Di sản văn hoá vật thể - Tổng quan du lịch | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh
Di sản văn hoá vật thể - Tổng quan du lịch | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tổng quan du lịch (vhs2023)
Trường: Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP.HCM KHOA VĂN HÓA HỌC TIỂU LUẬN
Học phần: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA Đề tài:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ CỦA TỈNH QUẢNG NAM. GVHD : Nguyễn Thị Ngọc Ánh HỌ VÀ TÊN : Trịnh Hoài Châu MSSV : D22VH179 LỚP : Văn hóa học 16
Thành phố Hồ Chí Minh,tháng 12 năm 2023 MỤC LỤC
A _ MỞ ĐẦU........................................................................................................3
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI...................................................................................3
2. KHÁI QUÁT ĐỀ TÀI......................................................................................4
B _ NỘI DUNG.....................................................................................................6
CHƯƠNG 1: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ...6
1.1. Khái niệm và vai trò của Di sản văn hóa vật thể......................................6
1.1.1. Khái niệm Di sản văn hóa vật thể........................................................6
1.1.2. Vai trò của Di sản văn hóa vật thể.......................................................7
1.2. Quản lý nhà nước về Di sản văn hóa vật thể............................................9
1.2.1. Sự cần thiết quản lý Nhà nước về Di sản văn hóa vật thể...................9
1.2.2. Nội dung quản lý Nhà nước về Di sản văn hóa vật thể......................10
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI DI SẢN
VĂN HÓA VẬT THỂ TẠI QUẢNG NAM.....................................................11
2.1 Khái quát địa lý, lịch sử và Di sản văn hóa vật thể tỉnh Quảng Nam....11
2.1.1. Địa lý tỉnh Quảng Nam......................................................................11
2.1.2. Lịch sử tỉnh Quảng Nam....................................................................11
2.1.3 Giới thiệu hai Di sản văn hóa vật thể tại Quảng Nam........................12
2.2 Công tác quản lý Nhà nước về Di sản văn hóa vật thể tỉnh Quảng Nam
..........................................................................................................................14
2.3.Tổng quan về hoạt động của Di sản văn hóa tại Quảng Nam................16 1
CHƯƠNG 3: NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ TỈNH QUẢNG NAM
..............................................................................................................................17
3.1. Mặt tích cực..............................................................................................17
3.2. Mặt hạn chế..............................................................................................18
3.3. Đề xuất giải pháp.....................................................................................19
C _ KẾT LUẬN..................................................................................................20
D _ TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................20
E _ PHỤ LỤC.....................................................................................................21 2 A _ MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nói đến Quảng Nam là nói đến vùng đất hội tụ và kết tinh của nhiều nền văn hóa
khác nhau, mảnh đất có nhiều di tích văn hóa, lịch sử, nơi đã sản sinh ra nhiều
thế hệ danh nhân; mảnh đất “Trung dũng kiên cường” giàu lòng yêu nước và
truyền thống cách mạng. Nói đến văn hóa Quảng Nam là nói đến những di sản
văn hoá vật thể tiêu biểu và độc đáo với 55 di tích cấp quốc gia và 282 di tích
cấp tỉnh. Nổi bật nhất là 2 Di sản văn hoá thế giới là khu Phố cổ Hội An và khu
Đền tháp Mỹ Sơn; ngoài ra, có thể kể đến hệ thống tháp Chăm, Kinh đô cổ Trà
Kiệu,... Bên cạnh đó, Quảng Nam có nhiều di sản văn hoá phi vật thể đặc sắc.
Theo thống kê sơ bộ, toàn tỉnh hiện có trên 300 di sản văn hóa phi vật thể tiêu
biểu, trong đó có 120 lễ hội dân gian tiêu biểu và nhiều di sản phi vật thể khác có
giá trị, như: về âm nhạc có Tuồng, hát bài chòi, hò bả trạo; nghệ thuật ẩm thực;
những tri thức dân gian; làng nghề truyền thống...
Miền núi Quảng Nam, địa bàn cư trú lâu đời của các tộc người thiểu số như Cơ-
tu, Cor (Koh), Gié-Triêng, Xê-đăng… nét đặc trưng trong văn hóa tộc người Cơ
tu như Gươl, cồng chiêng, nói lý, hát lý… đến các nghi lễ, tập quán, nghệ thuật
diễn xướng của đồng bào Cor, Cadong, Xêđăng... những giá trị văn hoá đặc sắc
(phong tục, tập quán, lễ hội...) tạo ra một bức tranh sinh động, đa sắc về văn hóa
phi vật thể đang hiện hữu trong đời sống của nhân dân các vùng, miền làm cho
văn hóa Quảng Nam thêm phong phú và đa dạng.
2. KHÁI QUÁT ĐỀ TÀI
Hội An đã thực hiện tốt việc xã hội hóa công tác quản lý, bảo tồn di tích. Cùng
với nguồn vốn của Nhà nước, người dân địa phương đã bỏ ra hàng chục tỷ đồng
để tú sửa các di tích thuộc quyền sở hữu tư nhân. 3
Trong những năm qua đã có gần 100 công trình kiến trúc cổ được gia cố, trùng
tu. Nhiều công trình thuộc sở hữu tập thể như đình, chùa, lăng miếu…, sau khi tu
bổ xong, đã được trả về với cộng đồng theo chức năng phục vụ nhu cầu tinh thần
của nhân dân địa phương.
Một dự án lớn về quy hoạch, bảo tồn khu phố cổ Hội An cũng đang được triển
khai với nhiều phần việc như tu bổ, tôn tạo di tích, cải tạo cơ sở hạ tầng...
Tại Hội An, các chương trình hợp tác quốc tế đã được thực hiện khá liên tục với
sự giúp đỡ của Nhật Bản. Một số lớp tập huấn, hướng dẫn công tác tu bổ, bảo
tồn di tích đã được tổ chức.
Phía Nhật Bản đã cử chuyên gia trực tiếp trùng tu một số công trình kiến trúc cổ
ở đây. Kết quả của công tác quản lý, bảo tồn di tích ở Hội An trong những năm
qua đã được đánh giá cao, được UNESCO trao tặng các giải thưởng như “Dự án
kiệt xuất về hợp tác bảo tồn khu phố cổ Hội An,” “Thành tựu đặc biệt về bảo tồn
làng mộc Kim Bồng-Hội An,” giải thưởng “Hợp tác tu bổ các ngôi nhà cổ ở Việt Nam”...
Tại khu phố cổ Hội An, khách du lịch tìm đến ngày một nhiều. Đây là điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế địa phương, người dân có cơ hội nâng cao đời sống.
Tuy nhiên một vấn đề nảy sinh hiện nay ở Hội An là hầu hết các ngôi nhà trong
khu phố cổ đều có kinh doanh, hàng hóa nhiều khi được bày ra ngoài, che khuất
cả mặt tiền ngôi nhà. Chính quyền thị xã Hội An đang có giải pháp quy hoạch
việc buôn bán trong khu phố cổ nhằm khắc phục tình trạng này.
Với di tích Mỹ Sơn, từ năm 1981 đến 1992, với sự trợ giúp về kỹ thuật của Ba
Lan, các cán bộ chuyên môn của Trung tâm Thiết kế và Tu bổ di tích Trung
ương, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam-Đà Nẵng (cũ) đã thực hiện
việc tu bổ-bảo quản khu tháp Chăm Mỹ Sơn, từ tình trạng một phế tích bị bao 4
phủ bởi cây rừng, di tích này đã được phục hồi lại một phần diện mạo ban đầu của nó.
Trong những năm gần đây, một số dự án hợp tác giữa Việt Nam-UNESCO và
Italia đã và đang được thực hiện tại Mỹ Sơn như dự án “Bảo tồn, tu bổ cấp thiết
một số hạng mục thuộc khu đền tháp Mỹ Sơn,” “Bảo tồn Di sản văn hóa thế giới
Mỹ Sơn - Đề cử và đào tạo việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về bảo tồn di sản
thế giới ở các công trình kiến trúc nhóm G Mỹ Sơn,” qua đó nhóm tháp G đã được tu bổ khá tốt.
Tháp E7 cũng vừa được Chính phủ đầu tư tu bổ phục vụ tham quan nghiên cứu.
Tại Mỹ Sơn, ngoài việc quản lý, bảo vệ, tu bổ tôn tạo di tích, chính quyền địa
phương rất quan tâm đến việc trồng rừng, bảo vệ cảnh quan, môi trường trong thung lũng Mỹ Sơn.
Từ khi Mỹ Sơn được công nhận là Di sản Thế giới, lượng du khách đến Mỹ Sơn
ngày một tăng. Đây là tín hiệu đáng mừng, lượng du khách đến tham quan Mỹ
Sơn ngày càng tăng đã mang lại cho Mỹ Sơn một nguồn kinh phí đáng kể góp
phần vào việc bảo tồn di tích, đồng thời phát triển kinh tế địa phương.
Tuy nhiên cùng với sự gia tăng khách tham quan thì những tác nhân gây hại cho
di tích cũng gia tăng, do vậy cần thiết phải có sự điều phối lượng khách tham
quan ở các nhóm tháp một cách hợp lý. B _ NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
1.1. Khái niệm và vai trò của Di sản văn hóa vật thể
1.1.1. Khái niệm Di sản văn hóa vật thể
Di sản văn hóa là tài sản quý báu mang đậm nét đặc trưng của từng quốc gia, dân
tộc. Di sản văn hóa ngày càng chứng minh vai trò quan trọng trong phát triển, là 5
nguồn lực dồi dào cho tăng trưởng kinh tế và là điểm tựa vững chắc cho đời sống
tinh thần của con người. Để hướng tới sự phát triển bền vững và nhân văn, chúng
ta cần có cái nhìn sâu sắc về di sản văn hóa và những giá trị mà nó mang lại, từ
đó bảo tồn và phát huy những giá trị cao đẹp của di sản văn hóa.
Dưới góc độ pháp lý, di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì di sản văn hóa vật thể sẽ bao gồm tất cả các di sản
truyền thống và các loại hình văn hóa do cha ông để lại (như các di tích, hiện vật,
các loại hình văn học, nghệ thuật, các nghi lễ, lễ hội, phong tục, tập quán, tri thức
và kỹ năng liên quan đến sản xuất nông nghiệp, nghề thủ công,...) còn tồn tại đến
ngày nay, đang được thực hành và có ý nghĩa, giá trị đối với cộng đồng.
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể.
Theo đó di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
và cộng đồng, tạo động lực, nguồn lực thúc đẩy phát triển ngành du lịch, đem
đến lợi ích kinh tế và quảng bá hình ảnh của địa phương, đất nước trong quá
trình hội nhập và phát triển. Di sản văn hóa là nơi lưu giữ nét đẹp văn hóa truyền
thống của thế hệ cha ông, tạo tiền để để các thế hệ sau lưu giữ, tái tạo và phát
triển. Bên cạnh đó, đây còn là nền tảng để chúng ta tiếp cận với những nền văn
hóa trên toàn thế giới mà không bị mất đi bản sắc dân tộc, hòa nhập nhưng
không hòa tan. Di sản văn hóa tham gia và thể hiện sự đang dạng của văn hóa thế
giới nói chung, góp phần làm phong phú nền văn hóa dân tộc nói riêng. Di sản
văn hóa luôn có sự đa dạng sinh thái, đa dạng tộc người và đa dạng cách biểu đạt
văn hóa. Sự đa dạng ấy làm nên sức sống và sự giàu có cho văn hóa nhân loại. 6
Di sản văn hóa là động lực để phát triển ngành công nghiệp không khói (ngành
du lịch) Hệ thống di sản văn hóa trải khắp đất nước chính là nguồn lực to lớn cho
công cuộc xây dựng đất nước thông qua phát triển du lịch. Di sản văn hóa đã góp
phần tạo nên nhiều sản phẩm du lịch đặc trưng cho du lịch Việt Nam; kết nối và
đa dạng hóa các tuyến du lịch xuyên vùng và quốc tế.
1.1.2. Vai trò của Di sản văn hóa vật thể
Di sản được bảo tồn, du lịch phát triển đã tạo ra sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của
địa phương, cùng với đó, cộng đồng dân cư tại nơi có di sản nhận thức rõ hơn về
giá trị của di sản, lòng tự hào về truyền thống, vẻ đẹp của quê hương, đất nước,
về ý thức trách nhiệm bảo vệ tài sản này. Những cuộc vận động nhân dân sống
trong vùng di sản tham gia bảo vệ môi trường và các hoạt động góp phần chăm
sóc di sản, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch góp phần nâng cao dân trí, xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở.
Với những di tích trong một cộng đồng nhỏ như đình làng, khi được phát huy đã
tạo nên sự cộng cảm, cố kết cộng đồng làng xóm qua những hoạt động chung
xoay quanh việc phụng thờ thành hoàng, hội hè và đem lại sự cân bằng cho đời
sống tâm linh dân làng. Các kỳ hội là dịp nhắc nhở truyền thống, lịch sử, cội
nguồn, sự đoàn kết, lòng hướng thiện cho mỗi người dân trên đất nước, tiếp thêm
sức mạnh, niềm tin cho họ trong lao động sản xuất. Di sản văn hóa của các dân
tộc thiểu số và hàng ngàn di tích thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng đình chùa, nhà
thờ được xếp hạng, đầu tư chống xuống cấp và tôn tạo đã góp phần vào sự củng
cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Di sản văn hóa ở nước ta tham gia trong quá trình hội nhập không dừng ở hoạt
động nội bộ của ngành di sản hay ngành du lịch. Khách nước ngoài đến thăm
Việt Nam thưởng ngoạn, nghiên cứu, trải nghiệm từ các di sản vật thể và phi vật
thể, qua đó họ hiểu thêm các giá trị truyền thống của con người Việt Nam, đồng 7
thời giúp họ có niềm tin trong việc chọn Việt Nam làm điểm đến, điểm đầu tư
đáng tin cậy. Về phía người Việt Nam, quá trình mở cửa, hội nhập làm không ít
người lo lắng về sự xâm nhập ồ ạt của các luồng văn hóa ngoại lai, trong số đó
có những văn hóa không phù hợp với truyền thống, phong tục tập quán, thuần
phong mỹ tục của dân tộc; về sự mai một của nghệ thuật văn hóa truyền thống,
sự xuống cấp của những giá trị đạo đức, và những biểu hiện lệch lạc trong lối
sống của một bộ phận trong giới trẻ.... Trong hoàn cảnh ấy, di sản văn hóa, giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc càng được chăm lo bảo tồn và phát huy
chính là cái gốc để chúng ta yên tâm hội nhập mạnh mẽ vào các khu vực trên thế
giới mà không lo bị hòa tan. Trong quá trình hội nhập, thông qua di sản, bằng
nhiều hình thức như qua các màn trình diễn nghệ thuật truyền thống, qua các hội
nghị ở nước bạn hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta đã tập
trung giới thiệu các giá trị văn hóa của Việt Nam ra nước ngoài, để mọi người,
mọi quốc gia trên thế giới hiểu về văn hóa, đất nước con người Việt Nam.
Một mảng di sản văn hóa quan trọng, ngày càng được cộng đồng trong nước và
quốc tế quan tâm là di sản văn hóa phi vật thể phong phú và đa dạng của 54 dân
tộc trên đất nước ta. Việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật
thể như: Nhã nhạc, Cồng chiêng, Ca trù, Múa rối,.. vừa làm sống lại, tiếp sức cho
các di sản văn hóa mang sắc thái dân tộc đậm đà, vừa tạo điều kiện đề các nghệ
thuật trình diễn này góp phần tích cực cho sự phát triển. Những con thuyền rồng
trên sông Hương giờ đây không thể thiếu giọng hát của các đội ca Huế; Nhã
nhạc, Hát bội được biểu diễn thường xuyên, định kỳ tại Duyệt Thị Đường trong
Đại nội Huế; Quan họ đâu chỉ quanh quẩn ở Bắc Ninh vào những kỳ hội, mà đã
tham gia phục vụ tại các điểm du lịch trong cả nước… là những minh chứng dễ
thuyết phục nhất cho sự góp sức của loại hình di sản văn hóa này trong sự phát
triển chung của đất nước. 8
Nhiều tấm gương sáng trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã được
biểu dương, lan tỏa trong đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với
sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, xây dựng nền văn hóa, xây
dựng và phát triển đất nước. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có
bước phát triển mới, góp phần quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam nói chung
và di sản văn hóa nói riêng ra thế giới, đồng thời thúc đẩy quá trình giao lưu văn
hóa, tiếp thu tinh hoa và các giá trị tiến bộ của văn hóa nhân loại để bồi đắp và
xây dựng nền văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh đóng góp vào sự phát triển văn hóa, định hình bản sắc, hệ thống di sản
văn hóa này đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế
của các địa phương có di sản. Chẳng hạn như Khu phố cổ Hội An, di sản đã
được UNESCO ghi danh vào Danh mục Di sản Văn hóa thế giới đã có những
thay đổi tích cực, trở thành “thương hiệu du lịch” khá hấp dẫn đối với du khách
trong nước và quốc tế, góp phần đắc lực vào sự phát triển ngành kinh tế du lịch -
dịch vụ Hội An, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân - chủ di
tích, đồng thời tăng thêm điều kiện để bảo tồn, tu bổ di tích; trở thành nền tảng,
hành trang để Hội An vững bước đi lên xây dựng phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Quản lý nhà nước về Di sản văn hóa vật thể
1.2.1. Sự cần thiết quản lý Nhà nước về Di sản văn hóa vật thể
Di sản văn hóa từ lâu đã là một niềm tự hào của mỗi quốc gia, dân tộc trên toàn
thế giới, trong đó có cả Việt Nam. Bởi nó không đơn thuần là nét đẹp văn hóa
mà còn được xem như yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và
phát triển bền vững của một đất nước. Những năm qua, công tác quản lý Nhà
nước về di sản văn hóa luôn được quan tâm, tạo điểm nhấn và hiệu ứng tích cực
trong đời sống xã hội, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị những di sản văn hóa
quý báu của dân tộc, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn di sản văn hóa, 9
tín ngưỡng, tinh thần của nhân dân. Dù vậy, cần phải tiếp tục nâng cao, tăng
cường vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn các giá trị di sản văn hóa
là nhiệm vụ trọng tâm trong việc gìn giữ, bảo vệ các giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
1.2.2. Nội dung quản lý Nhà nước về Di sản văn hóa vật thể
Di sản văn hóa (DSVH) là sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Luật DSVH hiện hành
tại Việt Nam cũng chia DSVH thành: DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia (khoản 2, Điều 4) và DSVH phi vật thể là
sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn
hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng
đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác (khoản 1,
Điều 4). Theo thống kê hiện nay, Việt Nam đã có tổng cộng 08 DSVH thiên
nhiên thế giới (Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, Đô thị
cổ Hội An, Quần thể danh thắng Tràng An, Quần thể di tích Cố đô Huế, Thành
nhà Hồ, Thánh địa Mỹ Sơn, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Vịnh Hạ
Long)(1) và 11 DSVH phi vật thể (Nhã nhạc - Âm nhạc Cung đình Việt Nam,
không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, hát Ca
trù, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, hát Xoan, tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương, Đờn ca Tài tử Nam Bộ, dân ca vĩ dặm Nghệ Tĩnh, nghi lễ và trò kéo co,
thực hành Tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ của người Việt)(2) được UNESCO công nhận.
Mặt khác, trước sự thay đổi, chuyển biến mạnh mẽ về văn hóa trong quá trình
hội nhập quốc tế, đặc biệt là những giá trị văn hóa truyền thống, đòi hỏi Nhà
nước phải tăng cường sự quản lý trong lĩnh vực DSVH thông qua việc chỉ đạo, 10
tổ chức, điều hành mang tính hệ thống theo quy định pháp luật nhằm tạo điều
kiện bảo vệ, phát triển của DSVH. Quản lý Nhà nước về DSVH không chỉ là
các hoạt động hướng đến bảo tồn sự tồn tại về vật chất của DSVH mà còn là gìn
giữ, giáo dục các giá trị truyền thống, tinh thần, cội nguồn của dân tộc để cung
cấp các tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm sống, bài học lịch sử cho các thế hệ mai sau và cho cả nhân loại.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI DI SẢN
VĂN HÓA VẬT THỂ TẠI QUẢNG NAM
2.1 Khái quát địa lý, lịch sử và Di sản văn hóa vật thể tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Địa lý tỉnh Quảng Nam
Tỉnh Quảng Nam nằm ở miền Trung Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 820 km về
phía bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 900 km về phía nam dọc theo quốc lộ 1A.
Địa phương lân cận phía nam là Quảng Ngãi và phía bắc là thành phố Đà Nẵng.
Đất Quảng Nam xưa thuộc là vùng đất Chiêm Thành của Vua Chế Mân xưa. Sau
khi hôn ước của vua và công chúa Huyền Trân, nhà vua dâng tặng vùng đất này
cho người dân Đại Việt.
2.1.2. Lịch sử tỉnh Quảng Nam
Vào năm 1306, theo một thỏa thuận giữa vua Champa là Chế Mân và vua Trần
Nhân Tông của Đại Việt, về việc gã công chúa công chúa Huyền Trân. Vua Chế
Mân sẽ dùng 2 châu” Châu Ô và Châu Lý là sính lễ cho Đại Việt. Sau này, người
Việt dần dần định cư trên hai vùng đất mới, còn người Champa rút dần về vùng
đất còn lại ở phía nam của tổ quốc.
Mãi cho đến Năm 1471, sau khi chiếm được đất nam Thuận Hóa đến đèo Cù
Mông của nhà Đại Việt. Nhà vua lập thêm đơn vị hành chính số 13 – Thừa 11
Tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (nay
là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Cái tên Quảng Nam xuất hiện từ đây.
Xét về phương diện hành chính, Quảng Nam có tổng cộng 18 đơn vị hành chính
với 2 thành phố, 1 thị xã, 6 huyện đồng bằng và 9 huyện miền núi. Với tổng diện
tích là 10.574,74 km2 cùng 1.497 nghìn người tính đến cuối năm 2009. Với tổng
dân số như vậy, Quảng Nam hiện là tỉnh có dân số khá lớn so với các tỉnh khác trong cả nước.
Với địa hình đồi núi chiếm 2/3 diện tích, địa hình núi cao phân bố chủ yếu ở phía
tây bắc và tây nam của tỉnh, trong đó một số dãy núi chạy trải dài theo hướng tây
bắc – đông nam với độ cao trung bình từ 500-1000 mét so với mực nước biển.
Trong đó núi cao nhất phải kể đến là núi Ngọc Linh (với chiều cao 2.567m nằm
trong hệ thống dãy Trường Sơn đi ngang qua Quảng Nam
Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, mùa mưa trùng với
mùa đông, lượng mưa tập trung từ tháng 9 đến tháng 12 chiếm 80% lượng mưa
cả năm, mùa khô trùng với mùa hè. Nhiệt độ trung bình là trên 22° C. Vậy nên,
việc tham gia tour du lịch Quảng Nam vào thời gian nào chắc bạn đã nắm rõ.
2.1.3 Giới thiệu hai Di sản văn hóa vật thể tại Quảng Nam
Quảng Nam là một trong những thành phố đặc biệt có 2 di sản văn hóa thế giới
được Unesco công nhận tại Việt Nam. Hội An
Đô thị cổ Hội An là điểm tham quan chủ đạo của du khách khi đi du lịch Quảng
Nam, rất nhiều du khách ngỡ ngàng đến kinh ngạc, khi Quảng Nam vẫn còn 1
Hội An nguyên bản nhiều thế kỷ trước. những ngôi nhà nhỏ rêu phủ xinh xinh
nằm cạnh sông Thu Bồn êm ả. Các di tích chùa chiền, hội quán còn lưu giữ hầu
như nguyên vẹn, tạo cho du khách cảm giác như lạc vào quá khứ… 12
Đô thị cổ Hội An, gắn liền với thương cảng Hội An. Nơi giao lưu buôn bán tấp
nập vào thế kỷ thứ 16, hiện tại Hội An là điểm nhất vàng son trong hành trình du
lịch Quảng Nam. Vào năm 1999, Hội An được Unesco vinh dự công nhận là di sản văn hóa thế giới.
( H1.Hội An, Việt Nam
Tác giả Tang Trung Kien) Thánh địa Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn là một trong hai di sản lịch sử nổi tiếng của Quảng Nam, với
nhiều quần thể công trình, kiến trúc độc đáo bao gồm nhiều ngôi đền, tháp Chăm
được xây dựng sừng sửng như thách thức với thời gian.
Thánh địa Mỹ Sơn nằm ẩn sâu trong thung lũng được bao bọc bởi các dãy núi
xung quanh. Trước đây, nơi này là nơi tín ngưỡng văn hóa của các vị vua
Champa, và đây cũng là nơi thờ tự các vị thần linh trong văn háa Champa xưa.
Thánh địa Mỹ Sơn được các nhà khảo cổ tìm thấy vào năm 1885 và được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào năm 1999. 13
( H2. Thánh địa Mỹ Sơn Kienthucvui.vn)
2.2 Công tác quản lý Nhà nước về Di sản văn hóa vật thể tỉnh Quảng Nam
Trong thời gian qua, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp với các cấp, các
ngành liên quan đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến những văn bản pháp lý về di
sản văn hoá như Luật Di sản văn hóa năm 2001; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009; các văn bản liên quan của tỉnh trên lĩnh
vực văn hoá... tạo đồng thuận cao trong cộng đồng về giữ gìn và phát huy giá trị di sản.
Trong 6 tháng đầu năm 2011, tỉnh phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
và các Bộ, ngành Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Dự án Quy
hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử cách mạng Trung
Trung Bộ - Nước Oa, với quy mô là khu di tích cách mạng của cả nước có giá trị
lịch sử tiêu biểu đối với 11 tỉnh khu vực miền Trung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngay từ đầu năm, Sở đã tham mưu UBND tỉnh tổ chức Hội nghị tổng kết công
tác quản lý di tích năm 2010 và triển khai nhiệm năm 2011, tuyên dương những
địa phương, tập thể và cá nhân có những đóng góp xuất sắc trong công tác bảo 14
tồn di tích. Năm 2011, Trung tâm Quản lý di tích và danh thắng tỉnh triển khai
lập hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các di tích
quốc gia và tập huấn chủ Sở hữu di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh (dự kiến sẽ
hoàn thành trong năm 2011). Làm việc với các địa phương về công tác quản lý
các di tích xuống cấp, đồng thời tổ chức in hàng ngàn tập gấp tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về bảo vệ di tích gắn với việc kiểm tra tình trạng lấn chiếm di tích
nhằm đưa ra biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
Nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo tồn di tích, chúng tôi đã tham mưu
UBND tỉnh Quyết định ban hành Quy chế quản quản lý, bảo vệ và phát huy giá
trị các di tích và danh thắng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và Quyết định phê
duyệt Đề án Tu bổ cấp thiết di tích cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2011-2020. Đây là 2 văn bản pháp lý cần thiết cho công tác quản lý, bảo
tồn và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay.
Việc phân cấp quản lý di tích cho các địa phương trên địa bàn tỉnh được thực
hiện theo “Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích và danh thắng
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” (ban hành kèm theo Quyết định số 28/2010/QĐ-
UBND ngày 26/11/2010 của UBND tỉnh). Các di tích cấp quốc gia ủy quyền
cho UBND các huyện, thành phố quản lý; các di tích cấp tỉnh, di tích được
UBND tỉnh ra quyết định bảo vệ được giao cho UBND các xã, phường, thị trấn
quản lý. Do đó, hầu hết các địa phương đã làm tốt trách nhiệm của mình trong
công tác quản lý di tích.
Ngoài ra, nhằm tăng cường công tác xã hội hoá trong việc quản lý di tích, ngành
Văn hoá, Thể thao và Du lịch Quảng Nam phối hợp với ngành Giáo dục và Đào
tạo tỉnh chỉ đạo phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo tinh
thần Chỉ thị 40/CT-BGDĐT ngày 22/07/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Theo đó, mỗi trường phổ thông có trách nhiệm bảo quản, chăm sóc ít
nhất một di tích trên địa bàn. 15
Nhờ thực hiện các biện pháp trên, hệ thống các di tích và danh thắng tại Quảng
Nam trong thời gian qua đã được quản lý một cách chu đáo, toàn bộ phần di tích
gốc đều được bảo quản tốt, hạn chế việc bị xâm hại.
2.3.Tổng quan về hoạt động của Di sản văn hóa tại Quảng Nam.
Quảng Nam - mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng với 2
Di sản văn hóa thế giới là Đô thị cổ Hội An và Khu Đền tháp Mỹ Sơn; nghệ
thuật Bài chòi - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; Khu dự trữ
sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm. Nơi đây còn có hàng chục làng nghề truyền
thống và lễ hội độc đáo, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng,…
Thời gian qua, các sản phẩm du lịch độc đáo ở Khu phố cổ Hội An cùng nhiều lễ
hội, hoạt động văn hóa truyền thống, diễn xướng dân gian, Lễ hội đèn lồng...
được phục hồi, phát huy đúng hướng, vừa gắn với tín ngưỡng truyền thống, vừa
phục vụ khách tham quan, nghiên cứu.
Tại Khu đền tháp Mỹ Sơn, một số lễ hội dân gian, ca múa nhạc truyền thống của
dân tộc Chăm đã được tái hiện nhằm phục vụ du khách, đồng thời đã làm sống
lại “cái hồn” của khu di tích này.
Bên cạnh đó Quảng Nam còn xây dựng nhiều sản phẩm du lịch sinh thái, du lịch
cộng đồng, dịch vụ hấp dẫn tại các điểm đến khác như: Hồ Phú Ninh, Làng cổ
Lộc Yên, vườn Sâm tại huyện miền núi Nam Trà My,…
Năm 2019, Quảng Nam đón gần 7,8 triệu lượt khách, tốc độ tăng bình quân trên
20% mỗi năm; Năm 2020, mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực do ảnh hưởng
của đại dịch Covid-19, du lịch Quảng Nam vẫn đón khoảng 1,5 triệu lượt khách,
trong đó có trên 764.000 lượt khách quốc tế. Sau hơn 20 năm tái lập (1999 -
2019), quy mô khách đến Quảng Nam tăng gấp 25 lần. Khách du lịch đến Quảng
Nam đứng thứ 2/8 tỉnh, thành phố trong vùng du lịch Duyên hải Nam Trung bộ. 16
Trong đó, khách quốc tế đến Quảng Nam luôn dẫn đầu các tỉnh thuộc vùng du
lịch Duyên hải Nam Trung Bộ.
CHƯƠNG 3: NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ TỈNH QUẢNG NAM
3.1. Mặt tích cực
Sự hỗ trợ, phối hợp của Chính phủ và các Bộ, ngành trong nước liên quan đến
công tác quy hoạch, đầu tư tôn tạo, phát huy các giá trị di tích tại Quảng Nam
nhiều năm qua luôn được tiến hành thường xuyên và ngày càng hiệu quả.
Xác định giá trị của hệ thống các di tích để lại, những năm qua, Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh và các ngành, địa phương có liên quan tại Quảng Nam đã có nhiều
nỗ lực để giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích. Hầu hết các di tích
đã được ngành chức năng và chính quyền tỉnh Quảng Nam phát huy, đưa vào
giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống văn hóa cho các thế hệ người
dân, nhất là thế hệ trẻ; đồng thời khai thác các di tích trở thành các điểm, tour,
tuyến tham quan du lịch để phát triển kinh tế.
Ở góc độ phát huy, khai thác giá trị các di tích để phát triển du lịch, thúc đẩy
kinh tế phát triển, trong số các di tích tại Quảng Nam, đáng chú ý và hiệu quả
nhất là Khu phố cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn. Đây là 02 địa điểm du lịch,
đồng thời cũng là địa điểm kết nối các tour, tuyến du lịch quan trọng tại Quảng
Nam và các tỉnh miền Trung trong những năm qua, thu hút hàng triệu du khách,
trong đó có đông đảo du khách quốc tế tìm đến, mang lại nguồn thu lớn cho
ngành du lịch địa phương; đồng thời giúp người dân địa phương mở ra các dịch
vụ kinh doanh du lịch và hỗ trợ du lịch, từ đó giải quyết nhiều công ăn việc làm
và tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo trên địa bàn.
3.2. Mặt hạn chế 17
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về DSVH chưa hoàn thiện. Hiện nay, pháp luật về
DSVH vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế cần khắc phục như: chưa có các quy
định về việc rút tên DSVH phi vật thể ra khỏi Danh mục quốc gia về DSVH phi
vật thể khi các trường hợp đối tượng không còn đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cơ
bản của một DSVH phi vật thể trong quá trình phát triển; rút tên DSVH phi vật
thể khi không còn đủ các điều kiện là điều cần thiết và phù hợp với sự phát triển
của các loại hình bảo tồn, phát triển DSVH và khi một giá trị văn hóa đã không
còn phù hợp với sự phát triển của cộng đồng, không được cộng đồng lưu truyền
và không thể tồn tại trong đời sống văn hóa của cộng đồng thì cần phải được rút
ra khỏi Danh mục quốc gia về DSVH phi vật thể(5). Ngoài ra, các quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực DSVH còn chưa quy định cụ thể, chế
tài đặt ra chưa cao. Điều này gây nhiều khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra để phát hiện vi phạm.
Thứ hai, công tác bảo tồn DSVH chưa khoa học. Vấn đề quản lý Nhà nước về
DSVH tuy được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, nhưng cách thức tiến hành
thì chưa khoa học và hiệu quả. Công tác trùng tu và bảo vệ các DSVH bị hạn chế
bởi kinh phí cũng như vướng các thủ tục hành chính. Điều này dẫn đến sự xuống
cấp của các DSVH. Việc quản lý, bảo vệ di tích, bảo quản cổ vật, di vật, hiện vật
tại một số địa phương còn chưa hiệu quả. Một số di tích hạn chế về diện tích,
nằm xen kẽ trong các địa bàn dân cư nên việc tổ chức các hoạt động văn hóa tại
di tích gặp khó khăn. Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, đưa ra các phương án
giải quyết tối ưu và phù hợp nhất, bảo đảm hiệu quả trong công tác bảo tồn và
quản lý Nhà nước về DSVH hiện nay.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về DSVH còn chưa thực
hiện đầy đủ và nghiêm túc. Nguyên nhân một phần là do lực lượng thanh tra, hậu
kiểm còn mỏng, chế tài xử lý vi phạm còn thiếu hoặc chưa đủ sức răn đe. Việc
thanh tra, kiểm tra và xử lý các sai phạm trong lĩnh vực này chủ yếu đến từ phản 18
ánh, kiến nghị của báo chí và người dân. Tính chủ động của các cơ quan quản lý
văn hóa là chưa cao. Điều này dẫn đến tình trạng sai phạm, xâm phạm đến các DSVH vẫn còn diễn ra.
3.3. Đề xuất giải pháp
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về DSVH. Các cơ quan
chuyên môn về lĩnh vực văn hóa cần chủ động làm tốt công tác tham mưu ban
hành các văn bản chỉ đạo tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các
DSVH, tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động bảo tồn di
sản; chính sách hỗ trợ, tôn vinh những tổ chức, cá nhân, nghệ nhân có nhiều
đóng góp cho hoạt động bảo tồn, tôn tạo di tích và thực hành, truyền dạy DSVH
phi vật thể… Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội đồng DSVH Quốc gia rà
soát lại, đánh giá, tổng kết quá trình thực thi Luật DSVH.
Tăng cường công tác đào tạo, thúc đẩy nâng cao nhận thức của cán bộ và người
dân. Mỗi người dân và cán bộ cần có tiếp tục trau dồi kiến thức và phải có nhận
thức đầy đủ, đúng đắn về nội dung, ý nghĩa và sự cần thiết việc quản lý Nhà
nước đối với DSVH. Đồng thời, nâng cao nhận thức các cấp ủy đảng, chính
quyền và toàn xã hội về vị trí, vai trò, chức năng của DSVH trong đổi mới và
phát triển bền vững bảo đảm việc bảo vệ DSVH phải được chú trọng tương
xứng, hài hòa với phát triển kinh tế, xã hội.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Việc tổ chức kiểm tra cần được thực
hiện thường xuyên đầy đủ và kiểm tra đột xuất việc quản lý và sử dụng DSVH.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về quản lý Nhà nước đối với DSVH gắn
với trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Các cấp, các ngành
cần phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng
dân cư đối với việc quản lý Nhà nước đối với các DSVH. Đồng thời, khen
thưởng, động viên kịp thời các tổ chức, cá nhân có đóng góp hiệu quả trong công 19
tác quản lý Nhà nước đối với các DSVH để khích lệ, giúp đạt nhiều hiệu quả cao
trong quản lý Nhà nước về DSVH. C _ KẾT LUẬN
Có thể thấy, DSVH được xem như một tài sản quý giá của cộng đồng, là yếu tố
cốt lõi của bản sắc dân tộc, đồng thời là một bộ phận của DSVH nhân loại. Do
vậy, trong quá trình hội nhập phát triển hiện nay thì càng đòi hỏi sự tăng cường
quản lý Nhà nước đối với DSVH. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, rà soát và
hoàn thiện những tồn tại, vướng mắc trong quy định pháp luật, ban hành những
chủ trương, chính sách, kế hoạch quản lý Nhà nước về DSVH cũng như kịp thời
phát hiện và xử lý những hành vi sai phạm về DSVH luôn là mục tiêu quan trọng
hàng đầu cần thực hiện tốt để giúp cho hoạt động quản lý Nhà nước về DSVH
đạt được những hiệu quả cao trong thời gian tới, góp phần lưu giữ những giá trị
văn hóa tốt đẹp của đất nước, con người Việt Nam.
D _ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Hội An, Việt Nam: Tầm nhìnẢnh có sẵn1303493764 | Shutterstock
2.Di sản văn hóa vật thể là gì? Ví dụ về di sản văn hóa vật thể (luatminhkhue.vn)
3.quangnam.gov.vn/webcenter/portal/ubnd/pages_tin-tuc/chi-tiet?
dDocName=PORTAL072219&_afrLoop=7020983360454117&_afrWindowMo de=2&Adf-Window-
Id=b1d2yt76j&_afrPage=0&_afrFS=16&_afrMT=screen&_afrMFW=1232&_af
rMFH=606&_afrMFDW=1280&_afrMFDH=720&_afrMFC=8&_afrMFCI=0&
_afrMFM=0&_afrMFR=144&_afrMFG=0&_afrMFS=0&_afrMFO=0 4.Quảng Nam:Gắn việc
bảo tồn với phát huy giá trị các di sản (vietnamtourism.gov.vn)
5.Quản lý Nhà nước về di sản văn hóa và những vấn đề đặt ra (lsvn.vn) 20
6.Quảng Nam Tự Hào Với 2 Di sản Thế Giới Được Unesco Công Nhận (culaochamtour.com)
7.Quảng Nam phát huy giá trị di tích để thúc đẩy kinh tế- xã hội (dangcongsan.vn)
8.Thánh địa mỹ sơn hình - Bing
9.Vai trò của Di sản văn hóa trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc (dangcongsan.vn) E _ PHỤ LỤC PHỤC LỤC HÌNH ẢNH
Hình 1. Hội An. Việt Nam tác giả Tang Trung Kien..........................................13
Hình 2. Thánh địa Mỹ Sơn Kienthucvui.vn.........................................................14 21 22