



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61548544 Phần thứ hai A
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC THỜI KỲ
TRƯỚC ĐỔI MỚI (1958- 1985) Chương 1
KHÁI QUÁT ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC QUA CÁC
GIAI ĐOẠN TRƯỚC ĐỔI MỚI (1955 -1985)
I. GIAI ĐOẠN 1955 -1957
Đây là giai đoạn thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì kinh tế tư
nhân và cơ chế thị trường. Hội nghị Trung ương 11 năm 1956 (khóa II) đã đánh giá
đây là giai đoạn hết sức cởi mở nhờ có những chủ trương phù hợp với thực tiễn Việt
Nam: khuyến khích sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, cho phép nông
dân tự do sản xuất và tự do mua bán nông sản, hàng hóa, công nghiệp phát triển hợp
lý…Nhờ vậy, đời sống nhân dân dễ chịu, được đáp ứng tương đối đầy đủ về lương
thực, thậm chí nước ta còn có gạo cho xuất khẩu. Chưa bao giờ lòng dân lại phơi
phới tin vào Đảng, Nhà nước như lúc này.
II. GIAI ĐOẠN 1958 - 1975
Hội nghị Trung ương 14 (năm 1958) khóa II đề ra kế hoạch cải tạo XHCN đối
với kinh tế cá thể và tư bản tư doanh (hai bộ phận chính của thành phần kinh tế bị
coi là phi xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam).
Hợp tác hóa nông nghiệp mà thực chất là bắt buộc nông dân sản xuất chung
trong tổ chức hợp tác xã, với đất đai và tư liệu lao động đều là của chung, theo một
chỉ tiêu kế hoạch chung do Ủy ban kế hoạch Nhà nước giao. Thể chế quản lý sản
xuất nông nghiệp lúc đó là “khoán việc”, nông dân được chia thóc theo công lao
động do cán bộ ghi chép mang tính “rong công phóng điểm” (Xem Tài liệu tham khảo số 13). lOMoAR cPSD| 61548544
Đi đôi với xóa bỏ hình thức nông dân cá thể, công thương nghiệp tư bản tư
doanh cũng được coi là đối tượng cải tạo, đi tới hoàn toàn xóa bỏ. Nhà nước nắm
trọn khâu buôn bán, triệt tiêu thị trường tự do và xóa bỏ tư thương (Xem TLTK số 6).
III. GIAI ĐOẠN 1975 - 1985
Đến đại hội Đảng lần thứ IV thì xu hướng áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch
hóa trực tiếp trên cả nước đã được khẳng định mà một trong những quan điểm cơ
bản là xây dựng một nền sản xuất lớn XHCN với ba cuộc cách mạng trên ba lĩnh
vực: quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật và văn hóa tư tưởng trong đó cách mạng
khoa học kỹ thuật là then chốt.
Nhân rộng mô hình kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung từ miền Bắc
sang cả miền Nam, hợp tác hóa nông nghiệp cưỡng chế và cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh tiếp tục được tiến hành.
Câu hỏi tự học
Trình bày một cách khái quát Đường lối xây dựng đất nước qua các giai đoạn
phát triển từ 1954 đến 1985 ? Chương 2
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (1958 - 1985)
(Theo mô hình phát triển tổng quát của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp)
Kế thừa và phát triển đường lối cải tạo XHCN của TW 14 (Khóa II) 1958 –
1960, Đại hội III (1960), Đại hội IV (1976), Đại hội V (1982) xác định đường lối
chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô
sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba
cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, lOMoAR cPSD| 61548544
cách mạng tư tưởng và văn hóa trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt;
đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn
và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố nhiệm vụ quốc
phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Đường lối chung trên đây đã chỉ đạo mô hình phát triển tổng quát theo cơ chế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp ở nước ta suốt thời kỳ trước đổi mới 1958 -1985.
Cơ chế này học tập kinh nghiệm của Liên Xô, phù hợp và đáp ứng yêu cầu
trong thời kỳ chiến tranh. Tuy nhiên, sau năm 1975, khi đã kết thúc chiến tranh Đảng
ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế này là một sai lầm nghiêm trọng, đã dẫn tới cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội kéo dài 20 năm (1976 - 1996).
Với thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”
sau khi đánh giá thành tựu, Đại hội VI đã phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết
điểm trong việc thực hiện mô hình phát triển này trên một số mặt chủ yếu như sau.
I. VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ
1. Bố trí cơ cấu kinh tế
Dập khuôn mô hình của nước Nga (Liên xô cũ), một cơ cấu kinh tế không phù
hợp với thực tiễn kinh tế xã hội Việt Nam lúc đó đã được áp dụng.
Về cơ cấu ngành: Coi trọng quá mức phát triển công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp nặng, không chú ý đúng mức đầu tư phát triển ngành nông nghiệp và công lOMoAR cPSD| 61548544
nghiệp nhẹ, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành
một cơ cấu hợp lý, công nghiệp không phục vụ nông nghiệp.
Về cơ cấu sản xuất và đầu tư: Đặt ra chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng
cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp
lại nền kinh tế. Đầu tư thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy
mô lớn, hiệu quả đầu tư thấp.
Như vậy, cơ cấu kinh tế nói trên đã không tập trung sức giải quyết và đáp ứng
nhu cầu trước mắt và cấp bách của toàn dân về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu.
2. Về công nghiệp hóa
Nhìn chung trong thời kỳ 1960 - 1985, chúng ta đã nhận thức và tiến hành
công nghiệp hóa theo mô hình kiểu cũ: trong một nền kinh tế khép kín, sản xuất có
tính hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng.
Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và
nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa; Chủ lực thực hiên công nghiệp hóa là
Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp
hóa được thực hiên thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
không tôn trọng các quy luật của thị trường.
Nguyên nhân sâu xa của các khiếm khuyết là tư tưởng nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, và sử dụng một cơ chế kinh tế kém hiệu quả.
3. Chính sách cải tạo XHCN
- Nguyên tắc cơ bản: Sau khi tham gia Hội nghị các Đảng Cộng sản và Công
nhân quốc tế tại Matxcova (1957 và 1960), nước ta cùng ký vào bản cam kết với các
nước XHCN tuân thủ 9 nguyên tắc cơ bản khi thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch
hóa, trong đó có một nguyên tắc cơ bản “công hữu tư liệu sản xuất”, được thực hiện lOMoAR cPSD| 61548544
trong cách mạng về quan hệ sản xuất.“Cuộc cách mạng quan hệ sản xuất chính là
việc cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa cả trong công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp, tài chính ngân hàng và thậm chí trong tổ
chức đời sống của các cộng đồng dân cư. Tiến hành cải tạo XHCN đối với tư bản tư
doanh, nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thương và thương nghiệp nhỏ…sử dụng
và hạn chế tư bản tư doanh, chủ yếu bằng công tư hợp doanh; hợp tác hóa nông
nghiệp đi đôi với xây dựng huyện, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN; cải tạo
thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp bằng con đường hợp tác hóa là chủ yếu, cải tạo
thương nghiệp nhỏ bằng cách chuyển dần tiểu thương sang sản xuất”. (Đặng Phong.
Tư duy kinh tế Việt nam 1975 – 1981, NXB Tri thức, HN, 2009, tr.101).
Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất mà không coi trọng vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối.
Về cách làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ
chất lượng và hiệu quả. Do đó không ít tổ chức được coi là công tư hợp doanh, hợp
tác xã, tổ hợp tác sản xuất, chỉ có hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới.
Nguyên nhân của sai lầm này là, trong nhận thức cũng như hành động, chúng
ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại
trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.
4. Về cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp
“Chế độ kế hoạch hóa này là một nguyên lý phổ biến của mô hình kinh tế
XHCN. Không riêng Việt Nam, ở mọi nước XHCN đều có chế độ đó, mà nguồn gốc
của nó chính là mô hình của Liên Xô cũ. Ở Việt Nam, chế độ kế hoạch hóa tập trung
có mô hình quản lý đặc trưng theo công thức mà Tổng Bí thư Lê Duẩn coi là một
sáng tạo về lý luận của Việt Nam:“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”. (Sđd Tr.107). lOMoAR cPSD| 61548544
Công cụ quản lý điều hành kinh tế cơ bản của Nhà nước chính là những kế
hoạch, chỉ tiêu mang tính pháp lệnh được xây dựng một cách chủ quan duy ý chí
theo qui trình “một lên hai xuống” (Đọc kỹ TLTK số 7).
Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy Ban kế hoạch Nhà
nước đã chia sẻ:“Anh em ở Ủy ban Kế hoạch nhà nước họ thạo lắm, chỉ ngồi ở số 6
Hoàng Diệu thôi mà qui định hàng ngàn chỉ tiêu cho cả nước, các bộ, ngành, tỉnh…
Càng xuống các tỉnh tôi thấy công tác đó thật quan liêu, có tỉnh không có một cây
điều nào cũng bị giao kế hoạch sản xuất hàng năm bao nhiêu tấn hạt điều. Có ông
Vụ trưởng đứng dưới gốc cây điều, hỏi dân “cây này là cây gì vậy?”. Khi điều tra
phát triển vùng sản xuất cây thầu dầu, một ông Phó chủ nhiệm UBKHNN, phụ trách
nông nghiệp chỉ vào cây đu đủ con và nói: “Ở đây thầu dầu tốt quá anh ạ.”(Sđd. Tr 109)
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã gây ra nhiều tác hại về kinh tế và xã hội:
- Không tạo được động lực phát triển, kìm hãm sản suất, làm giảm năng
suất,chất lượng, hiệu quả.
- Gây rối loạn trong phân phối lưu thông.
- Đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
- Cơ chế đó tạo ra bộ máy quản lý cồng kềnh và những cán bộ quản lý
kémnăng động, không thạo kinh doanh, quan liêu cửa quyền.
Nguyên nhân chủ yếu của khiếm khuyết là tư duy kinh tế dựa trên những quan
niệm đơn giản về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí.
II. NHÀ NƯỚC CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN
1. Tính chất của nhà nước
Với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, cách
mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa trong cả nước. Do đó hệ thống chính trị của nước ta cũng chuyển sang lOMoAR cPSD| 61548544
giai đoạn mới: từ hệ thống chuyên chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của
chuyên chính vô sản (giai đoạn 1960 - 1975) sang hệ thống chuyên chính vô sản; từ
chỗ hoạt động trong phạm vi nửa nước (miền Bắc) mở rộng sang hoạt động trong
phạm vi cả nước. Bước sang giai đoạn mới, Đại hội IV của Đảng nhận định rằng,
muốn đưa sự nghiệp cách mạng đến toàn thắng thì điều kiện tiên quyết trước tiên là
phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không
ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Nhà nước chuyên chính vô sản ở nước ta được hiểu là nhà nước có sứ mệnh
lịch sử xóa bỏ giai cấp tư sản, tiêu diệt thành phần TBCN, tiêu diệt tư hữu. Đây là
nhận thức giáo điều, tả khuynh không phù hợp với thực tế đất nước, cũng không phù
hợp với quy luật khách quan. 2.
Cơ sở kinh tế của Nhà nước chuyên chính vô sản là sở hữu toàn dân,
loại trừ sở hữu tư nhân, là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Đó
là một nền kinh tế hướng tới mục tiêu nhanh chóng xoá bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu
đối với tư liệu sản xuất với ý nghĩa nó là nguồn gốc và cơ sở của chế độ người bóc
lột người, thiết lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất dưới
hai hình thức: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể; loại bỏ triệt để cơ chế thị trường,
thiết lập mô hình kinh tế kế hoạch hoá trực tiếp. Nhà nước trở thành một chủ thể
kinh tế bao trùm. Từ đó cách tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản
không tránh khỏi mang tính chất quan liêu độc đoán, hạn chế dân chủ. 3.
Cơ sở xã hội của Nhà nước chuyên chính vô sản (do kết quả của cuộc
đấu tranh giai cấp “ai thắng ai” trong lĩnh vực chính trị và kinh tế) là một kết cấu xã
hội bao gồm chủ yếu là hai giai cấp và một tầng lớp: giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức. Tình hình này đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự thực hiện
chiến lược đại đoàn kết dân tộc để phát huy mọi nguồn lực có thể phát huy cho sự phát triển đất nước. lOMoAR cPSD| 61548544
Sau khi được xác lập, hệ thống chuyên chính vô sản đã cản trở quá trình đổi
mới kinh tế, quá trình dân chủ hóa xã hội, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
III. CHÍNH SÁCH VĂN HÓA
1. Mục tiêu của chính sách văn hóa
Chính sách xây dựng và phát triển văn hoá trong giai đoạn cách mạng XHCN
được xác định tại Đại hội lần thứ III (năm 1960) mà điểm cốt lõi là chủ trương tiến
hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá đồng thời với cuộc cách mạng về quan hệ
sản xuất và cách mạng khoa học - kỹ thuật; là chủ trương xây dựng và phát triển nền
văn hóa mới, con người mới. Mục tiêu làm cho nhân dân thoát nạn mù chữ và thói
hư tật xấu do xã hội cũ để lại, có trình độ văn hóa ngày càng cao, có hiểu biết cần
thiết về khoa học, kỹ thuật tiên tiến để xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đời sống vật
chất và văn hóa ngày càng nâng cao.
2. Nội dung, tính chất, nhiệm vụ của chính sách văn hóa
Tiếp tục chính sách phát triển văn hóa của Đại hội III, Đại hội IV và Đại hội V
xác định nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất
dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân. Nhiệm vụ văn hóa quan trọng của giai đoạn
này là tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, phát triển mạnh khoa học, văn hóa
nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống tư tưởng phong kiến, phê phán
tư tưởng tiểu tư sản, xóa bỏ ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa thực dân mới ở miền Nam.
Trong những năm 1954 - 1985 công tác tư tưởng văn hóa đã đạt được những
thành tựu to lớn, góp phần xứng đángvào sự nghiệp cách mạng cả nước. 3. Đánh giá
Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ không chỉ
là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi lOMoAR cPSD| 61548544
của chính sách văn hóa của Đảng, thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước và nhân
phẩmViệt Nam, của những giá trị tinh thần cao quý của con người Việt Nam. Cùng
với độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, những thành quả về văn hóa là một thành
tố của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chính sách phát triển văn hóa thời kỳ 1954 - 1985 bị chi phối bởi tư duy chính
trị “nắm vững chuyên chính vô sản” mà thực chất là chủ trương đề cao đấu tranh
giai cấp, đấu tranh “ai thắng ai” giữa 2 con đường, giữa 2 phe, do đó trên lĩnh vực
tư tưởng văn hóa cũng nhấn mạnh đấu tranh ý thức hệ, chống tư tưởng tư sản và tàn
dư tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản.
Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa giai đoạn này cũng bị
quy định bởi yêu cầu của cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo
là triệt để xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt, là xác lập quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế của lực
lượng sản xuất. Do đó trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa đã phê phán cực đoan tư
tưởng tư hữu, bóc lột, kỳ thị tư tưởng làm giàu, đề cao chủ nghĩa thành phần. Thực
hiện cơ chế bao cấp về văn hóa, sáng tạo.
Chiến tranh, cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao
cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hóa, giáo
dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo trong đời sống tinh thần.
Tóm lại, cả trong chính sách phát triển văn hóa cũng mang tính giáo điều tả
khuynh, chủ quan duy ý chí.
IV. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI (Từ năm 1975 đến năm 1986)
Chính sách đối ngoại của Đảng ta là sự tiếp tục của chính sách đối nội được
quy định bởi những nhân tố bên trong và bên ngoài, là phương hướng ứng xử của ta
đối với những thay đổi của môi trường quốc tế.
1. Những khó khăn trong quan hệ quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn lOMoAR cPSD| 61548544 1975 - 1986
Từ cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, nước ta bị các thế lực
thù địch bên ngoài bao vây, cấm vận, cô lập. Mỹ 3 lần phủ quyết Việt Nam gia nhập
Liên hợp quốc; các nước ASEAN bác bỏ mọi đề nghị của Việt Nam về đối thoại và
hợp tác; đòi ta rút quân tình nguyện tại Campuchia, cùng một số nước lớn chống phá
ta kịch liệt trên mọi diễn đàn quốc tế. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc xấu đi nghiêm
trọng, hai nước ở trong trạng thái có chiến tranh.
Tháng 2 năm 1979, Trung Quốc mang 60 vạn quân bất ngờ tấn công Việt Nam
trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Ngày 14/3/1988, Trung Quốc đánh chiếm đảo
Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, sát hại 64 chiến sĩ công binh Việt
Nam (Tìm hiểu thêm TLTK số 9,10,11).
Hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đặt nước ta
trong tình thế “vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với một cuộc chiến tranh phá
hoại nhiều mặt”. Hai cuộc chiến tranh này làm cho Việt Nam tổn thất rất lớn về
người. Nó góp phần làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội của nước ta trong 20 năm.
2. Những hạn chế về nhận thức và chính sách đối ngoại
Trước năm 1986, sự hiểu biết và đánh giá của Đảng ta về tình hình thế giới và
khu vực có lúc còn chưa thật phù hợp với thực tế khách quan. -
Nhận thức chủ quan, phiến diện về chủ nghĩa tư bản: Cho rằng chế độ
tưbản, “đang trong cơn hấp hối” (Đại Hội IV), đang “lâm vào cuộc tổng khủng hoảng
trầm trọng chưa từng có” (Đại hội V); không thừa nhận chủ nghĩa tư bản đang trên
đà phát triển mạnh mẽ. -
Đánh giá chủ quan về CNXH, cho rằng CNXH là vô địch và hệ
thốngXHCN thế giới đang có sức mạnh tổng hợp vượt trội CNĐQ, đang là nhân tố
quyết định sự phát triển của loài người. lOMoAR cPSD| 61548544 -
Đánh giá các quốc gia, các dân tộc chỉ đơn thuần theo tiêu chí chính
trịnhư: cách mạng và phản cách mạng; XHCN và phi XHCN; tiến bộ và lạc hậu; tốt và xấu; bạn và thù. -
Nhìn thế giới chỉ như một vũ đài đấu tranh quyết liệt, một mất một còngiữa CNXH và CNĐQ.
3. Nguyên nhân của những hạn chế -
Có phần do chịu nhiều ảnh hưởng của các quan điểm quốc tế của Liên Xô. -
Có phần do phương pháp tư duy giáo điều, nhìn nhận thời cuộc với
nhữngluận cứ đã định sẵn của thời kỳ trước. -
Có phần do những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chínhsách đối nội. -
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước tư tưởng chủ quan say
sưavới thắng lợi, nóng vội muốn tiến nhanh lên CNXH trong một thời gian ngắn đã
khiến chúng ta chậm nhận thức được quá trình toàn cầu hóa kinh tế, chậm nắm bắt
được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua kinh tế trên thế giới. Do
đó, đã không kịp thời đổi mới chính sách đối ngoại cho phù hợp. -
Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 - 1986 xét
đếncùng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản đã được Đại hội VI chỉ ra là: “bệnh
chủ quan duy ý chí” và sự lạc hậu về nhận thức lý luận.
Tại Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã thẳng thắn nhận định: “Những sai
lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách
lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ
yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế là bệnh
chủ quan duy ý chí, vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ. Trong lĩnh vực tư
tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận. lOMoAR cPSD| 61548544
Câu hỏi tự học
1. Nêu các nhược điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung và trực tiếp (áp
dụng ở nước ta trong những năm 75 - 85 ở miền Nam và 58 - 85 trên cả nước)
2. Vì sao nước ta đã quyết định chấm dứt mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tậptrung quan liêu bao cấp? Phần thứ hai B
SỰ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(Từ năm 1986 đến năm 2020) Chương 1
ĐẠI HỘI VI (NĂM 1986) KHỞI ĐẦU QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
I. NHỮNG BƯỚC “PHÁ RÀO” ĐỘT PHÁ VÀO CƠ CHẾ CŨ, TẠO RA
NHỮNG ĐỔI MỚI CỤC BỘ TỪ CƠ SỞ (1979 – 1986)
(SV đọc và tìm hiểu trong Tài liệu tham khảo số 13)
II. CÁC ĐỘT PHÁ VÀO TƯ DUY KINH TẾ TRƯỚC ĐẠI HỘI VI
Đảng ta đã có những bước đột phá cục bộ về tư duy kinh tế trước khi hình thành
đường lối Đổi mới toàn diện tại Đại hội VI.
1. Bước đột phá đầu tiên:
Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8 - 1979) với chủ trương và quyết tâm
“cởi trói” làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình
đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta. Hội nghị đã quyết định:
- Điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế đã lỗi thời.
- Phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển. lOMoAR cPSD| 61548544
- Ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho
Nhànước hoặc lưu thông tự do.
- Khuyến khích mọi người dân tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hóa để
sảnxuất; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình).
- Sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để kích thích sản xuất.
- Sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối
phânphối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao
động. - Kết hợp kế hoạch với thị trường; kết hợp ba lợi ích: Nhà nước, tập
thể và cá nhân người lao động.
Những chủ trương đột phá về kinh tế nhanh chóng được nhân dân cả nước đón
nhận và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn. Những ý tưởng đổi mới ban
đầu này, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện nhưng là bước đầu có ý nghĩa
quan trọng. Tư tưởng nổi bật trong những tìm tòi là “giải phóng lực lượng sản xuất”
trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất; quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động.
Những tìm tòi ban đầu đó đã trải qua những thử thách rất phức tạp. Trước
những khó khăn về kinh tế và đời sống, cũng vẫn có khuynh hướng muốn quay lại
với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khóa V (tháng 12 - 1983) vẫn
xem xét sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên
nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội và chủ trương phải đẩy mạnh hơn
nữa việc cải tạo xã hội chủ nghĩa; nhà nước phải nắm hàng, nằm tiền, xóa bỏ thị
trường tự do về lương thực và các nông, hải sản quan trọng; thống nhất quản lý lương
thực cho người ăn lương; lập cửa hàng cung cấp v.v... lOMoAR cPSD| 61548544
Hội nghị Trung ương 6 khóa V (tháng 7 - 1984) tiếp tục chủ trương “đẩy mạnh
cải tạo xã hội chủ nghĩa”, đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, cải tạo thị trường tự
do… Điều đó cho thấy quan niệm cũ về cải tạo xã hội chủ nghĩa còn ăn sâu, bám rễ
trong nhiều người”.
2. Bước đột phá thứ hai
Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6 - 1985) được đánh giá là bước đột phá
thứ hai với chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực
hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa;
chuyển công tác ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội
nghị này đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và những quy
luật của sản xuất hàng hóa.
2. Bước đột phá thứ ba
Tháng 8 - 1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại
hội VI, Bộ Chính trị (do đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư) đã xem xét kỹ ba
vấn đề lý luận lớn, thuộc lĩnh vực kinh tế. Từ đó, đưa ra kết luận rất quan trọng về
3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới: Một là: Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ
cấu đầu tư phải lấy nông nghệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển Công
nghiệp nhẹ; Công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc. Hai là: Phải xác định
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Ba là: Phải sử
dụng đúng quan hệ hàng hóa, tiền tệ, quy luật giá trị.
Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa quyết định trong đổi mới tư duy lý luận
về kinh tế của Đảng ta, có vai trò định hướng cho việc soạn thảo lại một cách căn
bản dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng (SV xem thêm Đảng đã
“vượt qua chính mình” (Xem Tài liệu tham khảo số 13 Kỳ XIII).
Nhìn một cách khái quát, những đột phá về tư duy kinh tế ở nước ta trước lOMoAR cPSD| 61548544
Đại hội VI tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện
nhưng lại là những bước chuẩn bị rất quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển
nhẩy vọt ở Đại hội VI.
III. ĐẠI HỘI VI KHỞI ĐẦU VÀ ĐẶT NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CHO QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN
1. Những đổi mới về chủ trương, chính sách
Đại hội VI (12/1986) đã đưa ra Đường lối Đổi mới toàn diện đất nước, bao
gồm đổi mới tư duy chính trị, đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi
mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác.
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, Đại hội VI đã đánh giá, phân tích sâu sắc những thành tựu và những hạn chế,
khuyết điểm, sai lầm, trong đó có sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý,
phân phối lưu thông, cải tạo XHCN…coi đó “là những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện”, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công
tác cán bộ của Đảng”. Chỉ rõ khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm là
bệnh chủ quan duy ý chí.
Đại hội xác định: “Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế
là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của
đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN”. Đại hội
chủ trương kiên quyết xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, xây
dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những biện pháp kích thích sản xuất, mở rộng
giao lưu hàng hóa, xóa bỏ tình trạng ngăn sông, cấm chợ, chia cắt thị trường; lập lại
trật tự, kỷ cương; giữ ổn định chính trị - xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. lOMoAR cPSD| 61548544
Đại hội VI đề ra ba Chương trình kinh tế lớn là Lương thực - Thực phẩm; Hàng
tiêu dùng và Hàng xuất khẩu, xem đó là nội dung cơ bản của Công nghiệp hóa trong thời gian trước mắt.
Tại Đại hội VI, lần đầu tiên, Chính sách xã hội và mối tương quan của nó với
Chính sách kinh tế được đặt đúng tầm trong tổng thể đường lối xây dựng xã hội mới.
Tuy nhiên, Đại hội VI cũng còn những điểm hạn chế như:
- Vẫn chủ trương xóa bỏ tư bản thương nghiệp.
- Vẫn phân chia thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
- Vẫn xác định thành phần kinh tế “tự nhiên”, tự cấp, tự túc trong 6 thành phần kinh tế.
- Chính sách đối ngoại chủ yếu vẫn dựa vào Liên Xô và các nước XHCN.
- Vẫn nhấn mạnh việc thực hiện Chuyên chính vô sản.
2. Đổi mới tư duy lý luận
a. Đại hội VI phát ra một hiệu lệnh: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt, trước
hết là đổi mới tư duy”- Đây là một hiệu lệnh lịch sử có tầm chiến lược lâu dài.
Đây là một hiệu lệnh được phát ra đúng lúc, vô cùng chính xác, vừa đúng với yêu
cầu của đất nước, vừa phù hợp với thời đại đang biến đổi nhanh. Hiệu lệnh này đặt
nền tảng tư tưởng cho cả quá trình đổi mới tiếp theo. Thực tiễn sự phát triển Đường
lối Đổi mới 30 năm qua chứng minh cho nhận định sau đây:
- Việc gì, lĩnh vực nào đổi mới tư duy kịp thời, đúng đắn đều phát triển nhanh.- Việc
gì, lĩnh vực nào đổi mới tư duy chậm chạp hoặc nhận thức không rõ thì đều chậm phát triển.
- Việc gì, lĩnh vực nào chậm hoặc không đổi mới tư duy đều thất bại hoặc tụt hậu.
Ví dụ, khi phân tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong phát triển
kinh tế, văn kiện Đại hội XII thừa nhận nguyên nhân chủ quan chủ yếu là: “Nhận
thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa rõ, còn khác nhau, chưa lOMoAR cPSD| 61548544
theo kịp yêu cầu đổi mới về phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Vì vậy việc điều
hành phát triển kinh tế - xã hội nhiều mặt còn lúng túng, thiếu nhất quán nên hiệu quả chưa cao”.
b. Đặc trưng cơ bản của kiểu tư duy mới mà Đảng ta phải hướng tới là tư duy
biện chứng duy vật
Theo Đại hội VI, kiểu tư duy mới có 6 đặc trưng:
- Đặc trưng thứ nhất:“Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”. Đây là kiểu tư duy khách quan chỉ đạo phương châm xem xét đánh giá tình
hình một cách khoa học. Sau 30 năm đổi mới, khi rút kinh nghiệm 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII một lần nữa khẳng định kiểu tư duy này. Phải
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” (Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII)
- Đặc trưng thứ hai: “Phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Đây là kiểu tư
duy “Dân vi bản” (Đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết) đúc kết từ truyền thống
của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Khi nhìn lại 30 năm đổi mới, Đại hội
XII đã rút ra 5 bài học trong đó có 2 bài học khẳng định đặc trưng kiểu tư duy “dân
vi bản” đó là:
+ Bài học thứ hai: “Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm
gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân … phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
+ Bài học thứ tư: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”.
- Đặc trưng thứ ba: “Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan”. Kiểu tư duy chủ quan duy ý chí mà Đảng ta nhiều lần
mắc phải là trái với đặc trưng này, đã gây tác hại to lớn cho cách mạng nước ta.
Đại hội VI đã nghiêm khắc phê phán kiểu tư duy này. Đại hội VI giải thích rõ hơn
đặc trưng này: “Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan thông qua các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất lOMoAR cPSD| 61548544
phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân từng
bước được ổn định và nâng cao, con người mới ngày càng hình thành rõ nét, xã
hội ngày càng lành mạnh, chế độ chủ nghĩa xã hội được củng cổ. Mọi chủ trương
chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật
khách quan, phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ”. Nhìn lại 30 năm đổi mới, Đại hội XII
một lần nữa khẳng định đặc trưng tư duy này trong bài học thứ ba là: “Đổi mới
phải toàn diện, đồng bộ, tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám
sát thực tiễn, giải quyết kịp thời hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”.
- Đặc trưng thứ tư: “Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại trong điều kiện mới ”. Đại hội VI giải thích cơ sở khoa học của kiểu tư
duy này như sau:“Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay
và xu thế mở rộng phân công hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh
tế - xã hội khác nhau cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Nội dung của kiểu tư duy này được diễn đạt cụ
thể hơn qua các Đại hội: VII, IX và XI.
Kiểu tư duy này đến Đại hội VII (năm 1991) thể hiện trong lời tuyên bố: “Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đầu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”. (Ý nghĩa của kiểu tư duy này được nói rõ hơn trong
Chương 3 phần II B). Ở Đại hội IX (năm 2011) kiểu tư duy này có nội dung là: “Tư
duy toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đến Đại hội XI (năm 2011) Đảng ta nhấn mạnh vào “Tư duy về hội nhập quốc tế”.
- Đặc trưng thứ năm: Chuyển từ tư duy theo chiều dọc (tức là so sánh mình hôm
nay với bản thân mình trước đây) sang kiểu tư duy theo chiều ngang (tức là so
sánh mình với các nước khác trong khu vực và thế giới) để thành tâm học hỏi và
phấn đấu cho bằng họ. Đây là kiểu tư duy mới phù hợp với thời đại hội nhập và cạnh tranh quyết liệt. lOMoAR cPSD| 61548544
Với kiểu tư duy này, Đại hội VIII (năm 1996) nhận định: “Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt
do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết
liệt’’. Sau 20 năm, Đại hội XII (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Bốn nguy cơ mà
Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các
nước trong khu vực và trên thế giới”. Chỉ với kiểu tư duy này Việt Nam mới hy vọng
nhanh chóng thoát khỏi tình trạng tụt hậu. Nghị quyết 19-2016/NQ CP đặt mục tiêu
phấn đấu các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh tối thiểu bằng trung bình của nhóm nước Asean 4
- Đặc trưng thứ sáu là: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đây là kiểu tư
duy thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình. Đại hội VI
giải thích ý nghĩa của kiểu tư duy mới này như sau: “Công việc quản lý không phải
việc riêng của những người quản lý chuyên nghiệp mà là sự nghiệp của nhân
dânXóa bỏ nhận thức sai lầm coi công tác quần chúng chỉ là biện pháp để tổ chức
động viên nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách…Đối với những chủ
trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân … phải trưng cầu ý kiến của
nhân dân trước khi quyết định”. Để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, Đại hội
XII (năm 2016) một lần nữa khẳng định “Thể chế hóa và thực hiện tốt phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Tóm lại, sau 30 năm phát triển, đường lối Đổi mới đã khẳng định 2 điều:
- Một là, ở bất kỳ lĩnh vực nào muốn đổi mới phải thực hiệu lệnh: “Trước hết là
đổi mới tư duy”.
- Hai là, phải quán triệt các đặc trưng của kiểu tư duy mới mà Đại hội VI đặt nền
tảng và phát triển hơn nữa nội dung của tư duy mới.
Câu hỏi tự học
1. Phân tích tính đúng đắn của hiệu lệnh: “Đảng phải đổi mới về nhiều
mặt, trước hết là đổi mới tư duy”. Tại sao trước hết phải đổi mới tư duy? lOMoAR cPSD| 61548544
2. Giải thích nội dung những đặc trưng của tư duy mới mà đại hội lần thứ
VIcủa Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ra? Chương 2
ĐỔI MỚI THỂ CHẾ QUẢN LÝ
SẢN XUẤT TRONG NÔNG NGHIỆP
I. KHOÁN HỘ VÀ THỂ CHẾ QUẢN LÝ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
1. Khoán hộ ra đời như một đòi hỏi tất yếu của thực tiễn sản xuất nông nghiệp
Một trong những đặc trưng của mô hình kế hoạch hóa áp dụng những năm 60
là thực hiện chế độ công hữu tư liệu sản xuất, cải tạo xóa bỏ mọi thành phần kinh tế
dựa trên tư hữu tư liệu sản xuất, bao gồm cả nông dân cá thể. Vì thế hợp tác xã nông
nghiệp được tổ chức một cách ồ ạt và cưỡng chế, buộc nông dân cùng sản xuất trên
cánh đồng chung, không qui trách nhiệm cho ai, được trả công lao động theo hình
thức “công điểm" (khoán việc). Thể chế quản lý sản xuất nông nghiệp như vậy đã