Độc lập dân tộc tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Hồ Chí Minh: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đó tất cả những
tôi muốn, đó tất cả những tôi hiểu. Trong bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đanh thép khẳng định:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh nước mất nhà tan. Người đã
tận mắt chứng kiến sự đàn áp thống trị tàn bạo của đế quốc Pháp đối với dân tộc,
sự hèn hạ của triều đình phong kiến và rất khâm phục tinh thần chống Pháp giành
độc lập của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Thực tiễn đó đã hình thành ở
Người lòng khát khao giải phóng dân tộc, thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu
nước vào tháng 6/1911. Vì vậy, vấn đề dân tộc trong tưởng Hồ Chí Minh không
phải vấn đề dân tộc nói chung vấn đề dân tộc thuộc thuộc địa trong thời
đại cách mạng sản. Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề đấu tranh giải phóng
các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân
tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành
lập nhà nước dân tộc độc lập.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã chứng kiến thực trạng
hội những nơi Người từng đặt chân tới, đâu cũng cảnh áp bức, bóc lột, bất
công nỗi thống khổ do chủ nghĩa đế quốc gây ra. Hồ Chí Minh đã đi đến một
kết luận cùng quan trọng: Thế giới cùng bao la, nhân loại cùng
đông đảo, suy đến cùng chỉ có 2 giống người: đi bóc lột bị bóc lột. Đến khi bắt
gặp luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa thì nhận thức của
Hồ Chí Minh về vấn đđộc lập dân tộc được xác định trên sở khoa học và
được nâng lên ở tầm cao mới.
Ngay từ năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng được các
đồng minh thắng trận thừa nhận, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước
tại Pháp, với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi bản Yêu sách 8 điểm đến Hội
nghị Vécxây đòi tự do dân chủ cho nhân dân An Nam. Trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã vạch nhiệm vụ đầu tiên của
cách mạng Việt Nam là: "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong kiến;
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đến năm 1941, Hồ Chí Minh về
nước, khi chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Người đã chỉ rõ: “Trong lúc
này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Trong bài Mười chính sách
của Việt Minh, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định mục tiêu đầu tiên của cách
mạng “Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”. Câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh
thể hiện ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc vẫn luôn sợi chỉ đỏ của cách mạng
Việt Nam: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập!”.
Hồ Chí Minh khẳng định, độc lập, tự do quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của tất cả các dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, tất cả các dân tộc trên thế giới, dân
tộc đó "thượng đẳng" hay "hạ đẳng", "văn minh" hay "lạc hậu" đều quyền
được hưởng độc lập, đều quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Độc lập, tự do dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải thực sự, hoàn toàn, chứ không
phải thứ độc lập, tự do giả hiệu giống như "cái bánh vẽ" chủ nghĩa đế quốc
nêu ra. Độc lập dân tộc phải được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
hội, các quyền dân tộc, quyền con người phải được thực hiện trên thực tế. Một
dân tộc độc lập thì phải quyền t quyết định trên tất cả các mặt kinh tế, chính
trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ, trước hết quan trọng nhất
quyền quyết định về chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân. Người
chỉ rõ: "Nước độc lập dân không được tự do thì độc lập ấy chẳng nghĩa
gì". Độc lập, tự do phải gắn liền với hoà bình chân chính. Muốn độc lập, tự do
phải đấu tranh chống lại ách áp bức dân tộc của chủ nghĩa đế quốc.
Cho đến hôm nay, trong tâm thức mỗi người Việt Nam yêu nước vẫn còn vang
vọng lời Bác dạy trong bản Tuyên ngôn độc lập: "Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy"

Preview text:

Độc lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Hồ Chí Minh: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đó là tất cả những
gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Trong bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đanh thép khẳng định:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh nước mất nhà tan. Người đã
tận mắt chứng kiến sự đàn áp thống trị tàn bạo của đế quốc Pháp đối với dân tộc,
sự hèn hạ của triều đình phong kiến và rất khâm phục tinh thần chống Pháp giành
độc lập của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Thực tiễn đó đã hình thành ở
Người lòng khát khao giải phóng dân tộc, thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu
nước vào tháng 6/1911. Vì vậy, vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không
phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc thuộc địa trong thời
đại cách mạng vô sản. Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề đấu tranh giải phóng
các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân
tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành
lập nhà nước dân tộc độc lập.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã chứng kiến thực trạng xã
hội những nơi Người từng đặt chân tới, ở đâu cũng có cảnh áp bức, bóc lột, bất
công và nỗi thống khổ do chủ nghĩa đế quốc gây ra. Hồ Chí Minh đã đi đến một
kết luận vô cùng quan trọng: Thế giới dù vô cùng bao la, nhân loại dù vô cùng
đông đảo, suy đến cùng chỉ có 2 giống người: đi bóc lột và bị bóc lột. Đến khi bắt
gặp luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa thì nhận thức của
Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc được xác định trên cơ sở khoa học và
được nâng lên ở tầm cao mới.
Ngay từ năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng được các
đồng minh thắng trận thừa nhận, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước
tại Pháp, với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi bản Yêu sách 8 điểm đến Hội
nghị Vécxây đòi tự do dân chủ cho nhân dân An Nam. Trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã vạch rõ nhiệm vụ đầu tiên của
cách mạng Việt Nam là: "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến;
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đến năm 1941, Hồ Chí Minh về
nước, khi chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Người đã chỉ rõ: “Trong lúc
này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Trong bài Mười chính sách
của Việt Minh, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định mục tiêu đầu tiên của cách
mạng là “Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”. Câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh
thể hiện ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc vẫn luôn là sợi chỉ đỏ của cách mạng
Việt Nam: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập!”.
Hồ Chí Minh khẳng định, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của tất cả các dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, tất cả các dân tộc trên thế giới, dù dân
tộc đó là "thượng đẳng" hay "hạ đẳng", "văn minh" hay "lạc hậu" đều có quyền
được hưởng độc lập, đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Độc lập, tự do dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải thực sự, hoàn toàn, chứ không
phải là thứ độc lập, tự do giả hiệu giống như "cái bánh vẽ" mà chủ nghĩa đế quốc
nêu ra. Độc lập dân tộc phải được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, các quyền dân tộc, quyền con người phải được thực hiện trên thực tế. Một
dân tộc độc lập thì phải có quyền tự quyết định trên tất cả các mặt kinh tế, chính
trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ, mà trước hết và quan trọng nhất là
quyền quyết định về chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân. Người
chỉ rõ: "Nước độc lập mà dân không được tự do thì độc lập ấy chẳng có nghĩa lý
gì". Độc lập, tự do phải gắn liền với hoà bình chân chính. Muốn có độc lập, tự do
phải đấu tranh chống lại ách áp bức dân tộc của chủ nghĩa đế quốc.
Cho đến hôm nay, trong tâm thức mỗi người Việt Nam yêu nước vẫn còn vang
vọng lời Bác dạy trong bản Tuyên ngôn độc lập: "Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy"