



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58097008
ĐỀ THI TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN 
Câu 1: Triết học là gì? Làm rõ những nguồn gốc ra đời 
của triết học trong lịch sử.  * Khái niệm Triết học: 
- Là loại hình tri thức đặc biệt của con người, là hoạt động 
tinh thần bậc cao, loại hình nhận thức có trình độ trừu tượng 
hóa và khái quát hóa rất cao.Nhìn nhận và đánh giá đối tượng 
thông qua thực tế và thông qua hiện tượng quan sát được về 
con người và vũ trụ,tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức 
xã hội.Sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn Logic và 
những kinh nghiệm mà con người đã khám phá thực tại để 
diễn tả thế giới và khái quát thế giới quan bằng lý luận.  Vậy: 
1. Triết học là một hình thái ý thức xã hội. 
2. Khách thể khám phá của triết học là thế giới (gồm cả thế 
giới bên trong và bên ngoài con người) trong hệ thống 
chỉnh thể toàn vẹn vốn có của nó. 
3. Triết học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình 
và quan hệ của thế giới, với mục đich tìm ra những quy 
luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết định sự vận 
động của thế giới, của con người và của tư duy. 
4. Tư cách là loại hình nhận thức đặc thù, độc lập với khoa 
học và khác biệt với tôn giáo, tri thức triết học mang tính      lOMoAR cPSD| 58097008
hệ thống, logic và trừu tượng về thế giới bao gồm những 
nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bả chất và những 
quan điểm nền tảng về mọi tồn tại. 
5. Triết học là hạt nhân của thế giới quan 
*Quan niệm về Triết học - Quan  niệm ở Trung Quốc: 
 Chữ triết có từ rất sớm.Được coi là tương đướng với thuật 
ngữ philosophia của Hy Lạp, ý nghĩa là sự truy tìm bản 
chất của đối tượng nhận thức, thường là con người,xã 
hội,vũ trụ và tư tưởng.Triết học là biểu hiện cao của trí 
tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người về toàn bộ thế 
giới thiên - địa - nhân và định hướng nhân sinh quan cho  con người.  - Quan niệm ở Ấn Độ: 
 Thuật ngữ Dar’sana (triết học) nghĩa gốc là chiêm ngưỡng, 
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để 
dẫn dắt con người đến với lẽ phải. 
- Quan niệm ở Hy Lạp – La Mã: 
 Thuật ngữ triết học có nghĩa là Philosophia, xuất hiện ở Hy 
Lạp cổ đại nghĩa là yêu mên sự thông thái, giải thích vũ      lOMoAR cPSD| 58097008
trụ, định hướng nhận thức và hành vi, vừa nhấn mạnh đến 
khát vọng tìm kiếm chân lý của con người 
- Quan niệm Triết học Mác Lênin: 
Là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị 
trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy 
luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và 
tư duy, trang bị cho con người thế giới quan duy vật biện 
chứng và phương pháp biện chứng duy vật đúng đắn để nhận 
thức và cải tạo thế giới. 
* Nguồn gốc ra đời của Triết học trong lịch sử - Triết học 
là dạng tri thức lý luân xuất hiện sớm ̣ nhất trong lịch sử 
các loại hình lý luận, nhận thức đặc thù của của nhân loại 
gần như cùng một thời gian, ra đời ở phương Đông và 
phương Tây từ thế kỷ VIII - VI Trước Công Nguyên. Ý 
thức triết học xuất hiện không ngẫu nhiên, có nguồn gốc 
thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của sự 
phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. 
Là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận 
thức và nguồn gốc xã hội.  
- Nguồn gốc nhận thức: 
+ Nhận thức đầu tiên giải thích thế giới là bằng tư duy huyền 
thoại và tín ngưỡng nguyên thủy. Tuy duy đó thiếu logic, mơ 
hồ, rời rạc trong giải thích thế giới      lOMoAR cPSD| 58097008
+ Sự phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực khái quát 
trong quá trình nhận thức làm cho các quan điểm, quan niệm 
chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế 
giới đó hình thành + Tư duy triết học bắt đầu từ các triết lý, 
từ tình yêu sự thông thái, dần hình thành các hệ thống những 
tri thức chung nhất về thế giới 
+ Triết học xuất hiện khi kho tàng tri thức của loài người đã 
hình thành được một vốn hiểu biết nhất định, tư duy con 
người cũng đã đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái 
chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.  - Nguồn gốc xã hội: 
+ Triết học chỉ ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một 
trình độ tương đối cao của sản xuất xã hội, phân công lao 
động xã hội hình thành, của cải tương đối dư thừa, tư hữu 
hóa tư liệu sản xuất được luật định, giai cấp phân hóa rõ và 
mạnh, nhà nước ra đời.Trong một xã hội như vậy, tầng lớp 
trí thức xuất hiện, giáo dục và nhà trường hình thành và phát 
triển, các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy để trừu trượng 
hóa, khái quát hóa,hệ thống hóa toàn bộ tri thức thời đại và 
các hiện tượng của tồn tại xã hội để xây dựng nên các học 
thuyết, các lý luận, các triết thuyết.Với sự tồn tại mang tính 
pháp lý của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,của trật 
tự giai cấp và của bộ máy nhà nước , triết học đã mang trong 
mình tính giai cấp sâu sắc, nó công khai tính đảng là phục      lOMoAR cPSD| 58097008
vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lương xã hội  nhất định. 
*Đối tượng triết học: 
Đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi trong chu trình 
lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử, do điều kiện kinh tế – xã hội 
và sự phát triển của khoa học tự nhiên, đối tượng nghiên cứu 
của triết học có những nội dung cụ thể khác nhau, nhưng vẫn 
xoay quanh vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới khách 
quan bên ngoài, giữa tư duy và tồn tại. 
Đối tượng nghiên cứu của triết học là: Tiếp tục giải quyết 
vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và 
vật chất trên lập trường duy vật; nghiên cứu những quy luật 
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng 
cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người. 
Sau đây chúng tôi sẽ trình bày cụ thể về đối tượng nghiên 
cứu của Triết học trong từng thời kì, cụ thể như sau: 
+ Ngay từ khi mới ra đời: 
Triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao 
hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối 
tượng riêng. Quan điểm này nguyên nhân sâu xa làm nảy 
sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học của mọi khoa 
học, đặc biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại. 
Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà 
ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư 
tưởng triết học ở Tây Âu.  + Thời kỳ trung cổ:      lOMoAR cPSD| 58097008
Ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh 
vực đời sống xã hội thì triết học trở thành nô lệ của thần  học. 
Nền triết học tự nhiên bị thay bằng nền triết học kinh viện. 
Triết học lúc này phát triển một cách chậm chạp trong môi 
trường chật hẹp của đêm trường trung cổ.  + Vào Thế kỷ XV, XVI: 
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã 
tạo một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học. 
Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt yêu cầu của sản 
xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành nhất 
là các khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những  khoa học độc lập. 
Sự phát triển xã hội được thúc đẩy bởi sự hình thành và củng 
cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi những phát hiện 
lớn về địa lý và thiên văn cùng những thành tựu khác của cả 
khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra một thời 
kỳ mới cho sự phát triển triết học.  + Thế kỷ XVII – XVIII: 
Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của khoa 
học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu 
tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và đã đạt tới đỉnh 
cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII ở Anh, 
Pháp, Hà Lan, với những đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, 
T.Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvêtiuýt (Pháp), Xpinôda (Hà  Lan)…      lOMoAR cPSD| 58097008
V.I.Lênin đặc biệt đánh giá cao công lao của các nhà duy vật 
Pháp thời kỳ này đối với sự phát triển chủ nghĩa duy vật 
trong lịch sử triết học trước Mác. 
“ Trong suốt cả lịch sử hiện đại của châu Âu và nhất là vào 
cuối thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc 
quyết chiến chống tất cả những rác rưởi của thời trung cổ, 
chống chế độ phong kiến trong các thiết chế và tư tưởng, chỉ 
có chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất triệt để, trung thành 
với tất cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với 
mê tín, với thói đạo đức giả, v.v.” Mặt khác, tư duy triết học 
cũng được phát triển trong các học thuyết triết học duy tâm 
mà đỉnh cao là triết học Hêghen, đại biểu xuất sắc của triết  học cổ điển Đức. 
Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành 
cũng từng bước làm phá sản tham vọng của triết học muốn 
đóng vai trò “khoa học của các khoa học”. Triết học Hêghen 
là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó. 
Hêghen tự coi triết học của mình là một hệ thống phổ biến 
của sự nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt 
chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học.  + Đầu thế kỷ XIX: 
Hoàn cảnh kinh tế – xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của 
khoa học vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết 
học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của 
các khoa học”, triết học mácxít xác định đối tượng nghiên 
cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất      lOMoAR cPSD| 58097008
và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu 
những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 
Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về Đối tượng nghiên 
cứu của triết học. Chúng tôi hi vọng rằng những chia sẻ từ 
bài viết sẽ hữu ích và giúp quý bạn đọc hiểu rõ được nội  dung này. 
Câu 2: Thế giới quan là gì? Trình bày các hình thức cơ 
bản của thế giới quan. Lấy ví dụ minh họa.  
* Khái niệm Thế giới quan:  - 
Thế giới quan là quan điểm của con người về thếgiới  - 
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thốngcác tri 
thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế 
giới và về vị trí của con người (bao hàm cả cá nhân, xã hội 
và nhân loại trong thế giới đó .  - 
Thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức,niềm 
tin và lý tưởng;tri thức là cơ sở trực tiếp thình thành thế giới 
quan, tri thức chỉ gia nhập khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều 
trong thực tiễn và trở thành niềm tin. Lý tưởng là trình độ 
phát triển cao nhất của thế giới quan.Với tính cách là hệ quan 
điểm chỉ dẫn tư duy và hành động, thế giới quan là phương 
thức để conn gười chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế giới quan, 
con người không có phương hướng hành động.      lOMoAR cPSD| 58097008 - 
Quan hệ giữa thế giới quan và nhân sinh quan Nhân sinh 
quan là một bộ phận của thế giới quan, đóng góp vào cách 
nhìn nhận, đánh giá về thế giới. Con người là hạt nhân trong 
thế giới, và thế giới xoay quanh sự sống của con người. Đây 
là một hệ thống quan niệm về cuộc đời bao gồm lẽ sống, lý 
tưởng, ý nghĩa và mục đích sống của con người. 
* Các loại hình thế giới quan: 
- Thế giới quan tôn giáo,thần thoại 
- Thế giới quan khoa học 
- Thế giới quan triết học  Phân tích: 
- Thế giới quan tôn giáo 
Thế giới quan tôn giáo sẽ phản ánh hiện thực khách quan 
một cách hư ảo, ra đời trong bối cảnh trình độ nhận thức của 
con người còn hạn chế. Thế giới quan tôn giáo giải thích dựa 
trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo của một loại năng lực thần  bí, siêu nhiên. 
Đặc trưng cơ bản của thế giới quan tôn giáo này đó chính là 
niềm tin dựa vào sự tồn tại và sức mạnh của lực lượng siêu 
nhiên, thần thánh và con người hoàn toàn bất lực và hoàn 
toàn phụ thuộc vào thế giới siêu nhiên đó.      lOMoAR cPSD| 58097008
Trong thế giới quan tôn giáo, con người là kẻ cầu xin và phục 
tùng. Ở một khía cạnh nào đó, thế giới quan tôn giáo ra đời 
là nhằm để có thể thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi 
đau khổ, hướng đến một cuộc sống hạnh phúc. Cũng chính 
vì nguyên nhân đó, đã giúp cho thế giới quan tôn giáo tồn tại 
trong đời sống tinh thần ngày nay. 
VD: Theo Kinh thánh, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ 
trụ, muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. 
Ông Adam và bà Eva không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái 
của “cây biết điều thiện điều ác” (trái cấm) nên bị Thiên 
Chúa đuổi khỏi Vườn địa đàng. 
- Thế giới quan thần thoại ( thế giới quan huyền thoại một 
trong những hình thức thể hiện tiêu biểu là Thần thoại Hy  Lạp) 
Thế giới quan huyền thoại có nguồn gốc xã hội nguyên thủy 
trong giai đoạn sơ khai lịch sử bằng cách xây dựng nên các 
huyền thoại nhằm phản ánh các kết quả cảm nhận ban đầu 
của người nguyên thủy về nhận thức khách quan tự nhiên, 
đời sống xã hội. Ví dụ như dân tộc Việt Nam có truyền thuyết 
Lạc Long Quân – Âu Cơ để giải thích về nguồn gốc của dân 
tộc hay truyền thuyết Sơn Tinh- Thủy Tinh,…. 
Đặc điểm của thế giới quan huyền thoại đó chính là yếu tố 
thực và ảo, cái thần và cái người, lý trí và tín ngưỡng hòa 
quyện với nhau. Do con người không giải thích được các 
hiện tượng đặc trưng trong xã hội nên thường đưa ra các yếu      lOMoAR cPSD| 58097008
tố tưởng tượng có tính huyền bí để giải thích. Thế giới quan 
huyền thoại xuất hiện và nó không phản ánh hiện thực một  cách khách quan. 
VD: Dân tộc Việt Nam có truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu 
Cơ để giải thích về nguồn gốc của dân tộc với 100 anh em, 
50 theo cha lên núi và 50 theo mẹ xuống biển hay truyền 
thuyết Sơn Tinh- Thủy Tinh giải thích hiện tượng mưa lũ của  nước ta…. 
- Thế giới quan khoa học 
Thế giới quan khoa học là một thế giới khách quan, hiện hữu 
độc lập với con người,thế giới đó sẽ biến đổi chuyên theo 
quy luật nhân quả mà con người có tiềm năng hiểu được.Thế 
giới quan đó không trực tiếp hay gián tiếp mà nằm trong tất 
cả tư duy,cảm quan và xử thế của con người. 
VD: Con người trải qua quá trình lịch sử, nhờ vào những 
nghiên cứu của khoa học mà phát hiện được bản nguyên của 
con người từ vài triệu năm trước là loài tinh tinh, từ từ qua 
những chu kì phát triển hình thành niên được loài người. 
- Thế giới quan triết học 
Thế giới quan triết học được ra đời trong điều kiện trình độ 
tư duy và thực tiễn của con người và có bước phát triển cao 
hơn so với thế giới quan khoa học của tôn giáo và huyền      lOMoAR cPSD| 58097008
thoại. Điều đó cũng đã làm cho tính tích cực trong tư duy 
của con người có bước thay đổi về chất. 
Thế giới quan triết học thực tiễn được xây dựng dựa trên hệ 
thống lý luận, phạm trù, quy luật. Thế giới quan triết học 
không đơn giản chỉ là khái niệm, phạm trù, quy luật; thế giới 
quan triết học còn nỗ lực tìm cách giải thích, chứng minh 
cho tính đúng đắn của các quan điểm bằng lý luận, logic. 
VD: Trái Đất còn được biết tên với các tên gọi “hành tinh 
xanh”, là nhà của hàng triệu loài sinh vật, trong đó có con 
người và cho đến nay nó là nơi duy nhất trong vũ trụ được 
biết đến là có sự sống. 
- Ngoài ra thế giới quan còn được phân loại theothời đại, dân 
tộc, tộc người, thế giới quan kinh nghiệm, thế giới quan  thông thường 
- Thế giới quan chung nhất, phổ biến nhất là thếgiới quan  triết học 
Câu 3: Trình bày nội dung vấn đề cơ bản của triết học. 
Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy 
tâm, khả tri luận và bất khả tri luận trong triết học.  
* Vấn đề cơ bản của triết học:      lOMoAR cPSD| 58097008
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa 
tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức, nó là vấn đề cơ bản 
vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những 
vấn đề khác của triết học. 
Vấn đề cơ bản của triết học gồm 2 mặt: 
+ Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, 
cái nào có sau; cái nào quyết định cái nào? Việc trả lời này 
phân định thành hai khuynh hướng triết học đối lập nhau:  CNDV và CNDT. 
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới hay  không? 
* Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy 
tâm, khả tri luận và bất khả tri luận trong triết học.  - 
Cơ sở để phân biệt chủ nhĩa duy vật và chủ nghĩa duy 
tâm đó giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết  học. 
+ Chủ nghĩa duy vật khẳng định: Vật chất có trước ý thức có 
sau, vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ảnh thế 
giới khách quan và bộ óc con người 
+ Chủ nghĩa duy tâm khẳng định rằng: ý thức có trước vật 
chất có sau, ý thức quyết định vật chất; còn vật chất chỉ là  sản phẩm của ý thức      lOMoAR cPSD| 58097008 - 
Cơ sở để phân biệt thuyết bất khả tri và khả tri luận đó 
là giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học +  Khả tri luận  - 
Là học thuyết khẳng định khả năng nhận thức củacon 
người, khẳng định về nguyên tắc con người, khẳng định về 
nguyên tắc con người có thể hiểu được bản chất của sự vật. 
Là ý thức mà con người có được về sự vật về nguyên tắc là 
phù hợp với bản thân sự vật.  + Bất khả tri luận  - 
Là học thuyết phủ nhận khả năng nhận thức của con 
người.Về nguyên tắc, con người không thể hiểu được bản 
chất của đối tượng.Các hình ảnh, tính chất,đặc điểm thông 
qua các giác quan của con người thu nhận được trong quá 
trình nhận thức cho dù có tính xác thực, cũng không cho 
phép con người đồng nhất chúng với đối tượng.Kết quả 
nhận thức mà loài người có được chỉ là hình thức bề ngoài, 
hạn hẹp và cắt xén về đối tượng.Bất khả tri không tuyệt đối 
phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực tại được cảm 
giác của con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con 
người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại nó 
như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều nằm ngoài 
kinh nghiệm của con người về thế giới. Thuyết bất khả tri      lOMoAR cPSD| 58097008
cũng không đặt vấn đề về niềm tin,mà chỉ phủ nhận khả 
năng vô hạn của nhận thức. 
+ Ví dụ minh họa về những trường phái triết học  Khả tri luận:  - 
Con người biết được nguồn gốc của mình từ loài vượn  tiến hóa. 
Bất khả tri luận:  - 
Con người không thể biết sự vật, hiện tượng nào đó có 
tồn tại không nếu không dùng giác quan cảm nhận hoặc đo 
đạc thông tin về vật, hiện tượng đó.  - 
Những khám phá lớn về vật lý thường được con người 
đo đạc qua những cỗ máy tinh vi, tuy nhiên, việc nhìn qua 
1 màn hình để nói hiện tượng gì tồn tại hoặc không là một 
lỗ hổng dễ nhận thấy, và tất nhiên ảnh hưởng đến cả ngành  khoa học. 
Câu 4: Phân tích những hình thức cơ bản của chủ nghĩa 
duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học. Lấy 
ví dụ minh họa. *Những hình thức cơ bản của chủ nghĩa 
duy vật: - Chủ nghĩa duy vật khẳng định: Vật chất có trước 
ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản 
ảnh thế giới khách quan và bộ óc con người      lOMoAR cPSD| 58097008 - 
Chủ nghĩa duy vật có 3 hình thức phát triển cơbản 
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại:  - 
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vậtthời 
cổ đại, thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng 
nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và 
đưa ra những kết luận mang nặng tính trực quan, ngây thơ, 
chất phác.Do hạn chế nhận thức thời đại về vật chất và cấu 
trúc vật chất nhưng về cơ bản là đúng vì đã lấy bản thân 
giới tự nhiên để giải thế thế giới, không viện đến thần linh, 
thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên. 
– Ưu điểm: Lấy giới tự nhiên để giải thích giới tựnhiên, 
không viện đến thần linh hay Thượng Đế. 
– Hạn chế: Những lý giải về thế giới còn mangnặng tính 
trực quan nên những kết luận về thế giới về cơ bản còn mang 
tính ngây thơ, chất phác. – Ví dụ: Quan niệm của Talét,  Hêraclit, Đêmôcrit 
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình: 
- Là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện 
khá rõ ở các nhà triết học thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII và đỉnh 
cao vào thế kỉ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kì mà cơ học cổ 
điển thu được những thành tựư rực rỡ nên trong khi tiếp tục 
phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ 
nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của      lOMoAR cPSD| 58097008
phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển. 
Do đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, thế 
giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận 
tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi 
thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng và do những 
nguyên nhân bên ngoài gây ra.Tuy chưa phản ánh đúng hiện 
thực trong mỗi liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng đã 
góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm 
và tôn giáo, đặc biệt ở thời kỳ chuyển tiếp từ Trung cổ sang 
thời Phục Hưng ở các nước Tây Âu. 
– Tích cực: Góp phần không nhỏ vào việc chống lạithế 
giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử 
chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục Hưng ở các nước  Tây Âu 
– Hạn chế: Chưa phản ứng đúng hiện thực trongmỗi liên 
hệ phổ biến và sự phát triển 
– Ví dụ: Các quan niệm của Niutơn, Bêcơn và cácnhà duy  vật Pháp thế kỉ XVIII 
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng 
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của 
chủ nghĩa duy vật, do Mác và Ănghen xây dựng vào những 
năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với 
sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và 
sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ 
nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc      lOMoAR cPSD| 58097008
phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ 
đại, chủ nghĩa siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển 
của chủ nghĩa duy vật. Nó là kết quả của quá trình đúc kết, 
khái quát hoá những tri thức của nhân loại về nhiều lĩnh vực 
để xây dựng nên hệ thống quan điểm lý luận chung, đồng 
thời định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ trong hoạt 
động nhận thức và thực tiễn của mình – Tích cực: Phản ánh 
hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại, là công cụ hữu 
hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện  thực ấy 
+ Khẳng định chủ nghĩa duy vật biện chứng hiện nay là sự 
phát triển cao nhất của trường phái triết học duy vật   
Vì nó là kết quả của quá trình đúc kết, khái quát hoá những 
tri thức của nhân loại về nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ 
thống quan điểm lý luận chung, đồng thời định hướng cho 
các lực lượng xã hội tiến bộ trong hoạt động nhận thức và 
thực tiễn của mình.Nó phản ánh hiện thực đúng như chính 
bản thân nó tồn tại, là công cụ hữu hiệu giúp những lực 
lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy. 
* Những hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm: - Chủ 
nghĩa duy tâm khẳng định rằng: ý thức,tinh thần,ý niệm,cảm 
giác là có trước vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất;      lOMoAR cPSD| 58097008
còn vật chất chỉ là sản phẩm của ý thức,giải thích toàn bộ thế 
giới này bằng các nguyên nhân tư tưởng, tinh thần và nguyên 
nhân tận cùng của mọi vận động của thế giới là nguyên nhân  tinh thần. 
- Chủ nghĩa duy tâm có 2 hình thức cơ bản 
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: 
- Thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con người. 
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, 
chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện 
tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác. 
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: 
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhậntính thứ nhất 
của ý thức, nhng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh 
thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con ngời, 
quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó 
thường được mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, ý 
niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.  * Lấy ví dụ minh họa: 
+ Lấy ví dụ minh họa các hình thức của chủ nghĩa duy vật 
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: 
– Theo quy luật “phủ định của phủ định”:      lOMoAR cPSD| 58097008
Một con gà mái được được coi là cái khẳng định, nhưng khi 
con gà mái đó đẻ trứng thì quả trứng đó sẽ đươc coi là cái 
phủ định của con gà. Sau đó quả trứng gà trải qua thời gian 
vận động và phát triển thì quả trứng lại nở ra con gà con. Vậy 
con gà con lúc này sẽ được coi là cái phủ định của phủ định, 
mà phủ định của phủ định sẽ trở thành cái khẳng định. Sự 
vận động và phát triển này luôn diễn ra liên tục vận động và 
phát triển và có tính chu kỳ. 
– Theo quy luật chuyển hóa những thay đổi vềlượng thành 
những thay đổi về chất và ngược lại: 
Sau khi tan làm, A đi xe máy với quãng đường 5km từ cơ 
quan về đến nhà. Lúc này, tất cả sự thay đổi trong quãng 
đường mà A di chuyển từ cơ quan đến trước khi về đến nhà 
được coi là sự thay đổi về “lượng”, cho đến thời điểm a về 
đến nhà thì đó là có thay đổi về “chất”. Như vậy trong trường 
hợp này, ta có thể thấy sự thay đổi về lượng đã dẫn đến sự  thay đổi về chất. 
Chủ nghĩa duy vật chất phác: 
- Talét cho rằng, nguồn gốc của thế giới chúng ta là nước. 
Nước là bản chất chung của tất thảy mọi vật, mọi hiện 
tượng trong thế giới. Mọi cái trên thế gian đều sinh ra từ 
nước và khi bị phân hủy lại biên thành nước. Nước tồn tại 
vĩnh viễn còn mọi vật do nó tạo nên thì không ngừng biến 
đổi, sinh ra và chết đi. 
- Hêraclit là nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại. Khác 
với các nhà triết học phái Milê, Hêraclit cho rằng không