-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đường lối kháng chiến chống Mỹ - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHỦ ĐỀ: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ 1965-1975 I.
Bối cảnh lịch sử (2) (Trang, Thủy)
1. Tóm gọn bối cảnh lịch sử giai đoạn từ 1954-1965:
+ Miền Bắc dần phục hồi sau chiến tranh, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và trở thành hậu phương vững chắc của miền Nam
+ Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vào 7/5/1954, hiệp định Giơnevơ được ký kết và
hòa bình được lập lại trên miền Bắc
+Tuy nhiên, với ý đồ xâm lược Việt Nam, Mỹ từng bước viện trợ kinh tế, quân sự, tổ
chức lực lượng tay sai nhằm mục đích biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu
mới, chia cắt lâu dài đất nước ta.
+ Trong Đại hội lần thứ III vào tháng 9/1960, Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam lúc đó là: Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; tiến hành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà,
hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà
nước, nhân dân miền Nam lúc đó đã khiến chiến lược “ Chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mỹ và chính quyền tay sai thất bại.
2. Tóm gọn bối cảnh lịch sử giai đoạn từ 1965-1975:
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của
chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân các
nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc "Chiến tranh cục bộ" với quy mô lớn;
đồng thời dùng không quân, hải quân hùng hổ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối
với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết định phát động cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
Thuận lợi: Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nuớc, cách mạng thế giói
đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các
mục tiêu về kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách
mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-1962, từ năm 1963,
cuộc đấu tranh của quân dân ta dã có bước phát triển mới. Ba "chỗ dựa" của "Chiến
tranh đặc biệt" (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) (đều bị quân dân ta
tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc
Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.
Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không
có lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc "Chiến tranh cục bộ" ồ ạt
đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực liếp xâm lược miền Nam đã
làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra
đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. II.
Nội dung đường lối (3)
Trước những cuộc chiến ở miền Nam “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá
hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12
(12/1965) đã nêu ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước như sau:
1. Nhận định tình hình và chủ trương chiến lược (Ngân)
Về nhận định tình hình: Cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở
miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực
thi trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu
thuẫn về chiến lược… Việc chúng đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn
chinh, dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh leo thang đánh
phá miền Bắc tuy có gây cho cách mạng nước ta gặp nhiều khó khăn, tổn thất,
song có vẻ căn bản và lâu dài so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không
thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có
cơ sở chắc chắn để bảo vệ miền Bắc, giữ vững thế chủ động trên chiến trường miền Nam
Cuộc chiến tranh xâm lược tuy ồ ạt, hùng hổ về hình thức, nhiều người tưởng
rằng Mỹ tấn công ta. Nhưng Đảng ta nhận định, nó gây cho ta khó khăn trước mắt,
nhưng về bản chất, lợi thế thua và thế bị động, nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về lâu dài
và căn bản, nó vẫn là đối phó. Nó không tạo nên những so sánh căn bản về lâu dài.
Nói cách khác, ta vẫn ở thế tiến công, ta không lùi lại. Đó là nhận định của Đảng ta
khi Mỹ hùng hổ tấn công cả miền Bắc và miền Nam. Trái với nhận định của nhiều
nước khuyên ta đi vào thế phòng ngự, Đảng ta nói rằng: Ta vẫn ở thế tiến công
Về chủ trương:
Do nhận định tình hình như vậy, Đảng ta không nao núng mà ta quyết định
phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu
nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc
2. Quyết tâm và mục tiêu chiến lược
Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào,
nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng Dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”
Đây là tư tưởng, chiến lược tiến công trong bối cảnh quốc tế và trong nước mà
nhiều người, nhiều Đảng không hiểu. Sau này, họ mới thừa nhận Đảng ta nhận định
đúng tình hình, có tư tưởng, có quyết tâm đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.
Bạn bè quốc tế, thế giới lo ngại về phong trào cách mạng miền Nam Việt Nam
trước bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ, một kẻ hiếu chiến, nhiều tiềm lực, rất
ngoan cố và xảo quyệt. Trước thời kỳ khó khăn như vậy, Bác Hồ ra lời kêu gọi “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song người Việt Nam quyết không sợ”.
Đó là chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Và “đến ngày thắng lợi, nhân dân
ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Ta không những dám
đánh Mỹ, mà còn khẳng định đánh thắng Mỹ, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của Việt Nam.
Đặt trong cùng bối cảnh ấy, không phải nước nào cũng dám đưa ra quyết định đánh
Mỹ, nhưng Việt Nam ta dám làm điều đó, dám thống nhất việc đó.
3. Phương châm chỉ đạo chiến lược (Hạnh)
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở
miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ ở miền Bắc .Đánh lâu dài , dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng
mạnh, cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả 2 miền để mở
những cuộc tiến lớn , tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời
gian tương đối ngắn trên chiến trường miền nam.đồng thời chuẩn bị sẵn sàng
đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra
tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường
quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại
và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh
bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến
một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ
cả ở miền Nam lẫn miền Bắc
4. Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam
Tư tưởng chỉ đạo :Giữ vững và phát triển thế tiến công .Tiếp tục kiên trì
phương châm kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị , triệt để
thực hiện 3 mũi giáp công ,đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược. “Trong
giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ
một vị trí ngày càng quan trọng”
Ngày 20/7/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nêu cao tinh thần cảnh giác và chí khí chiến đấu, tăng cường đoàn
kết, ra sức thi đua sản xuất và chiến đấu. Người khẳng định: “Đứng trước
nguy cơ giặc Mỹ cướp nước,đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn
kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn
5. Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc (Chi)
Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của Mỹ đã
diễn ra cực kỳ ác liệt và tàn khốc. Mỹ đã cho máy bay, tàu chiến ném bom,
đánh phá hầu hết các vị trí quân sự, dân sự quan trọng, thả mìn phong tỏa các
cửa biển, lạch sông hòng ngăn chặn sự tiếp tế bên ngoài vào miền Bắc.
=> Chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt nhưng nhân dân miền Bắc cũng như nhân dân
cả nước không hề nao núng.
* Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc:
Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về
kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến
tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch
trong trường hợp chúng liều mình mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra cả nước. Miền
Bắc phải có đủ sức mạnh, kịp thời với yêu cầu tự bảo vệ, chống lại các cuộc ném bom
bắn phá và phong tỏa của địch.
Chuyển hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc:
- Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không
sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.
- Tính đến cuối tháng 5-1965, trên toàn miền Bắc đã có hơn 2 triệu 50 vạn nam nữ
thanh niên ghi tên tình nguyện “3 sẵn sàng”.
- Quân dân miền Bắc đánh trả quyết liệt không quân, hải quân Mỹ, bắn hạ hàng nghìn
máy bay, bắn cháy hàng chục tàu chiến Mỹ, tiêu diệt hoặc bắt sống nhiều giặc lái.
- Bảo đảm giao thông vận tải thông suốt liên tục trở thành một trong những công tác
trọng tâm của kháng chiến.
- Duy trì sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, các nhà máy được sơ tán, bảo vệ
để tiếp tục sản xuất. Đặc biệt chú trọng việc xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương.
- Các mặt văn hóa, giáo dục, đào tạo cán bộ, y tế phát triển, bảo đảm cho miền Bắc
càng đánh càng mạnh. Đời sống nhân dân cơ bản ổn định.
Chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam:
- Trong khoảng thời gian 1965-1968, gần 89 vạn thanh niên miền Bắc được động viên
vào lực lượng vũ trang. Hơn một nửa bộ đội chủ lực và gần 80% vũ khí, đạn dược đưa
vào miền Nam là được động viên từ miền Bắc.
Tháng 1/1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III
quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ… hỗ trợ cho đấu
tranh chính trị và quân sự của quân dân ta.
6. Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa 2 cuộc chiến đấu ở 2 miền
+ Từ ngày 5-8-1964, sau khi dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” nhằm lấy cớ, đế quốc
Mỹ đã dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra rất ác liệt kể từ đầu tháng 2-1965, với ý đồ đưa miền
Bắc trở về thời kỳ đồ đá; phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc;
ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam; đè bẹp ý chí quyết tâm chống
Mỹ, cứu nước của cả dân tộc Việt Nam, buộc chúng ta phải kết thúc chiến tranh theo
điều kiện do Mỹ đặt ra.
+ Trước tình hình đó, theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và lần thứ 12,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời xác định chủ trương chuyển hướng và
nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới trong hoàn
cảnh cả nước có chiến tranh:
Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn,
miền Bắc là hậu phương lớn, những nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực
tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam.
=> Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.
Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra
sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm bảo đảm chi viện đắc lực
cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hướng tích cực nhất để làm thất bại âm
mưu của địch là tập trung lực lượng của cả nước để đánh bại hoàn toàn địch ở miền Nam.
Nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc là phải kịp thời chuyển hướng về tư tưởng và
tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng
cho phù hợp với tình hình mới.
=> Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu
chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. III.
Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm (1) (Huyền)
A. Ý nghĩa đường lối
1.Ý nghĩa đường lối:
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội
nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng:
-Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và Thắng Mỹ, tinh thần độc lập tự chủ, thống nhất
Tổ Quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
-Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, đồng thời kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có
chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tiễn bối cảnh đất nước và quốc tế
-Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “đem sức ta mà giải phóng cho ta” đó chính là
đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào chính mình là
chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức
đánh thắng đế quốc Mỹ hùng mạnh xâm lược.
—-> Đường lối chống Mỹ
, cứu nước trên phạm vi cả nước của Hội nghị Trung ương
làn thứ 11 và 12 đã được Đảng bổ sung, phát triển qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến:
1, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1967) đã chủ trương mở mặt trận ngoại giao, kết
hợp đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao, đưa tới cuộc đàm phán Hội nghị Pari sau này.
2 , Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (1968) đã quyét định, mở cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy mùa xuân năm 1968 để kéo để quốc Mỹ xuống thang chiến tranh.
3 , Hội nghị Trung ương lần thứ 21 (1973) xác định con đường phát triển của cách
mạng miền Nam sạu khi có Hiệp định Pari cơ bản vẫn là con đường cách mạng tiến công.
4 , Đặc biệt, tại các Hội nghị Bộ Chính trị cuối năm 1974 (đợt 1) và đầu năm 1975
(đợt 2) Đảng đã hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam theo một kế hoạch
chiến lược kéo dài hai năm 1975-1976, đồng thời nêu dự kiến nếu thời cơ thuận lợi sẽ
giải phóng miền Nam trong năm 1975 và trên thực tế đã mở cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975.
2.Ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam:
Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30
năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 117 năm chống đế quốc
thực dân phương Tây ( tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược ra
khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, đưa lại độc lập,thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ cho đất nước; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên
phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả
nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội;
Tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và
dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý
cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau;
Góp phần quan trọng vào việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt
Nam trên trường quốc tế.
3.Ý nghĩa đối với cách mạng thế giới:
Đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa
xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bảo
vệ vững chắc tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội;
Làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, gây
tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài;
Góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan
trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể
tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, tự do và hòa bình phát triển của nhân dân thế giới.
Năm tháng sẽ trôi qua nhưng sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của quân và dân
ta mãi được khắc ghi là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc và là một sự kiện
có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời lại sâu sắc. Cuộc kháng chiến chống
đế quốc Mỹ được biết đến và nhớ mãi như một chiến công vĩ đại góp phần to lớn đối
với chủ nghĩa Xã hội trên toàn thế giới và là một minh chứng rõ ràng về sự toàn thắng
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và
có tính thời lại sâu sắc.
B.Bài học kinh nghiệm:
→Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại cho Đảg ta nhiều bài
học kinh nghiệm có giá trị về lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng.
-Một là, đề ra và thực hiện đường lối nâng cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Đường
lối đó thể hiện ý chí và nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền
Nam và của cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với các trào lưu của cách mạng thế giới nên
đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh tiền
tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của
thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
-Hai là, tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tư tưởng chiến lược tiến
công, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Tư tưởng đó là một nhân tố
hết sức quan trọng để hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương biện pháp đánh Mỹ,
nhân tố đưa cuộc chiến đấu của dân tộc ta đi tới thắng lợi.
-Ba là, thực hiện chiến tranh nhân dân, tìm ra biện pháp chiến đấu đúng đắn, sáng
tạo. Để chống lại kẻ địch xâm lược hùng mạnh, phải thực hiện chiến tranh nhân dân.
Đồng thời phải chú trọng tổng kết thực tiễn để tìm ra phương pháp đấu tranh, phương
pháp chiến đấu đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo.
-Bốn là, trên cơ sở đường lối, chủ trương chiến lược chung đúng đắn phải có công
tác tổ chức thực hiện giỏi, năng động, sáng tạo của các cấp bộ đảng trong quân đội,
của các ngành, các địa phương, thực hiện phương châm giành thắng lợi từng bước để
đi đến thắng lợi hoàn toàn.
-Năm là, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách
mạng ở cả hậu phương và tiền tuyến; phải thực hiện liên minh ba nước Đông Dương
và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ ngày càng to lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa, của nhân dân và chính phủ các nước yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới.