




Preview text:
Đóng vai (hóa thân) ông Hai kể lại chuyện Làng chọn lọc hay nhất
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Kim Lân (sinh năm 1920, mất năm 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài,
quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn
và đã có sáng tác đăng báo từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Vốn
gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết
về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Năm 2001, ông được
tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Truyện ngắn Làng được nhà văn Kim Lân viết trong thời kỳ đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp ở nước ta và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ
năm 1948. Qua tình yêu làng, yêu nước thiết tha của nhân vật ông Hai trong
truyện ngắn Làng, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong
tư tưởng và tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
2. Đóng vai (hóa thân) ông Hai kể lại truyện ngắn Làng chọn lọc hay nhất - Mẫu số 1
Sáng ngày hôm nay vẫn như mọi ngày, tôi nhâm nhi tách trà mới pha, đọc vài
trang báo của ngày mới, chỉ khác là tôi không còn được thức dậy tại xóm làng
của mình - nơi tôi sinh ra và lớn lên. Nghe theo chính sách của Đảng, tôi và
gia đình phải đi tản cư, rời xa ngôi làng của mình.
Xa quê, vợ và mấy đứa con tôi đi bán buôn, còn tôi thì tích cực lao động vỡ
vạt đất rậm ngoài suối để trồng thêm vài gốc sắn, sang năm mùa đói vẫn có
cái mà ăn. Làm sáng giờ chân tay đã rã rời, nằm vật xuống tấm nệm êm ái,
tôi lại suy nghĩ vẩn vơ. Tôi nghĩ về cái làng và nghĩ về những ngày cùng làm
việc với anh em, ồ sao độ ấy vui thế, tôi thấy mình như trẻ ra và cảm thấy náo
nức vô cùng, tôi lại muốn về làng, muốn được cùng anh em đào đường đắp u,
xẻ hào, khuôn đá… Tôi nhớ da diết cái làng Chợ Dầu hồi đấy. Tôi muốn về
làng, muốn cùng các anh em làm việc như ngày xưa. Tôi tự hỏi, không biết
cái chòi gác ở đầu láng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm.
Đang trong dòng suy nghĩ miên man, bỗng nhiên tấm liếp che cửa kêu lạch
cạch, gian nhà sáng bừng lên. Tôi giật mình, hóa ra đứa con gái lớn đã về.
Tôi vội nhắn nhủ nó vài câu chăm nom nhà cửa rồi chạy đi nghe lỏm thông tin
từ người khác như mọi ngày. Hôm nay đường vắng hẳn người qua lại, trời
lồng lộng gió nhưng vẫn không đủ để thổi đi cái nắng nóng của mùa hè. Tôi
tức mình, bèn nói lớn: "Nóng thế này thì bỏ mẹ chúng nó!".
Có người đi ngang qua, bỡ ngỡ hỏi lại: - Chúng nó nào?
- Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi vị trí giờ bằng ngồi tù. - Tôi đáp lại
Nói rồi tôi bước thẳng, ghé vào trạm thông tin nghe ngóng tình hình chiến sự.
Biết bao là tin hay. Ruột gan tôi cứ như múa cả lên. Bước ra khỏi phòng
thông tin, tôi rẽ vào dặn vợ vài việc rồi theo lối huyện cũ mà đi. Tôi tạt qua
quán nước ngồi làm vài điếu thuốc lào và thong thả uống nước chè thưởng
gió. Ở đây, những tốp người tản cư dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố. Nghe một
người đàn bà nói bọn Tây vừa nổ súng từ Bắc Ninh đến Chợ Dầu, nó khủng
bố, tôi lo lắng, quay phắt lại lắp bắp hỏi:
- Nó... Nó vào làng Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!
Là tôi nghe lầm thôi mà phải không? Không thể nào như vậy được. Khăng
khăng ý niệm đó, tôi gặng hỏi lại. Giọng người đàn bà the thé, đầy mùi căm
giận. Tôi bàng hoàng. Cổ họng nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, tưởng như
đến không thở được. Tôi không tin vào tai mình, bèn hỏi lại:
- Liệu có thật không hở bác? Hay lại chỉ...
- Thì chúng tôi vừa ở dưới đấy lên đây mà lại...
Câu trả lời như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt tôi. Tôi cứng họng, đành
vờ đứng dậy than to: "Hà, nắng gớm, về nào.. " rồi chạy vội về nhà.
Về đến nhà, tai tôi vẫn không khỏi nghe được những lời cay nghiệt của làng
xóm, tôi thương thầm lũ trẻ nhà mình. Chúng là trẻ con của làng Việt gian
rồi… Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy
tuổi đầu... Tôi nắm chặt hai tay, móng đâm vào da thịt, đau nhói. Tôi rít lên
như một con thú bị thương, đau đớn đến tột cùng:
- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt
gian bán nước để nhục nhã thế này.
Chiều hôm ấy bà nhà tôi về cũng có vẻ khác thường ngày, làm cho căn nhà
bỗng chốc trở nên yên ắng, lạnh lẽo. Nghĩ lại thì cũng không đúng lắm vì ai
trong làng cũng là những người yêu nước cơ mà, họ đã thề chống giặc cơ
mà. Rồi một hồi tôi lại nghĩ đến tương lai của làng Chợ Dầu này, liệu có ai
chịu buôn bán với làng Việt gian chứ?
Mấy ngày sau đó tôi đều giam mình trong nhà, tôi tự thấy xấu hổ, tủi nhục,
đến cả nhà bác Thứ cũng không dám sang. Tôi chỉ quanh quẩn ở trong cái
gian nhà chật chội mà nghe ngóng tình hình bên ngoài. Đã thế, sáng chiều
bốn buổi đi làm đồng về, mụ chủ nhà kéo lê cái nạo cỏ quèn quẹt dưới đất,
qua cửa, mụ nhòm vào nói những câu bóng gió xa xôi, từng câu từng chữ
đều như khía vào da thịt tôi: "Trên này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng
dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây đấy, ông bà đã biết chưa nhỉ?... Nghe nói,
bảo có lệnh đuổi hết những người làng Chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa."
Mấy hôm sau, bà ta lại qua nhà tôi, nói với cái giọng ngọt xớt:
- Em cứ khó nghĩ quá... ông bà cũng là người làm ăn tử tế cả. Nhưng mà có
lệnh biết làm thế nào. Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy... Này, ở với
nhau đang vui vẻ, ông ba dọn đi, em lại cứ nhớ đáo để đấy nhở.
Bà nhà tôi nghe vậy cũng chỉ biết cúi mặt xuống mà rân rấn nước mắt:
- Vâng... thôi thì dân làng đã trả cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi
khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ
chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là đi đâu..
Mụ chủ đi rồi, bà nhà tôi và con bé lớn nước mắt lưng tròng, lẳng lặng gánh
hàng ra quán. Tôi ngồi góc giường, bao nhiêu ý nghĩ ghê rợn cứ nối tiếp nhau
hiện lên trong đầu tôi. Biết đi đâu bây giờ?, Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ
người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.
Rồi tôi nghĩ: "Hay là quay về làng?". Tôi lập tức gạt phăng cái suy nghĩ ấy đi.
Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi, về làng tức là bỏ kháng
chiến, bỏ Cụ Hồ... Nước mắt tôi giàn ra, làng thì yêu thật, nhưng làng theo
Tây mất rồi thì phải thù! Tôi chỉ biết tâm sự cùng con giải bày nỗi lòng:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lị con u. - Thế nhà con ở đâu ?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng mình không?
Thằng bé cúi mặt, vân vê gấu áo như suy nghĩ cái gì đó. Nó nép đầu vào
ngục tôi, khẽ trả lời: - Có.
Tiếng nói khẽ khàng. Như tiếng lòng của chính bản thân tôi. Sao tôi vẫn cứ
yêu cái làng ấy đến thế ? Tôi lại hỏi: - Thế con ủng hộ ai?
- Con ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Thằng bé trả lời dứt khoát. Nước mắt tôi lại trào ra, ấm áp.
- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.
Cuối cùng, tôi cũng quyết định không về làng nữa.. Tôi quyết một lòng theo
kháng chiến, theo cụ Hồ, một lòng với đất nước. Mình không làm được gì tốt
đẹp cho đất nước thì cũng đừng làm chuyện gì tồn hại. Trong lúc tột cùng bế
tắc thì vào một ngày, ông chủ tịch làng tôi lên đây cải chính. Thì ra tất cả đều
láo cả, tất cả là lừa dối. Làng tôi bị Tây nó đốt nhẵn. Làng Chợ Dầu không chỉ
không phải Việt gian mà còn tích cực tham gia kháng chiến chống giặc cứu
nước, tôi như một lần nữa được sống lại. Tôi vô cùng mừng rỡ hăm hở đi
đính chính lại, tiếp tục vinh quang mà nói về cái làng mà tôi yêu quý nhất.
3. Đóng vai (hóa thân) ông Hai kể lại truyện ngắn Làng chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Quê hương - hai tiếng gọi giản dị và thân thương nhưng chứa đựng biết bao
tình cảm, nỗi niềm. Đó là nơi chúng ta sinh ra, lớn lên và gắn bó vậy nên mỗi
lần xa quê, ta nhớ nơi chôn rau cắt rốn ấy biết bao. Và tôi cũng thế, tôi yêu
lắm cái làng Chợ Dầu - ngôi làng thân yêu của tôi. Chiến tranh triền miên, dân
làng Chợ Dầu chúng tôi phải đi tản cư nơi khác. Giờ được trở về nhà, làng
Chợ Dầu tuy không còn vẹn nguyên như xưa nhưng trong lòng tôi, hình ảnh
nơi chôn rau cắt rốn vẫn luôn thiêng liêng, đẹp đẽ.
Hồi ấy, khi còn đang ở nơi di tản, tôi ngày ngày mong ngóng thông tin về làng.
Không biết dân làng hiện giờ tản ra đi những đâu, không biết bọn Tây có vào
chiếm làng không... Những thắc mắc ấy ngày nào cũng hiện hữu trong tâm trí
tôi. Rồi một hôm, có mấy người từ dưới xuôi lên. Khi nghe thấy họ nói bọn
Tây vào đến làng Chợ Dầu của tôi rồi, tôi vội chạy ra nghe ngóng tình hình:
- Nó... Nó vào làng Chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? - Tôi lắp bắp hỏi.
Người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh:
- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!
Tôi không tin, bèn gặng hỏi lại:
- Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại...
- Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi
cơ ông ạ. Tây vào làng, chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng
chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam-nhông, đưa vợ
con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại.
Nhận được tin như "sét đánh ngang tai", cảm giác đầu tiên của tôi là sốc, mặt
tôi biến sắc, cổ họng nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, cảm giác lúc đó thật
xấu hổ và thất vọng. Tôi là người yêu làng, hãnh diệu và kể cho mọi người
nghe mọi việc tốt đẹp về làng mình như giờ thành ra thế này, thật sự rất buồn,
xấu hổ và thất vọng. Tôi vội lảng đi và trở về nhà.
Trở về tôi vẫn không tin đó là sự thật, những suy nghĩ nội tâm đấu tranh nhau
dai dẳng giữa tình yêu thương làng và sự thật đang được phơi bày. Ngôi làng
tôi gắn bó, thân thiết, yêu vì những điều tốt đẹp giờ trở thành làng theo giặc,
chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến đến thế? Tôi kiểm điểm từng người trong
óc: Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng,
quyết tâm một sống một chết với giặc, đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!
Tin đồn làng tôi theo giặc càng ngày càng lan xa. Thông tin ấy cũng đã đến
tai mụ chủ nhà, bà ta cứ thỉnh thoảng lại xuống nhà tôi nói bóng gió, ý muốn
đuổi nhà tôi đi vì chẳng ai muốn chứa chấp cái dân làng theo giặc, phản lại
cách mạng. Lúc ấy, tôi bỗng nghĩ: "Biết đi đâu bây giờ? Hay là về làng?". Vừa
nghĩ vậy, tôi bèn gạt phăng đi. Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù. Trong tâm trạng rối bời, tôi chỉ biết tâm sự với
thằng út, kể ra những điều trong lòng làm tôi thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều.
Đến một hôm, có ông bạn người làng Chợ Dầu sang nhà tôi chơi. Nghe ông
ấy kể chuyện, tôi vội đóng khăn áo chỉnh tề tất tả đi theo. Đến sẩm tối tôi mới
về, bao nỗi lo, buồn phiền, tủi nhục mấy ngày nay của tôi như được trút bỏ.
Mặt tôi tươi tỉnh hẳn lên. Hóa ra mấy tin đồn làng Chợ Dầu thân yêu của tôi
theo giặc là láo hết, sai sự thật tất thảy! Ông chủ tịch làng tôi đã cải chính rồi,
làng tôi bị Tây đốt cháy rụi, đốt nhẵn. Dù tài sản bị mất đi nhưng không hiểu
sao trong lòng tôi bỗng vui, vui vì tin làng quê mình vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng.
Câu chuyện là như vậy đó, đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc từ thất vọng,
chán nản và niềm vui bất ngờ đến nhảy cẫng lên như một đứa trẻ, qua việc
này niềm tự hào về ngôi làng chợ Dầu trong tôi vẫn không thay đổi, làng tôi
vẫn luôn trung thành với cách mạng.
Document Outline
- Đóng vai (hóa thân) ông Hai kể lại chuyện Làng chọ
- 1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- 2. Đóng vai (hóa thân) ông Hai kể lại truyện ngắn
- 3. Đóng vai (hóa thân) ông Hai kể lại truyện ngắn