-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đường lối đổi mới của Đại hội VI (1986) đến Đại hội VII (1991) | Bài thuyết trình môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Đường lối đổi mới của Đại hội VI (1986) đến Đại hội VII (1991) | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40551442
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN CHẤT LƯỢNG CAO, POHE ----o0o----
BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM Đề tài:
Đường lối đổi mới của Đại hội VI (1986) đến Đại hội VII (1991)
Nhóm thực hiện : Nhóm 2 Khóa : 63 Lớp : Kiểm toán CLC 63A
GV hướng dẫn
: TS. Nguyễn Thị Thắm
Hà Nội, tháng 3 năm 2023 lOMoAR cPSD| 40551442 THÀNH VIÊN NHÓM 1 Doãn Minh Hiền 11212141 2 Ngô Cẩm Tú 11218803 3 Mai Thị Quỳnh Hoa 11212284 4
Nguyễn Thảo Phương 11214844 5 Lê Tuấn Minh 11219096 6 Nguyễn Đức Anh 11218305 7 Trần Gia Huy 11212642 8
Phạm Thị Linh Trang 11219630 9 Nguyễn Thị Hằng 11212061 10 Nguyễn Trung Anh 11210654
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................................2
I. Đại hội VI...................................................................................................................2
1. Bối cảnh..................................................................................................................2
2. Khái quát Đại hội..................................................................................................4
3. Nội dung chính.......................................................................................................5
4. Kết quả và Ý nghĩa................................................................................................6
6. Bài học rút ra.........................................................................................................7
II. Đại hội VII................................................................................................................7
1.Bối cảnh đại hội......................................................................................................7
2. Khái quát đại hội...................................................................................................8
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, từng bước đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã
hội.....................9 lOMoAR cPSD| 40551442
4. Kết quả và thành tựu..........................................................................................11
5. Bài học rút ra.......................................................................................................14 LỜI CẢM
ƠN.................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................17 lOMoAR cPSD| 40551442 LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Trải qua 12 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, mỗi kỳ đại hội là
một mốc son chói lọi phản ánh sự trưởng thành của Đảng và cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Những thắng lợi đó đều bắt nguồn từ việc Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
tham khảo kinh nghiệm quốc tế xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo
trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới để từ đó vạch ra đường lối cách
mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại.
Công cuộc đổi mới đó đến nay đã diễn ra gần 30 năm, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử quan trọng. Một trong những thành tựu to lớn là Đảng và nhân dân ta
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
rõ nét và sâu sắc. Trong 85 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào,
Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt đường lối
cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng
đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu
khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nhận thức và chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn.
Do đó, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài: “Đường lối đổi mới của Đại hội VI
(1986) đến Đại hội VII (1991)” để nghiên cứu, nhằm qua đó thấy được quá trình trưởng
thành của Đảng ta trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội, đồng thời đưa ra một số đánh giá
và rút ra bài học từ những nội dung đã thực hiện. NỘI DUNG I. Đại hội VI 1. Bối cảnh
Đại hội VI diễn ra trong bối cảnh vào nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình quốc
tế và trong nước diễn biến hết sức phức tạp:
a. Bình diện quốc tế: 1 lOMoAR cPSD| 40551442
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, xuất hiện hình thái kinh tế mới
của thời đại công nghệ thông tin là kinh tế tri thức, tác động sâu sắc đến sự phát triển của
nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến
hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống tình trạng đói nghèo, lạc hậu, chống
mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia - dân tộc.
Các quốc gia đứng trước những vấn đề toàn cầu cần thiết phải hợp tác với nhau để chống
nguy cơ chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và môi trường.
Xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu
Lúc này chiến tranh lạnh kết thúc vì thế xu thế đối đầu trở thành đối ngoại. Toàn cầu hóa
trở thành xu thế khách quan. Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản
chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột, bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của
chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải
quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra.
Liên Xô và các nước XHCN đều tiến hành cải tổ xây dựng CNXH:
Mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa bộc lộ những khuyết tật. Nhằm
khắc phục những hạn chế, tìm kiếm giải pháp khắc phục, nhiều đảng cộng sản cầm quyền
ở các nước xã hội chủ nghĩa chủ trương tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa và cải tổ.
b. Bình diện trong nước
Kinh tế: Khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra trầm trọng, Việt Nam đang bị các nước đế
quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận,.
10 năm đầu tiên của thời kỳ quá độ, nền sản xuất cũ, hậu quả của các cuộc chiến tranh,
tàn dư của chế độ cũ đã cản trở sự phát triển của đất nước. Sản xuất kém phát triển, các
chỉ tiêu cơ bản như: lương thực, thực phẩm, điện, than, xi măng, phân bón, gỗ, vải; hàng
xuất khẩu không đạt, hiệu quả sản xuất thấp.
Phân phối, lưu thông rối ren do Nhà nước áp dụng chính sách “ngăn sông, cấm chợ”. Các
công cụ đòn bẩy kinh tế như chính sách về giá cả, tiền tệ, tài chính, tiền lương... đều
không phát huy tác dụng, dẫn đến lạm phát gia tăng mạnh (trên 300% năm 1985 và lên tới 774.7% năm 1986). lOMoAR cPSD| 40551442
Những khó khăn về sản xuất và phân phối, lưu thông dẫn đến mất cân đối lớn trong nền
kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu, giữa
thu và chi, giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Việt Nam đang bị các nước đế quốc và thế lực
thù địch bao vây, cấm vận,
Chính trị: Một số cán bộ, công chức, viên chức nhà nước lộng quyền, tham nhũng. Đời
sống của nhân dân, nhất là nông dân, công nhân, công chức, viên chức, lực lượng vũ
trang gặp nhiều khó khăn. Nhiều nhu cầu chính đáng của người dân như ăn, ở, thuốc men
không được đáp ứng. Trước tình hình đó, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng.
Xã hội: Lợi dụng những khó khăn của Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức kích động,
lôi kéo người vượt biên trái phép. Trong xã hội xuất hiện làn sóng người vượt biên trái
phép đến các nước, các vùng trong khu vực như Malaisia, Hồng Kông để từ đó đi tiếp
những nước khác. Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải ổn định kinh tế - xã hội, tùng bước đưa
đất nước ra khỏi khủng hoảng. Đó là tiền đề để đưa đất nước phát triển, thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu và tình trạng kém phát triển.
Công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa diễn ra trong điều kiện các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trên thực tế, cơ hội, thuận lợi đan xen với những khó khăn, thách thức. Đổi mới và phát
triển đất nước đòi hỏi phải giải quyết những mối quan hệ lớn, đồng thời, nhạy bén nắm
bắt những vấn đề mới nảy sinh bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Yêu
cầu cấp thiết trước tình hình đó là phải sửa đổi cơ chế, chính sách, cơ cấu kinh tế trên cơ
sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những đặc điểm riêng của đất nước, khắc phục
những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội và cả những
biểu hiện bảo thủ, trì trệ trong tư duy, quan điểm và hoạt động thực tiễn.Việt Nam xóa bỏ
bao cấp chính thức vào năm 1985, yêu cầu đặt ra cho Đảng và nhà nước cần đưa ra
những nội dung quan trọng, đề ra đường lối đổi mới.
Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép khá phổ biến.
2. Khái quát Đại hội
a. Thời gian, địa điểm
Thời gian: Từ 15 đến 18-12-1986
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội 3 lOMoAR cPSD| 40551442
b. Thành phần tham dự
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.109.613
Số lượng tham dự Đại hội: 1129 đại biểu
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Văn Linh
Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội: 124 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành công cuộc đổi mới).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 đến 18-12-1986, tại Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.129 đại biểu, thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước, trong số đó
có 925 đại biểu của 40 tỉnh, thành, đặc khu; 172 đại biểu các đảng bộ trực thuộc Trung
ương; 153 đại biểu nữ; 115 đại biểu các dân tộc thiểu số;50 đại biểu là Anh hùng lực
lượng vũ trang và Anh hùng lao động; 72 đại biểu là công nhân trực tiếp sản xuất;...Đến
dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 124 uỷ viên chính thức. Bộ Chính trị gồm 13 uỷ
viên chính thức và một uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đồng chí Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao nhiệm vụ Cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
3. Nội dung chính
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết
điểm, đổi mới tư duy lý luận, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Trước hết, là đổi mới cơ
cấu kinh tế (cơ cấu công - nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành công
nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế
huyện). Thực hiện 3 chương trình kinh tế, gồm: Chương trình lương thực, thực phẩm;
chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu. Xây dựng và củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Vấn đề nóng bỏng và cấp bách nhất là lưu thông phân phối. Vì vậy, Hội nghị lần thứ hai
của Ban Chấp hành Trung ương, họp trong tháng 4-1987, đã quyết định phương hướng lOMoAR cPSD| 40551442
giải quyết vấn đề đó là phải nắm vững mục tiêu giảm tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp
độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân trên cơ sở
xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát
huy khả năng tích cực của các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức sản xuất.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một yêu cầu bức thiết, một bộ phận cấu thành quan
trọng nhất trong toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế của Đảng. Hội nghị lần thứ ba
của Ban Chấp hành Trung ương, tháng 8-1987, đã quyết nghị: "Chuyển hoạt động của các
đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước
về kinh tế". Hội nghị nhấn mạnh mục đích của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là phải tạo
ra động lực mạnh mẽ giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất
lượng, hiệu quả ngày càng cao, trước mắt nhằm phục vụ ba chương trình kinh tế lớn, từng
bước thực hiện "bốn giảm", thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế - xã
hội, tạo tiền đề để tiến lên.
Tiếp đến, tháng 12-1987 Ban Chấp hành Trung ương lại họp Hội nghị lần thứ tư để quyết
định về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong ba năm (1988-1990).
Mục tiêu phấn đấu của kế hoạch ba năm còn lại là phải thực hiện cho bằng được việc ổn
định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội. Điều kiện quyết định là phát triển
mạnh mẽ sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, trước hết tập
trung sức thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, đặc biệt là chương trình lương thực - thực phẩm.
4. Kết quả và Ý nghĩa a. Kết quả
Đại hội VI đề ra 5 mục tiêu cụ thể về KTXH và 3 chương trình KT lớn: Chương trình
lương thực-thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng, chương trình hàng xuất khẩu.
Đại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng cho phù
hợp với tình hình mới. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI với 124 ủy viên
chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ
nhất bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu là Tổng Bí
thư. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ được giao trọng trách
làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 5 lOMoAR cPSD| 40551442
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước
ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Các văn kiện của đại hội mang tính
tính chất khoa học và cách mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt
Nam. Tuy nhiên hạn chế của đại hội VI là chưa tìm ra giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình
trạng rối ren trong phân phối lưu thông. b. Ý nghĩa
Đại Hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự
nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt nam
Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của đát nước, là Đại hội kế thừa và quyết
tâm đổi mới, đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở đường cho đất
nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã thực đi vào cuộc sống, trở thành động kực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát
triển, làm thay đổi bộ mặt của xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ mới của
lịch sử Cách mạng Việt Nam.
Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng.
Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, vào những sai lầm khuyết điểm và đổi mới xu thế của thời đại mới.
Là Đại hội: ‘’Trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới’’
Tuy nhiên, Đại hội VI còn có những hạn chế về những giải pháp thaó gỡ những tình trạng
rối ren trong phân phối, lưu thông.
Đại hội VI của Đảng là minh chứng lịch sử quan trọng cho vai trò của đổi mới cho sự
phát triển, và khẳng địng trong thời đại này muốn phát triển ta phải không ngừng đổi mới
trong tư tưởng cũng như phương thức sane xuất mới có thể đưa nước ta đi lên Chủ nghĩa
xã hội cũng như cùng sánh vai vói các cường quốc năm châu.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới,
đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã mở ra một bước ngoặt có ý
nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới. lOMoAR cPSD| 40551442
6. Bài học rút ra
Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong điều kiện Đảng cầm
quyền phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Mọi chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động.
Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN. Vấn đề cấp bách là tăng cường sức chiến đấu
và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng. II. Đại hội VII
1.Bối cảnh đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành trong
bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp.
Trên thế giới: Đó là sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu, sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và
Đảng Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ
chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng
sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân Việt Nam. Tuy vậy vào thời điểm này một thuận lợi quan trọng đối với Việt
Nam là công cuộc cải cách của Trung Quốc đang giành được những thành tựu quan trọng
Trong nước : Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII diễn ra trong bối cảnh đất nước đang
thực hiện công cuộc Đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI và đạt
được những thắng lợi bước đầu, được nhân dân và quốc tế ủng hộ, nhờ đó mà nước ta đã
đứng vững và tiếp tục phát triển. Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đất nước ta
cũng phải đương đầu với nhiều yếu kém và khó khăn: các hoạt động phá hoại của các lực
lượng thù địch ở cả trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn
còn khó khăn, đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội.
2. Khái quát đại hội 7 lOMoAR cPSD| 40551442
a. Thời gian, địa điểm
Thời gian: Đại hội diễn ra trong 3 ngày từ 24-27/6/1991
Địa điểm: Hội trường Ba Đình, thủ đô Hà Nội
b. Thành phần tham dự
Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho 2.155.022 đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động
khác nhau từ mọi miền của đất nước hoặc đang công tác ở nước ngoài về dự Đại hội. Đến
dự Đại hội còn có các đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân cách
mạng Lào,Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng Cộng sản Cuba. Dự khai mạc
Đại hội còn có đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản thường trú tại Hà Nội và các đơn vị
trong đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc gia và quốc tế, đại diện các tổ chức phi chính phủ tại Hà Nội.
Chủ trì: Đồng chí Võ Chí Công đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội VII. Báo cáo Chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc tại Đại hội đã đánh
giá việc thực hiện hơn 4 năm đổi mới trên các lĩnh vực đời sống xã hội, đề ra phương
hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm (1991-1995).
3. Nội dung chính
Từng bước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ sau Đại hội VII, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh chóng và phức tạp. Đảng
Cộng sản Liên Xô bị giải tán (25/8/1991), chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ. Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đứng trước thử thách hết sức nghiêm trọng. Song,
Đảng ta và nhân dân ta vẫn giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên trì xây dựng đất nước theo
hướng đổi mới. Đại hội VII lần đầu tiên thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế-xã hội đến năm 2000, trong đó xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là ra khỏi
khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế-xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách có ý nghĩa quyết định
đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đát nước, đối với vận mệnh của chế độ và của Đảng lOMoAR cPSD| 40551442
Mục tiêu: nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phù hợp với yêu cầu
của cách mạng nước ta trong tình hình mới.
Nguyên tắc: quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đúng
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
Hội nghị cũng đã xác định các yêu cầu, phương châm đổi mới, chỉnh đốn Đảng và các nội
dung lớn xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức, tạo bước
chuyển quan trọng về công tác cán bộ, đổi mới và tăng cường công tác vận động quần
chúng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và dân, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
a. Nhận thức đúng đắn của Đảng về sự đổi mới
Hội nghị lần thứ Hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 25/11 đến ngày
4/12/1991 đã bàn về vấn đề ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, xác định quan điểm,
chủ trương thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và việc sửa đổi Hiến pháp.
Hội nghị lần thứ Ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 18 đến ngày
29/6/1992 đã nghiên cứu và quyết định ba vấn đề quan trọng về: tình hình thế giới và
chính sách đối ngoại; củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia; đổi mới và chỉnh
đốn Đảng. Công tác đối ngoại giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Hội nghị lần thứ Sáu của Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ngày 24/11/1993 Hội nghị
khẳng định: “Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, song chúng ta đã mạnh dạn tìm tòi, dũng
cảm tiến hành và giành thắng lợi quan trọng. Trước mắt, nhân dân ta đang đứng trước
những thách thức lớn và những cơ hội lớn. Những thách thức đó là: nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã
hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ ‘diễn biến hoà bình’
của các thế lực thù địch.”
b. Thuận lợi cơ bản
Đảng có đường lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí.
Nhân dân Việt Nam cần cù, thông minh, giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh và ý chí cách mạng kiên cường. 9 lOMoAR cPSD| 40551442
Các lực lượng vũ trang trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực mới của cách mạng khoa học kĩ thuật.
Xu thế mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trên thế giới và khu vực đem lại cho chúng ta
khả năng thêm những nguồn lực quan trọng.
c. Công cuộc đổi mới về mặt kinh tế
Trong công cuộc đổi mới, về mặt kinh tế, nông nghiệp là mặt trận đột phá hàng đầu. Để
tiếp tục đẩy mạnh đổi mới về nông nghiệp và nông thôn, trung ương đã quyết định những
chủ trương để đưa nền nông nghiệp và nông thôn tiến nhanh và vững chắc hơn.
Nghị quyết về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn của Hội nghị đã xác định ba mục tiêu:
- Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú, lành
mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của
nông dân, có hệ thống chính trị vững mạnh.
- Phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội.
- Tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững
chắc quốc phòng, an ninh.
Điểm mới: Đảng đã đề ra các quan điểm, nhiệm vụ xây dựng, phát triển nông nghiệp,
nông thôn toàn diện, khơi dậy mọi tiềm năng, nội lực của nông dân.
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7/1994) chủ trương phát triển công nghiệp, công nghệ
và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.
- Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh , xã hội công bằng, văn minh. - Nhiệm vụ: lOMoAR cPSD| 40551442
Xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững
vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp
thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp phát triên công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. 4. Kết quả và thành tựu a. Kết quả
Đại hội đã bầu đồng chí Đỗ Mười làm Tổng bí thư, cùng 146 ủy viên Ban chấp hành
Trung ương Đảng và 13 ủy viên Bộ Chính trị.
Đại hội cũng xác định: "Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt khó khăn thử thách, ổn
định và phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất
công xã hội, cơ bản đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay".
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng
Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng; (Điều lệ Đảng sửa đổi).
Tại bế mạc Đại hội, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phát biểu:"Kết quả nổi bật của Đại hội
chúng ta là sự nhất trí trên tất cả các vấn đề lớn thuộc về quan điểm, đường lối có ý nghĩa
quyết định đối với vận mệnh của đất nước. Đại hội là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng và
của nhân dân trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những giá trị của loài người vào giai đoạn hiện nay của sự nghiệp cách mạng nước ta...
Thành công của Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong
tiến trình cách mạng nước ta. b. Thành tựu Về mặt kinh tế
Tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Trong 5 năm 1991-1995, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch 5 năm đã hoàn thành vượt mức ,(GDP) đạt 8,2% (kế hoach là 5,5-6,5%)
Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế
Lạm phát từ mức 67,1% (1991) giảm xuống còn 12,7% (1995) 11 lOMoAR cPSD| 40551442
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thj trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng
Về đời sống xã hội
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Do kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ tương
đối cao nên đời sống dân cư ở cả thành thị và nông thôn đều đã được cải thiện rõ rệt.
Kết quả các cuộc điều tra khảo sát mức sống dân cư, điều tra giàu nghèo và điều tra hộ
gia đình từ năm 1992 đến nay cho thấy: Thu nhập bình quân mỗi người 1 tháng của các
hộ đã tăng từ 92,1 nghìn đồng năm 1992 lên 206,1 nghìn đồng năm 1995. Mỗi năm thêm
hơn 1 triệu lao động có việc làm.
Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông thôn và thành thị.
Công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt. Tỷ lệ hộ nghèo về lương thực, thực phẩm đã
giảm từ 55,0% năm 1990 xuống còn 16,5% năm 1995
Về văn hoá xã hội
Tiến bộ trên nhiều mặt. Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng
hoá về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học và tiếp tục đạt
được thành tựu mới. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 89,7% năm 1995.
Trình độ dân trí được nâng lên, khẳng định con người là vốn quý nhất, phát triển con
người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Về hệ thống chính trị
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng và
chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội.
Ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp luật quan trọng Về đối ngoại lOMoAR cPSD| 40551442
Phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá
Năm 1995, nước ta đã có quan hệ ngoại giao trên 160 nước, bình thường quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN. c. Hạn chế
Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Tại thời điểm đó, nước ta vẫn còn là một trong
những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu
quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều
Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham nhũng,
buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các
vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa
nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, quy hoạch xây dựng, quản
lý đất đai còn nhiều yếu kém; thủ tục hành chính… đổi mới chậm
5. Bài học rút ra
Đại hội VII đã rút ra năm bài học kinh nghiệm bước đầu về đổi mới:
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy
cảm nắm bắt cái mới. Phải giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo trong việc đề ra đường lối
đổi mới phù hợp với đặc điểm tình hình của nước ta, đáp ứng đúng lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân ta. Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã
hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo
xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của mình.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp. Đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đồng thời, trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu then chốt để tập
trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh vực khác. Phải tập trung sức
làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc 13 lOMoAR cPSD| 40551442
làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội,
nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn
bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng
không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy
và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện dân chủ.
Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội.
Bốn là, tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng để phát
huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có bước
đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị - xã hội nói chung. Có như vậy mới thực sự
bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân, động viên toàn dân hăng hái xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải
quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối
đổi mới; tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng
xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì
công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt được sai
lầm và bước đi quanh co, phức tạp. lOMoAR cPSD| 40551442 LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến cô. Trong quá trình tìm hiểu và học
tập bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, chúng em đã nhận được sự giảng dạy và
hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết từ cô. Cô đã giúp chúng em tích lũy thêm nhiều kiến
thức hay và bổ ích. Từ những kiến thức mà cô truyền đạt, nhóm chúng em xin trình bày
lại những gì đã tìm hiểu về đề tài: “Đường lối đổi mới của Đại hội VI (1986) đến Đại hội
VII (1991) " gửi đến thầy cô.
Đại hội đại biểu lần thứ sáu và lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra trong bối
cảnh kinh tế đất nướccòn nhiều khó khăn và thách thức. Đại hội đã thảo luận, đánh giá
tình hình trong nước và quốc tế và đề ra nhiệm vụ cách mạng trong thời kì kế tiếp: xây
dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI vàVII là kết quả
của một quá trình tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng...
nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam.
Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu
tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, kiến thức về bộ môn Lịch sử Đảng của
chúng em vẫn còn những hạn chế nhất định. Do đó, không tránh khỏi những thiếu sót
trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận này. Mong cô xem và góp ý để bài tiểu luận của
nhóm chúng em được hoàn thiện hơn. Kính chúc cô hạnh phúc và thành công hơn nữa
trong sự nghiệp trồng người. Kính chúc cô luôn dồi dào sức khỏe để tiếp tục dìu dắt
nhiều thế hệ học trò đến những bến bờ tri thức.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (dành cho bậc đại học hệ không
chuyên lý luận chính trị), Bộ giáo dục và Đào tạo.
[2] Tìm Hiểu Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930-2016) Qua các kỳ đại hội.
[3] 90 Năm Lịch Sử Vẻ Vang Của Đảng Cộng Sản Việt Nam - Vũ Thiên Bình.
[4] Đảng Cộng Sản Việt Nam 90 Năm (1930-2020) Những Chặng Đường Lịch Sử Vẻ Vang.
[5] Đảng và Hồ Chí Minh - Cuộc Song Hành Lịch Sử.
[6] Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 15 lOMoAR cPSD| 40551442
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứVII, Nxb. Sự thật.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
(Đạihội khóa VI, VII, VIII và IX), Nxb. CTQG.
[9] Báo Nhân dân (2021), Ðẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa đất nước cơ bản thoát
khỏi khủng hoảng.