Đường lối của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay | Tiểu luận Xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức

Từ những năm 80 trở lại đây, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ  hiện đại, đặc biệt công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và truyền thông, công  nghệ na-no... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc và phát triển toàn diện,  chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:

Xây dựng Đảng 56 tài liệu

Thông tin:
28 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đường lối của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay | Tiểu luận Xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức

Từ những năm 80 trở lại đây, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ  hiện đại, đặc biệt công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và truyền thông, công  nghệ na-no... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc và phát triển toàn diện,  chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

6 3 lượt tải Tải xuống
TIỂU LUẬN
MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG
VÀ ĐẠO ĐỨC
ĐỀ TÀI
Đường lối của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức hiện nay.
Hà Nội - 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
Học viên :
Mã sinh viên :
Lớp :
Lớp tín chỉ :
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................2
5. Kết cấu đề tài.........................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................3
Chương 1: Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức.......................................................................................3
1.1 Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.....................................................3
1.2 kinh tế tri thức......................................................................................................4
1.3 Những quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức...................................................................................................6
Chương 2 : Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII vcông nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức............................................................9
2.1 Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức.....................................................................................9
2.2 Cơ hội và thách thức của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.......................................................................13
Chương 3 giải pháp định hướng nhằm phát triển công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay...................18
3.1 Hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đối với kinh tế tri thức........................18
3.2 Phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đápng yêu cầu của thực
tiễn...........................................................................................................................20
3.3 Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin.......................................21
3.4 Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu tri thức vào tất cả các lĩnh vực kinh tế -
hội............................................................................................................................23
3.5 Đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học – công nghệ.................................24
KẾT LUẬN.............................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................26
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm 80 trở lại đây, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ sinh học, công nghệ thông tin
truyền thông, công nghệ na-no... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu
sắc và phát triển toàn diện, chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri
thức.
Kinh tế tri thức đã đang trở thành xu hướng phát triển chung của
kinh tế thế giới, được nhiều quốc gia lựa chọn làm chiến lược phát triển,
điển hình như: Mỹ, Canada, Tây Âu, Nhật Bản, Singapore, Úc - nơi các
yếu tố của nền kinh tế tri thức ở mức khá cao; và đang hình thành tại một
số quốc gia đang phát triển như: Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Thái
Lan…
Đối với nước ta, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức là cơ hội lớn để
đây nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa, phát triển lực lượng sản xuất đi
lên hội chủ nghĩa. Nếu như không biết tận dụng hội đế đối mới
cách nghĩ cách làm, nâng cao năng lực nội sinh, bắt kịp tri thức của thời
đại. Nồi không thể đi tắt đón đầu và sẽ tiếp tục tụt hậu xa.
Do đó, bài viết này đề cập đến vấn đề đường lối của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay để
tìm hiểu kinh tế tri thức cơ hội, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam trước xu thế phát triển của kinh tế tri thức, trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp để phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở luận của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
1
Đưa ra một số giải pháp định hướng nhằm phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu đường lối lãnh đạo của Đảng về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên đường lối lãnh đạo của Đảng
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
các Nghị quyết Đại hội của Đảng
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã sử dụng các phương pháp như
phân tích, tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh, quy nạp, diễn dịch
5. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương ... tiết
NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và tiến bộ nhanh
chóng như hiện nay, quốc gia nào mong muốn phát triển phải thực hiện
nền kinh tế tri thức. Bởi vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức bước đi tất yếu các nước trên thế giới nói
chung Việt Nam nói riêng sẽ phải trải qua. Tại mỗi kỳ Đại hội Đảng
đều đưa ra những chủ trương, đường lối, chính sách nhằm thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt
trong bối cảnh toàn cầu hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay.
1.1 Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2
Lịch sử công nghiệp hóa trên thế giới đã xuất hiện cách đây hàng
trăm năm. Từ giữa thế kỷ XVIII, các nước phương Tây đã bắt đầu tiến
hành cuộc cách mạng công nghiệp với sự dẫn đầu nước Anh, nội
dung then chốt là chuyển từ lao động thủ công sang lao động cơ khí. Đây
sự khởi đầu, mốc đánh dấu cho quá trình công nghiệp hóa của thế
giới. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XIX, các khái niệm về công nghiệp hóa
mới bắt đầu được sử dụng thay thế dần cho khái niệm cách mạng công
nghiệp, mặc sau cuộc cách mạng công nghiệp nước Anh, đã có một
số cuộc cách mạng công nghiệp hóa đã diễn ra tại các nước Tây Âu, Bắc
Mỹ Nhật Bản. thể tổng quát, công nghiệp hóa quá trình tạo sự
chuyển biến, thay đổi từ nền kinh tế nông nghiệp với nền kinh tế lạc hậu,
nghèo nàn sử dụng lao động thủ công, năng suất thấp chuyển sang nền
kinh tế công nghiệp với cấu kinh tế hiện đại, người lao động sử dụng
máy móc tạo ra sản phẩm, mang lại năng suất lao động cao, phục vụ đời
sống con người. Như vậy, thể hiểu công nghiệp hóa là quá trình biếni
một nước nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn trở thành một nước côngi i
nghiệp hiện đại với trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, năng suấti
lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân. Hiện đại hóaquá trìnhi
tận dụng khả năng để đạt trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện
đại.i
Trong điều kiện của Việt Nam, Đảng ta xác định: “Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - hội từ sử dụng lao động
thủ côngchính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất
lao động xã hội cao” .
1
1.2 kinh tế tri thức
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.53, tr.554
3
Kinh tế tri thức nền kinh tế dựa trực tiếp vào quá trình sản xuất,
phân phối sử dụng tri thức, thông tin. Trong nền kinh tế tri thức, quá
trình sản xuất, phân phối sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối
với sự phát triển kinh tế, xã hội; tạo ra của cải vật chất, phục vụ nâng cao
chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức nền kinh tế được phát triểni i i
chủ yếu dựa vào tri thức và công nghiệp hiện đại. Cơ sở của nền kinh tếi i
tri thức là tri thức (thể hiện trong con người và trong công nghệ)...i
Sự ra đời phát triển của nền kinh tế tri thức kết quả tất yếu củai i i i
quá trình phát triển lực lượng sản xuất hội. được thúc đẩy bởi sựi i
tiến bộ mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tiên tiến,i i
nhất cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự bức phá vượti ibậc,
mang tính đột phá của công nghệ thông tin. Sự xuất hiện ngày càngi i
nhiềuicác phát minh khoa học, sáng kiến, ... đã tạo ra tính linh hoạt, đai i
dạng, hiệu quả cao cho hoạt động sản xuất.
Kinh tế tri thức giai đoạn phát triển vượt bậc của lực lượng sảni i
xuất, cao hơn so với kinh tế công nghiệp kinh tế nông nghiệp. Trongi i
nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối vớii i o
phát triển kinh tế - xã hội
Có thể khái quát đặc điểm của kinh tế tri thức ở những mặti i i isau:
Thứ nhất, tri thức lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức nguồn
lựci hình to lớn, quan trọng nhất trong đầu phát triển, nền kinh tếi i
dựa chủ yếu vào tri thức. Nền kinh tế tri thức lấy tri thức là nguồn lựci i i i
i vị trí quyết định nhất của sản xuất, động lực quan trọng nhất choi i
sự phát triển.
Thứ hai, nền kinh tế phụ thuộc càng nhiều vào các thành tựui icủai
khoa học - công nghệ. Nếu trong nền kinh tế công nghiệp, sức cạnh tranhi
chủ yếu dựa vào tối ưu hóa hoàn thiện công nghệ hiện có, thìi i itrong
nền kinh tế tri thức lại chiếm chủ yếu vào các quá trình nghiên cứu, sáng
tạoira công nghệ mới, sản phẩm mới. Trong nền kinh tế tri thức, i i icấu
4
sản xuất phụ thuộc ngày càng lớn vào việc ứng dụng các thành tựu củai i
khoa học - công nghệ, đặc biệt công nghệ chất lượng cao. Các quyếtl i
sách kinh tế được tri thức hóa.i
Thứ ba, cấu lao động được chuyển dịch theo hướng coi trọng laoi i i
động trí tuệ. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu lao động chuyển đổi theoi i i
hướng giảm số lượng lao động trực tiếp làm ra sản phẩm, đồng thờii i i
tăng số người lao động trí tuệ. Lao động trí tuệ chiếm tỷ lệ ngày càngi i i
cao so với trước đây. Nguồn nhân lực ngày nay nhanh chóng được trii i
thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thiết yếu đối với
mọi người. Học suốt đời, học tập chính nền tảng của nền kinh tế tri
thức.
Thứ tư, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên cần thiết quan
trọng. Quyền sở hữu trí tuê y là sự bảo đảm pháp lý cho tri thức và sự đổii i i
mới sáng tạo sẽ tiếp tục được tạo ra, duy trì và phát triển. Trong nền kinhi
tếi tri thức, nguồn lực tríituê ynăng lực đổi mới là hai nhân tố then chốti
đểi đánh giá khả năng cạnh tranh, tiềm năng phát triển và sự thịnh vượngi
củai một quốc gia. Các tài sản trí tuệ quyền sở hữu trí tuệ ngày càngi i i
trở nên quan trọng. Vi yc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được xem i i imột
nguyên tắc bản trong s vận động phát triển của nền kinh tế trii i
thức.
Thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế trii i i
thức chỉ được hình thành phát triển khichỉ khi lực lượng sản xuấti i i
ihội đã đang phát triển trình độ cao, phân công lao động mangi i i
tính quốc tế theo đó hệ thống sản xuất mang tính kết giữa cáci i inốii
doanh nghiệp các quốc gia trong một chuỗi giá trị sản phẩm. Bởi vậy,i
kinh tế tri thức mang tính toàn cầu hóa. Trong nền kinh tế tri thức, sự sảno
sinh, truyền sử dụng tri thức không còn nằm trong phạm vii n ibiêni
giới của một quốc gia. Nền kinh tế tri thức còn được gọi nền kinh tếi ii i
toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào trii i nthức.
5
Ngoài các đặc điểm trên, nền kinh tế tri thức còn một nền kinh tế
hướng đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi trường; nền kinhn i i
tế xuấtilàm thay đổi cấu hội thang giá trị hội, làmi i i ihiện cáci
cộng đồng dân kiểu mới, các làng khoa học, các công viên khoa học,n g g
vườn trồng khoa học...
1.3 Những quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức
Hiê yn nay có nhiều những tên gọi những định nghĩa khác nhau vền h c i
kinh tế tri thức. Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OECD),i i i
“kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụngi
tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của
cải, nâng cao chất lượng cuộc sống” .
2
Các nước phát triển hiện nay đều chứa đựng nhiều yếu tố có liên quan
đến nền kinh tế tri thức, như nền công nghiệp công nghệ chiếm tỷp caoo
trọng cao, lao động trí tuệ chuyên môn kỹ thuật cao. vậy, bướci i t
chuyển sang kinh tế tri thức bước chuyển tính tất yếu, khách quan,i o
phù hợp với quy luật chung. Việt Nam quốc gia nền kinh tế nôngii t
nghiệp đã đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa để thúc đẩy phát
triển kinh tế tránh tụt hậu, nghèo nàn. Đội ngũ cán bộ khoa học của Việtt
Nam khả năng tiếp nhận nhanh ứng dụng sáng tạo các thành tựu
khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới phù hợp với tình hình thực tiễn
của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Việt Nam đã mạnh dạn, nhanh chóng đầu tư, khai thác, sử dụng các ứng
dụng, thành tựu mới của thời đại đặc biệt các công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ phần mềm... Như vậy, chúng ta sở
khoa học để đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: chuyển từ kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và phát triển kinh tế tri thức. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “Con đường công
2 GS, VS. Đặng Hữu, “Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Hà Nội, 2000, tr.21
6
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa
có những bước tuần tự, vừanhững bước nhảy vọt. Phát huy những lợi
thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, mức độ cao hơn phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri
thức” .
3
Như vậy, muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
chúng ta cần phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học -
công nghệ hiện đại những yếu tố của nền kinh tế tri thức vớii i i i i
phương châm tăng tốc, đi tắt, đón đầu, bỏ qua lối mòn các nước đãi c i
vượt qua. Chủ trương của Đảng Nhà nước thúc đẩy công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đồng thời phát triển nền kinh tế tri thức một cách có căn
cứ khoa học, phù hợp với xu thế của thời đại. Nhưng chủ trương này chỉ
thành công khi hai nhiệm vụ trên được thực hiện đồng thời, lồng ghép
nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau bằng cách tăng cường đào tạo, sử dụng
khuyến khích tăng nhanh tiềm năng tri thức quốc gia, đầu vào các
ngành kinh tế tri thức. Từ chủ trương “từng bước phát triển kinh tế tri
thức” trong Đại hội IX đến Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Coi kinh tế
tri thức là yếu tố quyết định của nền kinh tếcông nghiệp hóa, hiện đại
hóa”
4
. Báo cáo chính trị tại Đại hội chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do
bối cảnh quốc tế tạo ra tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát
triển mạnh các ngành sản phẩm kinh tế giá trị gia tăng cao dựa
3n kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.91
4 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.87
7
nhiều vào tri thức; kết hợp sử dụng nguồn vốn của con người Việt Nam
với tri thức mới nhất của nhân loại” .
5
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra trong bối cảnh quốc tế và
trong nước diễn ra nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của
các cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, trong điều
kiện của thế giới khu vực nhiều biến động, với sự xuất hiện nhiều
nhân tố mới, trong đó nổi bật là xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển kinh
tế tri thức. Những nhân tố đó đã tác động nhiều mặt (cả tích cực
tiêu cực) đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI dự báo, toàn cầu hóa cách
mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình
thành hội thông tin kinh tế tri thức. Bởi vậy, một trong những
nhiệm vụ chủ yếu được nêu ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI
“Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực
cho phát triển kinh tế tri thức. Phát triển giáo dục quốc sách hàng đầu.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” .
6
Những điểm mới trong duy của Đảng về chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa được nêu ra trong Đại hội Đảng lần thứ XII, một mặt là
sự tiếp nối những quan điểm, tưởng nhất quán của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các kỳ đại hội trước, mặt khác sự bổ
sung, phát triển cụ thể hóa hơn để triển khai có hiệu quả những nhiệm vụ
cụ thể trong tình hình mới. Nhằm phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa một cách bền vững hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng
5 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 87-88
6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.130-131
8
Như vậy, Đảng ta đã đưa ra đường lối căn cứ luận thực tế
vững chắc để tranh thủ thời phát triển nước ta thành một nước công
nghiệp hiện đại với nền tảng là kinh tế tri thức.
Chương 2 : Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
2.1 Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức ảnh
hưởng đến các quốc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam. Từ những
năm đầu đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức cần phát
triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để thoát khỏi nước
chậm phát triển, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế tri thức được
Đảng ta xác định chính thức từ Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 7-
1994). Hội nghị xác định: “Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ
tiên tiến như công nghệ thông tin, phục vụ yêu cầu điện tử hóa và tin học
hóa nền kinh tế quốc dân” .
7
Đến tháng 6-1996, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Ứng
dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo
ra sự chuyển biến rệt về năng suất, chất lượng hiệu quả, hình thành
mạng thông tin quốc gia, liên kết với mạng thông tin quốc tế” .
8
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp
tục nhiều biến đổi. Khoa học công nghệ sẽ bước tiến nhảy vọt.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất” . Chiến lược phát triển kinh tế hội giai đoạn 2011-
9
7 ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.53, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2007, tr.570.
8 ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.55, sđd, tr.457.
9 ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.60, sđd, tr.124.
9
2020 đã xác định: “Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người
tri thức đang trở thành lợi thế chủ yếu của mỗi quốc gia” .
10
Trên cơ sở thực tiễn, các Đại hội X, XI, XII của Đảng đều nhấn mạnh
vị trí, vai trò, nội dung và biện pháp nhằm phát triển kinh tế tri thức trong
sự nghiệp đổi mới của đất nước. Như vậy, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc
không ngừng nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh tế tri thức trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xác định đó là xu hướng,
quy luật phát triển.
Qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trên tất
các lĩnh vực kinh tế - hội. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay”
11
. Bên cạnh những thuận lợi, trong bối cảnh hiện nay, với cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt công nghệ số trí tuệ
nhân tạo phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời thách thức đối với mọi
quốc gia, dân tộc. Việt Nam phải nhanh chóng bắt nhịp với xu thế của
thời đại, cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
Phát triển kinh tế tri thức, ứng dụng những thành tựu của khoa học,
công nghệ vào các lĩnh vực nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng,
hiệu quả tạo ra sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trên sở thực tiễn,
Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng
tạo Cách mạng công nghiệp lần thứ đang diễn biến rất nhanh, đột
phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với
năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát
10 ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.68, sđd, tr.938.
11 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, tr.25.
10
triển kinh tế số, hội số; làm thay đổi phương thức quản nhà nước,
mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội” .
12
Trên cơ sở đó, Đại hội XIII nêu quan điểm phát triển đối với nền kinh
tế nước ta: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công
nghệ, đổi mới sáng tạo chuyển đổi số. Phải đổi mới duy hành
động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các hội của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ gắn với quá trình hội nhập quốc tế để
cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, hội số, coi đây là nhân tố
quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sức cạnh
tranh”
13
.
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là
nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có
thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển
năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối
ngoại và hội nhập quốc tế” .
14
Để phát triển kinh tế tri thức, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn đóng vai trò quyết định. Vì vậy, một trong ba đột phá chiến lược
được Đại hội nêu ra nhằm phát triển kinh tế - xã hội là cần chú trọng phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với “phát triển mạnh mẽ
khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh” .
15
Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức, Đại hội chỉ ra một số
nhiệm vụ giải pháp, trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh công
12 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, 208.
13 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,214.
14 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 202,tr. 217
15 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, tr 221.
11
nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng,
các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm nâng cao tính tự
chủ, khả năng thích ứng sức chống chịu của nền kinh tế. Đẩy mạnh
phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế
và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp,
tiến cùng vượt lên một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới ”.
16
vậy, phải “Thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh,
các hình sản xuất kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, thương mại điện
tử”
17
.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, các tổ chức, doanh nghiệp trong
lĩnh vực khoa học công nghệ đóng vai trò tiên phong, tạo ra các sản phẩm
công nghệ để ứng dụng vào phát triển kinh tế - hội. Do đó, cần tập
trung “phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin,
doanh nghiệp số chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công
nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, hội số gắn với bảo đảm an
toàn, an ninh thông tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng” .
18
Đại hội XIII của Đảng đã kế thừa, phát triển những quan điểm về vị
trí, vai trò của kinh tế tri thức từ những đại hội trước đó; tiếp tục khẳng
định tầm quan trọng của nền kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay,
trong đó phát triển kinh tế tri thức mà cụ thể là phát triển kinh tế với khoa
học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi sốđộng lực chính của
tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế tri thức gắn với Cách mạng công
nghiệp lần thứ không chỉ đóng góp vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh,
16 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, tr. 234-235
17 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, tr. 234-235.
18 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.247.
12
thúc đẩy nền kinh tế mà còn tạo cơ sở, nền tảng hướng tới đẩy mạnh ứng
dụng quản trị chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, tổ
chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia
2.2 hội thách thức của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.2.1 Cơ hội:
Chúng ta đều biết rằng, kinh tế tri thức đóng vai trò quan trọng đối
với không chỉ Việt Nam cả thế giới. Nhờ phát triển vượt bậc tạo ra
cho nhân loại rất nhiều cơ hội. Cùng điểm qua những lợi thế của nền kinh
tế như sau:
Hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ áp dụng nguyên liệu năng
lượng tự nhiên nên tạo ra những sản phẩm sạch không gây ô nhiễm
môi trường. Từ đó tạo tiền đề phát triển bền vững;
Sản xuất sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng, luôn luôn sự cân bằng
giữa cung và cầu, hạn chế hàng tồn kho;
Cái mới luôn được sáng tạo liên tục chứ không phải từ cái phát
triển lên;
Quá trình nghiên cứu, sáng tạo của con người luôn không ngừng được
thực đẩy, phát triển ra kỹ thuật công nghệ hiện đại;
sự ứng dụng công nghệ thực tế ảo hay còn gọi VR trong các
hoạt động như học tập, thiết kế, xây dựng, kiến trúc, thực nghiệm khoa
học,… giúp tiết kiệm được thời gian, công sức tiền bạc, đồng thời
nâng cao năng suất lao động.
2.2.2 Thách thức
Một số khó khăn và thách thức đặt ra với quá trình công nghiệp hóa ở
nước ta hiện nay
luận hình kinh tế: hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của V yt Nam vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện; chưa được cụ thể
hóa thành những tiêu chí cụ thể của yt nước công nghiệp. Thực hiện
13
công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa bằng thể chế của nền kinh tế thị
trường, tuân theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường.
Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian dài chưa xác
định trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn phấn đấu.
Nhiều cơ chế, chính sách còn thiếu, hoặc thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng kịp
nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo yêu cầu “rút ngắn”, cũng chưa
làm được những nội dung bản, động lực để thực hiện quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn.
Xu hướng kinh tế thế giới: Công nghiệp thế giới xu hướng tăng
chậm hơn, trong khi áp lực cạnh tranh giữa các nước công nghiệp mới
đang phát triển càng “gay gắt”. Do khoa học công nghệ phát triển
nhanh, nhiều nền kinh tế đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng từ nguy
chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp sớm hơn so với dự kiến.
Phát triển kinh tếngành công nghiệp: Tăng trưởng kinh tế nước ta
vẫn dựa nhiều vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển sang
phát triển theo chiều sâu, dựa trên khoa học công nghệ và tri thức. Do đó,
nền kinh tế nước ta phát triển thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng
không cao.
Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế, vẫn còn khoảng cách lớn để
đạt đến mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế chậm, đang đặt ra các thách thức đối với nước ta trong việc
thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tăng trưởng của ngành công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỷ trọng đóng góp của
ngành công nghiệp trong cấu GDP cả nước chưa cao, tăng/giảm
không ổn định trong các giai đoạn vừa qua. Đến năm 2018, ngành công
nghiệp đạt 28,4%, thấp hơn năm 2010 (đạt 31,7%).
14
Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp thực hiện còn chậm, chưa tạo
ra những thay đổi đáng kể về cấu công nghiệp. Ngành Khai khoáng,
dù tỷ trọng VA của ngành có xu hướng giảm dần (từ 36,5% xuống 25,9%
trong giai đoạn 2011-2018) nhưng vẫn chiếm cao trong cấu VA toàn
ngành công nghiệp.
Chỉ số GDP/người: Từ năm 2000 đến nay, GDP/người của nước ta đã
tăng khá nhanh, đến năm 2018 đạt 2.590 USD/người, gấp hơn 6,6 lần so
với năm 2000. Tính theo sức mua tương đương thì GDP/người của Việt
Nam hiện đạt khoảng 7.435 USD/người.
Từ số liệu các năm cho thấy, mặc GDP/người của Việt Nam đã
những bước cải thiện so với mức bình quân của thế giới (từ 26,0% năm
2000, lên 34,2% năm 2010 41,3% năm 2018), tuy nhiên trong gần 20
năm phát triển kinh tế đã qua cho thấy, khoảng cách chệch lệch của Việt
Nam với thế giới vẫn còn mức khá cao. So sánh tương đối với một số
quốc gia trong “Các nước mới công nghiệp” (NICs) thì Việt Nam hiện
tương đương với Ấn Độ (đạt 7.874 USD); thấp hơn Philipine (8.936
USD); bằng 1/2 của Indonesia, Nam Phi, Braxin từ 1/3-1/4 của
Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Malaysia.
Có thể nói hiện nay, chỉ số GDP/người là một vấn đề lớn của nền kinh
tế nước ta, trong việc tính toán xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế
trong các giai đoạn tới.
Năng suất lao động: Năng suất lao động mối liên hệ trực tiếp với
GDP/người và đang thể hiệnvai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh
tế, Việt Nam hiện diện tích thuộc nhóm trung bình của thế giới và đặc
biệt đang nhiều thuận lợi về dân số (quy mô, độ tuổi lao động), tuy
nhiên năng suất lao động của Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp
nói riêng vẫn đang ở mức độ thấp, khi so với các nước phát triển. Qua đó
cho thấy, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn
15
trong thời gian tới, để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước
trong khu vực, và trên thế giới.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Năng lực cạnh tranh toàn cầu
của nền kinh tế Việt Nam chỉ mức trung bình vị trí tăng/giảm
không ổn định trong thời gian vừa qua. Đến năm 2019, Việt Nam đứng vị
trí 67/141 nền kinh tế, tăng thêm 10 bậc so với năm 2018 và vẫn còn một
khoảng cách khá xa, so với các nước đứng đầu trong khu vực ASEAN.
Dân số nguồn nhân lực: Việt Nam quốc gia tốc độ già hóa
dân số khá nhanh so với thế giới. Nước ta đã bước vào giai đoạn già hóa
dân số từ năm 2011 và dự báo đến năm 2030, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt
Nam sẽ tăng lên 17% đạt đến 25% vào năm 2050. Quá trình già hóa
dân số nhanh sẽ khiến lực lượng lao động bị thu hẹp, ảnh hưởng đến năng
suất lao động của toàn nền kinh tế, tác động lâu dài đến các lĩnh vực
của đời sống kinh tế-xã hội. Đây một thách thức lớn, đến phát triển
kinh tế Việt Nam trong tương lai gần.
Chất lượng nguồn nhân lực thiếu hụt lao động có tay nghề cao; cơ cấu
lao động qua đào tạo bất hợp lạc hậu (Tỷ lệ tương quan giữa số
lượng lao động trình độ đại học tr lên/ cao đẳng/ trung cấp/sơ cấp
nghề năm 2018 là: 1/0,37/0,54/0,37). thể đánh giá, việc hạn chế về
nguồn nhân lực đang được xem một trong những rào cản lớn nhất đối
với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
hiện nay.
Khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ chưa thực sự trở
thành động lực phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa;
huy động nguồn lực của xã hội vào các hoạt động khoa học và công nghệ
còn yếu; đầu cho khoa học công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng
chưa cao; thị trường khoa học và công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ kết quả
nghiên cứu, ứng dụng đào tạo, với nhu cầu sản xuất, kinh doanh
quản lý.
16
Xuất khẩu hàng hóa: Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững.
Tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP nhưng chưa
vững chắc. Độ mở của nền kinh tế qua kênh xuất khẩu khá lớn nhưng quy
mô xuất khẩu còn nhỏ; chỉ số xuất khẩu sản xuất bình quân đầu người chỉ
ở mức trung bình trên thế giới.
Xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp vốn đầu
nước ngoài (hiện chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu), dẫn đến nền
kinh tế ngành công nghiệp Việt Nam nói riêng, gặp nhiều khó khăn
trong việc chủ động phát triển các ngành công nghiệp trong dài hạn, do
doanh nghiệp FDI, thể sẽ chuyển hoặc đầu sang các quốc gia khác
sản xuất, nếu các điều kiện cho đầu sản xuất, tiếp cận thị trường
xuất khẩu,... gặp thuận lợi hơn.
Đầu từ nước ngoài: Hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh
nghiệp đầu nước ngoài Việt Nam đạt thấp. Các dự án FDI chủ yếu
tập trung vào gia công, lắp ráp và có tỷ lệ nội địa hóa thấp; chưa tạo được
sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước
như kỳ vọng. Thu hút đầu vào một số ngành, lĩnh vực ưu tiên từ các
tập đoàn lớn đa quốc gia còn hạn chế; hơn một nửa dự án FDI có quy
dưới 1 triệu USD.
Quá trình đô thị hóa và phát triển hạ tầng: Quá trình đô thị hóa diễn ra
với tốc đô y khá nhanh, nhưng thiếu sự đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội; trình độ, năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với
yêu cầu.
Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm
so với phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát triển đô thị hiện nay chưa
đáp ứng với sự đổi thay về duy quản đô thị hóa, phát triển đô thị
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
17
Chương 3 giải pháp định hướng nhằm phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay
Với mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, phát triển nền kinh tế tri thức đã trở thành một trong
những nhiệm vụ quan trọng, yếu tố quyết định đến sự phát triển đất
nước trong bối cảnh hiện nay. vậy, trên tinh thần Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng, một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế tri thức ở nước
ta là:
3.1 Hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đối với kinh tế tri thức
Ở bất kỳ quốc gia nào, nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo trong phát
triển kinh tế tri thức. Nhà nước phải đề ra những chế, chính sách sao
cho phù hợp với tình hình thực tiễn, để thúc đẩy phát triển kinh tế tri
thức. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra ba đột phá chiến lược, trong đó hoàn
thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta cần tập trung hoàn thiện thể
chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc
tế để phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam; hỗ trợ các điều kiện cần
thiết để phát triển khoa học - công nghệ, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu,
triển khai; khuyến khích phát triển hình kinh doanh mới, kinh tế số,
hội số. chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích, tạo môi
trường thuận lợi để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển
đổi mới công nghệ, ứng dụng những thành quả tri thức nhằm tạo ra năng
suất cao. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy
triển khai ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, hình kinh
doanh mới. Xác định các chỉ tiêu, chương trình hành động để ứng
dụng, phát triển khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo trong các lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh lành
18
| 1/28

Preview text:

TIỂU LUẬN
MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ ĐẠO ĐỨC ĐỀ TÀI
Đường lối của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức hiện nay. Học viên : Mã sinh viên : Lớp : Lớp tín chỉ : Hà Nội - 2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................2
5. Kết cấu đề tài.........................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................3
Chương 1: Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức.......................................................................................3
1.1 Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.....................................................3
1.2 kinh tế tri thức......................................................................................................4
1.3 Những quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức...................................................................................................6
Chương 2 : Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức............................................................9
2.1 Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức.....................................................................................9
2.2 Cơ hội và thách thức của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.......................................................................13
Chương 3 giải pháp định hướng nhằm phát triển công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay...................18
3.1 Hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đối với kinh tế tri thức........................18
3.2 Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn...........................................................................................................................20
3.3 Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin.......................................21
3.4 Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu tri thức vào tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã
hội............................................................................................................................23
3.5 Đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học – công nghệ.................................24
KẾT LUẬN.............................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................26 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm 80 trở lại đây, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và
truyền thông, công nghệ na-no... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu
sắc và phát triển toàn diện, chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức đã và đang trở thành xu hướng phát triển chung của
kinh tế thế giới, được nhiều quốc gia lựa chọn làm chiến lược phát triển,
điển hình như: Mỹ, Canada, Tây Âu, Nhật Bản, Singapore, Úc - nơi các
yếu tố của nền kinh tế tri thức ở mức khá cao; và đang hình thành tại một
số quốc gia đang phát triển như: Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan…
Đối với nước ta, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức là cơ hội lớn để
đây nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa, phát triển lực lượng sản xuất đi
lên xã hội chủ nghĩa. Nếu như không biết tận dụng cơ hội đế đối mới
cách nghĩ cách làm, nâng cao năng lực nội sinh, bắt kịp tri thức của thời
đại. Nồi không thể đi tắt đón đầu và sẽ tiếp tục tụt hậu xa.
Do đó, bài viết này đề cập đến vấn đề đường lối của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay để
tìm hiểu kinh tế tri thức cơ hội, thách thức và những vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam trước xu thế phát triển của kinh tế tri thức, trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp để phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 1
Đưa ra một số giải pháp định hướng nhằm phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu đường lối lãnh đạo của Đảng về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên đường lối lãnh đạo của Đảng
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong
các Nghị quyết Đại hội của Đảng
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã sử dụng các phương pháp như
phân tích, tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh, quy nạp, diễn dịch 5. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương ... tiết NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và tiến bộ nhanh
chóng như hiện nay, quốc gia nào mong muốn phát triển phải thực hiện
nền kinh tế tri thức. Bởi vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức là bước đi tất yếu mà các nước trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng sẽ phải trải qua. Tại mỗi kỳ Đại hội Đảng
đều đưa ra những chủ trương, đường lối, chính sách nhằm thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt
trong bối cảnh toàn cầu hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay.
1.1 Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2
Lịch sử công nghiệp hóa trên thế giới đã xuất hiện cách đây hàng
trăm năm. Từ giữa thế kỷ XVIII, các nước phương Tây đã bắt đầu tiến
hành cuộc cách mạng công nghiệp với sự dẫn đầu là nước Anh, có nội
dung then chốt là chuyển từ lao động thủ công sang lao động cơ khí. Đây
là sự khởi đầu, là mốc đánh dấu cho quá trình công nghiệp hóa của thế
giới. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XIX, các khái niệm về công nghiệp hóa
mới bắt đầu được sử dụng thay thế dần cho khái niệm cách mạng công
nghiệp, mặc dù sau cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh, đã có một
số cuộc cách mạng công nghiệp hóa đã diễn ra tại các nước Tây Âu, Bắc
Mỹ và Nhật Bản. Có thể tổng quát, công nghiệp hóa là quá trình tạo sự
chuyển biến, thay đổi từ nền kinh tế nông nghiệp với nền kinh tế lạc hậu,
nghèo nàn sử dụng lao động thủ công, năng suất thấp chuyển sang nền
kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế hiện đại, người lao động sử dụng
máy móc tạo ra sản phẩm, mang lại năng suất lao động cao, phục vụ đời
sống con người. Như vậy, có thể hiểu công nghiệp hóa là quá trình biếni
một nước có nền kinh tếilạc hậu, nghèo nàn trở thành một nước côngi
nghiệp hiện đại với trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, có năng suấti
lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân. Hiện đại hóa là quá trìnhi
tận dụng khả năng để đạt trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại.i
Trong điều kiện của Việt Nam, Đảng ta xác định: “Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”1. 1.2 kinh tế tri thức
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.53, tr.554 3
Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào quá trình sản xuất,
phân phối và sử dụng tri thức, thông tin. Trong nền kinh tế tri thức, quá
trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối
với sự phát triển kinh tế, xã hội; tạo ra của cải vật chất, phục vụ nâng cao
chất lượng cuộc sống. Kinh tế trii thức là nền kinh tếi được phát triểni
chủ yếu dựa vào trii thức và công nghiệp hiện đại. Cơ sở của nền kinh tếi
tri thức là triithức (thể hiện trong con người và trong công nghệ)...
Sự ra đờiivà phát triển của nền kinh tế triithức là kết quảitất yếu củai
quá trình phátitriển lực lượng sản xuất xã hội. Nó được thúc đẩy bởi sựi
tiến bội mạnh mẽ của cách mạng khoa họci- công nghệ hiện đại tiên tiến,
nhất làicuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự bức phá vượtibậc,
mang tínhiđột phá của công nghệ thông tin. Sự xuất hiệningày càng
nhiềuicác phát minh khoa học, sáng kiến, ... đãi tạo ra tính linh hoạt, đai
dạng, hiệu quả cao cho hoạt động sản xuất.
Kinh tế triithức là giaii đoạn phát triển vượt bậc của lực lượng sản
xuất, cao hơn soi với kinh tế công nghiệp vài kinh tế nông nghiệp. Trong
nền kinhitế tri thức, trii thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối vớio
phát triển kinh tế - xã hội
Có thể kháiiquát đặc điểm củaikinh tế triithức ở những mặtisau:
Thứ nhất, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức là nguồn
lựcivô hình toilớn, quan trọng nhất trong đầu tưi phát triển, nền kinh tế
dựa chủ yếu vào trii thức. Nền kinh tế trii thức lấy tri thức lài nguồn lựci
cói vị trí quyết định nhất của sản xuất, là động lựci quan trọng nhất choi sự phát triển.
Thứ hai, nền kinh tế phụ thuộc càng nhiều vàoi các thành tựuicủai
khoa học - công nghệ. Nếu trong nền kinh tế công nghiệp, sứcicạnh tranh
chủ yếu dựa vào tốii ưu hóa vàihoàn thiện công nghệ hiện có, thìitrong
nền kinh tế tri thức lại chiếm chủ yếu vào các quá trình nghiên cứu, sáng
tạoira công nghệimới, sản phẩm mới. Trong nền kinh tếitri thức, cơicấu 4
sản xuất phụ thuộc ngày càng lớn vàoi việc ứng dụng các thành tựu củai
khoa học - côngl nghệ, đặc biệt là công nghệi chất lượng cao. Các quyết
sách kinh tế được trii thức hóa.
Thứ ba, cơ cấu laoiđộng được chuyển dịch theo hướng coii trọng laoi
động trí tuệ. Trong nền kinh tế trii thức, cơ cấu laoiđộng chuyển đổii theo
hướng giảm sối lượng lao động trực tiếp làm rai sản phẩm, đồng thờii
tăng số người lao động trí tuệ. Lao động tríituệ chiếm tỷ lệi ngày càngi
cao soi với trước đây. Nguồn nhân lực ngày nay nhanh chóng được trii
thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thiết yếu đối với
mọi người. Học suốt đời, học tập chính là nền tảng của nền kinh tế tri thức.
Thứ tư, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên cần thiết và quan
trọng. Quyền sở hữu trí tuê y là sựi bảo đảm pháp lý choitri thức và sựi đổi
mới sáng tạo sẽ tiếp tục được tạo ra, duy trìi và phát triển. Trong nền kinh
tếi tri thức, nguồn lực tríituê y
và năng lực đổi mới là hai nhân tốithen chốt
đểi đánh giáikhả năng cạnh tranh, tiềm năng phát triển và sự thịnh vượng
củai một quốc gia. Các tàii sản tríituệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càngi
trở nên quanitrọng. Viê y
c bảo hộiquyền sở hữu tríituệ được xem làimột
nguyên tắc cơi bản trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế trii thức.
Thứ năm, nền kinh tế triithức là nền kinh tếitoàn cầu. Nền kinh tế trii
thức chỉiđược hình thành vài phát triển khi và chỉ khiilực lượng sản xuất
xãihội đãi và đang phát triển ở trình độicao, phân công laoiđộng mang
tính quốc tế vàitheo đóilà hệ thống sản xuất mang tính kếtinốii giữa các
doanh nghiệp các quốc gia trong một chuỗi giá trịisản phẩm. Bởi vậy,
kinh tế tri thức mang tính toàn cầu hóa. Trong nền kinh tế tri thức, sự sản o
sinh, truyền bá và sử dụng triithức không còn nằm n trong phạm viibiêni
giới của một quốc gia. Nền kinh tế triithức còn được gọiiilà nền kinh tếi
toàn cầu hóa nốii mạng, hay là nền kinh tế toànicầu dựa vào trinthức. 5
Ngoài các đặc điểm trên, nền kinh tế tri thức còn là một nền kinh tế
hướng đến sự phát triển bền vững, thân thiện với n môii trường; nền kinhi
tếilàm thay đổiicơ cấu xã hội vàithang giá trị xã hội, làmixuấtihiện cáci
cộng đồng dân cư kiểu mới, n các làng khoa học, g các công viên khoa g học, vườn trồng khoa học...
1.3 Những quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức Hiê y
n nay có nhiều những tên gọi và n
những địnhhnghĩa kháccnhau vềi kinh tế trii thức.
Theo Tổichức Hợp tác vài Phát triển kinh tế (OECD),
“kinh tế triithức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng
tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của
cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”2.
Các nước phát triển hiện nay đều chứa đựng nhiều yếu tố có liên quan
đến nền kinh tế tri thức, như nền công nghiệppcông nghệ cao chiếm o tỷ
trọng cao, lao động tríi tuệ có chuyênimôn kỹ thuậttcao. Vì vậy, bước
chuyển sang kinh tế triithức là bước chuyển cóotính tất yếu, khách quan,
phù hợp vớiiiquy luậtt chung. Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế nông
nghiệp đã và đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa để thúc đẩy phát
triển kinh tế tránh tụt hậu, nghèo nàn. Đội ngũ cán bộ khoa học của Việtt
Nam có khả năng tiếp nhận nhanh và ứng dụng sáng tạo các thành tựu
khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới phù hợp với tình hình thực tiễn
của đất nước. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Việt Nam đã mạnh dạn, nhanh chóng đầu tư, khai thác, sử dụng các ứng
dụng, thành tựu mới của thời đại đặc biệt là các công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ phần mềm... Như vậy, chúng ta có cơ sở
khoa học để đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: chuyển từ kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và phát triển kinh tế tri thức. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “Con đường công
2 GS, VS. Đặng Hữu, “Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Hà Nội, 2000, tr.21 6
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa
có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi
thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”3.
Như vậy, muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
chúng ta cần phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học -
công nghệ hiện đạii và những yếu tối của nền kinh tếi triithức vớii
phương châm tăng tốc, đi tắt, đón đầu, bỏ qua lốiimòn mà cáccnước đãi
vượt qua. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là thúc đẩy công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đồng thời phát triển nền kinh tế tri thức một cách có căn
cứ khoa học, phù hợp với xu thế của thời đại. Nhưng chủ trương này chỉ
thành công khi hai nhiệm vụ trên được thực hiện đồng thời, lồng ghép
nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau bằng cách tăng cường đào tạo, sử dụng
khuyến khích tăng nhanh tiềm năng tri thức quốc gia, đầu tư vào các
ngành kinh tế tri thức. Từ chủ trương “từng bước phát triển kinh tế tri
thức” trong Đại hội IX đến Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Coi kinh tế
tri thức là yếu tố quyết định của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”4 . Báo cáo chính trị tại Đại hội chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do
bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát
triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.91
4 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.87 7
nhiều vào tri thức; kết hợp sử dụng nguồn vốn của con người Việt Nam
với tri thức mới nhất của nhân loại”5.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra trong bối cảnh quốc tế và
trong nước diễn ra nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của
các cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, trong điều
kiện của thế giới và khu vực có nhiều biến động, với sự xuất hiện nhiều
nhân tố mới, trong đó nổi bật là xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển kinh
tế tri thức. Những nhân tố đó đã có tác động nhiều mặt (cả tích cực và
tiêu cực) đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI dự báo, toàn cầu hóa và cách
mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình
thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Bởi vậy, một trong những
nhiệm vụ chủ yếu được nêu ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI
là “Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực
cho phát triển kinh tế tri thức. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”6.
Những điểm mới trong tư duy của Đảng về chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa được nêu ra trong Đại hội Đảng lần thứ XII, một mặt là
sự tiếp nối những quan điểm, tư tưởng nhất quán của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các kỳ đại hội trước, mặt khác là sự bổ
sung, phát triển cụ thể hóa hơn để triển khai có hiệu quả những nhiệm vụ
cụ thể trong tình hình mới. Nhằm phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa một cách bền vững và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
5 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 87-88
6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.130-131 8
Như vậy, Đảng ta đã đưa ra đường lối có căn cứ lý luận và thực tế
vững chắc để tranh thủ thời cơ phát triển nước ta thành một nước công
nghiệp hiện đại với nền tảng là kinh tế tri thức.
Chương 2 : Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
2.1 Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức ảnh
hưởng đến các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ những
năm đầu đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ cần phát
triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để thoát khỏi nước
chậm phát triển, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức được
Đảng ta xác định chính thức từ Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 7-
1994). Hội nghị xác định: “Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ
tiên tiến như công nghệ thông tin, phục vụ yêu cầu điện tử hóa và tin học
hóa nền kinh tế quốc dân”7.
Đến tháng 6-1996, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Ứng
dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo
ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả, hình thành
mạng thông tin quốc gia, liên kết với mạng thông tin quốc tế”8.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp
tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất”9. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-
7 ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.53, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2007, tr.570.
8 ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.55, sđd, tr.457.
9 ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.60, sđd, tr.124. 9
2020 đã xác định: “Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và
tri thức đang trở thành lợi thế chủ yếu của mỗi quốc gia”10.
Trên cơ sở thực tiễn, các Đại hội X, XI, XII của Đảng đều nhấn mạnh
vị trí, vai trò, nội dung và biện pháp nhằm phát triển kinh tế tri thức trong
sự nghiệp đổi mới của đất nước. Như vậy, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc
và không ngừng nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh tế tri thức trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xác định đó là xu hướng, quy luật phát triển.
Qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trên tất
các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay”11. Bên cạnh những thuận lợi, trong bối cảnh hiện nay, với cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là công nghệ số và trí tuệ
nhân tạo phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi
quốc gia, dân tộc. Việt Nam phải nhanh chóng bắt nhịp với xu thế của
thời đại, cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển kinh tế tri thức, ứng dụng những thành tựu của khoa học,
công nghệ vào các lĩnh vực nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng,
hiệu quả và tạo ra sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trên cơ sở thực tiễn,
Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng
tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột
phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với
năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát
10 ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.68, sđd, tr.938.
11 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25. 10
triển kinh tế số, xã hội số; làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước,
mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội”12.
Trên cơ sở đó, Đại hội XIII nêu quan điểm phát triển đối với nền kinh
tế nước ta: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành
động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để
cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố
quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”13.
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là
nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có
thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển
năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối
ngoại và hội nhập quốc tế”14.
Để phát triển kinh tế tri thức, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn đóng vai trò quyết định. Vì vậy, một trong ba đột phá chiến lược
được Đại hội nêu ra nhằm phát triển kinh tế - xã hội là cần chú trọng phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với “phát triển mạnh mẽ
khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”15.
Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức, Đại hội chỉ ra một số
nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh công
12 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, 208.
13 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,214.
14 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 202,tr. 217
15 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr 221. 11
nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng,
các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm nâng cao tính tự
chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Đẩy mạnh
phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế
và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp,
tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới16”. Vì
vậy, phải “Thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh,
các mô hình sản xuất kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử”17.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, các tổ chức, doanh nghiệp trong
lĩnh vực khoa học công nghệ đóng vai trò tiên phong, tạo ra các sản phẩm
công nghệ để ứng dụng vào phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, cần tập
trung “phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin,
doanh nghiệp số chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công
nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số gắn với bảo đảm an
toàn, an ninh thông tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng”18.
Đại hội XIII của Đảng đã kế thừa, phát triển những quan điểm về vị
trí, vai trò của kinh tế tri thức từ những đại hội trước đó; tiếp tục khẳng
định tầm quan trọng của nền kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay,
trong đó phát triển kinh tế tri thức mà cụ thể là phát triển kinh tế với khoa
học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính của
tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế tri thức gắn với Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư không chỉ đóng góp vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh,
16 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 234-235
17 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 234-235.
18 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.247. 12
thúc đẩy nền kinh tế mà còn tạo cơ sở, nền tảng hướng tới đẩy mạnh ứng
dụng quản trị chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, tổ
chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia
2.2 Cơ hội và thách thức của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 2.2.1 Cơ hội:
Chúng ta đều biết rằng, kinh tế tri thức đóng vai trò quan trọng đối
với không chỉ Việt Nam mà cả thế giới. Nhờ phát triển vượt bậc tạo ra
cho nhân loại rất nhiều cơ hội. Cùng điểm qua những lợi thế của nền kinh tế như sau:
Hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ áp dụng nguyên liệu và năng
lượng tự nhiên nên tạo ra những sản phẩm sạch và không gây ô nhiễm
môi trường. Từ đó tạo tiền đề phát triển bền vững;
Sản xuất sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng, luôn luôn có sự cân bằng
giữa cung và cầu, hạn chế hàng tồn kho;
Cái mới luôn được sáng tạo liên tục chứ không phải từ cái cũ phát triển lên;
Quá trình nghiên cứu, sáng tạo của con người luôn không ngừng được
thực đẩy, phát triển ra kỹ thuật công nghệ hiện đại;
Có sự ứng dụng công nghệ thực tế ảo hay còn gọi là VR trong các
hoạt động như học tập, thiết kế, xây dựng, kiến trúc, thực nghiệm khoa
học,… giúp tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc, đồng thời
nâng cao năng suất lao động. 2.2.2 Thách thức
Một số khó khăn và thách thức đặt ra với quá trình công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay
Lý luận và Mô hình kinh tế: Mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Viê y
t Nam vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện; chưa được cụ thể
hóa thành những tiêu chí cụ thể của mô y
t nước công nghiệp. Thực hiện 13
công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa bằng thể chế của nền kinh tế thị
trường, tuân theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường.
Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian dài chưa xác
định rõ trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn phấn đấu.
Nhiều cơ chế, chính sách còn thiếu, hoặc thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng kịp
nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo yêu cầu “rút ngắn”, cũng chưa
làm rõ được những nội dung cơ bản, và động lực để thực hiện quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn.
Xu hướng kinh tế thế giới: Công nghiệp thế giới có xu hướng tăng
chậm hơn, trong khi áp lực cạnh tranh giữa các nước công nghiệp mới và
đang phát triển càng “gay gắt”. Do khoa học và công nghệ phát triển
nhanh, nhiều nền kinh tế đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng từ nguy cơ
chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp sớm hơn so với dự kiến.
Phát triển kinh tế và ngành công nghiệp: Tăng trưởng kinh tế nước ta
vẫn dựa nhiều vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển sang
phát triển theo chiều sâu, dựa trên khoa học công nghệ và tri thức. Do đó,
nền kinh tế nước ta phát triển thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng không cao.
Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế, vẫn còn khoảng cách lớn để
đạt đến mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế chậm, đang đặt ra các thách thức đối với nước ta trong việc
thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tăng trưởng của ngành công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỷ trọng đóng góp của
ngành công nghiệp trong cơ cấu GDP cả nước chưa cao, và tăng/giảm
không ổn định trong các giai đoạn vừa qua. Đến năm 2018, ngành công
nghiệp đạt 28,4%, thấp hơn năm 2010 (đạt 31,7%). 14
Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp thực hiện còn chậm, chưa tạo
ra những thay đổi đáng kể về cơ cấu công nghiệp. Ngành Khai khoáng,
dù tỷ trọng VA của ngành có xu hướng giảm dần (từ 36,5% xuống 25,9%
trong giai đoạn 2011-2018) nhưng vẫn chiếm cao trong cơ cấu VA toàn ngành công nghiệp.
Chỉ số GDP/người: Từ năm 2000 đến nay, GDP/người của nước ta đã
tăng khá nhanh, đến năm 2018 đạt 2.590 USD/người, gấp hơn 6,6 lần so
với năm 2000. Tính theo sức mua tương đương thì GDP/người của Việt
Nam hiện đạt khoảng 7.435 USD/người.
Từ số liệu các năm cho thấy, mặc dù GDP/người của Việt Nam đã có
những bước cải thiện so với mức bình quân của thế giới (từ 26,0% năm
2000, lên 34,2% năm 2010 và 41,3% năm 2018), tuy nhiên trong gần 20
năm phát triển kinh tế đã qua cho thấy, khoảng cách chệch lệch của Việt
Nam với thế giới vẫn còn ở mức khá cao. So sánh tương đối với một số
quốc gia trong “Các nước mới công nghiệp” (NICs) thì Việt Nam hiện
tương đương với Ấn Độ (đạt 7.874 USD); thấp hơn Philipine (8.936
USD); bằng 1/2 của Indonesia, Nam Phi, Braxin và từ 1/3-1/4 của
Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Malaysia.
Có thể nói hiện nay, chỉ số GDP/người là một vấn đề lớn của nền kinh
tế nước ta, trong việc tính toán và xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới.
Năng suất lao động: Năng suất lao động có mối liên hệ trực tiếp với
GDP/người và đang thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh
tế, Việt Nam hiện có diện tích thuộc nhóm trung bình của thế giới và đặc
biệt đang có nhiều thuận lợi về dân số (quy mô, độ tuổi lao động), tuy
nhiên năng suất lao động của Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp
nói riêng vẫn đang ở mức độ thấp, khi so với các nước phát triển. Qua đó
cho thấy, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn 15
trong thời gian tới, để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước
trong khu vực, và trên thế giới.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Năng lực cạnh tranh toàn cầu
của nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức trung bình và có vị trí tăng/giảm
không ổn định trong thời gian vừa qua. Đến năm 2019, Việt Nam đứng vị
trí 67/141 nền kinh tế, tăng thêm 10 bậc so với năm 2018 và vẫn còn một
khoảng cách khá xa, so với các nước đứng đầu trong khu vực ASEAN.
Dân số và nguồn nhân lực: Việt Nam là quốc gia có tốc độ già hóa
dân số khá nhanh so với thế giới. Nước ta đã bước vào giai đoạn già hóa
dân số từ năm 2011 và dự báo đến năm 2030, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt
Nam sẽ tăng lên 17% và đạt đến 25% vào năm 2050. Quá trình già hóa
dân số nhanh sẽ khiến lực lượng lao động bị thu hẹp, ảnh hưởng đến năng
suất lao động của toàn nền kinh tế, và tác động lâu dài đến các lĩnh vực
của đời sống kinh tế-xã hội. Đây là một thách thức lớn, đến phát triển
kinh tế Việt Nam trong tương lai gần.
Chất lượng nguồn nhân lực thiếu hụt lao động có tay nghề cao; cơ cấu
lao động qua đào tạo bất hợp lý và lạc hậu (Tỷ lệ tương quan giữa số
lượng lao động có trình độ đại học trở lên/ cao đẳng/ trung cấp/sơ cấp
nghề năm 2018 là: 1/0,37/0,54/0,37). Có thể đánh giá, việc hạn chế về
nguồn nhân lực đang được xem là một trong những rào cản lớn nhất đối
với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở
thành động lực phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa;
huy động nguồn lực của xã hội vào các hoạt động khoa học và công nghệ
còn yếu; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng
chưa cao; thị trường khoa học và công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ kết quả
nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo, với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý. 16
Xuất khẩu hàng hóa: Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững.
Tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP nhưng chưa
vững chắc. Độ mở của nền kinh tế qua kênh xuất khẩu khá lớn nhưng quy
mô xuất khẩu còn nhỏ; chỉ số xuất khẩu sản xuất bình quân đầu người chỉ
ở mức trung bình trên thế giới.
Xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (hiện chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu), dẫn đến nền
kinh tế và ngành công nghiệp Việt Nam nói riêng, gặp nhiều khó khăn
trong việc chủ động phát triển các ngành công nghiệp trong dài hạn, do
doanh nghiệp FDI, có thể sẽ chuyển hoặc đầu tư sang các quốc gia khác
sản xuất, nếu các điều kiện cho đầu tư và sản xuất, tiếp cận thị trường
xuất khẩu,... gặp thuận lợi hơn.
Đầu tư từ nước ngoài: Hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đạt thấp. Các dự án FDI chủ yếu
tập trung vào gia công, lắp ráp và có tỷ lệ nội địa hóa thấp; chưa tạo được
sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước
như kỳ vọng. Thu hút đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực ưu tiên từ các
tập đoàn lớn đa quốc gia còn hạn chế; hơn một nửa dự án FDI có quy mô dưới 1 triệu USD.
Quá trình đô thị hóa và phát triển hạ tầng: Quá trình đô thị hóa diễn ra
với tốc đô y khá nhanh, nhưng thiếu sự đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội; trình độ, năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu.
Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm
so với phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát triển đô thị hiện nay chưa
đáp ứng với sự đổi thay về tư duy quản lý đô thị hóa, phát triển đô thị
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 17
Chương 3 giải pháp định hướng nhằm phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Với mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, phát triển nền kinh tế tri thức đã trở thành một trong
những nhiệm vụ quan trọng, là yếu tố quyết định đến sự phát triển đất
nước trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, trên tinh thần Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng, một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế tri thức ở nước ta là:
3.1 Hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đối với kinh tế tri thức
Ở bất kỳ quốc gia nào, nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo trong phát
triển kinh tế tri thức. Nhà nước phải đề ra những cơ chế, chính sách sao
cho phù hợp với tình hình thực tiễn, để thúc đẩy phát triển kinh tế tri
thức. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra ba đột phá chiến lược, trong đó hoàn
thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta cần tập trung hoàn thiện thể
chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc
tế để phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam; hỗ trợ các điều kiện cần
thiết để phát triển khoa học - công nghệ, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu,
triển khai; khuyến khích phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số,
xã hội số. Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích, tạo môi
trường thuận lợi để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và
đổi mới công nghệ, ứng dụng những thành quả tri thức nhằm tạo ra năng
suất cao. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy
triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh
doanh mới. Xác định rõ các chỉ tiêu, chương trình hành động để ứng
dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh lành 18