



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61630929
Câu 1: Trình bày và phân tích các trường hợp mà quốc gia tham gia với tư cách
là chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế, quốc gia tham gia với tư cách chủ thể trong hai
trường hợp. Một là, kí kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế về thương mại; hai là,
tham gia giao dịch thương mại với các chủ thể khác như cá nhân và pháp nhân.
Trong trường hợp thứ nhất, với tư cách chủ thể trong quan hệ quốc tế, quốc
gia kí kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế. Trong đó, quốc gia thỏa thuận với các
quốc gia khác về quyền và nghĩa vụ của mình trong thương mại quốc tế. Ví dụ: khi
kí kết Hiệp định chung thuế quan và thương mại (GATT) các nước thành viên đã
cam kết thực hiện những điều đã thỏa thuận; hoặc khi tham gia tổ chức thương mại
quốc tế (WTO) các nước thành viên phải tuân thủ quy chế và các quy định được ghi
nhận trong các hiệp định của tổ chức này.
Trong trường hợp thứ hai, quốc gia tham gia quan hệ thương mại quốc tế với
các chủ thể khác như cá nhân và pháp nhân. Khi tham gia quan hệ này, quốc gia luôn
là chủ thể đặc biệt và được hưởng quy chế đặc biệt. Theo đó, một số nguyên tắc
trong giao dịch hợp đồng sẽ bị hạn chế áp dụng nếu các quốc gia tham gia với tư
cách chủ thể không từ bỏ quyền miễn trừ của mình, cụ thể là:
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng. Về mặt lí luận, khi tham gia kí kết hợp đồng
dân sự nói chung và hợp đồng thương mại quốc tế nói riêng, các bên chủ thể của
quan hệ hợp đồng luôn bình đẳng với nhau. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp đồng mà
một bên chủ thể là nhà nước thì nguyên tắc bình đẳng hầu như không được đặt ra.
Nói cách khác, khi hợp đồng kinh doanh được kí kết giữa quốc gia và thương nhân
(thể nhân hoặc pháp nhân) thì nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể không được áp
dụng. Bởi vì, khác với các loại chủ thể khác như thể nhân và pháp nhân, quốc gia là
loại chủ thể có chủ quyền. Quốc gia có quyền tối cao trong quan hệ đối nội cũng như
đối ngoại. Về mặt thực tế, quốc gia có đầy đủ điều kiện để thực hiện quyền tối cao
đó. Ví dụ: quốc gia có pháp luật, nắm cơ sở kinh tế, hệ thống ngân hàng, tiền tệ, lực
lượng lao động, nguồn tài nguyên thiên nhiên… để thực hiện quyền tối cao của mình.
Vì các điều kiện trên đây mà khi tham gia quan hệ dân sự nói chung và quan hệ kinh
doanh quốc tế nói riêng, quốc gia được hưởng quyền miễn trừ về chủ quyền (sovereign immunity). lOMoAR cPSD| 61630929
Thứ hai, nguyên tắc chọn luật: Về mặt lí luận, hợp đồng là sự thỏa thuận của
các bên chủ thể, do đó các bên có quyền thỏa thuận tất cả những vấn đề mà pháp
luật không cấm. Trên cơ sở của lí luận này, trong hợp đồng thương mại quốc tế, các
bên có quyền thỏa thuận tất cả những vấn đề mà pháp luật nơi kí kết hợp đồng không
cấm, trong đó có cả việc chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Các bên có thể chọn luật
do các bên mang quốc tịch, luật nơi kí kết hợp đồng, luật nới thực hiện hợp đồng…
Tuy nhiên, trong trường hợp hợp đồng mà một bên chủ thể là quốc gia thì vấn đề
chọn luật áp dụng cho hợp đồng đó không được đặt ra vì pháp luật áp dụng cho hợp
đồng sẽ là pháp luật của quốc gia với tư cách là chủ thể của quan hệ hợp đồng đó.
Như vậy, về mặt thực tế cũng như về mặt pháp lý, tất cả các quốc gia, không
kể diện tích lớn hay nhỏ, dân cư nhiều hay ít, tiềm lực kinh tế mạnh hay yếu… khi
tham gia kí kết các hợp đồng với thương nhân đều được hưởng quyền ưu đãi đặc
biệt. Theo đó, quốc gia có quyền đương nhiên áp dụng luật của nước mình vào hợp
đồng và nếu có tranh chấp xảy ra thì được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. Nội dung
quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là: Không cơ quan xét xử nào có quyền xét xử
quốc gia; tài sản của quốc gia không bị sai áp để bảo đảm sơ bộ cho một vụ kiện và
quốc gia sẽ không bị ràng buộc bởi các phán quyết của tòa án nước ngoài chống lại quyền lợi của mình.
Sự ưu đãi đặc biệt của quốc gia trong quan hệ dân sự nói chung và trong kinh
doanh quốc tế nói riêng, như đã trình bày ở trên đây, đã làm hạn chế rất nhiều các
giao dịch kinh dianh giữa quốc gia và thương nhân. Tuy nhiên, trong khoảng hơn
hai mươi năm trở lại đây, học thuyết về quyền miễn trừ quốc gia có giới hạn (The
doctrine of restrifted state immunity) đã và đang ngày càng được áp dụng một cách
phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế. Theo học thuyết này thì quốc gia có thể
tự hạn chế quyền miễn trừ của mình. Trong trường hợp này, quốc gia sẽ chịu trách
nhiệm pháp lí trong quan hệ hợp đồng giống như các chủ thể khác.
Việc quốc gia tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ của mình có ý nghĩa rất quan
trọng về lí luận cũng như thực tiễn đối với việc thúc đẩy các giao dịch thương mại
quốc tế. Nó tạo ra môi trường pháp lí bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ pháp
luật dân sự, đặc biệt quan hệ hợp đồng, nhằm thu hút sự tham gia của các thể nhân
và pháp nhân nước ngoài. Để thực hiện quyền này của mình, quốc gia quy định trong lOMoAR cPSD| 61630929
pháp luật nước mình những trường hợp từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia. Ví dụ, Luật
về miễn trừ chủ quyền nước ngoài của Hoa Kỳ năm 1976 (Foreign Sovereign
Immunities Act 1976). Trong đó quy định rằng một quốc gia nước ngoài sẽ không
được hưởng quyền miễn trừ xét xử trước tòa án của Hòa Kỳ nếu quốc gia nước ngoài
đó đã tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia (Điều 1605). Ngoài việc quy định
trong luật pháp nước mình về các trường hợp từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia, trong
quan hệ quốc tế, các quốc gia tham gia kí kết các điều ước quốc tế trong đó tự nguyện
từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ: để giải
quyết những tranh chấp giữa quốc gia với công dân mang quốc tịch nước ngoài trong
lĩnh vực đầu tư quốc tế, một số nước đã kí kết tham gia Công ước Washington (1965)
về giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư giữa các quốc gia và các công dân
nước khác. Theo đó, việc giải quyết tranh chấp giữa các bên được tiến hành trước tổ
chức trọng tài thiết chế và dưới sự giám sát của Trung tâm Trọng tài quốc tế giải
quyết tranh chấp đầu tư (International Centre for the Settlement of Investment Disputes – ICSID).
Câu 2: Trình bày các điều kiện pháp lý để cá nhân trở thành chủ thể trong giao
dịch thương mại quốc tế. Cho 01 ví dụ minh hoạ
Cá nhân, với tư cách chủ thể trong thương mại quốc tế là thương nhân hội đủ
các điều kiện mà pháp luật quy định. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà luật pháp
các nước có thể quy định một cách cụ thể hoặc không cụ thể các điều kiện đối với
cá nhân khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế với tư cách chủ thể.
Nếu pháp luật quy định một cách cụ thể các tiêu chuẩn của chủ thể là cá nhân
thì chỉ những người có đầy đủ tất cả những yêu cầu mà pháp luật quy định mới có
thể trở thành chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế.
Nếu pháp luật không quy định cụ thể các điều kiện của chủ thể là cá nhân
trong quan hệ của luật thương mai quốc tế thì khi xem xét tư cách chủ thể của một
người trong quan hệ thương mại quốc tế sẽ căn cứ vào quy định đối với cá nhân là
thương nhân trong quan hệ pháp luật thương mại trong nước đồng thời có bổ sung
một số điều kiện nhất định. Nói cách khác, trong trường hợp này, cá nhân muốn trở
thành chủ thể trong luật thương mại quốc tế phải là thương nhân trong quan hệ lOMoAR cPSD| 61630929
thương mại trong nước, đồng thời hội đủ các điều kiện bổ sung theo quy định của
pháp luật để có thể tham gia giao dịch thương mại quốc tế. Ví dụ: theo quy định của
pháp luật Việt Nam thì người đủ điều kiện trở thành chủ thể trong hoạt động thương
mại trong nước, nếu muốn hoạt động thương mại với nước ngoài thì phải có đầy đủ
các điều kiện do Chính phủ quy định (Điều 73 LTM 2005).
Mặc dù có quy định cụ thể khác nhau nhưng nhìn chung khi đề cập việc xác
định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ thương mại nói chung và quan hệ
thương mại quốc tế nói riêng, luật pháp của hầu hết các nước đều dựa trên hai tiêu
chuẩn pháp lí liên quan trực tiếp tới cá nhân đó là: Các điều kiện về nhân thân và
các điều kiện về nghề nghiệp của cá nhân.
Các điều kiện về nhân thân:
Điều kiện nhân thân của cá nhân là điều kiện pháp lí gắn liền với một con
người cụ thể. Theo quy định của pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới, việc
xem xét điều kiện về nhân thân của một người để trở thành thương nhân không chỉ
căn cứ vào năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người đó mà còn căn cứ vào
những yêu cầu khác. Ví dụ: Người muốn trở thành chủ thể trong thương mại quốc
tế không chỉ đủ năng lực hành vi theo luật định mà còn phải tuân thủ các quy định
khác của pháp luật như: không phải là người bị cơ quan có thẩm quyền tước quyền
tham gia kinh doanh hoặc không phải là người đang chấp hành án phạt tù…
Điều kiện về nghề nghiệp
Theo quy định của luật pháp nhiều nước, đặc biệt là các nước phương Tây thì
những người đang làm một số nghề nhất định sẽ không được tham gia hoạt động
thương mại quốc tế. Ví dụ: theo Luật thương mại của Cộng hòa Pháp thì những
người làm nghề như công chức, luật sư, bác sĩ, công chứng viên, chấp hành viên…
không được tham gia hoạt động thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói
riêng với tư cách chủ thể. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thương nhân là cá
nhân phải hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng kí kinh doanh (Điều 6 LTM 2005).
Nhìn chung, các quy định của nhà nước về tiêu chuẩn pháp lí để xác định tư
cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ thương mại quốc tế chỉ được áp dụng cho
công dân mang quốc tịch nước đó. Đối với công dân mang quốc tịch nước ngoài có lOMoAR cPSD| 61630929
được trở thành thương nhân để hoạt động thương mại quốc tế trên phạm vi lãnh thổ
nước sở tại hay không, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào luật pháp của từng nước
và tùy theo từng trường hợp cụ thể. Trong quan hệ quốc tế, để giải quyết vấn đề này,
các nước thường kí kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế, trong đó thỏa thuận các
nguyên tắc pháp lí trong việc xác định địa vị pháp lý của công dân nước ngoài.
Câu 3: Trình bày các điều kiện pháp lý để pháp nhân trở thành chủ thể trong
giao dịch thương mại quốc tế. Cho 01 ví dụ minh hoạ
Pháp nhân là tổ chức nhà nước thành lập hoặc công nhận khi hội đủ các điều
kiện pháp lý của pháp luật. Pháp nhân với tư cách là chủ thể trong quan hệ thương
mại nói chung và trong quan hệ thương mại quốc tế nói riêng được tồn tại dưới nhiều
hình thức như công ty, hãng kinh doanh…
Theo quy định của pháp luật nhiều nước trên thế giới, pháp nhân với tư cách chủ
thể của quan hệ thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng được gọi là
thương nhân. Các tiêu chuẩn pháp lý để xác định tư cách thương nhân của pháp nhân
được quy định trong luật thương mại của các nước. Theo quy định của PLVN, thương
nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và có quyền hoạt động trong phạm
vi ngành nghề tại các địa bàn, dưới các hình thức, bằng các phương thức mà PL ko
cấm (khoản 1,2 Điều 6 LTM 2005)
Trên nguyên tắc tự do kinh doanh trong TMQT, pháp luật của hầu hết các nước
cho phép mọi pháp nhân là thương nhân khi có đầy đủ điều kiện tham gia hoạt động
thương mại trong nước thì cũng được phép pháp tham gia hoạt động thương mại
quốc tế. Tuy nhiên, do tính quan trọng và phức tạp của hoạt động TMQT mà pháp
luật của một số nước còn đưa ra một số điều kiện bổ sung để xác định tư cách chủ
thể đối với loại thương nhân này.
Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập hoặc đăng kí theo pháp
luật nước ngoài hoạt động tại nước sở tại. Trong quá trình hoạt động, thương nhân
phải tuân theo pháp luật của nước nơi nó hoạt động.
Ví dụ: theo quy định của PLVN, thương nhân nước ngoài là thương nhân được
thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định cảu PL nước ngoài hoặc được PL lOMoAR cPSD| 61630929
nước ngoài công nhận. Thương nhân nước ngoài hoạt động tại VN phải thực hiện
quyền và nghĩa vụ theo quy định của PLVN (Điều 16 LTM 2005) Điều kiện: Phải là thương nhân
Phù hợp với các điều kiện PL trong nước
Thoả mãn thêm các điều kiện PL quốc tế (nếu có)
Câu 4: Trình bày các trường hợp mà PLQG được áp dụng với tư cách là nguồn
của luật TMQT. Cho 01 ví dụ minh hoạ
Luật quốc gia trong TMQT là tổng thể các quy định điều chỉnh các hoạt động
của các chủ thể trong hoạt động TMQT. Với tư cách là nguồn của luật TMQT, luật
quốc gia có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản (Civil Law) hoặc ko được thể
hiện dưới hình thức văn bản (Common Law: hệ thống Anh – Mỹ vừa văn bản vừa
án lệ). Nguồn của luật này được thể hiện dưới hình thức nào thì hoàn toàn phụ thuộc
vào từng hệ thống pháp luật nhất định.
Pháp luật của mỗi quốc gia được áp dụng trong TMQT trong 2 trường hợp:
Khi các bên chủ thể trong TMQT thoả thuận áp dụng luật quốc
gia. Ví dụ: trong quá trình kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, các bên có
quyền thực hiện nguyên tắc thoả thuận. Theo đó, các bên có thể thoả thuận mọi
điều khoản liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình bao gồm cả việc tự do thoả
thuận chọn pháp luật áp dụng. Các bên có thể chọn PL trong nước của mỗi bên
hoặc có thể chọn PL của nước thứ 3, với điều kiện việc chọn pháp luật áp dụng
này ko trái với quy định của pháp luật nơi ký kết hợp đồng.
Trên thực tế, khi thoả thuận luật áp dụng, các bên có thể thoả thuận áp dụng
pháp luật của mỗi bên. Việc áp dụng luật của bên nào trong quan hệ hợp đồng là vấn
đề ko đơn giản. Bởi vì mỗi bên hiểu rõ pháp luật của mình hơn ai hết, do vật nếu áp
dụng luật của nước mình thì bên có pháp luật được áp dụng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều
so với phía bên kia, đặc biệt trong trường hợp nếu có tranh chấp xảy ra trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Vì các bên đều muốn áp dụng luật của nước mình vào hợp
đồng nên việc thoả thuận chọn luật của một nước trong các bên thường gặp nhiều
khó khăn. Trên thực tế, để đi đến thống nhất áp dụng PL nước nào của một trong các
bên chủ thể thì hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhân nhượng và sự thuyết phục của các lOMoAR cPSD| 61630929
bên trong quá trình đàm phán. Việc áp dụng pháp luật của một trong các bên trong
trường hợp này, thực chất là áp dụng luật của quốc gia theo sự thoả thuận của các bên.
Trong trường hợp các bên chủ thể ko thể thoả thuận áp dụng pháp luật của
một trong các bên thì các bên có thể thoả thuận áp dụng PL của nước thứ ba. PL của
nước thứ ba ở đây được hiểu là PL của các nước có liên quan đến giao dịch kinh
doanh quốc tế của các bên. Ví dụ: Luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp
đồng, luật nơi có tài sản liên quan đến hợp đồng… Trong trường hợp này, luật của
nước thứ ba được coi là luật quốc gia do các bên lựa chọn để điều chỉnh quan hệ
thương mại quốc tế của mình.
Trước khi thoả thuận áp dụng PL của nước thứ ba, các bên phải tìm hiểu kỹ
lưỡng nội dung PL của nước thứ ba đó. Bởi vì, nếu các bên ko hiểu biết pháp luật
của nước thứ ba thì hậu quả do PL nước được lựa chọn này điều chỉnh có thể ko phù
hợp với mong muốn của 1 trong các bên, thậm chí ko phù hợp với sự mong muốn
của cả 2 bên. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp nếu ko tìm hiểu kỹ pháp luật của
nước thứ ban sẽ làm cho những điều thoả thuận chọn luật của các bên sẽ ko có giá
trị pháp lý. Điều này xảy ra trong trường hợp khi PL của các bên lựa chọn áp dụng
bị cơ quan có thẩm quyền tuyên bố ko có giá trị vì lí do bảo lưu trật tự công cộng.
Khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật của quốc gia. Trong
trường hợp, mặc dù các bên chủ thể ko thoả thuận chọn PL áp dụng nhưng trong
các nguồn luật liên quan có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống PL của
quốc gia nào đó thì PL được dẫn chiếu sẽ được đem áp dụng để điều chỉnh quan
hệ TMQT. Ví dụ: để xác định năng lực ký kết và thực hiện hợp đồng TMQT, tư
pháp quốc tế của hầu hết các nước đều quy định áp dụng luật quốc tịch của các
bên chủ thể. Theo đó PL của nước mà các bên mang quốc tịch sẽ là PL quy định
về năng lực pháp luật và năng lực hành vi giao kết hợp đồng của mỗi bên. Như
vậy, trong trường hợp này, mặc dù các bên ko thoả thuận PL áp dụng nhưng khi
xác định năng lực PL của các bên chủ thể trong quan hệ PL TMQT người ta vẫn
áp dụng luật của QG do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Do đặc thù của quan hệ PL trong các hoạt động TMQT mà các hệ thuộc luật
sau đây thường được quy phạm xung đột dẫn chiếu đến. lOMoAR cPSD| 61630929
Luật quốc tịch của các bên chủ thể;
Luật nơi cư trú của các bên chủ thể;
Luật nơi có vật; Luật nơi kí
kết hợp đồng; Luật nơi thực hiện hợp đồng.
Câu 5: Phân tích về giá trị pháp lý của điều ước quốc tế trong giao dịch TMQT
Điều ước quốc tế được coi là nguồn của luật TMQT khi các điều ước này điều
chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực TMQT. Bất cứ điều ước nào được ký kết nhằm điều
chỉnh thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, SHTT và đầu tư có yếu tố nước
ngoài đều được coi là nguồn của luật TMQT
Điều ước quốc tế là sự thoả thuận giữa các quốc gia, do đó các điều ước này có
giá trị bắt buộc áp dụng đối với các nước thành viên trên nguyên tắc tự nguyện thực
hiện các cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda). Đây là nguyên tắc được áp dụng
trong Công pháp quốc tế nhằm điều chỉnh các hành vi của các quốc gia. Như vậy,
khi các nước kí kết hoặc tham gia các ĐƯQT về thương mại thì các quy phạm ghi
nhận trong các điều ước về thương mại này sẽ đương nhiên áp dụng để điều chỉnh
các hành vi của quốc gia trong hoạt động TMQT.
Trong quan hệ TMQT, các ĐƯQT được áp dụng trên các nguyên tắc sau đây:
ĐƯQT về TMQT chỉ có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các bên chủ thể trong
giao dịch TMQT nếu các bên chủ thể này có quốc tịch hoặc có nơi cư trú ở các quốc
gia là các nước thành viên của ĐƯQT đó.
Trong trường hợp có sự quy định khác nhau giữa ĐƯQT về thương mại và
luật trong nước của nước là thành viên ĐƯQT đó thì quy định của ĐƯQT được ưu tiên áp dụng.
Trong trường hợp các bên chủ thể trong giao dịch TMQT ko mang quốc tịch
hoặc ko có nơi cư trú ở các nước thành viên của 1 ĐƯQT về thương mại thì các quy
định trong điều ước này vẫn điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên, nếu các bên
thoả thuận áo dụng các điều khoản của ĐƯQT đó. lOMoAR cPSD| 61630929
Câu 6: Phân tích về giá trị pháp lý của tập quán thương mại quốc tế trong giao
dịch thương mại quốc tế
Tập quán thương mại quốc tế là thói quen thương mại được hình thành lâu
đời, có nội dung cụ thể, rõ ràng, được áp dụng liên tục và được các chủ thể trong
giao dịch thương mại quốc tế chấp nhận một cách phổ biến. Như vậy, không phải
bất cứ tập quan thương mại nào cũng có thể được coi là nguồn của luật thương mại
quốc tế. Tập quán thương mại quốc tế chỉ được coi là nguồn của luật thương mại
quốc tế khi nó thỏa mãn các điều kiện pháp lí nhất định.
Giá trị pháp lý của tập quán thương mại quốc tế trong giao dịch thương mại quốc tế.
Về giá trị pháp lí, tập quán thương mại quốc tế không giống với luật quốc gia
và điều ước thương mại quốc tế. Tập quán thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lí
trong thương mại quốc tế ở các trường hợp sau:
Tập quán thương mại được các bên thỏa thuận áp dụng ghi trong hợp đồng.
Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên chủ thể. Vì vậy, nếu các bên chủ thể
của hợp đồng thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh quyền
và nghĩa vụ của họ thì tập quán thương mại quốc tế có giá trị ràng buộc các bên. Tuy
nhiên, theo pháp luật của hầu hết các nước thì việc thỏa thuận áp dụng tập quán
thương mại quốc tế phải tuân thủ theo một số nguyên tắc nhất định. Ví dụ: theo quy
định của pháp luật Việt Nam thì các bên trong hợp đồng dân sự có yếu tốc nước
ngoài được phép thỏa thuận áp dụng tập quán quốc tế nếu việc áp dụng hoặc hậu quả
của việc áp dụng tập quán quốc tế đó không trái với pháp luật Việt Nam (khoản 4
Điều 759 Bộ luật dân sự năm 2005, được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005).
Tập quán thương mại quốc tế được các điều ước quốc tế liên quan quy định áp dụng.
Trong trường hợp điều ước quốc tế về thương mại có quy định sẽ áp dụng một
hoặc một số tập quán thương mại quốc tế thì các tập quán thương mại quốc tế này
sẽ đương nhiên được áp dụng cho các quan hệ của các bên chủ thể mang quốc tịch
hoặc trụ sở ở các nước thành viên của điều ước quốc tế đó. Điều này có nghĩa là kể
cả trong trường hợp khi giao kết hợp đồng các bên chủ thể này đã không thỏa thuận lOMoAR cPSD| 61630929
dẫn chiếu đến một tập quán thương mại quốc tế thì tập quán quốc tế vẫn được áp
dụng nếu nó được quy định trong điều ước quốc tế về thương mại có liên quan.
Tập quán thương mại quốc tế trong nước quy định áp dụng.
Trong trường hợp luật trong nước điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các
bên quy định áp dụng tập quán thương mại quốc tế thì tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng.
Cơ quan xét xử cho rằng các bên chủ thể để mặc nhiên áp dụng tập quán
thương mại quốc tế trong giao dịch thương mại của họ.
Đây là trường hợp áp dụng tập quán quốc tế trong việc xét xử các tranh chấp
phát sinh từ giao dịch thương mại quốc tế. Trong trường hợp các bên không có thỏa
thuận cụ thể về việc áp dụng tập quán thương mại quốc tế đồng thời các điều ước
quốc tế và luật trong nước có liên quan cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này
thì cơ quan xét xử có thể áp dụng tập quán thương mại quốc tế để giải quyết tranh
chấp. Việc cơ quan xét xử sẽ áp dụng tập quán thương mại quốc tế để giải quyết
tranh chấp khi có đủ cơ sở pháp lí để khẳng định rằng trong khi giao kết hợp đồng,
các bên chủ thể đã ngầm hiểu là họ phải hành động theo tập quán thương mại quốc
tế mà bất cứ nhà kinh doanh thương mại quốc tế nào cũng hành động như vậy trong
hoàn cảnh tương tự. Ví dụ: Điều 9 Công ước Viên (1989) của Liên hợp quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định: Các bên mặc nhiên bị ràng buộc bởi tập
quán quốc tế (mặc dù các bên không công khai thỏa thuận áp dụng) nếu tập quán đó
họ đã biết hoặc cần phải biết khi kí kết hợp đồng.
Câu 7: Trình bày nội dung và ngoại lệ của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
(MFN) theo quy định của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) trong khuôn khổ WTO * Nội dung:
Nguyên tắc này được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước dành cho
nước đối tác ưu đãi có lợi nhất mà nước đó đang và sẽ dành cho nước thứ ba khác trong tương lai.
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) ra đời năm 1947 là hiệp
định thương mại đa phương đầu tiên sử dụng một cách rộng rãi nguyên tắc này. Đây lOMoAR cPSD| 61630929
được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản để thực hiện mục tiêu tự do hoá
thương mại của WTO. Theo nguyên tắc này thì bất kì ưu đãi, ưu tiên, đặc quyền
hoặc miễn trừ nào mà nước thành viên dành cho sản phẩm của nước thành viên khác
sẽ phải được dành cho sản phẩm cùng loại của các nước thành viên còn lại. Mục
đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo rằng sản phẩm nhập khẩu cùng loại sẽ
được đối xử bình đẳng và ko phân biệt tại nước nhập khẩu. Do đó, nguyên tắc này
còn được gọi là nguyên tắc đối xử ko phân biệt Bản chất của MFN trong WTO:
Ko phân biệt đối xử Vô điều kiện
Mục đích: hướng tới tự do hoá thương mại
Hiện WTO đã có 164 thành viên
Mức độ ưu đãi cao hơn MFN: đó là chế độ ưu đãi đặc biệt tại các thoả thuận FTA thế hệ mới
Cơ sở pháp lý: Điều 1 GATT Phạm vi áp dụng: Áp thuế quan
Áp phí NK, phí XK và phí liên quan đến XNK
Áp phí chuyển tiền thanh toán XNK
Phương pháp thu thuế quan và phí
Áp dụng quy định PL và thủ tục liên quan đến XNK
Áp thuế nội địa và phí nội địa
Áp dụng các quy định PL liên quan đến mua bán hàng NK trong nội địa, vận tải, phân phối hàng NK
Đối tượng áp dụng: sản phẩm tương tự
Tiêu chí: (Căn cứ vào án lệ…) Mức độ yêu thích
Sản phẩm tương tự đảm bảo về đặc tính vật lý hoá học Mục đích sử dụng
Phân loại trong biểu thuế quan *
Ví dụ: Trước khi có nguyên tắc tối huệ quốc, gia đình VN xuất khẩu
Cafe sang Đức và nước này áp dụng mức thuế nhập khẩu là 10%, Đức xuất khẩu lOMoAR cPSD| 61630929
máy tính sang VN và VN áp dụng mức thuế nhập khẩu là 50%. Nhưng Vn còn
nhập khẩu máy tính từ rất nhiều nước khác (giả sử từ Mỹ, Anh, Hàn Quốc) với
mức thuế nhập khẩu là 20%. Tương tự, Đức cũng nhập khẩu Cafe từ nhiều nước
(Brasil, Colombia) với mức thuế là 0%. Thì ngay sau khi nguyên tắc tối huệ quốc
ra đời và được áp dụng thì Cafe VN khi xuất khẩu sang Đức sẽ được tính thuế nhập
khẩu là 0% và máy tính của Đức nhập khẩu vào VN sẽ chịu mức thuế nhập khẩu là 20%. *
Ngoại lệ: Có 2 nhóm ngoại lệ 1. Ngoại lệ riêng
a. Chế độ ưu đãi đặc biệt
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 1 GATT
Đây là chế độ ưu đãi đặc biệt về thuế quan truyền thống giữa 1 số nước thành
viên hình thành trong thời kì chế độ thuộc địa, tồn tại trước khi hiệp định GATT
1947 ra đời. Chế độ ưu đãi đặc biệt về thuế quan là các đặc lợi về thuế quan mang
tính phân biệt đối xử vì chỉ áp dụng riêng giữa một số nước với nhau hoặc trong một
khu vực nhất định như chế độ ưu đãi của Khối thịnh vượng chung, chế độ ưu đãi của
Khối liên hiệp Pháp, ưu đãi giữa Mỹ và Philipine…
Tuy mục tiêu của GATT 1947 là tự do hoá thương mại và chống phân biệt đối
xử giữa các nước thành viên nhưng khi ra đời GATT 1947 đã ko thể xoá bỏ ngay lập
tức và toàn bộ các ưu đãi thuế quan này, cho nên nó đã buộc phải chấp nhận sự tồn
tại của chế độ ưu đãi đặc biệt này như một ngoại lệ nhưng với các điều kiện sau: o
Thứ nhất, Các ưu đãi này chỉ giới hạn trong thuế quan đối với hàng nhập khẩu và ko
cho phép ưu đãi đặc biệt về thuế xuất khẩu, hạn chế xuất nhập khẩu và các hạng mục khác; lOMoAR cPSD| 61630929 o
Thứ hai, Ưu đãi đặc biệt này chỉ giới hạn giữa 1 số nước thành viên đã
được chấp nhận và ko được phép thiết lập các ưu đãi mới sau khi GATT 1947 ra đời
(khoản 2 Điều 1 và phụ lục liệt kê cụ thể các ưu đãi đặc biệt này) o Thứ ba, Ko cho
phép tăng sự chênh lệch giữa thuế suất ưu đãi đặc biệt đã có khi thành lập GATT
1947 với thuế suất tối huệ quốc
b. Hội nhập kinh tế khu vực
Cơ sở pháp lý: Điều 24 GATT 1994 Hội nhập kinh tế khu vực cụ thể là đồng
minh thuế quan và khu vực mậu dịch tự do được voi là ngoại lệ của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
Khu vực thương mại tự do Đồng minh thuế quan - Trong khu vực ko thiết - Trong đồng minh: Ko lậprào cản thiếtlập rào cản - Ngoài khu vực: Mỗi - Ngoài đồng minh: Áp
nướcthành viên duy trì hệ dụnghệ thống thuế quan
thống thuế quan và các quy chung cũng như các quy định
định thương mại riêng đối với chung về thương mại với các các nước ngoài khu vực nước ngoài khu vực
Về mặt lịch sử, khi GATT 1947 hình thành, đã tồn tại đồng minh thuế quan
Benelux (gồm 3 nước Bỉ, Hà Lan và Lucxambua)
GATT 1947 thừa nhận rằng khu vực mậu dịch tự do và đồng minh thuế quan
giữa các nước thành viên sẽ có thể thúc đẩy tự do hoá thương mại, tạo ra hiệu quả
thương mại giữa các nước trong khối.
Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là sự tự do thương mại giữa các nước trong khối mà
thôi, cho nên mặt trái của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do và đồng minh thuế
quan là tạo ra rào cản phân biệt đối xử với các nước ngoài khối. Tuỳ theo mức độ
của các rào cản này mà có thể nhập khẩu của các nước ngoài khối có hiệu suất cao
lại bị thay thế bởi sản phẩm có hiệu suất thấp của các nhà sản xuất trong khối.
Vì những nhược điểm trên, GATT 1947 đã đưa ra một số điều kiện sau đây
đối với việc thành lập khu vực mậu dịch tự do hay đồng minh thuế quan o Thứ lOMoAR cPSD| 61630929 o
nhất, thuế quan và các rào cản thương mại khác về mặt thực chất giữa các nước
trong khu vực phải được dỡ bỏ hoàn toàn
Thứ hai, thuế quan và các rào cản thương mại khác đối với các nước
ngoài khu vực ko được phép tăng hơn so với trước khi thành lập đồng minh thuế
quan hay khu vực mậu dịch tự do o Thứ ba, đồng minh thuế quan, khu vực mậu
dịch tự do phải được xây dựng theo lịch trình hợp lý trong 1 khoảng thời gian hợp lý
c. Ưu đãi đặc biệt đối với các nước đang phát triển
Biện pháp đối xử đặc biệt mà ngay từ khi thành lập GATT 1947 đã cho phép
các nước đang phát triển áp dụng là hỗ trợ chính phủ đối với phát triển kinh tế
Cơ sở pháp lý: Điều 18 GATT các nước thành viên đang trong giai đoạn đầu
của quá trình phát triển kinh tế, sẽ được phép tiến hành những hạn chế nhập khẩu
cần thiết phục vụ cho phát triển kinh tế với một số điều kiện nhất định
Chế độ ưu đãi phổ cập (GSP) đã được chấp nhận đưa vào áp dụng trong GATT
1947 từ năm 1971. GSP thực chất là việc các nước phát triển đơn phương tự nguyện
dành cho sản phẩm của các nước đang phát triển hưởng thuế suất nhập khẩu thấp
hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước phát triển khác. Điều này đồng nghĩa
với việc các nước phát triển sẽ ko yêu cầu các nước đang phát triển đưa ra cam kết
thương mại trên cơ sở có đi có lại mà sẽ đơn phương cắt giảm hoặc huỷ bỏ hàng rào
thuế quan, bằng cách đó thúc đẩy xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các
nước phát triển giúp tăng nguồn thu, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế của các nước đang phát triển.
Sẽ được hưởng ưu đãi hơn về mặt kĩ thuật, thuế quan…. VD: VN tham gia
WTO đưa cam kết giảm thuế nhập khẩu oto thành 0% đưa ra điều kiện là 11 năm để
thực hiện. Còn các nước phát triển thì phải giảm luôn chứ ko đưa ra điều kiện thực hiện nữa.
Trên thế giới đang có hơn 40 nước phát triển
=> Tạo nền tảng cho các nước đang phát triển để cạnh tranh các nước phát
triển -> đó mới gọi là công bằng lOMoAR cPSD| 61630929 o
Khi WTO ra đời, bên cạnh GSP, các đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D) dành
cho các nước đang phát triển còn được cụ thể hoá trong các hiệp định của WTO. Các
đối xử đặc biệt và khác biệt này bao gồm: o Hưởng 1 số ưu đãi
Miễn thực hiện nghĩa vụ trong 1 thời gian nhất định o Trợ giúp về kĩ thuật
??? So sánh chế độ ưu đãi đặc biệt và GSP
Giống nhau: Mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ một số nước nhất định sẽ
thấp hơn mức thuế nhập khẩu đánh vào sản phảm của các nước thành viên khác Khác nhau: GSP
Chế độ ưu đãi đặc biệt -
Vừa áp dụng với các nước có -
Chỉ áp dụng với các nước có
quanhệ đặc biệt về mặt lịch sử và quanhệ đặc biệt từ trước khi ra đời
chính trị vừa áp dụng chung cho tất cả GATT 1947
các nước đang phát triển (được gọi là chế độ phổ cập) -
Những nước được hưởng ưu -
Nước được hưởng ưu đãi là
đãithuế quan phổ cập là các nước đang cácnước thuộc chế độ đó bất kể là phát triển
đang phát triển hay đã phát triển - Mang tính song phương -
Là các ưu đãi mang tính 1 chiều
củacác nước phát triển dành cho các nước đang phát triển
2. Ngoại lệ chung (Điều 20, 21, 25)
Ngoại lệ chung (Điều XX GATT): Trong trường hợp cần thiết để bảo vệ đạo
đức cộng đồng, trật tự công cộng; bảo vệ sinh mạng và cuộc sống của con người,
bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên…
Ngoại lệ về an ninh (Điều XXI GATT): bảo vệ an ninh quốc gia
“Miễn trừ nghĩa vụ một cách tạm thời” theo thủ tục nhất định của GATT (Khoản 5 Điều XXV GATT) lOMoAR cPSD| 61630929 o
Câu 8: Trình bày nội dung và ngoại lệ của nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) theo
quy định của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) trong
khuôn khổ WTO. Cho 01 ví dụ minh hoạ. lOMoAR cPSD| 61630929
Nội dung của nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) theo quy định của Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại (GATT) trong khuôn khổ WTO.
Nguyên tắc này được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ dành
cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không kém hơn
so với ưu đãi mà nước đó đang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước mình.
Điều này có nghĩa là nước nhập khẩu không được đối xử phân biệt giữa sản
phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp nước
ngoài về thuế và các khoản lệ phí trong nước cũng như về điều kiện cạnh tranh.
Như đã trình bày ở trên, thông qua các cam kết nhượng bộ về cắt giảm thuế
quan, và dựa trên nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, sản phẩm nhập khẩu từ các nước
thành viên được đối xử bình đẳng với nhau trên thị trường của nước nhập khẩu. Tuy
nhiên, nếu như nước nhập khẩu tùy tiện áp dụng thuế nội địa và các quy định mang
tính phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu với sản phẩm trong nước nhằm mục đích
bảo hộ ngành sản xuất trong nước thì hiệu quả của việc tự do hóa thương mại kể trên
sẽ không còn ý nghĩa. Chính vì thế hai nguyên tắc này được áp dụng kết hợp nhằm
bảo đảm điều kiện cạnh tranh bình đẳng không chỉ giữa sản phẩm nhập khẩu từ các
nước thành viên mà còn giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa của nước
nhập khẩu. Cũng với lí do đó mà hai nguyên tắc này được coi là hòn đá tảng của
GATT/WTO nhằm thực hiện mục tiêu không phân biệt đối xử và tự do hóa thương
mại giữa các nước thành viên.
Dưới đây là các quy định cụ thể của GATT/WTO về đối tượng áp dụng của nguyên tắc này.
GATT 1994: theo khoản 1 Điều 3 đối tượng áp dụng của nguyên tắc đối xử quốc gia gồm có:
1. Thuế và lệ phí trong nước
Các nước thành viên không được phép đánh thuế và các lệ phí đối với sản
phẩm nhập khẩu cao hơn so với sản phẩm nội địa cùng loại. Mặt khác, các nước
thành viên cũng không được phép áp dụng thuế và lệ phí trong nước đối với sản
phẩm hoặc sản phẩm nội địa theo phương pháp nào đó nhằm bảo hộ cho sản xuất
trong nước (khoản 2 Điều 3). lOMoAR cPSD| 61630929 2. Quy chế mua bán
Pháp luật, quy định và các yêu cầu khác ảnh hưởng đến mua bán, vận tải, phân
phối hay sử dụng sản phẩm trong nước không được phép đối xử với sản phẩm nhập
khẩu kém ưu đãi hơn so với sản phẩm nội địa cùng loại. Trong đó “ảnh hưởng” ở
đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các điều kiện cạnh tranh giữa sản phẩm
nhập khẩu và sản phẩm nội địa cùng loại (khoản 4 Điều 3).
3. Quy chế số lượng
Các nước thành viên không được phép đặt ra hoặc duy trì quy chế trong nước
về số lượng liên quan đến sự pha trộn, chế biến hoặc sử dụng các sản phẩm theo một
số lượng hoặc tỉ lệ nhất định, trong đó yêu cầu rằng số lượng hoặc tỉ lệ pha trộn của
sản phẩm là đối tượng của quy chế này phải được cung cấp từ nguồn trong nước,
hay áp dụng quy chế số lượng này theo cách thức nhằm bảo vệ sản xuất trong nước (khoản 5 Điều 3).
Theo quy định trên thì các yêu cầu của chính phủ về chính sách nội địa hóa,
trong đó yêu cầu sản phẩm sản xuất ra phải sử dụng một tỉ lệ hoặc số lượng nhất
định phụ tùng trong nước sẽ là vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia. Ví dụ: liên quan
đến sản xuất ô tô, nếu nước thành viên quy định rằng sản phẩm đó phải bao gồm
trong đó ít nhất là 10% phụ tùng nội địa thì có nghĩa là quy định này có hiệu quả
tương tự như với việc hạn chế nhập khẩu phụ tùng nước ngoài và biện pháp này có
tác dụng bảo hộ đối với sản xuất trong nước. Do đó, GATT đưa ra các quy định
nghiệm ngặt đối với vấn đề này.
Ngoại lệ của nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) theo quy định của Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại (GATT) trong khuôn khổ WTO.
Cũng giống như nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, nguyên tắc đối xủ quốc gia
không phải là nguyên tắc tuyệt đối mà nó cũng có những ngoại lệ nhất định. Theo
quy định GATT 1994 thì hiệp định này chấp nhận những ngoại lệ sau đây của nguyên
tắc này: (1) Cung cấp các khoản tiền trợ cấp đối với người sản xuất trong nước (điểm
b khoản 8 Điều 3); (2) Phân bổ thời gian chiếu phim; (3) mua sắm của chính phủ.
GATS (Điều 6): Trong thương mại dịch vụ, các nước phải dành cho dịch vụ
và các nhà cung cấp của nước khác thuộc các lĩnh vực ngành nghề đã được mỗi nước lOMoAR cPSD| 61630929
đưa vào danh mục cam kết cụ thể của mình những ưu đãi không kém hơn những ưu
đãi mà nước đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp của mình.
TRIPs (Điều 3): Trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các nước sẽ phải
dành cho công dân của nước khác những ưu đãi mà nước đó dành cho công dân nước mình.
Đáp án của cô: nguyên tắc đối xử quốc gia ( NT – National Treatment)
Khái niệm: Đối xử với hàng hóa nước ngoài như đối với hàng hóa tương tự của nước mình.
Ví dụ: ở Việt Nam trước năm 1995 áp dụng chế độ 2 giá ở các điểm du lịch,
đó giá vé thăm quan cho người nước ngoài và giá vé cho người Việt Nam (thấp hơn).
Sau 1995 thì bỏ chế độ 2 giá vé.
Câu hỏi: MFN là đối xử bình đẳng giữa những “người khách” với nhau, còn
NT là đối xử bình đẳng giữa “người khách” và “người nhà”, vậy nguyên tắc nào khó thực hiện hơn?
Trả lời: Nguyên tắc NT khó thực hiện hơn rất nhiều. Trong thương mại quốc
tế có tự do hóa thương mại, và cũng có bảo hộ mậu dịch. Bất kỳ một quốc gia nào
cũng phải bảo hộ mậu dịch ở mức độ nào đó, tức là bảo hộ nền sản xuất trong nước,
hay nói chính xác hơn là bảo vệ lợi ích của công dân nước mình. Thực tế các nước
mặc dù cam kết thực hiện NT nhưng thường dựng lên những rào cản ký thuật tinh vi
để bảo hộ nền sản xuất trong nước, nghĩa là tránh thực hiện NT một cách tinh vi, khó nhận biết.
Chính vì vậy, MFN luôn dễ dàng được các quốc gia thông qua, trong khi Nt
lại là mục tiêu của các cuộc đàm phán rất căng thẳng giữa các quốc gia. Và như vậy
NT là sự thể hiện rõ nhất của tự do hóa thương mại.
Nội dung của nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):
Dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ nhà
cung cấp của nước khác những ưu đãi không kém hơn so với ưu đãi mà nước
đó đang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước mình.
Bản chất: không phân biệt đối xử
Mục đích: hướng tới tự do hóa thương mại lOMoAR cPSD| 61630929
Sản phẩm tương tự: Cả MFN và NT đều hướng tới bình đẳng chỉ có ý nghĩa
đối với các “sản phẩm tương tự” (nghĩa là sản phẩm thịt gà không thể “bình đẳng”
với sản phẩm ô tô được). Như vậy có nghĩa là một sản phẩm muốn được đối xử bình
đẳng thì phải chứng minh được sản phẩm đó là tương tự với một sản phẩm đang
được ưu đãi. Và một quốc gia có thể từ chối đối xử bình đẳng (tức là áp thuế cao
hơn) với một sản phẩm bằng cách coi đó không phải là sản phẩm tương tự. Đây
chính là điểm gây tranh cãi nhiều nhất trong WTO, Rất tiếc trong WTO lại không
định nghĩa thế nào là “sản phẩm tương tự” mặc dù nhắc tới khái niệm này nhiều lần.
Ví dụ minh họa: Một vụ kiện điển hình về thịt bò giữa các nước Âu, Mỹ và
Nhật Bản, theo đó Nhật bản đã quy định thịt bò từ các nước châu Âu, Mỹ vào Nhật
Bản qua một Ủy ban phân phối, còn thịt bò trong nước thì không phải qua Ủy ban
phân phối này, việc qua Ủy ban phân phối làm tăng giá trọ của thịt bò nhập khẩu =>
các nước châu Âu, Mỹ kiện Nhật Bản không tuân thủ NT, đối xử bình đẳng.
Lý lẽ của Nhật Bản đưa ra là thịt bò (Kobe) của Nhật khác với thịt bò nhập
khẩu từ các nước Châu Âu, Mỹ bởi vì thịt bò của Nhật Bản trải qua quy trình chăn
nuôi và giết mổ khác với ở Châu Âu, Mỹ. Đó là bò Nhật Bản được massage hàng
ngày, được ăn cỏ sạch, được nghe nhạc,... và khi giết thì bằng phương pháp sốc điện
( phương pháp nhân đạo), khác so với phương pháp truyền thống của các nước châu
Âu, Mỹ (dùng búa đập vào đầu). Do đó, Nhật bản coi 2 sản phẩm thịt bò là khác
nhau và áp dụng 2 chế độ khác nhau.
Vụ việc này được đưa lên WTO, WTO đã kết luận cho dù con bò được nuôi
dưỡng và giết mỗ như thế nào thì những đặc tính cơ bản của nó vẫn giống nhau, và
mục đích của thịt bò là để ăn, do đó WTO kết luận sản phẩm thịt bò của Nhật Bản
và sản phẩm thịt bò của châu Âu, Mỹ là sản phẩm tương tự nhau. Kết quả là Nhật
Bản phải rút lại biện pháp quản lý đối với sản phảm thịt bò nhập khẩu.
Sản phẩm tương tự được quy định trong HS – (Harmony System): hệ thống
hài hòa của Liên minh hải quan quốc tế, theo đó những sản phẩm được xem là tương tự khi có cùng mã HS.
Trong Điều 2.6 ADA: sản phẩm tương tự là sản phẩm giống hệt, tức là sản
phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét. Trong đó trường
hợp không có sản phẩm giống hệt, thì có thể thay thế bằng sản phẩm gần giống, tức