




Preview text:
Giá thú là gì? Con ngoài giá thú là gì? Quyền lợi con ngoài giá thú 1. Giá thú là gì?
Giá thú là là sự phối hợp giữa nam và nữ nhằm mục đích thiết lập nên một
gia đình chính thức, cùng nhau sinh sống, chung thuỷ, giúp đỡ tương trợ lẫn
nhau, sinh để con cái để duy trì nòi giống... Sự phối hợp này nếu tuân thủ
theo các điều kiện pháp luật đã quy định, thì được pháp luật công nhận và
bảo hộ. Sau khi đã làm giá thú, nếu vợ chồng muốn bỏ nhau, phải thực hiện
thông qua thủ tục ly hôn. Giá thú được coi là một chế định pháp lí và pháp
luật có các quy định cụ thể về điều kiện để lập giá thú, hình thức giá thú, hiệu
lực giá thú, phân loại các giá thụ trong những trường hợp, hoàn cảnh nhất định.
Việc phát sinh trường hợp con ngoài giá thú xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Người con ấy có cả cha và mẹ là người độc thân, nghĩa là cả hai chưa trong
một mối quan hệ hôn nhân hợp pháp nào;
2. Cha hoặc mẹ là trong một mối quan hệ hôn nhân hợp pháp khác mà người
còn lại là người độc thân. 2. Nguồn gốc giá thú
Thuật ngữ “giá thú" bắt nguồn từ gốc chữ Hán (chữ "giá" có nghĩa là con gái
về nhà chồng: chữ "thú" có nghĩa là lấy vợ; giá thú là việc con trai, con gái lấy
nhau thành vợ chồng). Giá thú là thuật ngữ pháp lí được sử dụng trong pháp
luật dân sự Việt Nam thời phong kiến, thời Pháp thuộc và ở nền Nam Việt
Nam trong giai đoạn trước năm 1975. Thuật ngữ này tương đương thuật ngữ
“hôn nhân" (khi sử dụng là danh từ) và thuật ngữ “kết hôn” (khi sử dụng là
động từ) trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện đại (Xt. Kết hôn).
Nghiên cứu nguồn gốc xuất xứ và quá trình phát triển của thuật ngữ “giá thứ”
trong đời sống xã hội, cũng như trong lịch sử pháp luật Việt Nam qua các thời
đại cho thấy, mặc dù không có điều khoản nào định nghĩa về hôn nhân hay
giá thú, song các quy định cụ thể về: các điều kiện nội dung giá thú, hình thức
giá thú, các chế tài khi không tuân thủ các điều kiện lập giá thú; hiệu lực của
giá thú... đã phản ánh rõ nét quan niệm của các nhà lập pháp về chế định giá
thú. Ở mỗi thời kì, các quan niệm này có những điểm không đồng nhất,
nhưng về cơ bản, nó tôn trọng sự tự nguyện của cả hai bên nam nữ, tính hợp
pháp và hợp lí, hợp tình khi lập giá thú, ghi nhận quá trình hôn nhân giữa hai
người con trai và con gái.
Theo quan niệm của pháp luật thời phong kiến (thông qua Quốc triều hình
luật - Luật Hồng Đức thời Lê và Hoàng Việt luật lệ - Luật Gia Long thời
Nguyễn) thì giá thú là sự kết hợp giữa một người con trai và một người con
gái, được pháp luật thừa nhận với mục đích lập gia đình, sinh con để nối dõi
và thờ phụng tổ tiên. Quan niệm về giá thú thời kì này, là sự kết hợp, giao
hiếu giữa hai họ và liên quan mật thiết đến nền tảng của đại gia đình hơn là
cái gia đình nhỏ mà hai bên trai, gái lập ra sau khi lấy nhau. Hơn nữa, mục
đích của giá thú là sinh con để kế truyền hậu thế và thờ cúng trong tông miếu,
bởi vậy, nếu phụ nữ không sinh được con, thì chồng có quyền tự ý bỏ vợ.
Cùng với quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã làm cho vai trò tự
nguyện ưng thuận của trai, gái khi giá thú bị xem nhẹ và dường như bị lãng
quên trong vô vàn các quyền lợi tối trọng của đại gia đình, trong sự liên minh giao hiếu giữa hai họ.
Theo quan niệm của pháp luật thời kì Pháp thuộc:
(qua Bộ dân luật giản yếu năm 1883, Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Hoàng
Việt Trung Kỳ hộ luật năm 1986), giá thú là chỉ việc trai, gái lấy nhau thành vợ
chồng trước mặt viên hộ lại, phát sinh ra những nghĩa vụ tương hỗ cho hai
bên về phương diện đồng cư, lập thành gia đình, sống trung thành và tương trợ lẫn nhau.
Pháp luật không bắt buộc hai bên trai, gái phải cử hành hôn lễ theo tục lệ hay
tôn giáo. Các lễ này tuỳ thuộc ý muốn của các bên đương sự và không bắt buộc.
Việc giá thú trước mặt viên hộ lại phải được ghi vào sổ giá thú và lập thành
chứng thư giá thú. Bản giá thú phải được niêm yết, công bố tại công sở, nơi
cư trú, tạm trú của hai người trai, gái trong thời hạn 10 ngày trước khi làm
hôn lễ. Do chấp nhận chế độ đa thê, pháp luật quy định hai loại giá thú:
Giá thú chính thất: là giá thú ghi nhận việc đàn ông cưới vợ cả (hay còn gọi là giá thú đệ nhất cấp).
Giá thú thứ thất: là giá thú ghi nhận việc đàn ông lấy vợ lẽ (hay còn gọi là giá
thú đệ nhị cấp). Dù là vợ hai, vợ ba, hay vợ bốn. . các giá thú này đều gọi là
giá thú thứ thất. Pháp luật quy định, tất cả các vợ lẽ, lấy trước hay lấy sau
đều có quy chế như nhau. Song, nếu chưa lập giá thú chính thất thì không
được lập giá thú thứ thất (chưa lấy vợ chính thì không được lấy vợ thứ).
Hiện nay, thuật ngữ “giá thú” không còn được sử dụng trong Luật hôn nhân
và gia đình hiện đại nữa, các nhà lập pháp đã thay thế nó bằng thuật ngữ
“hôn nhân" khi sử dụng nó là danh từ và thuật ngữ "kết hôn” khi sử dụng là động từ.
3. Khái niệm con ngoài giá thú
Con ngoài giá thú là con được sinh ra khi bố mẹ không đăng ký kết hôn.
Dưới góc độ khoa học: Giá là xuất giá, thú là hôn thú, giá thú là việc con trai
và con gái kết hôn trở thành vợ chồng. Theo đó, con ngoài giá thú là con
được sinh ra khi bố, mẹ không phải là vợ chồng.
Theo từ điển Tiếng Việt: Con ngoài giá thú được hiểu là con mà cha mẹ
không phải là vợ chồng theo quy định của pháp luật.
Theo từ điển Luật học: Không có giải thích khái niệm con ngoài giá thú là gì
mà chỉ đưa ra khái niệm là con ngoài hôn nhân tương tự như khái niệm con
ngoài giá thú (con có cha mẹ không phải là vợ chồng).
Dưới góc độ pháp lý: Hiện nay không có một văn bản pháp luật nào đưa ra
định nghĩa thế nào là con trong giá thú hay con ngoài giá thú. Căn cứ theo
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì pháp luật Việt Nam chỉ công nhận
một cuộc hôn nhân hợp pháp khi các bên đủ điều kiện kết hôn và thực hiện
thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (UBND xã/phường).
Các trường hợp có thể phát sinh con ngoài giá thú bao gồm: Nam, nữ đều
còn độc thân có quan hệ tình cảm với nhau, sinh con ra nhưng không đăng
ký kết hôn; Nam, nữ (một trong hai bên hoặc cả hai bên) đã kết hôn với
người khác nhưng có quan hệ tình cảm với nhau và sinh con; con được sinh
ra trong thời gian nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không
đăng ký kết hôn, bao gồm cả trường hợp vợ chồng đã ly hôn, sau đó sống
chung với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn lại.
Ví dụ: A (Nam) đủ 19 tuổi, B (Nữ) đủ 18 tuổi có quan hệ yêu đương với nhau
và sống chung với nhau như vợ chồng rất hạnh phúc. Trong thời gian sống
thử chung, A và B có một đứa con gái. Tuy nhiên, A, B không đi đăng ký kết
hôn nên con của A và B được xác định là con ngoài giá thú.
4. Quyền lợi của con ngoài giá thú
Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình nếu hai chủ thể không
đăng ký kết hôn thì hôn nhân không được coi là hợp pháp và sẽ không được
pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, để đảm bảo lợi ích cho các con sinh ra khi bố
mẹ không có hôn nhân hợp pháp, pháp luật vẫn có những quy định để đảm
bảo lợi ích cho con giống như một đứa trẻ bình thường khác.
Thứ nhất, Được quyền xác định cha mẹ
Không ai sinh ra mà mất quyền không được nhận bố mẹ vì sinh không trong
thời kỳ hôn nhân cả. Việc xác định cha mẹ cho con là quyền của con và cũng
là nghĩa vụ. Đây là một trong những căn cứ cơ bản để bảo vệ quyền và lợi
ích của con theo quy định.
Tại Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về thẩm quyền giải quyết
việc xác định cha, mẹ, con như sau:
“Điều 101. Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con
1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ,
con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
2.Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác
định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi
cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp
luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự.”
Theo đó, việc đăng ký xác định cho con ngoài giá thú được thực hiện tại
UBND cấp xã nơi con cư trú.
Thứ hai, Hưởng các quyền lợi như đứa con bình thường khác
Sau khi được hoàn thiện thủ tục xác nhận cha mẹ cho con thì con ngoài giá
thú cũng sẽ có đầy đủ tất cả các quyền lợi của một người con bình thường
như: Quyền cư trú, quyền hộ tịch, giám hộ, quyền tài sản, thừa kế…..
Ví dụ 1: Quyền sống chung cùng cha mẹ được pháp luật bảo hộ cho đến khi
con thành niên theo Luật Hôn Nhân và Gia Đình 2014.
“Điều 70. Quyền và nghĩa vụ của con
1. Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi
ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp
luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về
thể chất, trí tuệ và đạo đức.
2. Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng
dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
3. Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha
mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.”
Ví dụ 2: Nghĩa vụ cấp dưỡng khi không sống chung với con được pháp luật
quy định cho đến khi con trưởng thành (Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con ngoài giá thú sẽ tuân theo
quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Cụ thể tại Điều 15 của Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong
trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn thì quyền và nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ
của cha mẹ và con. Quy định này có nghĩa là dù là con trong giá thú hay con
ngoài giá thú thì đều được hưởng những quyền và nghĩa vụ như nhau.
Document Outline
- Giá thú là gì? Con ngoài giá thú là gì? Quyền lợi
- 1. Giá thú là gì?
- 2. Nguồn gốc giá thú
- 3. Khái niệm con ngoài giá thú
- 4. Quyền lợi của con ngoài giá thú