết thời gian biểu, chia sẻ bằng hình thức nói về kế
hoạchhoạt động nhóm, về các thành viên tham gia, về kết quả các em mong đợi.
Mục đích: Trong quá trình thể hiện nội dung lên Thời gian biểu, các em đồng
thời rèn NL nói (về những dự định, kế hoạch, kì vọng...).
Kết quả mong đợi: Hoàn thành Thời gian biểu, đồng thời hình thành bài nói ở
dạng “thô”, trong đó có sự điều chỉnh tự nhiên giữa các lượt nói luân phiên. (3)
Giới thiệu sản phẩm - Thời gian biểu và chia sẻ bằng bài giới thiệu
ngắn2-4 câu về nội dung, về ý tưởng, các hình vẽ trang trí...
Mục đích: Phát triển NLGT đa phương thức bằng việc chia sẻ (nói) ngắn về
sản phẩm đã hình thành (Thời gian biểu) cũng như những cảm xúc TN của cá nhân.
Kết quả mong đợi: HS nói được một bài từ 2-4 câu, thể hiện các phương diện
hoặc chỉ cần một phần thông tin từ Thời gian biểu; khuyến khích chia sẻ những TN cảm xúc cá nhân. (4)
Các nhóm còn lại lắng nghe, tương tác bằng câu hỏi; GV có thể hỏi
mởrộng để HS nói về Thời gian biểu cá nhân, dự định muốn thực hiện trong tuần tới lOMoAR cPSD| 40387276
Mục đích: Hoàn thiện các bài nói và phát triển mở rộng ở các tương tác bằng câu hỏi,
trong đó có những câu hỏi về Thời gian biểu chung đã hình thành, có những câu hỏi về dự định cá nhân.
Kết quả mong đợi: HS tiếp tục tương tác để có khả năng lắng nghe, tiếp thu,
từng bước điều chỉnh bài nói của mình; phản ứng nhanh để đáp ứng yêu cầu về chia
sẻ dự định cá nhân trong tuần.
+ Hoạt động 1.3. Tổng kết hoạt động TN
Yêu cầu HS chia sẻ về những thu hoạch (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm...)
mà các em thu được sau khi tham gia hoạt động TN nhỏ.
Câu hỏi chia sẻ: Nói 2 điều em cảm thấy ấn tượng, phấn khích và tâm đắc nhất
và 1 điều em chưa hài lòng khi tham gia hoạt động TN
Hình thức chia sẻ: HS di chuyển thành vòng tròn theo nhạc, khi nhạc dừng thì
bắt cặp ngẫu nhiên, cùng nhau chia sẻ để rút kinh nghiệm.
GV chốt lại các kiến thức, kĩ năng liên quan và nhắc một số kinh nghiệm để HS có thể nói tốt hơn.
- Hoạt động 2. CHÚNG EM NHỚ ƠN CÔ THẦY
+ Hoạt động 2.1. Xác định mục tiêu
Nói 2-4 câu về tấm thiệp đã hoàn thành để bày tỏ lòng biết ơn tới cô thầy.
Tương tác cá nhân, TN cảm xúc khi cùng nhau tự hoàn thành một món quà
nhỏ, giản dị để dành tặng cô thầy.
+ Hoạt động 2.2. Thể hiện nội dung (1)
Từ các vật liệu đã chuẩn bị, HS cắt, dán, trang trí, tô màu... để tạo
thànhmột tấm thiệp. Sau đó ghi các lời chúc hay điều em muốn nói vào thiệp.
Mục đích: HS được TN tự mình làm những chiếc thiệp, huy động nhiều kĩ
năng thao tác trên đồ vật, vật liệu để cắt, dán, trang trí; qua đó gửi gắm những tình
cảm tốt đẹp dành tặng cô thầy của mình.
Kết quả mong đợi: HS vừa cộng tác hoàn thành tấm thiệp để gửi tặng cô thầy
vừa chia sẻ cảm xúc, hình thành bài nói bước 1. (2)
HS TN chia sẻ cảm xúc, ý nghĩa của chiếc thiệp, sau đó, kể về một kỉ
niệm làm em nhớ mãi về những người thầy, người cô đó. lOMoAR cPSD| 40387276
Mục đích: HS từng bước hình thành bài nói gắn với quá trình thực hiện thiết
kế tấm thiệp giản dị dành tặng cô thầy; biết dùng ngôn ngữ nói kết hợp với ngôn ngữ
từ sản phẩm thiệp để chuyển tải thông điệp trọn vẹn về cô thầy.
Kết quả mong đợi: HS nói 2-4 câu hoàn chỉnh, bày tỏ lòng biết ơn với cô thầy,
chia sẻ về tấm thiệp xinh mà mình đã TN một cảm xúc tươi mới cùng bạn bè để hoàn thành.
+ Hoạt động 2.3. Tổng kết hoạt động TN
Yêu cầu HS chia sẻ về những thu hoạch (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm ...)
mà các em thu được sau khi tham gia hoạt động TN.
Câu hỏi chia sẻ: Nói 2 điều em cảm thấy ấn tượng, phấn khích và tâm đắc nhất
và 1 điều em chưa hài lòng khi tham gia hoạt động TN
Hình thức chia sẻ: HS di chuyển thành vòng tròn theo nhạc, khi nhạc dừng thì
bắt cặp ngẫu nhiên, cùng nhau chia sẻ để rút kinh nghiệm.
GV chốt lại các kiến thức, kĩ năng liên quan và nhắc một số kinh nghiệm để HS có thể nói tốt hơn
- Hoạt động 3. NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU BÊN EM
+ Hoạt động 3.1. Xác định mục tiêu
Nói 4-6 câu về sơ đồ tư duy đã hoàn thành để bày tỏ tình cảm với những người thân yêu trong gia đình.
Tương tác cá nhân, TN sáng tạo đầy cảm xúc khi cùng nhau tự hoàn thành một
sơ đồ tư duy nói về người thân yêu trong gia đình.
+ Hoạt động 3.2. Thể hiện nội dung (1)
GV hướng dẫn HS cách làm và trình bày sơ đồ tư duy. HS tiến hành vẽ sơ đồ tư duy
Mục đích: Định hướng cho HS cách vẽ sơ đồ tư duy để HS có thể tự thao tác và tự làm được.
Kết quả mong đợi: HS nắm được cách vẽ, trình bày sơ đồ tư duy mà GV hướng
dẫn. Từ đó, các em có thể vẽ và trình bày một cách sáng tạo, theo sở thích, suy nghĩ
của mình. Qua hoạt động này, giúp các em dần làm quen và học theo kiểu tư duy
logic, là bước đệm cho các hoạt động và bước tiến sau này. (2)
Trưng bày sản phẩm sơ đồ tư duy của HS lOMoAR cPSD| 40387276
Mục đích: Giới thiệu sản phẩm của các em để các em học hỏi, giao lưu với
nhau. Kết quả mong đợi: Trong hoạt động ngày HS sẽ được học hỏi, trau dồi
được những cách làm, các vẽ, cách trình bày đẹp và rút ra được các bài học kinh
nghiệm để những lần sau làm tốt hơn. (3)
HS chia sẻ, trình bày, tả, kể, nói chuyện đơn thuần… về những người thân yêu của em.
Mục đích: HS tự do lựa chọn hình thức để nói về những người thân yêu của
em với thái độ tự tin, tích cực, chia sẻ những gì bản thân muốn nói kết hợp với
sơ đồ tư duy giúp các em phát huy tính sáng tạo trong cách nói và kích thích hứng thú nói.
Kết quả mong đợi: HS nói 5 -7 câu hoàn chỉnh, HS mạnh dạn, tự tin hơn. Rèn
luyện NLGT đa phương thức, biết sử dụng kết hợp nhiều phương tiện giao tiếp để đạt
hiệu quả cao. HS có thể chuyển suy nghĩ, ý tưởng của bản thân thành các dạng thức nói và viết.
+ Hoạt động 3.3. Tổng kết hoạt động TN
Yêu cầu HS chia sẻ về những thu hoạch (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm ...)
mà các em thu được sau khi tham gia hoạt động TN.
Câu hỏi chia sẻ: Nói 2 điều em cảm thấy ấn tượng, phấn khích và tâm đắc nhất
và 1 điều em chưa hài lòng khi tham gia hoạt động TN
Hình thức chia sẻ: Đến số từ 1 đến 5 (cho đến khi hết vòng tròn) sau đó HS di
chuyển thành vòng tròn theo nhạc, khi nhạc dừng thì các tập hợp theo nhóm (số 1, số
2, số 3, số 4, số 5) mỗi số sẽ là một nhóm, cùng nhau chia sẻ để rút kinh nghiệm.
GV chốt lại các kiến thức, kĩ năng liên quan và nhắc một số kinh nghiệm để HS có thể nói tốt hơn
- Hoạt động 4. HỌC CÁCH AN ỦI, CHIA SẺ, ĐỒNG CẢM
+ Hoạt động 4.1. Xác định mục tiêu
Từ viết lời đối thoại chuyển thành 3-5 câu nói hoàn chỉnh để bày tỏ tình cảm,
sự quan tâm, an ủi, chia sẻ đồng cảm theo từng tình huống đã cho.
Tương tác cá nhân, TN sáng tạo đầy cảm xúc khi gắn với các tình huống giúp
các em thể hiện cách quan tâm, an ủi, chia sẻ, đồng cảm.
+ Hoạt động 4.2. Thể hiện nội dung
(1) Chơi trò chơi: “Đóng vai - Chọn lời nói đúng” lOMoAR cPSD| 40387276
Mục đích: Thông qua trò chơi rèn luyện thói quen lịch sự trong giao tiếp và
sinh hoạt hàng ngày; tập nói lời an ủi, chia sẻ, đồng cảm bằng nhiều cách khác nhau.
Chuẩn bị: 4 hình ảnh minh họa cho 4 tình huống khác nhau có xuất hiện lời an
ủi và đáp lại lời an ủi.
Tình huống 1: Bạn gái mặc bộ váy đẹp và bị giây mực ra váy. Một bạn khác
an ủi bạn có váy đẹp bị bẩn.
Tình huống 2: Một bạn trong lớp lỡ tay đánh rơi làm vỡ con gà trống bằng
thủy tinh là quà sinh nhật của mẹ rồi ngồi khóc. Một số bạn bên cạnh nói lời an ủi, chia sẻ nỗi buồn.
Tình huống 3: Một bạn rất buồn bị bài kiểm tra bị điểm kém. Các bạn trong lớp tới an ủi bạn.
Tình huống 4: Có một bạn khuyết tật đang khóc vì không thể đi được như bao
bạn nhỏ khác. Một số bạn nhỏ đi qua thấy vậy liền lại an ủi.
+ Cách chơi: GV chia lớp thành 4 nhóm, các nhóm lên bốc thăm tình huống.
Sau khi bốc thăm xong, các nhóm sẽ viết lời đối thoại (lời an ủi và đáp lại lời an ủi).
Sau đó sẽ phân vai và đóng lại tình huống đó sử dụng các lời thoại đã viết.
Kết quả mong đợi: HS viết được 3 – 5 câu đối thoại, phân vai và đóng lại được
nội dung tình huống đã bốc thăm.
(2) Hoạt động tình nguyện đến trại dưỡng lão để học cách quan tâm, an ủi, chia sẻ với ông bà.
Mục đích: Các em biết cách hòa đồng và chơi được với các em khuyết tật, biết
an ủi, động viên giúp bạn khuyết tập có nghị lực sống hơn. Thực hành cách bày tỏ sự
đồng cảm, quan tâm, an ủi, chia sẻ với những người xung quanh mà các em đã được học.
Cách tiến hành: HS sẽ quên góp tiền, quà, sách vở và GV kêu gọi các nhà tài
trợ để chuẩn bị các phần quà cho trẻ em khuyết tật. Sau đó, sẽ mang những món quà
đó đến trung tâm trẻ khuyết tật để tặng cho các bạn, chơi trò chơi, nói chuyện cùng
nhau, chia sẻ với nhau những tâm sự, suy nghĩ….
Kết quả mong đợi: HS phát huy năng lực nói, trình bày, diễn đạt, biết thể hiện
sự cảm thông chia sẻ, an ủi của các em với bạn khuyết tật.
+ Hoạt động 4.3. Tổng kết hoạt động TN lOMoAR cPSD| 40387276
Yêu cầu HS chia sẻ về những thu hoạch (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm ...)
mà các em thu được sau khi tham gia hoạt động TN.
Câu hỏi chia sẻ: Nói 2 điều em cảm thấy ấn tượng, phấn khích và tâm đắc nhất
và 1 điều em chưa hài lòng khi tham gia hoạt động TN
Hình thức chia sẻ: HS di chuyển thành vòng tròn theo nhạc, khi nhạc dừng thì
bắt cặp ngẫu nhiên, cùng nhau chia sẻ để rút kinh nghiệm.
GV chốt lại các kiến thức, kĩ năng liên quan và nhắc một số kinh nghiệm để HS có thể nói tốt hơn
- Hoạt động 5. ƠN NGHĨA MẸ CHA
+ Hoạt động 5.1. Xác định mục tiêu
HS nói 6-10 câu về câu chuyện của mình (đã giúp đỡ cha mẹ ra sao, hay những
kỉ niệm không bao giờ quên về những lỗi lầm của mình… và bài học em rút ra được).
Tương tác cá nhân, TN sáng tạo tượng tưởng ra cái kết cho câu chuyện, đặt
câu với mỗi bức tranh đã vẽ sau đó nhập vai nhân vật để kể về câu chuyện “Sự tích cây vú sữa”.
+ Hoạt động 5.2. Thể hiện nội dung (1)
HS tưởng tượng và chọn cái kết cho câu chuyện “Sự tích cây vú sữa”
sau đó vẽ tranh theo mỗi giai đoạn trong truyện.
Mục đích: HS được thể hiện sự sáng tạo khả năng thao tác với các đồ vật, vật
liệu… thông qua việc chọn cái kết cho câu chuyện “Sự tích cây vú sữa” sau đó vẽ
tranh theo mỗi giai đoạn trong truyện. Tạo không khí sôi nổi kích thích trạng thái
tâm lý của HS qua các ý tưởng khác nhau với các cái kết khác nhau, đầy sinh động, hấp dẫn.
Kết quả mong đợi: HS phát huy được sự sáng tạo qua phương pháp làm việc
với các vật liệu. HS tự mình sáng tạo, tưởng tượng ra được cái kết yêu thích. HS được
làm việc với nhiều màu sắc tạo nên sự thích thú, say mê hoạt động sáng tạo. (2)
HS đặt câu với mỗi tranh đã vẽ gắn với nội dung của câu chuyện, đúng ngữ pháp…
Mục đích: HS đặt 3 -4 câu gắn với các bức tranh theo tiến trình câu chuyện.
Rèn luyện khả năng đặt câu, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. lOMoAR cPSD| 40387276
Kết quả mong đợi: HS thể hiện được tinh thần làm việc của cá nhân để vận
dụng các kiến thức và kĩ năng tiếng Việt đặt được các câu gắn với nội dung của câu chuyện, đúng ngữ pháp (3)
Từ các bức tranh HS nhập vai một nhân vật trong truyện kể lại câu
chuyện đó. HS chia sẻ cảm xúc của mình đối với hành động của bạn nhỏ và cái kết của câu chuyện.
Mục đích: Mỗi em tự kể được một câu chuyện của riêng mình. HS còn được
đưa ra ý kiến của bản thân mình, chia sẻ cảm xúc của mình đối với hành động của
bạn nhỏ và cái kết của câu chuyện.
Kết quả mong đợi: HS tích cực, mạnh dạn kể chuyện với cái kết mà HS chọn
và việc chia sẻ cảm xúc của mình. HS biết cách bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình
sau các câu chuyện về các hành động của các nhân vật. (4)
Tiếp đến, các em sẽ kể cho các bạn nghe về câu chuyện của mình (đã
giúp đỡ cha mẹ ra sao, hay những kỉ niệm không bao giờ quên về những lỗi lầm của
mình… và bài học em rút ra được).
Mục đích: Nói 6-8 câu để kể về câu chuyện và bài học em rút ra được. Được
trải nghiệm với cảm xúc chân thực của bản thân về những việc làm giúp đã giúp đỡ
cha mẹ, hay những kỉ niệm không bao giờ quên về những lỗi lầm của mình…
Kết quả mong đợi: Qua câu chuyện “Sự tích cây vú sữa” HS tự liên hệ thực tế
đến bản thân và em kể được cho các bạn nghe về câu chuyện của mình với cảm xúc
chân thực. HS tự tin, đứng trước đám đông để kể chuyện, trình bày, nói lưu loát và trôi chảy hơn.
+ Hoạt động 5.3. Tổng kết hoạt động TN
Yêu cầu HS chia sẻ về những thu hoạch (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm ...)
mà các em thu được sau khi tham gia hoạt động TN.
Câu hỏi chia sẻ: Nói 2 điều em cảm thấy ấn tượng, phấn khích và tâm đắc nhất
và 1 điều em chưa hài lòng khi tham gia hoạt động TN.
Hình thức chia sẻ: Đến số từ 1 đến 5 (cho đến khi hết vòng tròn) sau đó HS di
chuyển thành vòng tròn theo nhạc, khi nhạc dừng thì các tập hợp theo nhóm (số 1, số
2, số 3, số 4, số 5) mỗi số sẽ là một nhóm, cùng nhau chia sẻ để rút kinh nghiệm.
GV chốt lại các kiến thức, kĩ năng liên quan và nhắc một số kinh nghiệm để HS có thể nói tốt hơn lOMoAR cPSD| 40387276
- Hoạt động 6. BẠN TRONG NHÀ CỦA EM
+ Hoạt động 6.1. Xác định mục tiêu
HS nói 3-5 câu hoàn chỉnh về các con vật nuôi trong nhà của các em bằng tình
cảm thương mến đối với chúng.
Tương tác cá nhân, TN cảm xúc khi cùng nhau chia sẻ về con vật yêu quý trong nhà của các em HS.
Hoạt động 6.2. Thể hiện nội dung (1)
HS nói về các con vật nuôi ở trong nhà (kể tên, lợi ích của vật nuôi,
điểmđáng yêu, điểm đặc biệt của các vật nuôi, em đã chăm sóc nó như thế nào…)
Mục đích: HS biết chia sẻ với nhau về các con vật nuôi ở trong nhà. Từ đây,
tăng thêm sự hiểu biết và sự yêu thương đối với các con vật nuôi ở trong nhà
Kết quả mong đợi: HS phát huy được năng lực nói, trình bày, diễn đạt để nói
về các con vật nuôi ở trong nhà một cách trôi chảy, rõ ràng gây hứng thú cho các bạn nghe. (2)
HS diễn tả lại các hành động đáng yêu của các con vật nuôi trong nhà.
Mục đích: HS biết chia sẻ với nhau về các con vật nuôi ở trong nhà. Từ đây,
tăng thêm sự hiểu biết và sự yêu thương đối với các con vật nuôi ở trong nhà
Kết quả mong đợi: HS phát huy được tính tích cực, mạnh dạn thể hiện ngôn
ngữ của cơ thể. Tạo nên sự dí dỏm, vui tươi, thích thú tham gia của các em. (3)
Nặm các con vật nuôi và trang trí thành một mô hình (vườn nhà,
trangtrại,…) rồi thuyết trình về ý tưởng của các em.
Mục đích: Qua hiểu biết về hình dáng và đặc điểm của vật nuôi HS nặn được
các con vật nuôi sau đó cả nhóm cùng cộng tác để làm nên được một mô hình và có
thể nói lên ý tưởng đó.
Kết quả mong đợi: Qua hoạt động này HS rèn được khả năng tự tin, đứng trước
đám đông để thuyết trình, trình bày và khả năng nói được rèn luyện lưu loát và trôi
chảy hơn. Rèn luyện sự khéo léo trong qua trình nặn các con vật nuôi. HS trình bày
cho các bạn hiểu được ý tưởng của nhóm mình.
- Hoạt động 7. DU NGOẠN BỐN MÙA
+ Hoạt động 7.1. Xác định mục tiêu
Kết hợp tương tác cá nhân với nhóm 6, TN tham quan tìm hiểu đặc điểm, dấu hiệu của mùa. lOMoAR cPSD| 40387276
HS nói/ báo cáo 6-10 câu kết quả mà mình quan sát được, viết được 1 bài thơ,
đoạn thơ, bài văn, đoạn văn về các mùa xuân, hạ, thu, đông.
+ Hoạt động 7.2. Thể hiện nội dung (1)
Chuẩn bị: Xác định tên chủ đề, xác định nội dung, phương pháp
tiếnhành, thời gian, không gian, địa điểm, khó khăn, thuận lợi, đề xuất hỗ trợ.
Từ 7h – 7h20 ổn định, kiểm tra số lượng HS
Từ 7h30 – 8h30 xuất phát đi
Từ 9h – 11h bắt đầu tham quan
Từ 11h – 13h00 ăn trưa, nghỉ ngơi
Từ 13h00 – 14h00 báo cáo kết quả quan sát, tìm hiểu được.
Từ 14h00 – 15h00 Chia sẻ với các bạn về mùa mà em thích.
Từ 15h00 - 16h00 HS làm thơ, văn… về mùa mà em thích.
Từ 16h00 – 17h00 xuất phát ra về. (2) Tham quan, dã ngoại
Mục đích: HS được trải nghiệm quan sát thiên nhiên để tìm ra được các dấu
hiệu báo mùa với sự hứng thú, tươi vui… HS có hiểu biết về các mùa trong năm.
Kết quả mong đợi: HS thích thú và tự mình khám phá thiên nhiên, phát hiện
ra những điều kì diệu, thấy được dấu hiệu nhận biết mùa. (3)
Các em nói về thời tiết, đặc điểm của mùa mà các em đang đi dã ngoại quan sát được.
Mục đích: HS được trải nghiệm luyện nói một cách thực tế, tự nhiên dựa vào
quan sát và những kiến thức mà các em biết. Từ đây, tăng thêm sự hiểu biết và ham
thích khám phá thế thiên nhiên với nhiều điều bí ẩn.
Kết quả mong đợi: HS rèn luyện được cách nói năng, trình bày trước đám động
một cách tự tin. Mạnh dạn, giám đặt câu hỏi, rèn luyện tác phong của những HS hiện đại, hội nhập. (4)
Chia sẻ với các bạn về mùa mà em thích, và lý do em thích mùa đó, cảm nhận của em ra sao.
Mục đích: HS trải nghiệm được đưa ra ý kiến của bản thân mình và dùng các
khả năng mình có và hiểu biết để chia sẻ và nói cho các bạn nghe về mùa mà mình yêu thích. lOMoAR cPSD| 40387276
Kết quả mong đợi: HS phát huy được tính tích cực, mạnh dạn đưa ra ý kiến,
chia sẻ cảm nghĩ của các em qua hình thức làm việc nhóm, làm việc với tập thể. HS
rèn được khả năng tự tin, đứng trước đám đông để trình bày và khả năng nói được
rèn luyện lưu loát và trôi chảy hơn. (5)
HS làm thơ, viết văn, bút kí,… về các mùa mà các em thích
Mục đích: HS được trải nghiệm hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận các mùa
từ đó kích thích sự sáng tạo sáng tác, viết thơ văn.
Kết quả mong đợi: HS phát huy được sự sáng tạo qua việc cảm nhận thiên
nhiên và tập làm thơ, viết văn. Rèn luyện khả năng sử dụng tiếng Việt.
+ Hoạt động 7.3. Tổng kết hoạt động TN
Yêu cầu HS chia sẻ về những thu hoạch (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm...)
mà các em thu được sau khi tham gia hoạt động TN nhỏ.
Câu hỏi chia sẻ: Nói 2 điều em cảm thấy ấn tượng, phấn khích và tâm đắc nhất
và 1 điều em chưa hài lòng khi tham gia hoạt động TN
Hình thức chia sẻ: HS di chuyển thành vòng tròn theo nhạc, khi nhạc dừng thì
bắt cặp ngẫu nhiên, cùng nhau chia sẻ để rút kinh nghiệm.
GV chốt lại các kiến thức, kĩ năng liên quan và nhắc một số kinh nghiệm để HS có thể nói tốt hơn.
- Hoạt động 8. BÍ MẬT VỀ CÁC LOÀI CÁ
+ Hoạt động 8.1. Xác định mục tiêu
Tương tác nhóm, TN thông qua trò chơi tìm hiểu được đặc điểm và những điều
thú vị của các loài cá gần gũi trong cuộc sống xung quanh của các em.
HS nói 4-7 câu về các loài cá gần gũi trong cuộc sống xung quanh của các em
với sự thích thú khám phá thế giới loài cá. + Hoạt động 8.2. Thể hiện nội dung (1)
Chơi trò chơi: “Câu cá”.
Mục đích: Thông qua trò chơi rèn luyện được sự nhanh nhẹn, tinh thần đồng
đội, đoàn kết và kích thích sự hứng thú của các em.
Chuẩn bị: 4 cần câu cá, bể cá mô hình, 4 cái rổ, các con cá có gắn nam châm,
các chướng ngại vật để HS vượt qua.
Cách chơi: GV chia lớp thành 4 nhóm, các nhóm xếp thành hàng dọc lần lượt
cỏng nhau theo cặp di chuyển đến bể có chứa các loài cá mà Gv đã chuẩn bị dùng cần
câu để câu cá, sau khi câu được thì về bến để cá và cặp tiếp theo tiếp tục ra khơi, sau lOMoAR cPSD| 40387276
thời gian quy định các đội tập hợp và phân loại cá (nước ngọt, lợ, nặm). Kết quả mong
đợi: HS tham gia chơi một cách thích thú. (2)
HS nói về loài cá mà các em biết (tên, nơi sống, đặc điểm bên
ngoài, sựkhác biệt với các loài cá khác).
Mục đích: HS được trải nghiệm luyện nói và chia sẻ với nhau về các loài cá
mà các em biết. Từ đây, tăng thêm sự hiểu biết và ham thích khám phá thế giới loài
cá với nhiều điều bí ẩn.
Kết quả mong đợi: HS nói, trình bày, diễn đạt được về các loài cá mà các em
biết một cách trôi chảy, rõ ràng gây hứng thú cho các bạn nghe. (3)
GV giới thiệu cho HS về các loài cá và sự đặc biệt của các loài cá đó.
Mục đích: HS mở mang thêm sự hiểu biết về các loài cá và hứng thú khám phá
thế giới xung quanh nói chung, thế giới loài cá nói riêng.
Kết quả mong đợi: HS tính tích cực, mạnh dạn giám đặt câu hỏi khi có thắc
mắc và tự tin giải đáp thắc mắc của bạn nếu mình biết. Rèn luyện khả năng nói, đặt vấn đề.
+ Hoạt động 8.3. Tổng kết hoạt động TN
Yêu cầu HS chia sẻ về những thu hoạch (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm...)
mà các em thu được sau khi tham gia hoạt động TN nhỏ.
Câu hỏi chia sẻ: Nói 2 điều em cảm thấy ấn tượng, phấn khích và tâm đắc nhất
và 1 điều em chưa hài lòng khi tham gia hoạt động TN
Hình thức chia sẻ: HS di chuyển thành vòng tròn theo nhạc, khi nhạc dừng thì
bắt cặp ngẫu nhiên, cùng nhau chia sẻ để rút kinh nghiệm.
GV chốt lại các kiến thức, kĩ năng liên quan và nhắc một số kinh nghiệm để HS có thể nói tốt hơn.
- Hoạt động 9. THỬ TÀI SIÊU NHÍ
+ Hoạt động 9.1. Xác định mục tiêu
HS nói 6-10 câu về câu chuyện của mình (đã giúp đỡ cha mẹ ra sao, hay những
kỉ niệm không bao giờ quên về những lỗi lầm của mình… và bài học em rút ra được).
Tương tác cá nhân và nhóm, TN vừa chơi vừa học
+ Hoạt động 5.2. Thể hiện nội dung
(1) Chơi trò chơi: “Ai nhanh hơn” lOMoAR cPSD| 40387276
Mục đích: Thông qua trò chơi rèn luyện cho HS sự nhanh nhẹn và kích thích
hứng thú của các em giúp các em nhận diện được từ đồng nghĩa, trái nghĩa.
Chuẩn bị: 4 bộ thẻ bài, mỗi bộ 52 cây ghi các từ đồng nghĩa và trái nghĩa. Từ
đồng nghĩa thẻ đỏ, từ trái nghĩa thẻ xanh những từ đó gắn liền, xoay quanh cuộc sống gần gũi của các em.
Cách chơi: GV chia lớp thành 8 nhóm, chia thành 2 lượt chơi, mỗi lượt 4 đội,
một đội từ 4 – 6 HS. Mỗi đội chơi riêng một bộ thẻ bài. Các bạn trong một đội lần
lượt cầm quyền phát bài (được chọn đánh thẻ bài đồng nghĩa hay trái nghĩa) các bạn
còn lại phải đánh theo ai nhanh và đúng nhất sẽ được ăn cái thẻ còn lại của các bạn.
Nếu bạn nào cũng sai thì coi như hòa được quyền rút thẻ bài về. Đánh đến khi hết bài.
Ai được nhiều thẻ bài nhất thì bạn đó là người chiến thắng.
Kết quả mong đợi: HS cũng cố và nắm được các từ đồng nghĩa và trái nghĩa.
(2) Chơi trò chơi: “Thử tài đối đáp”
Mục đích: Thông qua trò chơi rèn luyện cho HS sự nhanh nhẹn và kích thích
hứng thú của các em giúp các em biết cách sử dụng đặt câu với các từ đồng nghĩa, trái nghĩa.
Cách chơi: Chia lớp thành 8 đội như ban đầu. Các đội sẽ thi với nhau xem
đội nào đặt được nhiều câu có chứa từ đồng nghĩa hay trái nghĩa do GV đưa ra, đội
nào đặt được nhiều câu có chứa từ đồng nghĩa, trái nghĩa, câu đó có ý nghĩa sẽ chiến thắng.
Kết quả mong đợi: HS chơi một cách tích cực, đặt được 3-5 câu có chứa từ đồng nghĩa, trái nghĩa.
+ Hoạt động 1.3. Tổng kết hoạt động TN
Yêu cầu HS chia sẻ về những thu hoạch (kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm...)
mà các em thu được sau khi tham gia hoạt động TN nhỏ.
Câu hỏi chia sẻ: Nói 2 điều em cảm thấy ấn tượng, phấn khích và tâm đắc nhất
và 1 điều em chưa hài lòng khi tham gia hoạt động TN
Hình thức chia sẻ: HS di chuyển thành vòng tròn theo nhạc, khi nhạc dừng thì
bắt cặp ngẫu nhiên, cùng nhau chia sẻ để rút kinh nghiệm.
GV chốt lại các kiến thức, kĩ năng liên quan và nhắc một số kinh nghiệm để HS có thể nói tốt hơn.
b) Hướng dẫn tổ chức hoạt động trải nghiệm lOMoAR cPSD| 40387276 -
Các hoạt động đã được thiết kế khá chi tiết. Nhưng tùy vào từng đối và
môitrường để tổ chức sao cho mang lại hiệu quả cao nhất. -
Tổ chức các hoạt động sau tuần học chính khóa với các chủ điểm của
mônTV, có gắn với các hoạt động TN để làm nền móng cho các em. -
Để tổ chức tốt các hoạt động TN thì tùy vào tình hình của từng trường,
lớp,cơ sở vật chất hạ tầng để điều chỉnh, chọn những hoạt động TN phù hợp có thể
sáng tạo ra nhiều hoạt động hơn, hay giảm bớt cho phù hợp. -
Tùy vào đặc điểm HS của từng vùng, từng lớp có thể điều chỉnh mục
tiêu cần đạt, độ khó và tần suất của các hoạt động sao cho phù hợp. -
Hoạt động TN phải được lên kế hoạch chi tiết và đặc biệt chú ý khâu
chuẩn bị vì nó đóng vai trò quyết định thành bại của hoạt động.
4. Kết quả thực hiện
a) Kết quả thu nhận được từ HS
Để có cơ sở đánh giá xác đáng kết quả của quá trình thực nghiệm, tôi tiến hành thu
nhận những thông tin từ HS thông qua các phiếu khảo sát sau mỗi hoạt động và phiếu
điều tra khi kết thúc đợt thực nghiệm.
Quá trình xử lí, thống kê đã cho ra kết quả cụ thể như sau:
- Kết quả của hoạt động trải nghiệm với các chủ đề “Nhớ ơn Thầy Cô”, “Những
người thân yêu bên em”, “Bạn trong nhà của em”, “Bí mật về các loài cá” tôi dành
10 phút để HS làm phiếu khảo sát hứng thú của HS sau mỗi hoạt động, kết quả được thống kê như sau:
Bảng 1.1. Bảng thống kê kết quả hứng thú của HS khi tham gia hoạt động trải
nghiệm “Nói về cuộc sống quanh em” với các chủ đề.
Lớ Chủ đề hoạt động Hứng thú Không hứng thú p 2/1 “Nhớ ơn Thầy Cô” 28 HS 92,9% 2 HS 7,1% 2/1
“Bạn trong nhà của em” 28 HS 100% 0 HS 0% 2/2
“Bí mật về các loài cá” 29 HS 96,6% 1 HS 3,4% 2/4
“Những người thân yêu bên em” 30 HS 96,7% 1 HS 3,3%
Hầu hết các em đều tỏ thái độ thích thú khi trải qua những hoạt động vui vẻ,
sôi nổi, không gây buồn ngủ hay chán nản. Em Nguyễn Minh Trí lớp 2/4 còn chia sẻ
thêm: “Hoạt động giúp em gần gũi với bạn bè hơn, em cảm thấy vui lắm khi mỗi hoạt
động đều được cô động viên và khen ngợi. Khi tham gia hoạt động giúp em mạnh dạn, tự tin hơn.” lOMoAR cPSD| 40387276
b) Kết quả thu được từ khảo sát ý kiến GV
Ngay sau mỗi hoạt động thực nghiệm ở lớp 2/1, 2/2, 2/4 tôi cũng gặp GV bộ
môn, GV chủ nhiệm, GV dự giờ để trao đổi, lấy ý kiến về việc tổ chức hoạt động trải
nghiệm, GV dự giờ đã đánh giá hoạt động trải nghiệm như sau: -
Hoạt động trải nghiệm có tính sáng tạo cao, hấp dẫn tạo được hứng thú choHS khi tham gia. -
Các tình huống giao tiếp được lồng ghép khéo léo vào tổ chức hoạt
độngtrải nghiệm, kích thích HS tham gia sôi nổi. -
Hoạt động trải nghiệm đã chú trọng rèn luyện kỹ năng giao tiếp và
pháttriển năng lực giao tiếp đa phương thức cho HS. Các em HS ngày càng tự tin
mạnh dạn đưa ra ý kiến, nhận xét, nói lên cảm nghĩ của bản thân và giám thể hiện mình. -
HS hứng thú, tích cực tham gia trải nghiệm “Nói về cuộc sống quanh
em”,hợp tác tốt với GV và các bạn trong các hoạt động, đặc biệt là hoạt động thảo luận nhóm. -
Các PP, hình thức tổ chức hoạt động được vận dụng linh hoạt làm
hoạtđộng trải nghiệm trở nên sinh động, cuốn hút được HS vào quá trình khám phá
tri thức và rèn luyện kĩ năng. -
Cách tổ chức làm HS không còn thụ động mà trở nên năng động, tích
cựchơn. HS được nói nhiều khi thảo luận với bạn trong nhóm, khi trình bày, bảo vệ
ý kiến của chính bản thân các em trước tập thể. -
Cách để HS nhận xét, đánh giá bài của nhau theo những tiêu chí đã
địnhsẵn là cách làm hay, giúp HS rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá một tác phẩm
đồng thời thông qua việc nhận xét bài làm của bạn, HS cũng thấy được những ý hay
để học hỏi và nhận ra những lỗi sai để tránh. -
HS hứng thú và chăm chú làm các sản phẩm và hoàn thành nhiệm vụ
hoạtđộng vì theo Tôi (cô Lê Thị Cúc - GV chủ nhiệm lớp 2/1) các hoạt động trải
nghiệm đó gần gũi và gắn với cuộc sống xung quanh của các em. -
Không khí của các hoạt động thoải mái, nhẹ nhàng, thân thiện. HS
hănghái, chủ động phát biểu ý kiến, tích cực thảo luận đồng thời cũng biết lắng nghe
ý kiến của bạn và có những nhận xét đúng, thẳng thắn. lOMoAR cPSD| 40387276
Từ những kết quả đã thu nhận được, tôi thấy rằng tổ chức hoạt động trải
nghiệm “Nói về cuộc sống quanh em” nhằm phát triển năng lực giao tiếp đa phương thức, đã tạo nên:
Không khí hoạt động vui vẻ, sinh động, cởi mở, nhẹ nhàng. Ở lớp thực nghiệm,
với những chuẩn bị chu đáo, kĩ càng về PP, hình thức tổ chức, tôi đầy đủ tự tin để
hướng dẫn HS khám phá tri thức về thới giới xung quanh và rèn luyện các kĩ năng,
năng lực cần thiết để làm nên các hoạt động trải nghiệm diễn ra nhịp nhàng, cuốn hút, thu hút các em tham gia.
Cách tôi bước vào hoạt động bằng một tình huống có vấn đề hay cách tổ chức
trò chơi (chơi để học) hay cho các em thao tác với các phương tiện, tín hiệu vật chất
thật sự tạo không khí thoải mái làm nền cho những khám phá, lĩnh hội, vận dụng tri
thức ở người học. Chính bầu không khí tâm lí trên đã kích thích hứng thú tinh thần
tham gia hoạt động của HS. Hoạt động diễn ra không chỉ có lời của GV mà còn là ý
kiến phát biểu chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc, tranh luận sôi nổi của HS.
Khi tổ chức hoạt động “Nói về cuộc sống quanh em” tôi luôn cố gắng tạo ra
những tình huống, hoạt động giao tiếp cụ thể, trên cơ sở đó mà hướng dẫn người học
khám phá, hình thành tri thức mới. Người học từ hiện thực sinh động mà nắm bắt
được tri thức và rèn luyện kĩ năng, năng lực cần thiết. Bên cạnh đó, để có được hiệu
quả cao như trên tôi luôn lưu ý đặt phương tiện ngôn ngữ, phi ngôn ngữ và vật chất
cần tìm hiểu vào từng hoạt động cụ thể.
Khi thực hành giao tiếp HS rèn luyện được kĩ năng sử dụng phương tiện ngôn
ngữ, phi ngôn ngữ và vật chất khi cần thiết một cách phù hợp, hiệu quả. Trong mỗi
hoạt động thực nghiệm, HS được sử dụng TV để thực hành nhiều hơn dưới cả hình
thức nói và viết. PP thảo luận nhóm, hình thức thuyết trình mở ra cơ hội cho các em
được tranh luận với các bạn trong nhóm, trình bày bảo vệ ý kiến trước tập thể. Các
bài tập nói theo tình huống giả định gắn với thực tế cuộc sống xung quanh các em
dần dần tập cho các em ý thức nói đúng TV, kĩ năng sử dụng TV vào các tình huống
nói năng cụ thể. Các hoạt động được đưa ra nhiệm vụ cụ thể cho HS dưới dạng phiếu
hoạt động cho nhóm, cá nhân giúp các em diễn đạt, trình bày ý dưới dạng viết. Sau
đó, sẽ chuyển hóa sang dạng nói. Ngoài các hoạt động làm theo nhóm, mỗi HS còn
được làm việc cá nhân để rèn luyện kĩ năng sáng tạo, tự lập, giao tiếp... lOMoAR cPSD| 40387276
Khi tham gia hoạt động trải nghiệm “Nói về cuộc sống quanh em” giúp các
em HS học được nhiều điều gần gũi với thực tế cuộc sống, được khám phá những tri
thức mới, khám phá thiên nhiên, khám phá khoa học... Trả lời phiếu điều tra HS Đinh
Thị Kim Chi lớp TN 2/1 cho rằng: em học hỏi được cách diễn đạt dễ hiểu của bạn khi
bạn nói trước nhóm, biết cách nhận xét, đóng góp ý kiến bổ sung. Đồng thời, làm việc
nhóm với nhau cũng giúp các em hiểu, quan tâm, gắn bó với nhau hơn. Từ đó, hình
thành trong mỗi học sinh thói quen biết lắng nghe và tôn trọng người khác. Về cơ
bản, các hoạt động trải nghiệm thực nghiệm đã đáp ứng được những mục tiêu đề ra
trong phần thiết kế. Song tôi cũng nhận ra một vài điều hạn chế cần được rút kinh
nghiệm để nâng cao hiệu quả của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm “Nói về cuộc
sống quanh em” nhằm phát triển năng lực giao tiếp đa phương thức cho HS.
5. Bài học kinh nghiệm -
Để tổ chức hoạt động trải nghiệm “Nói về cuộc sống quanh em” từ đó
pháttriển năng lực giao tiếp đa phương thức cho HS thành công GV cần có sự chuẩn
bị chu đáo. GV cần chuẩn bị thiết kế, kế hoạch hoạt động với những PP, hình thức tổ
chức phù hợp với cả nội dung hoạt động trải nghiệm và đặc điểm đối tượng HS. Trong
sự chuẩn bị tổ chức hoạt động trải nghiệm “Nói về cuộc sống quanh em”, theo tôi,
quan trọng hơn hết là GV phải xây dựng được các hoạt động chứa tình huống giao
tiếp gắn với hoạt động thường ngày để học sinh thực hành giao tiếp thông qua nhiều
phương tiện giao tiếp khác nhau như phương tiện ngôn ngữ, phương tiện phi ngôn
ngữ: cử chỉ, hành động, ánh mắt, cụ cười, nét mặt…. và những phương tiện vật chất
mang tín hiệu giao tiếp: đèn giao thông, biển báo, màu sắc, cờ, còi, khói, ánh sáng….
Tình huống này cần cân nhắc đến sự phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nơi sống, mối
quan tâm của người học. Các PP, hình thức tổ chức hoạt động được lựa chọn phải đáp
ứng tiêu chí rèn luyện và phát triển năng lực giao tiếp đa phương thức cho HS và đặc
biệt chú trọng các kĩ năng nghe nói sau đó là đọc viết cho HS, cần được ưu tiên là:
PP giao tiếp, PP giải quyết vấn đề, PP làm việc nhóm, thuyết trình, PP tổ chức trò
chơi để học, PP sắm vai, PP dạy học dự án… Ngoài ra, GV phải thiết kế một số yêu
cầu cần thiết cho HS chuẩn bị trước ở nhà. Cần lưu ý rằng những yêu cầu về nhà này
không được là nội dung trong hoạt động trải nghiệm mà chỉ là sự chuẩn bị về phương
tiện, đồ dùng cần thiết… Yêu cầu về nhà có thể chỉ là tìm hiểu một vấn đề nhỏ của lOMoAR cPSD| 40387276
hoạt động nhưng phải có tác dụng khơi gợi ở HS khả năng tìm tòi, tự nghiên cứu, sưu
tầm hoặc đòi hỏi ở HS tinh thần làm việc tập thể. -
Yếu tố rất quan trọng trong tổ chức hoạt động trải nghiệm “Nói về
cuộcsống quanh em” là sự hợp tác tích cực của HS. Trong cách tổ chức hoạt động
truyền thống, HS không thực sự tích cực, không có sự tìm tòi, học hỏi, GV vẫn hoàn
thành được kế hoạch hoạt động. Nhưng khi tổ chức hoạt động trải nghiệm “Nói về
cuộc sống quanh em” nếu HS không nói, không viết, không tham gia hoạt động,
không chịu cộng tác thì những kế hoạch đã thiết kế của GV sẽ sớm thất bại. Thế nên,
người GV cần có những biện pháp tác động để HS tích cực, siêng năng, tự tin, năng
động trong suốt quá trình hoạt động. Trước trở ngại này, GV cần mềm dẻo sử dụng
nghiệp vụ sư phạm để tác động đến HS, linh hoạt sử dụng các biện pháp như: nhắc
nhở, kiểm tra, nhận xét, đánh giá, khen ngợi, ghi nhận sự cố gắng, nổ lực…
Trong tất cả các biện pháp sư phạm để HS chịu hợp tác thì biện pháp tâm lí là
quan trọng, cần được GV thực hiện trước nhất. Trong dạy học hay trong tổ chức hoạt
động trải nghiệm nên đi từ trái tim đến khối óc. Hãy khơi gợi và tạo cho các em HS
những tình cảm, cảm xúc, sự hứng thú, quan tâm đến hoạt động trải nghiệm trước khi
tổ chức hoạt động để các em bỏ công sức ra để khám phá tri thức Tiếng Việt, tri thức
bộ môn. Ngay trước khi tổ chức các hoạt động trải nghiệm trước, GV cần làm cho HS
thích thú với hoạt động, muốn tìm hiểu những vấn đền xung quanh em và yêu quý
TV, thấy được sự cần thiết phải nâng cao và phát triển năng lực giao tiếp đa phương
thức, đồng thời tạo mối quan hệ thân thiện với HS để theo dõi quá trình hoạt động
trải nghiệm và phát triển của học sinh để có những điều chỉnh phù hợp. GV có thể
dành thời gian nhất định cùng HS chia sẻ về hoạt động trải nghiêm, để lắng nghe
những suy nghĩ, khó khăn của HS… Khi những vướng mắc ban đầu đã được tháo gỡ,
khi mối quan tâm, tình cảm của HS dành cho hoạt động trải nghiệm đủ lớn, đã có mối
quan hệ thầy trò thân thiện được thiết lập thì HS rất thích thú, muốn học hỏi, trải
nghiệm, vui chơi sẽ sẵn sàng hợp tác với GV, tích cực tham gia hoạt động trải nghiệm đã đề ra.
Khi tổ chức hoạt động trải nghiệm “Nói về cuộc sống quanh em” rất cần ở GV
lòng tâm huyết với nghề dạy học. Vì để tổ chứ hoạt động trải nghiệm thành công GV
phải bỏ ra rất nhiều thời gian, công sức để chuẩn bị từ việc thiết kế, lên kế hoạch, cân
nhắc, lựa chọn PP, hình thức tổ chức phù hợp tới việc sưu tầm, chọn lọc ngữ liệu, lựa lOMoAR cPSD| 40387276
chọn tình huốnh và suy nghĩ tìm tòi các hoạt động sáng tạo, mới mẻ mang tình huống
phù hợp với đối tượng học. Nếu thiếu tâm huyết với nghề, GV dễ nản lòng và quay
về với cách tổ chức truyền thống.
Cơ sở vật chất đầy đủ, sân chơi thoáng đãng, có kinh phí tổ chức sẽ tạo điều
kiện thuận lợi ban đầu cho GV thực hiện các thiết kế, kế hoạch hoạt động, HS có môi
trường luyện tập thực hành tốt.
Tóm lại từ những ưu điểm của các hoạt động thực nghiệm, tôi thấy rằng việc
tổ chức hoạt động trải nghiệm “Nói về cuộc sống quanh em” từ đó phát triển năng
lực giao tiếp đa phương thức cho HS mang lại nhiều kết quả tốt đẹp như mong đợi.
Thực chất, hoạt động trải nghiệm không hoàn toàn là cách tổ chức tối ưu, hay duy
nhất, nhưng theo tôi, đó là cách phát triển năng lực giao tiếp đa phương thức cho HS
thuận lợi và dễ dàng nhất. Điều quan trọng hơn là hoạt động trải nghiệm “Nói về cuộc
sống quanh em” này mang tính thực hành và ứng dụng cao, phù hợp với thực tế cuộc
sống, gắn với thế giới xung quanh các em, giúp các em HS chủ động, sáng tạo hơn
trong việc tự mình tìm hiểu, tiếp nhận, chiếm lĩnh tri thức. lOMoAR cPSD| 40387276
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận
Mục đích cuối cùng của việc dạy và học một ngôn ngữ là người học sử dụng
hiệu quả ngôn ngữ đó trong GT. Dạy tiếng mẹ đẻ để GT, dạy trong GT và và dạy bằng
GT đã trở thành một định hướng đúng đắn trong nhiều năm trở lại đây. Trong xu thế
mới, thay vì chỉ chú trọng đến GT - ngôn ngữ, các nhà sư phạm Việt Nam đã nhanh
chóng nắm bắt và đề xuất vấn đề phát triển NLGT đa phương thức cho người học.
Môn TV trong chương trình TH, với những nét đặc thù riêng, rất thuận lợi để gắn kết
việc tổ chức hoạt động TN, giúp người học rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo sử dụng ngôn
ngữ và NLGT đa phương thức trong từng hoàn cảnh. Trong đề tài nghiên cứu, chúng
tôi đã lần lượt từng bước đi sâu tìm hiểu một số nội dung về NLGT đa phương thức
trong mối quan hệ tích hợp, tướng tác bổ trợ với hoạt động TN “Nói về cuộc sống
quanh em”. Kết quả đạt được cụ thể là: (1)
Bắt đầu từ việc tìm hiểu NLGT đa phương thức, đề tài đi vào tìm
hiểuđịnh hướng DH theo quan điểm GT. Trong đề tài, chúng tôi đặc biệt chú ý đến
định hướng DH theo quan điểm GT và GT đa phương thức. Chúng tôi cũng đã đi sâu
vào phân tích hoạt động luyện nói và mối quan hệ với việc phát triển NLGT đa
phương thức. Ngoài ra, chúng tôi cũng xem xét đến hoạt động TN và định hướng phát
triển NLGT đa phương thức. (2)
Từ cơ sở lí luận đã nêu ra, chúng tôi chỉ ra những cơ sở thực tiễn về
nộidung chương trình DHTV lớp 2 với định hướng phát triển NLGT đa phương thức
và thực trạng tổ chức hoạt động TN nhằm phát triển NLGT đa phương thức cho HS lớp 2. (3)
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn, chúng tôi mạnh dạn đề xuất nguyên tắc,
quytrình và các mẫu thiết kế thử nghiệm hoạt động TN “Nói về cuộc sống quanh em”.
Về nguyên tắc, phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và ngôn ngữ
của học sinh lớp 2, đảm bảo mục tiêu phát triển NLGT đa phương thức, đảm bảo tính
vừa sức, tích cực hóa hoạt động của HS, đảm bảo tính hấp dẫn, tính sáng tạo. Tiếp
theo sẽ đưa ra quy trình thiết kế và sau đó là đưa ra một số hoạt động TN và hướng
dẫn tổ chức hoạt động TN. Khi thiết kế chúng tôi đặc biệt chú trọng đến các hoạt động
gắn với những thứ gần gũi, cuộc sống xung quanh em với các tình huống GT để thể lOMoAR cPSD| 40387276
hiện đúng tinh thần quan điểm GT, để vừa kích thích hứng thú tham gia hoạt động,
học tập của HS lại vừa rèn luyện được kĩ năng sử dụng ngôn ngữ và NLGT đa phương
thức cho các em. Khi thiết kế hoạt động trải nghiệm chứa tình huống gần gũi với thực
tiễn GT cũng được quan tâm đúng mức để tạo cơ hội cho HS luyện tập thực hành sử
dụng TV. Cách làm này sẽ giúp HS rèn luyện kĩ năng GT, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ có hiệu quả. (4)
Tính hiệu quả, ứng dụng của các hoạt động TN đã từng bước được
khẳngđịnh trong quá trình thực nghiệm và kết quả thực nghiệm. Do giới hạn về thời
gian thực hiện đề tài, chúng tôi không tiến hành thực nghiệm hết các thiết kế đã đưa
ra mà chỉ thực nghiệm được vài thiết kế tiêu biểu. Quá trình thực nghiệm đã giúp
chúng tôi nhận ra hiệu quả thiết thực của việc tổ chức hoạt động TN “Nói về cuộc
sống quanh em”. Các bài học về tổ chức hoạt động TN mà chúng tôi thu nhận được,
đó là cần làm cho việc lĩnh hội kiến thức trở nên sinh động, tâm lí HS thoải mái, kiến
thức được quy về thực tế GT trong cuộc sống nên HS tiếp thu tốt, hoạt động có hiệu
quả, rèn luyện được kĩ năng sử dụng TV vào thực hành GT và phát triển được NLGT
đa phương thức. Hoạt động TN “Nói về cuộc sống quanh em” không chỉ giúp HS vui
chơi, học tốt hơn mà còn giúp các em vun đắp mối quan hệ tốt đẹp với bạn học, với thầy cô.
Dù đã được công nhận là một hướng đi đúng đắn trong chương trình GD phổ
thông sau năm 2015 nhưng hoạt động trải nghiệm tích hợp với các yêu cầu gắn với
mục tiêu phát triển NL ở từng môn học thực sự vẫn chưa được vận dụng phổ biến, có
chiều sâu trong DHTV ở bậc TH. Thiết nghĩ, trong bối cảnh hiện nay, hoạt động TN
cần được vận dụng phổ biến trong DH, tổ chức ở một phạm vi rộng. Nghĩa là hoạt
động TN không chỉ được vận dụng trong nội dung môn TV ở tiểu học mà còn cả
những môn trong chương trình giáo dục phổ thông, giai đoạn cơn bản - bậc TH. Có
như vậy chúng ta mới nhanh chóng đẩy nhanh chất lượng thực chất của DHTV nói
chung, và hoạt động TN phát triển NLGT đa phương thức nói riêng, đạt được những
mục tiêu quan trọng trong giai đoạn GD mới. Trong đề tài nghiên cứu, chúng tôi đề
cao quan điểm GT, điều này không đồng nghĩa với việc xem đây là nguyên tắc duy
nhất chi phối quá trình tổ chức hoạt động TN. Dạy học TV cần có sự hỗ trợ với các
định hướng khác (đảm bảo tính sáng tạo, đảm bảo tính khoa học, vừa trình độ...) thông
qua DH và hoạt động TN để thực hiện thành công các mục tiêu GD đã đặt ra. lOMoAR cPSD| 40387276 2. Kiến nghị
Qua quá trình thực nghiệm và kết quả thu nhận được, tôi xin đưa ra một
số ý kiến đề xuất như sau: -
Phát triển năng lực giao tiếp đa phương thức là một trong những
vấnđề hay và đáng được quan tâm trong xã hội và nhà trường, cần phải được
tăng cường phát triển cho các em HS. Do đó cần tích hợp giáo dục cho các em
những năng lực giao tiếp đa phương thức trong các tiết Kĩ năng sống, Tiếng
Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo Đức, Âm nhạc,… -
Nhà trường cần khai thác và tận dụng các môn học để phát triển
choHS các cách thức, kĩ năng và năng lực giao tiếp cơ bản, cần thiết. -
Nhà trường cần quan tâm đến vấn đề phát triển năng lực giao tiếp
choHS để giúp các em có thêm kĩ năng, cách thức giao tiếp cần thiết phục vụ
cho cuộc sống. Cần tăng cường lồng ghép các hoạt động trải nghiệm, tích hợp
giáo dục với các môn học khác như Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, Đạo đức,
…để đem lại hiệu quả cao. -
Cần có sự phối hợp giữa nhà trường, GV, phụ huynh và HS để tạo
mốiliên kết chặt chẽ, có tính tương tác, giáo dục toàn diện cho HS. -
Hoạt động trải nghiệm đem lại hiệu quả giáo dục cao và được
đánhgiá là phù hợp với đặc điểm tư duy và tâm lí HS tiểu học. Do đó cần tăng
cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho HS nhằm cung cấp cách thức,
kiến thức, kĩ năng, năng lực bày tỏ ý kiến, quan điểm cho các em. -
Cần bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho GV và HS về vai trò, ý
nghĩacủa hoạt động trải nghiệm với sự hình thành kiến thức và kĩ năng, năng
lực giao tiếp cho HS, tạo điều kiện cho HS được học mà chơi, chơi mà học. -
Khi thiết kế các hoạt động trải nghiệm cho HS, GV cần chú ý đầu
tưhơn về khâu chuẩn bị, nhất là khâu xác định chủ đề, nội dung, lựa chọn hình
thức và phương pháp tổ chức phù hợp. Ngoài ra cần chuẩn bị, nghiên cứu một
số tình huống có khả năng phát sinh trong quá trình tổ chức để dự trù trước
phương án giải quyết, hạn chế sự lúng túng, mất bình tĩnh và kéo dài thời gian.
TÀI LIỆU THAM KHẢO lOMoAR cPSD| 40387276 1.
Diệp Quang Ban (2009), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 2.
Nguyễn Văn Bắc - Nguyễn Bá Phu (2016), Giáo trình Tâm lí học Tiểu
học, NXB Đại học Sư phạm. 3.
Nguyễn Đình Chỉnh - Trần Ngọc Diễm, Thực hành về giáo dục học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 4.
Vũ Quốc Chung - Trần Diên Hiển - Nguyễn Hữu Hợp - Đào Quang
Trung, Giáo viên Tiểu học cần biết (Dự án Việt – Bỉ), NXB Giáo dục, Hà Nội. 5.
Nguyễn Ngọc Quỳnh Dao - Nguyễn Tấn Phương - Chu Thị Minh Tâm,
Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (tài liệu dành cho GVTH), NXB Giáo dục, Hà Nội. 6.
Phan Phương Dung - Đặng Kim Nga, Hoạt động giao tiếp với dạy học
tiếng việt ở tiểu học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 7.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cơ sở tâm lí học của việc tổ chức hoạt động
giáo dục (theo mô hình trường Tiểu học mới), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 8.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ
văn (Dự thảo ngày 19 tháng 01 năm 2018), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 9.
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, Dạy học tiếng Việt ở Tiểu học ngoài
giờ chính khóa theo quan điểm giao tiếp, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 10.
Jo Condrill - Bennie Bough (Bạch Trà dịch), Giao tiếp bất kì ai, NXB
Lao động, TP Hồ Chí Minh. 11.
Nguyễn Hữu Hợp (2015), Tổ chức hoạt động giáo dục ngoài trời lên
lớp ở trường tiểu học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 12.
Bùi Văn Huệ - Đỗ Mông Tấn - Nguyễn Ngọc Bích, Giáo trình Tâm lí
học xã hội, NXB Đại học Sư phạm. 13.
Nguyễn Thị Liên (Chủ biên) - Nguyễn Thị Hằng - Tưởng Duy Hải -
ĐàoThị Ngọc Minh (2016), Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường
phổ thông, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 14.
Trần Thị Quỳnh Nga (2015), Dạy học từ đồng nghĩa trong môn Tiếng
Việt theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh tiểu học, Luận án
Tiến sĩ Khoa học Giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH GHI LẠI HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM lOMoAR cPSD| 40387276
Hoạt động “Nhớ ơn thầy cô” Tấm thiệp của em Đăng Minh Hiếu làm HS đang làm thiệp
Tấm thiệp của em Lê Kiều Minh Anh làm lOMoAR cPSD| 40387276
Tấm thiệp của em Nguyễn Hoàng Hải làm
Tấm thiệp của em Nguyễn Thị Thu Trang làm lOMoAR cPSD| 40387276
HS tham gia hoạt động trải nghiệm vẽ tranh, vẽ sơ đồ tư duy về
“Những người thân yêu bên em”
HS Hồ Hữu Tân đang trình bày và chia sẻ về ông nội của mình lOMoAR cPSD| 40387276
Sản phẩm sơ đồ tư duy của HS
HS tham gia hoạt động trải nghiệm “Bạn trong nhà của em”
Các em đang nặn và sắp xếp các con vật thành mô hình
HS tham gia hoạt động trải nghiệm “Bạn trong nhà của em”
Các em đang nặn và sắp xếp các con vật thành mô hình lOMoAR cPSD| 40387276
HS tham gia hoạt động “Bí mật về các loài cá”
HS tham gia hoạt động “Bí mật về các loài cá”