Doanh nghiệp trong thời kỳ Covid 19 | Luật Kinh Doanh| Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Trên hành trình học môn Luật Kinh Doanh tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, việc hiểu về doanh nghiệp trong thời kỳ Covid-19 trở nên vô cùng quan trọng. Trong bối cảnh dịch bệnh gây ra nhiều biến động và thách thức cho nền kinh tế và doanh nghiệp, việc nắm vững những quy định và chính sách pháp luật liên quan là cực kỳ cần thiết. Giới thiệu ngắn này là một cái nhìn tổng quan về cách mà doanh nghiệp đã phản ứng và thích ứng với tình hình Covid-19, cũng như về những biện pháp hỗ trợ và chính sách mà chính phủ đã triển khai. Sinh viên sẽ được tìm hiểu về các thách thức và cơ hội mà doanh nghiệp đối mặt trong thời gian này, cùng những biện pháp và chiến lược để vượt qua khó khăn và phát triển trong tương lai.

lOMoARcPSD| 41487872
MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG VỚI LÝ DO DỊCH BỆNH COVID-19?
Đến thời điểm hiện tại, tình hình diễn biến dịch bệnh Covid-19 hiện nay đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của Việt Nam nói riêng thế giới
nói chung, nhiều doanh nghiệp đã phải tạm ngừng kinh doanh, thậm chí giải thể,
một số doanh nghiệp vẫn hoạt động nhưng cũng đang phải cân nhắc bài toán
nhân sự để cắt giảm chi phí.
Theo Bộ luật Lao động 2012 thì có khá nhiều phương án để doanh nghiệp có
thể lựa chọn áp dụng trong việc giải quyết bài toán cắt giảm nhân sự các chi
phí liên quan, dụ như: giải pháp cho người lao động sử dụng ngày nghỉ hàng
năm, tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội (quỹ hưu trí và ttuất); hoặc cắt giảm các
khoản thưởng; thỏa thuận giảm giờ làm việc; hay thỏa thuận nghỉ không hưởng
lương hoặc trả lương ngừng việc; thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng lao động; thỏa
thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc doanh nghiệp đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động.
Tùy vào tình hình sản xuất, điều kiện kinh doanh và nguồn lực khác nhau mà
mỗi doanh nghiệp sẽ sự lựa chọn cho riêng mình, bởi mỗi phương án cũng sẽ
những ưu nhược điểm riêng. Vậy đối với phương án doanh nghiệp đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động thì pháp luật hiện hành quy định như thế
nào? Phương án này thực sự dễ dàng áp dụng đối với doanh nghiệp, nhưng
người sử dụng lao động trong thời điểm diễn biến phức tạp của dịch covid-19
vẫn đang kéo dài hay không?
Trước tiên, theo điểm c Khoản 1 Điều 30, Bộ luật Lao động năm 2012 quy
định thì người sử dụng lao động quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trong những trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những do bất khả
kháng khác theo quy định của pháp luật, người sử dụng lao động đã tìm mọi
biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Trong đó dịch bệnh cũng được xem là lý do bất khả kháng để người sử dụng lao
động sử dụng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo Khoản 2
Điều 12 Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số nội dung của Bộ luật lao động.
Về yếu tố dịch bệnh, hiện nay, pháp luật lao động hiện hành không quy
định cụ thể như thế nào là dịch bệnh. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống bệnh truyền
nhiễm 2007 (Khoản 1 Khoản 13 Điều 2) quy định: "Dịch sự xuất hiện
bệnh truyền nhiễm với số người mắc bệnh vượt quá số người mắc bệnh dự tính
lOMoARcPSD| 41487872
bình thường trong một khoảng thời gian xác định một khu vực nhất định"
"Bệnh truyền nhiễm bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ
động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm".
Trên thế giới, ngày 11/3, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tuyên bố dịch
bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 do chủng mới của virus corona (SARS-
CoV-2) là một đại dịch toàn cầu.
Việt Nam, ngày 1/4/2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã công bố
Covid-19 bệnh truyền nhiễm nhóm A, nguy mức độ đại dịch toàn cầu
(theo Quyết định 447/QĐ-TTg năm 2020). Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm
đặc biệt nguy hiểm khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng tỷ lệ tử
vong cao hoặc chưa tác nhân gây bệnh (Khoản 1 Điều 3 Luật phòng chống
bệnh truyền nhiễm 2007).
Như vậy, dịch bệnh Covid-19 hiện nay có thể được xem là sự kiện bất kháng
để doanh nghiệp sở thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
đối với người lao động. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần biết rằng, phương án đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động nêu trên là không hề dễ dàng áp dụng. Bởi
lẽ:
Theo điểm c Khoản 1 Điều 30, Bluật Lao động năm 2012 quy định, khi
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do dịch bệnh doanh nghiệp phải
đảm bảo hai điều kiện:
i) Phải có dịch bệnh xảy ra
ii) Doanh nghiệp đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu
hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Từ quy định trên thể thấy, để đơn phương chấm dứt hợp đồng với người
lao động vì dịch bệnh covid-19 thì doanh nghiệp cần phải đảm bảo là đã tìm mọi
biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Tuy nhiên, pháp luật lao động hiện nay của nước ta lại không có quy định cụ
thể để giải như thế nào là "doanh nghiệp đã tìm mọi biện pháp khắc phục
nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm vic". Điều này dẫn đến
nhiều cách hiểu khác nhau, do đó việc vận dụng trên thực tế thể không đồng
nhất sẽ rủi ro. Nếu vận dụng không khéo doanh nghiệp thể bị Tòa án
xác định đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật khi các bên tranh
chấp phát sinh. Người lao động quyền khởi kiện ra Tòa án nơi công ty đóng
trụ sở chính để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
lOMoARcPSD| 41487872
Đồng thời, theo Khoản 2 Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012 thì doanh
nghiệp lưu ý khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp này
doanh nghiệp phải báo cho người lao động biết trước:
- Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
- Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo
một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Như vậy, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quyền của doanh
nghiệp, tuy nhiên để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động,
đặc biệt của người lao động - vốn bên yếu thế hơn họ chịu sự quản lý,
điều hành của doanh nghiệp, thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
phải đảm báo căn cứ, đúng trình tpháp luật quy định. Do đó, hướng đi
cho doanh nghiệp lúc này, thay chọn giải pháp đơn phương chấm dứt hợp
đồng vì lý do dịch bệnh ngay từ đầu thì doanh nghiệp nên cân nhắc lựa chọn các
phương án an toàn hơn như: thỏa thuận giảm giờ làm việc, thỏa thuận nghỉ
không hưởng lương hoặc trả lương ngừng việc, thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng
lao động, thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động... Chỉ khi doanh nghiệp đã thử
vận dụng các phương án này vẫn không thể khắc phục được thì mới đi đến
lựa chọn đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động. Đây cũng chính là
những giải pháp doanh nghiệp thể chia sẻ cùng người lao động và ngược
lại trong bối cảnh tình hình dịch bệnh covid-19 vẫn đang tiếp diễn phức tạp
có thể kéo dài trong thời gian dài./.
THẢO ANH
| 1/3

Preview text:

lOMoAR cPSD| 41487872
MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG VỚI LÝ DO DỊCH BỆNH COVID-19?
Đến thời điểm hiện tại, tình hình diễn biến dịch bệnh Covid-19 hiện nay đã
có ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của Việt Nam nói riêng và thế giới
nói chung, nhiều doanh nghiệp đã phải tạm ngừng kinh doanh, thậm chí giải thể,
một số doanh nghiệp vẫn hoạt động nhưng cũng đang phải cân nhắc bài toán
nhân sự để cắt giảm chi phí.
Theo Bộ luật Lao động 2012 thì có khá nhiều phương án để doanh nghiệp có
thể lựa chọn áp dụng trong việc giải quyết bài toán cắt giảm nhân sự và các chi
phí liên quan, ví dụ như: giải pháp cho người lao động sử dụng ngày nghỉ hàng
năm, tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội (quỹ hưu trí và tử tuất); hoặc cắt giảm các
khoản thưởng; thỏa thuận giảm giờ làm việc; hay thỏa thuận nghỉ không hưởng
lương hoặc trả lương ngừng việc; thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng lao động; thỏa
thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc doanh nghiệp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Tùy vào tình hình sản xuất, điều kiện kinh doanh và nguồn lực khác nhau mà
mỗi doanh nghiệp sẽ có sự lựa chọn cho riêng mình, bởi mỗi phương án cũng sẽ
có những ưu và nhược điểm riêng. Vậy đối với phương án doanh nghiệp đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động thì pháp luật hiện hành quy định như thế
nào? Phương án này có thực sự dễ dàng áp dụng đối với doanh nghiệp, nhưng
người sử dụng lao động trong thời điểm diễn biến phức tạp của dịch covid-19
vẫn đang kéo dài hay không?
Trước tiên, theo điểm c Khoản 1 Điều 30, Bộ luật Lao động năm 2012 quy
định thì người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trong những trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả
kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi
biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Trong đó dịch bệnh cũng được xem là lý do bất khả kháng để người sử dụng lao
động sử dụng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo Khoản 2
Điều 12 Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số nội dung của Bộ luật lao động.
Về yếu tố dịch bệnh, hiện nay, pháp luật lao động hiện hành không có quy
định cụ thể như thế nào là dịch bệnh. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống bệnh truyền
nhiễm 2007 (Khoản 1 và Khoản 13 Điều 2) có quy định: "Dịch là sự xuất hiện
bệnh truyền nhiễm với số người mắc bệnh vượt quá số người mắc bệnh dự tính
lOMoAR cPSD| 41487872
bình thường trong một khoảng thời gian xác định ở một khu vực nhất định"
"Bệnh truyền nhiễm là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ
động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm"
.
Trên thế giới, ngày 11/3, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tuyên bố dịch
bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 do chủng mới của virus corona (SARS-
CoV-2) là một đại dịch toàn cầu.
Ở Việt Nam, ngày 1/4/2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã công bố
Covid-19 là bệnh truyền nhiễm nhóm A, nguy cơ ở mức độ đại dịch toàn cầu
(theo Quyết định 447/QĐ-TTg năm 2020). Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm
đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử
vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh (Khoản 1 Điều 3 Luật phòng chống
bệnh truyền nhiễm 2007).
Như vậy, dịch bệnh Covid-19 hiện nay có thể được xem là sự kiện bất kháng
để doanh nghiệp có cơ sở thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
đối với người lao động. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần biết rằng, phương án đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động nêu trên là không hề dễ dàng áp dụng. Bởi lẽ:
Theo điểm c Khoản 1 Điều 30, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định, khi
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do dịch bệnh doanh nghiệp phải
đảm bảo hai điều kiện:
i) Phải có dịch bệnh xảy ra
ii) Doanh nghiệp đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu
hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Từ quy định trên có thể thấy, để đơn phương chấm dứt hợp đồng với người
lao động vì dịch bệnh covid-19 thì doanh nghiệp cần phải đảm bảo là đã tìm mọi
biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Tuy nhiên, pháp luật lao động hiện nay của nước ta lại không có quy định cụ
thể để lý giải như thế nào là "doanh nghiệp đã tìm mọi biện pháp khắc phục
nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việ
c". Điều này dẫn đến
nhiều cách hiểu khác nhau, do đó việc vận dụng trên thực tế có thể không đồng
nhất và sẽ có rủi ro. Nếu vận dụng không khéo doanh nghiệp có thể bị Tòa án
xác định là đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật khi các bên có tranh
chấp phát sinh. Người lao động có quyền khởi kiện ra Tòa án nơi công ty đóng
trụ sở chính để yêu cầu bồi thường thiệt hại. lOMoAR cPSD| 41487872
Đồng thời, theo Khoản 2 Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012 thì doanh
nghiệp lưu ý khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp này
doanh nghiệp phải báo cho người lao động biết trước:
- Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
- Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo
một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Như vậy, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là quyền của doanh
nghiệp, tuy nhiên để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động,
đặc biệt là của người lao động - vốn là bên yếu thế hơn vì họ chịu sự quản lý,
điều hành của doanh nghiệp, thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
phải đảm báo có căn cứ, đúng trình tự mà pháp luật quy định. Do đó, hướng đi
cho doanh nghiệp lúc này, thay vì chọn giải pháp đơn phương chấm dứt hợp
đồng vì lý do dịch bệnh ngay từ đầu thì doanh nghiệp nên cân nhắc lựa chọn các
phương án an toàn hơn như: thỏa thuận giảm giờ làm việc, thỏa thuận nghỉ
không hưởng lương hoặc trả lương ngừng việc, thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng
lao động, thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động... Chỉ khi doanh nghiệp đã thử
vận dụng các phương án này mà vẫn không thể khắc phục được thì mới đi đến
lựa chọn đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động. Đây cũng chính là
những giải pháp mà doanh nghiệp có thể chia sẻ cùng người lao động và ngược
lại trong bối cảnh tình hình dịch bệnh covid-19 vẫn đang tiếp diễn phức tạp và
có thể kéo dài trong thời gian dài./. THẢO ANH