




Preview text:
lOMoAR cPSD| 58797173
1. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng
1.1. Bối cảnh lịch sử và nguyên nhân hình thành đường lối
1.1.1. Tình hình quốc tế
Giai đoạn 1965-1975 là khoảng thời gian đánh dấu cao trào của cuộc “Chiến
tranh lạnh”, là sự đối đầu quyết liệt giữa chủ nghĩa xã hội do Liên Xô đứng đầu và hệ
thống tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Việt Nam là một trong những chiến trường
cạnh tranh sức ảnh hưởng của 2 phe.
1.1.2. Tình hình trong nước
Sự thất bại thảm hại của “Chiến tranh đặc biệt” tại miền Nam đã buộc Mỹ tiến
hành “Chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn. Trong bối cảnh đó, Miền Bắc trở thành
hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam.
1.2. Đường lối của Đảng
Nhận định tình hình: Đảng ta cho rằng cuộc “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam là
một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế bị động nên
nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược.
Hội nghị lần thứ 11 (3/1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12/1965), Đảng đã đề ra các đường lối:
Quyết tâm chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược”, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong toàn
quốc, coi chống Mỹ là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc.
Mục tiêu chiến lược: Đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ trong bất cứ
tình huống nào; bảo vệ miền Bắc; lật đổ bộ máy chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền
Nam; tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước.
Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh
càng mạnh; cần phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng cả hai miền để mở
những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi trong thời gian ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo với miền Nam: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên
quyết tiến công và liên tục tiến công.
Tư tưởng chỉ đạo đối với Miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, đảm bảo
tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có
chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người, sức của
ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. lOMoAR cPSD| 58797173
Mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng hai miền: Miền Nam là tiền tuyến lớn,
miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, ra sức tăng
cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam
càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn
bó nhau nhằm thực hiện khẩu hiệu chung: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ý nghĩa của đường lối: Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần
cách mạng tiến công. Đồng thời đường lối thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng.
Có thể thấy đây là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện và lâu dài, dựa
vào sức mình là chính trong hoàn cảnh mới. 2.
Xây dựng hậu phương, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹở Miền Bắc
2.1. Hành động phá hoại của Mỹ
Từ ngày 5/8/1964, Mỹ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” nhằm lấy cớ dùng không
quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
3/1965 đến 11/1968, Mỹ triển khai chiến dịch Sấm Rền (Rolling Thunder) với hai
mục tiêu chính: buộc miền Bắc dừng viện trợ lính và vật tư vào miền Nam đồng thời
làm tê liệt hệ thống vận chuyển, phòng không tại miền Bắc.
18/12 đến 29/12/1972, Mỹ thực chiến dịch Linebacker II, kéo dài 11 ngày đêm với
20.000 tấn bom đạn, ít nhất 1.624 người đã thiệt mạng.
2.2. Chủ trương, nhiệm vụ của miền Bắc cho phù hợp với yêu cầu,nhiệm vụ mới
trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh 2.2.1. Giai đoạn 1965-1968:
Hội nghị lần thứ 11 và lần thứ 12 đã đề ra bốn chủ trương, nhiệm vụ của miền Bắc
được nêu cụ thể như sau:
Thứ nhất, là kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc
phòng ở miền Bắc cho phù hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại.
Thứ hai, tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình cả
nước có chiến tranh, thực hiện vừa sản xuất vừa chiến đấu. Thứ ba, ra sức chi viện
cho miền Nam với mức cao nhất để đánh bại địch ở chiến trường chính miền Nam,
ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh cục bộ ra miền Bắc.
Thứ tư, là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức phù hợp với tình hình
mới, làm rõ điểm mạnh, yếu, thuận lợi thách thức của miền Bắc. lOMoAR cPSD| 58797173
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 17/7/1966: “Chiến tranh có thể kéo
dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố,
xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do” Thực hiện những
nghị quyết của Đảng và theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân miền
Bắc đã dấy lên cao trào chống Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Thanh niên
có phong trào “Ba sẵn sàng”, phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang”, nông dân có phong
trào “Tay cày, tay súng”, công nhân có phong trào “Tay búa, tay súng”,... Đó thực sự là
một cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại hào hùng, sáng tạo với tinh
thần “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.
2.2.2. Giai đoạn 1969-1975:
11/1968: Sau khi chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ, Đảng
đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc thực hiện các kế hoạch ngắn hạn nhằm khắc phục hậu
quả chiến tranh, tiếp tục công cuộc xây dựng miền Bắc và tăng cường lực lượng cho miền Nam.
2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, đó là tổn thất rất lớn đối với cách mạng Việt Nam.
23/9/1969, Quốc hội khóa III tại kỳ họp đặc biệt đã bầu đồng chí Tôn Đức Thắng
làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 1972: Trược chiến dịch Linebacker
II, Trung ương Đảng đã phát động nhân dân chống chiến tranh, kiên quyết bảo vệ miền
Bắc, tiếp tục chi viện cho miền Nam và giữ vững lập trường đàm phán. -> Chiến thắng
“Điện Biên Phủ trên không”
1973: Hiệp định Pari được kí kết, chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt
Nam. Sau khi ký kết hiệp định Pari, Đảng đã đề ra Nghị quyết 21 (1973), nhiệm vụ của
Miền Bắc trong giai đoạn này là khôi phục và phát triển kinh tế, tiếp tục làm tròn nhiệm
vụ hậu phương lớn đối với cách mạng miền Nam và tích cực đấu tranh để thực hiện
đúng theo Hiệp định Pari. 2.3. Kết quả 2.3.1. Giai đoạn 1965-1968 Kinh tế Về nông nghiệp:
+ Có 4655 hợp tác xã được trang bị cơ khí nhỏ, diện tích canh tác được mở rộng,
ngày càng có nhiều hợp tác xã, năng suất lao động tăng lên không ngừng.
+ Từ bảy huyện đạt mức sản lượng thóc 5 tấn/héc-ta trong hai vụ năm 1965 đã tăng
lên 14 huyện năm 1966 và 30 huyện năm 1967 Về công nghiệp:
+ Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn được duy trì mặc dù gặp nhiều khó khăn. lOMoAR cPSD| 58797173
+ Mức đầu tư vào công nghiệp địa phương trong hai năm 1966-1967 tăng 1.5 lần
so với kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1962-1965). => GDP miền Bắc theo dữ liệu
thống kê tăng từ 6 tỷ USD (giá 2015) vào năm 1965 lên 6,4 tỷ USD vào 1967 và 6,98 tỷ
USD vào 1968 Văn hóa - Xã hội
+ Tôn chỉ “giáo dục là mặt trận tư tưởng” Đảng xác định phải tiếp tục duy trì giáo
dục và đào tạo ngay trong điều kiện chiến tranh, đặc biệt là giáo dục đại học
+ Sau quá trình vận động số sinh viên tăng gấp 3 lần so với trước chiến tranh phá
hoại; số cán bộ có trình độ đại học năm 1965 là 20.000 đến năm 1969 đã tăng
gấp đôi là 40.000 người. Chiến đấu
+ Khi chiến dịch Sấm Rền kết thúc Mỹ đã bị bắn cháy 140 tàu chiến, bắn rơi 3.243
máy bay trong đó có nhiều loại hiện đại: F-105, F-4, B-52,...; 745 phi công và tổ
lái bị bắn rơi mặc dù đã nỗ lực thay đổi chiến thuật liên tục nhằm ứng phó hệ
thống phòng không của Việt Nam. 2.3.2. Giai đoạn 1969-1975 Kinh tế Về nông nghiệp:
+ Trong năm 1969, diện tích các loại cây trồng đều tăng đáng kể, đặc biệt là diện
tích lúa nước tăng gấp hai lần so với năm 1968. Năm 1970 sản lượng lương thực
đạt khoảng 5,3 triệu tấn thóc và đến năm 1974 tăng lên mức 5,5 triệu tấn. Về công nghiệp:
+ Nếu lấy năm 1965 làm mốc thì năm 1969 chỉ đạt được khoảng 2/3 sản lượng,
nhưng đến cuối năm 1971 sản xuất đã phục hồi và đạt mức đỉnh của năm 1965.
=> GDP bình quân đầu người cũng tăng từ khoảng 55 USD (1968) lên 60 USD (1970) và 65 USD (1974). Văn hóa - Xã hội
+ Mạng lưới trường học tiếp tục mở rộng, nhiều trường đại học và trung cấp vẫn
đào tạo bình thường trong điều kiện sơ tán.
+ Hệ thống y tế ngày càng cải thiện với số lượng bác sĩ, y tá, dược sĩ tăng lên mạnh
mẽ chỉ riêng chiến trường miền Nam và Đoàn 559 đã có 1.453 bác sĩ và 6.012 y sĩ. Chiến đấu
+ Tổng thể, qua hai lần chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, quân và dân
miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy bay, trong đó có nhiều máy bay B-52, bắn cháy
271 tàu chiến của Mỹ, bắt và tiêu diệt hàng ngàn giặc lái Mỹ. lOMoAR cPSD| 58797173
+ Hậu phương miền Bắc đã đảm bảo 80% bộ đội chủ lực, 70% vũ khí và lương thực,
65% thực phẩm cho chiến trường miền Nam, góp phần tạo nên những thắng lợi
lớn trên chiến trường này. 4. Ý nghĩa 4.1. Đối với nước ta
Đây là một cột mốc chói lọi của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Thắng lợi này đã kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược,
đồng thời khép lại 30 năm chiến tranh cách mạng gian khổ và 117 năm đấu tranh chống
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Thắng lợi này đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên hòa
bình, độc lập, thống nhất, cả nước cùng chung một nhiệm vụ chiến lược là đi lên chủ nghĩa xã hội. 4.2. Đối với quốc tế
Thắng lợi mùa xuân năm 1975 đã trở thành biểu tượng rực rỡ của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng Việt Nam. Đây là sự kiện lịch sử mang tầm vóc quốc tế, góp phần làm
thay đổi cục diện chính trị và quân sự toàn cầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Cuộc cách mạng đã làm phá sản hoàn toàn các chiến lược chiến tranh thực dân
kiểu mới của Mỹ. Điều đó đã phá vỡ một phòng tuyến chiến lược quan trọng của Mỹ
tại Đông Nam Á và tác động đến nội tình nước Mỹ. Thất bại ở Việt Nam không chỉ là
thất bại quân sự mà còn là thất bại về chính trị, chiến lược, buộc Mỹ phải điều chỉnh chính sách đối ngoại.