Dịch vụ pháp gì? Khái niệm hợp đồng dịch
vụ pháp lý?
1. Dịch vụ pháp lý gì?
Trong đời sống hàng ngày, mọi người thường nghe nói đến cụm từ "dịch vụ
pháp lý". Vậy dịch vụ pháp gì, được quy định như thế nào ai được
quyền hành nghề dịch vụ pháp lý? Câu hỏi này không phải ai cũng thể trả
lời được trả lời một cách rành mạch. "Dịch vụ pháp lý" một lĩnh vực khá
rộng, "đặc quyền" của giới Luật sư, được pháp luật bảo hộ. Bởi lẽ, chỉ
văn bản pháp luật liên quan đến nh vực hành nghề Luật (Pháp lệnh Luật
n bản hướng dẫn thi hành) mới quy định về lĩnh vực dịch vụ pháp lý.
Pháp lệnh Luật năm 1987 Pháp lệnh Luật năm 2001 đều quy định
về vấn đề này, tuy mỗi thời điểm, khái niệm về "dịch vụ pháp lý" được hiểu
mức độ khác nhau.
Theo Pháp lệnh Luật năm 1987, "dịch vụ pháp lý" sự giúp đỡ pháp luật,
bao gồm: Việc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị
cáo hoặc đại diện cho người bị hại các đương sự khác trong vụ án hình sự,
kể cả vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự; Đại diện cho c
bên đương sự trong các vụ án dân sự hôn nhân gia đình lao động; Làm
vấn pháp luật cho các tổ chức kinh tế nhà nước, tập thể nhân, kể cả tổ
chức kinh tế nước ngoài; Làm các dịch vụ pháp khác cho công dân tổ
chức.
Pháp lệnh Luật năm 2001 quy định "dịch vụ pháp lý" bao gồm ba lĩnh vực:
Tố tụng, vấn pháp luật dịch vụ pháp khác. Đó là: Việc tham gia tố
tụng với cách người o chữa cho bị can bị cáo hoặc bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp cho người b hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; Việc tham gia tố tụng
với cách người đại diện hoặc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án dân sự, kinh tế, lao động hoặc hành chính; Việc tham
gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; vấn pháp luật, soạn thảo
hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của nhân, tổ chức; Đại diện theo ủy quyền
của nhân, tổ chức đ thực hiện công việc liên quan đến pháp luật; Thực
hiện dịch vụ pháp khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cả Pháp lệnh Luật 1987 Pháp lệnh Luật 2001 đều cụm
từ "dịch vụ pháp khác". Thế nhưng dịch vụ pháp khác thì hai văn
bản quan trọng nhất này lại không nói rõ. Mặc dù Pháp lệnh Luật 1987 đã
hết hiệu lực thi hành, trong khi Pháp lệnh Luật mới chưa văn bản
hướng dẫn về "dịch vụ pháp khác". Do vậy, "Dịch vụ pháp khác" "tạm
thời" vẫn phải sử dụng theo văn bản hướng dẫn trước đây. Điều 30, Quy chế
đoàn Luật ban hành kèm theo Nghị định 15/HĐBT ngày 21-2-1989 của Hội
đồng B trưởng hướng dẫn thi nh Pháp lệnh Luật 1987 do Hội đồng
Nhà nước ban hành thì các dịch vụ pháp khác là: Việc hướng dẫn, giải
thích về những vấn đề liên quan đến pháp luật; Hướng dẫn làm các đơn,
từ, hợp đồng; Hướng dẫn viết di chúc, giấy tờ tặng cho các văn bản
tính chất pháp lý. Việc hướng dẫn thể bằng văn bản hoặc bằng miệng.
2. Ai được làm dịch v pháp lý?
Như đã nói trên, hoạt động dịch vụ pháp được hình thành phát triển qua
một thời gian khá dài, gần 20 m. Trong sự phát triển đó, hoạt động dịch vụ
pháp đã từng trải qua những thăng trầm đến nay, chưa hẳn đã hoàn
thiện nhưng ít ra cũng đi vào khuôn khổ.
Trước đây, theo Pháp lệnh Luật 1987, đối tượng được làm dịch vụ pháp lý
bao gồm Luật sư, Luật tập sự những người đủ các tiêu chuẩn đã
quy định tại phần II, Thông 1119/QLTPK ngày 24-12-1987 của Bộ pháp
(gọi tắt "Người khác"). "Người khác" theo Thông 1119 phải hội đủ điều
kiện: cách đạo đức; Đã tốt nghiệp đại học pháp hoặc đã qua công tác
pháp từ 5 năm trở lên kiến thức tương đương đại học pháp lý. Điều
đáng lưu ý vào thời điểm đó, chuyên viên tư vấn pháp luật tại các văn
phòng dịch vụ pháp (bao gồm Luật sư, Luật tập sự, "người khác") chỉ
được thực hiện vấn về giải đáp pháp luật; vấn về sở pháp của các
hoạt động kinh tế, hội, quản nghiệp: vấn trong việc giải quyết tranh
chấp hợp đồng kinh tế, dân sự lao động; Hướng dẫn xây dựng các nội quy,
quy chế sở... không được phép đại diện cho đương sự để tham gia
vào việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế tranh chấp dân sự
hoặc thay mặt đương sự trực tiếp đến quan nhà nước thẩm quyền để
đề nghị giải quyết một việc cụ thể.
So với Pháp lệnh Luật 1970, quy định về đối tượng được làm dịch vụ pháp
theo pháp lệnh hiện hành hạn chế lớn nhưng phạm vi lại được mở rộng
hơn rất nhiều. Theo Pháp lệnh Luật 2001 Ngh định 94/2001/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 12-12-2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư,
chỉ những người được Bộ pháp cấp chứng chỉ hành nghề Luật
tham gia một tổ chức hành nghề Luật (Văn phòng Luật hay Công ty
luật hợp danh) thì mới được làm dịch vụ pháp lý. Luật tập sự khi hoạt
động dịch vụ pháp theo sự phân công của Luật hướng dẫn phải
được sự đồng ý của khách hàng. Luật tập sự không được vào văn bản
vấn pháp luật phải chịu trách nhiệm về chất lượng công việc mình
thực hiện trước Luật hướng dẫn tổ chức hành nghề Luật nơi mình
tập sự.
Văn bản pháp luật hiện hành không quy định "người khác" được hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý. Như vậy thể thấy, theo quy định mới này,
chỉ Luật mới được làm dịch vụ pháp lý. Ngoài việc hoạt động dịch vụ pháp
trong nước, Pháp lệnh Luật Nghị định 94 còn cho phép Luật được
quyền thực hiện dịch vụ pháp nước ngoài theo sự phân ng của Văn
phòng Luật hoặc Công ty luật hợp danh nơi Luật đó tham gia hành
nghề. Việc thoả thuận về công việc, mức thù lao trong hợp đồng dịch vụ pháp
bên ngoài lãnh thổ Việt Nam do các bên thoả thuận nhưng không được trái
với Pháp lệnh Luật sư, Ngh định 94 các quy định pháp luật khác.
3. Khái niệm hợp đồng dịch v pháp lý:
Hợp đồng dịch vụ: Theo quy định tại Điều 513 BLDS 2015 thì hợp đồng dịch
vụ sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện
công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ cho bên
cung ứng dịch vụ.
Hợp đồng dịch vụ pháp lý: Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt
Nam chưa một quy định nào thể hiện thế nào hợp đồng dịch vụ pháp
lý. Tuy nhiên thể khái quát khái niệm như sau:
Hợp đồng dịch vụ pháp một loại hợp đồng thuộc ngành dịch vụ nghề
nghiệp, theo đó bên luật cung cấp dịch vụ pháp cho bên thuê luật sư,
còn bên thuê luật phải trả tiền thù lao theo thỏa thuận,
Các chủ thể thể cung ứng dịch vụ pháp lý: t chức hành nghề luật sư,
luật hành nghề với cách nhân, văn phòng Thừa phát lại, Tổ chức
trọng tài thương mại.
4. Hình thức hợp đồng dịch vụ pháp
Theo quy định của khoản 2 Điều 26 Luật luật năm 2006: “Hợp đồng dịch
vụ pháp phải được làm thành văn bản…”. Như vậy, luật chỉ ghi nhận duy
nhất hình thức hợp đồng dịch vụ pháp văn bản”. Luật đã loại trừ các hình
thức thể hiện sự thoả thuận của các bên thông qua lời nói hoặc các hành vi
cụ thể .
Vậy, trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng dịch vụ pháp bằng lời nói
(hay còn gọi hợp đồng miệng) không lập thành văn bản thì sẽ như thế
nào? Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng
thông tuân thủ điều kiện về hình thức sẽ bị hiệu trừ trường hợp “một bên
hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì
theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu
lực của giao dịch đó”. Như vậy, trong trường hợp hợp đồng dịch vụ pháp
không được lập thành văn bản nhưng đảm bảo các điều kiện sau đây thì vẫn
thể coi như các bên đã hợp đồng dịch vụ pháp bằng văn bản:
- Một bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba các nghĩa vụ;
- Cả hai bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba các nghĩa vụ (một bên
cung cấp dịch vụ vấn, một bên thanh toán tiền).
Về phía khách hàng, việc chứng minh đã thực hiện được ít nhất hai phần ba
nghĩa vụ không khó dựa trên khoản tiền phí dịch vụ các bên đã thoả
thuận số tiền khách hàng đã thanh toán thì thể đưa ra được một
con số chính xác. Tuy nhiên, về phía tổ chức hành nghề luật cung cấp
dịch vụ vấn pháp luật, sẽ khó xác định thế nào đã thực hiện được hai
phần ba nghĩa vụ. Bởi lẽ dịch vụ pháp một dịch vụ tương đối đặc thù, rất
khó định lượng được. Nó ch thể xác định được khi những căn cứ cụ
thể hoặc là chứng minh được tổ chức hành nghề luật đã hoàn thành nghĩa
vụ vấn của mình.
5. Nghĩa vụ của các bên khi kết hợp đồng dịch vụ pháp
5.1. Nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ:
Đảm bảo các thông tin, tài liệu do bên thuê dịch vụ cung cấp cho bên cung
cấp dịch vụ sự thật;
Cung cấp kịp thời các thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết để bên cung
cấp dịch vụ thực hiện công việc;
Thanh toán tiền t lao, chi phí cho bên cung cấp dịch vụ;
Bồi thường các thiệt hại thực tế xảy ra cho bên cung cấp dịch vụ nếu bên
thuê dịch vụ đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật.
5.2. Nghĩa vụ của bên cung cấp dịch vụ:
Thực hiện công việc đã thỏa thuận với tinh thần nhiệt tình, trách nhiệm để
đảm bảo các quyền lợi chính đáng cho bên thuê dịch vụ;
Không được giao cho nhân, tổ chức khác thực hiện công việc nếu không
sự đồng ý của n thuê dịch vụ;
Thông báo kịp thời cho bên thuê dịch vụ về mọi vấn đề liên quan tới quá
trình thực hiện công việc;
Giữ mật các thông tin, tài liệu, chứng cứ hoặc sự kiện liên quan đến bên
thuê dịch vụ bên cung úng dịch vụ biết được trong quá trình thực hiện
công việc. Chỉ được công b các thông tin, tài liệu, chứng cứ sự kiện đó nếu
được sự đồng ý của bên thuê dịch vụ;
Bồi thường thiệt hại cho bên thuê dịch vụ nếu làm mất mát, hỏng tài liệu
hoặc tiết lộ thông tin trái thỏa thuận;
Bồi thường thiệt hại cho bên thuê dịch vụ nếu đơn phương hợp đồng trái
pháp luật.

Preview text:

Dịch vụ pháp lý là gì? Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý?
1. Dịch vụ pháp lý là gì?
Trong đời sống hàng ngày, mọi người thường nghe nói đến cụm từ "dịch vụ
pháp lý". Vậy dịch vụ pháp lý là gì, được quy định như thế nào và ai được
quyền hành nghề dịch vụ pháp lý? Câu hỏi này không phải ai cũng có thể trả
lời được và trả lời một cách rành mạch. "Dịch vụ pháp lý" là một lĩnh vực khá
rộng, là "đặc quyền" của giới Luật sư, được pháp luật bảo hộ. Bởi lẽ, chỉ có
văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực hành nghề Luật sư (Pháp lệnh Luật
sư và văn bản hướng dẫn thi hành) mới quy định về lĩnh vực dịch vụ pháp lý.
Pháp lệnh Luật sư năm 1987 và Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đều quy định
về vấn đề này, tuy mỗi thời điểm, khái niệm về "dịch vụ pháp lý" được hiểu ở mức độ khác nhau.
Theo Pháp lệnh Luật sư năm 1987, "dịch vụ pháp lý" là sự giúp đỡ pháp luật,
bao gồm: Việc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị
cáo hoặc đại diện cho người bị hại và các đương sự khác trong vụ án hình sự,
kể cả vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự; Đại diện cho các
bên đương sự trong các vụ án dân sự hôn nhân gia đình và lao động; Làm tư
vấn pháp luật cho các tổ chức kinh tế nhà nước, tập thể và tư nhân, kể cả tổ
chức kinh tế nước ngoài; Làm các dịch vụ pháp lý khác cho công dân và tổ chức.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định "dịch vụ pháp lý" bao gồm ba lĩnh vực:
Tố tụng, tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác. Đó là: Việc tham gia tố
tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can bị cáo hoặc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; Việc tham gia tố tụng
với tư cách là người đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án dân sự, kinh tế, lao động hoặc hành chính; Việc tham
gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; Tư vấn pháp luật, soạn thảo
hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức; Đại diện theo ủy quyền
của cá nhân, tổ chức để thực hiện công việc có liên quan đến pháp luật; Thực
hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cả Pháp lệnh Luật sư 1987 và Pháp lệnh Luật sư 2001 đều có cụm
từ "dịch vụ pháp lý khác". Thế nhưng dịch vụ pháp lý khác là gì thì hai văn
bản quan trọng nhất này lại không nói rõ. Mặc dù Pháp lệnh Luật sư 1987 đã
hết hiệu lực thi hành, trong khi Pháp lệnh Luật sư mới chưa có văn bản
hướng dẫn về "dịch vụ pháp lý khác". Do vậy, "Dịch vụ pháp lý khác" "tạm
thời" vẫn phải sử dụng theo văn bản hướng dẫn trước đây. Điều 30, Quy chế
đoàn Luật sư ban hành kèm theo Nghị định 15/HĐBT ngày 21-2-1989 của Hội
đồng Bộ trưởng hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Luật sư 1987 do Hội đồng
Nhà nước ban hành thì các dịch vụ pháp lý khác là: Việc hướng dẫn, giải
thích về những vấn đề có liên quan đến pháp luật; Hướng dẫn làm các đơn,
từ, hợp đồng; Hướng dẫn viết di chúc, giấy tờ tặng cho và các văn bản có
tính chất pháp lý. Việc hướng dẫn có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng.
2. Ai được làm dịch vụ pháp lý?
Như đã nói trên, hoạt động dịch vụ pháp lý được hình thành và phát triển qua
một thời gian khá dài, gần 20 năm. Trong sự phát triển đó, hoạt động dịch vụ
pháp lý đã từng trải qua những thăng trầm và đến nay, dù chưa hẳn đã hoàn
thiện nhưng ít ra cũng đi vào khuôn khổ.
Trước đây, theo Pháp lệnh Luật sư 1987, đối tượng được làm dịch vụ pháp lý
bao gồm Luật sư, Luật sư tập sự và những người có đủ các tiêu chuẩn đã
quy định tại phần II, Thông tư 1119/QLTPK ngày 24-12-1987 của Bộ Tư pháp
(gọi tắt là "Người khác"). "Người khác" theo Thông tư 1119 phải hội đủ điều
kiện: Có tư cách đạo đức; Đã tốt nghiệp đại học pháp lý hoặc đã qua công tác
pháp lý từ 5 năm trở lên và có kiến thức tương đương đại học pháp lý. Điều
đáng lưu ý là vào thời điểm đó, chuyên viên tư vấn pháp luật tại các văn
phòng dịch vụ pháp lý (bao gồm Luật sư, Luật sư tập sự, "người khác") chỉ
được thực hiện tư vấn về giải đáp pháp luật; Tư vấn về cơ sở pháp lý của các
hoạt động kinh tế, xã hội, quản lý xí nghiệp: Tư vấn trong việc giải quyết tranh
chấp hợp đồng kinh tế, dân sự và lao động; Hướng dẫn xây dựng các nội quy,
quy chế cơ sở... mà không được phép đại diện cho đương sự để tham gia
vào việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế và tranh chấp dân sự
hoặc thay mặt đương sự trực tiếp đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
đề nghị giải quyết một việc cụ thể.
So với Pháp lệnh Luật sư 1970, quy định về đối tượng được làm dịch vụ pháp
lý theo pháp lệnh hiện hành có hạn chế lớn nhưng phạm vi lại được mở rộng
hơn rất nhiều. Theo Pháp lệnh Luật sư 2001 và Nghị định 94/2001/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 12-12-2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư,
chỉ những người được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư và
tham gia một tổ chức hành nghề Luật sư (Văn phòng Luật sư hay Công ty
luật hợp danh) thì mới được làm dịch vụ pháp lý. Luật sư tập sự khi hoạt
động dịch vụ pháp lý là theo sự phân công của Luật sư hướng dẫn và phải
được sự đồng ý của khách hàng. Luật sư tập sự không được ký vào văn bản
tư vấn pháp luật và phải chịu trách nhiệm về chất lượng công việc mà mình
thực hiện trước Luật sư hướng dẫn và tổ chức hành nghề Luật sư nơi mình tập sự.
Văn bản pháp luật hiện hành không quy định "người khác" được hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý. Như vậy có thể thấy, theo quy định mới này,
chỉ Luật sư mới được làm dịch vụ pháp lý. Ngoài việc hoạt động dịch vụ pháp
lý trong nước, Pháp lệnh Luật sư và Nghị định 94 còn cho phép Luật sư được
quyền thực hiện dịch vụ pháp lý ở nước ngoài theo sự phân công của Văn
phòng Luật sư hoặc Công ty luật hợp danh nơi Luật sư đó tham gia hành
nghề. Việc thoả thuận về công việc, mức thù lao trong hợp đồng dịch vụ pháp
lý bên ngoài lãnh thổ Việt Nam do các bên thoả thuận nhưng không được trái
với Pháp lệnh Luật sư, Nghị định 94 và các quy định pháp luật khác.
3. Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý:
Hợp đồng dịch vụ: Theo quy định tại Điều 513 BLDS 2015 thì hợp đồng dịch
vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện
công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
Hợp đồng dịch vụ pháp lý: Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt
Nam chưa có một quy định nào thể hiện thế nào là hợp đồng dịch vụ pháp
lý. Tuy nhiên có thể khái quát khái niệm như sau: 
Hợp đồng dịch vụ pháp lý là một loại hợp đồng thuộc ngành dịch vụ nghề
nghiệp, theo đó bên luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho bên thuê luật sư,
còn bên thuê luật sư phải trả tiền thù lao theo thỏa thuận, 
Các chủ thể có thể cung ứng dịch vụ pháp lý: tổ chức hành nghề luật sư,
luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, văn phòng Thừa phát lại, Tổ chức trọng tài thương mại.
4. Hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý
Theo quy định của khoản 2 Điều 26 Luật luật sư năm 2006: “Hợp đồng dịch
vụ pháp lý phải được làm thành văn bản…”. Như vậy, luật chỉ ghi nhận duy
nhất hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý là văn bản”. Luật đã loại trừ các hình
thức thể hiện sự thoả thuận của các bên thông qua lời nói hoặc các hành vi cụ thể .
Vậy, trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng lời nói
(hay còn gọi là hợp đồng miệng) mà không lập thành văn bản thì sẽ như thế
nào? Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng
thông tuân thủ điều kiện về hình thức sẽ bị vô hiệu trừ trường hợp “một bên
hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì
theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu
lực của giao dịch đó”. Như vậy, trong trường hợp hợp đồng dịch vụ pháp lý
không được lập thành văn bản nhưng đảm bảo các điều kiện sau đây thì vẫn
có thể coi như các bên đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản:
- Một bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba các nghĩa vụ;
- Cả hai bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba các nghĩa vụ (một bên
cung cấp dịch vụ tư vấn, một bên thanh toán tiền).
Về phía khách hàng, việc chứng minh đã thực hiện được ít nhất hai phần ba
nghĩa vụ không khó vì dựa trên khoản tiền phí dịch vụ mà các bên đã thoả
thuận và số tiền mà khách hàng đã thanh toán thì có thể đưa ra được một
con số chính xác. Tuy nhiên, về phía tổ chức hành nghề luật sư cung cấp
dịch vụ tư vấn pháp luật, sẽ khó xác định thế nào là đã thực hiện được hai
phần ba nghĩa vụ. Bởi lẽ dịch vụ pháp lý là một dịch vụ tương đối đặc thù, rất
khó định lượng được. Nó chỉ có thể xác định được khi có những căn cứ cụ
thể hoặc là chứng minh được tổ chức hành nghề luật sư đã hoàn thành nghĩa vụ tư vấn của mình.
5. Nghĩa vụ của các bên khi ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý
5.1. Nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ:

Đảm bảo các thông tin, tài liệu do bên thuê dịch vụ cung cấp cho bên cung
cấp dịch vụ là sự thật; 
Cung cấp kịp thời các thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết để bên cung
cấp dịch vụ thực hiện công việc; 
Thanh toán tiền thù lao, chi phí cho bên cung cấp dịch vụ; 
Bồi thường các thiệt hại thực tế xảy ra cho bên cung cấp dịch vụ nếu bên
thuê dịch vụ đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật.
5.2. Nghĩa vụ của bên cung cấp dịch vụ:
Thực hiện công việc đã thỏa thuận với tinh thần nhiệt tình, trách nhiệm để
đảm bảo các quyền lợi chính đáng cho bên thuê dịch vụ; 
Không được giao cho cá nhân, tổ chức khác thực hiện công việc nếu không
có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ; 
Thông báo kịp thời cho bên thuê dịch vụ về mọi vấn đề liên quan tới quá
trình thực hiện công việc; 
Giữ bí mật các thông tin, tài liệu, chứng cứ hoặc sự kiện liên quan đến bên
thuê dịch vụ mà bên cung úng dịch vụ biết được trong quá trình thực hiện
công việc. Chỉ được công bố các thông tin, tài liệu, chứng cứ sự kiện đó nếu
được sự đồng ý của bên thuê dịch vụ; 
Bồi thường thiệt hại cho bên thuê dịch vụ nếu làm mất mát, hư hỏng tài liệu
hoặc tiết lộ thông tin trái thỏa thuận; 
Bồi thường thiệt hại cho bên thuê dịch vụ nếu đơn phương hợp đồng trái pháp luật.
Document Outline

  • Dịch vụ pháp lý là gì? Khái niệm hợp đồng dịch vụ
    • 1. Dịch vụ pháp lý là gì?
    • 2. Ai được làm dịch vụ pháp lý?
    • 3. Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý:
    • 4. Hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý
    • 5. Nghĩa vụ của các bên khi ký kết hợp đồng dịch v
      • 5.1. Nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ:
      • 5.2. Nghĩa vụ của bên cung cấp dịch vụ: