










Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220
1.2. Các chủ trương giai đoạn 1930 – 1945 -
Sau khi ra đời Đảng đã chủ trương mở cuộc đấu tranh mới nhằm đòi quyền lợi cho
chonhân dân và xây dựng phát triển tổ chức Đảng và lực lượng cách mạng. Về tổng thể
Đảng chưa chủ trương giành chính quyền lúc này vì chưa có tình thế và thời cơ cách mạng.
Tuy nhiên khi Xô viết Nghệ Tĩnh nổ ra và bị thực dân Pháp khủng bố dã man, tháng 9-
1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi thông tri cho Xứ ủy Trung kỳ vạch rõ chủ
trương bạo động riêng lẻ trong vài địa phương lúc đó là quá sớm vì chưa đủ điều kiện.
Trách nhiệm của Đảng là phải tổ chức quần chúng chống khủng bố, giữ vững lực lượng cách mạng. -
Sau cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, thực dân
Pháptiếp tục tiến hành khủng bố hòng tiêu diệt bằng được Đảng Cộng sản và phong trào
cách mạng của nhân dân ta. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và tổn thất nhưng những người
Cộng sản Việt Nam vẫn không hề nao núng. Với sự giúp đỡ của quốc tế Cộng sản và Đảng
anh em, năm 1932 Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng do Lê Hồng Phong đứng đầu đã
được thành lập và đề ra "Chương trình hành động" nhằm khôi phục lại tổ chức Đảng và
phong trào cách mạng Việt Nam. -
Đầu năm 1932, Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương (15-6-
1932) do Lê Hồng Phong và một số đồng chí soạn thảo đã vạch ra nhiệm vụ đấu tranh
trước mắt để khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng, đặc biệt cần
phải “gây dựng một đoàn thể bí mật, có kỷ luật nghiêm ngặt, cứng như sắt, vững như đồng,
tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần chúng trên con đường giai cấp chiến đấu” . -
Tháng 3-1933, Hà Huy Tập xuất bản sách ‘‘Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản
Đông Dương’’, bước đầu tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, trong đó khẳng định
công lao, sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc. -
Năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập
và Lê Hồng Phong được cử là thư ký (Bí thư). Ban chỉ huy ở ngoài đã hoạt động hết sức
tích cực để tập hợp, xây dựng các cơ sở Đảng mới trong nước thành một hệ thống, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Cuối năm 1934 đầu 1935, hệ thống tổ chức Đảng đã được khôi phục và
từng bước phát triển. Đây là cơ sở để Đảng triệu tập Đại hội lần thứ nhất -
Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (TQ) đã khẳng định
thành công của cuộc đấu tranh khôi phục lại tổ chức Đảng và phong trào cách mạng, đồng
thời chỉ ra những hạn chế: lực lượng của Đảng còn ít và chưa phát triển ở công nghiệp tập
trung, hệ thống tổ chức Đảng chưa thật thống nhất, công nhân gia nhập Đảng còn ít...
Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ cần tập trung thực hiện :
1- Củng cố và phát triển Đảng. lOMoAR cPSD| 58562220
2- Đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp quần chúng,
3- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộcách mạng Trung Quốc… -
Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng và các nghị quyết về vận động
quần chúng và bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. -
Tuy nhiên, Đại hội vẫn chưa đề ra được chủ trương chiến lược phù hợp với thực
tiễncách mạng Việt Nam chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp
lực lượng toàn dân tộc. Đảng vẫn cho rằng, “người ta không làm cách mạng phản đế, sau
đó mới làm cách mạng điền địa. Cách mạng sẽ chỉ thắng lợi với điều kiện hai cuộc cách
mạng ấy gắn bó chặt chẽ với nhau và cùng đi với nhau”.
1.3. Giai đoạn 1936 - 1939
Tình hình thế giới và Việt nam có những biến chuyển:
- Chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền ở Đức - Ý - Nhật. Nguy cơ chiến tranh thế giới thứ 2xuất hiện.
- Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản (7-1935) đã đề ra chủ trương mới nhằm tậptrung
lực lượng chống kẻ thù nguy hiểm lúc này là chủ nghĩa phát xít, bảo vệ tự do, dân chủ, hoà bình.
- Ở Pháp, Chính phủ mới đã ban hành một số chính sách cải cách ở thuộc địa tạo thuậnlợi
cho hoạt động cho các Đảng phái chính trị ở thuộc địa.
- Tại Đông Dương đa số nhân dân có nguyện vọng cấp thiết về dân sinh, dân chủ.
- Các văn kiện chủ yếu:
+ Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 năm 1936
+ Văn kiện "chung quanh vấn đề chiến sách mới" (tháng 10-1936)
+ Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 3-1937; tháng 9-1937; tháng 3-1938 Nhận
thức mới của Đảng được thể hiện rõ ở những vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, đổi mới nhận thức nhằm “sửa chữa những sai lầm” trước đó và “định lại
chính sách mới” dựa theo những nghị quyết của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. (NQTƯ tháng 7- 1936)
Thứ hai, xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Đảng ta cho rằng ‘‘không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách
mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy
có chỗ không xác đáng” và “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với lOMoAR cPSD| 58562220
cuộc cách mạng điền địa’’; ‘‘nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh
đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước’’, ‘‘Nghĩa là
chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh
cho được toàn thắng” (Chung quanh vấn đề chiến sách mới tháng 10 - 1938)
+ Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã nêu cao tinh thần đấu tranh, thẳng thắn
phê phán quan điểm chưa đúng và bước đầu khắc phục hạn chế trong Luận cương chính trị
của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp với tinh thần trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
Thứ ba, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc để khắc phục tư tưởng "tả khuynh", cô
độc. Thành lập mặt trận nhân dân phản đế (đến tháng 3-1938 đổi thành Mặt trận dân chủ
Đông Dương) nhằm tập hợp tất cả các Đảng phái, các tầng lớp nhân dân đấu tranh đòi tự
do, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai.
Thứ tư, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu và nhiệm vụ trước mắt với
mục tiêu và nhiệm vụ lâu dài. Đảng cho rằng chống đế quốc và phong kiến để giành độc
lập dân tộc, dân chủ, ruộng đất là mục tiêu không bao giờ thay đổi song điều kiện cụ thể
lúc này chưa phải là mục tiêu trực tiếp trước mắt. Mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể lúc này là
chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi các quyền dân chủ cơ bản, đòi tự do, cơm
áo, chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hòa bình.
Thứ năm, kết hợp và thực hiện nhiều hình thức đấu tranh và tập hợp quần chúng.
Ngoài hình thức bí mật bất hợp pháp, Đảng chủ trương đẩy mạnh hình thức đấu tranh công
khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, để xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng.
Nhờ vậy Đảng đã tập hợp, rèn luyện tổ chức được một lực lượng cách mạng khá
đông đảo. Đây là một thành công lớn của Đảng trong quá trình lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành chính quyền .
+ Thắng lợi của cao trào dân chủ 1936-1939 đã chứng minh cho sự đúng đắn của
việc đổi mới tư duy của Đảng, trong việc xây dựng thực hiện đường lối cách mạng ở một
giai đoạn lịch sử đầy biến động.
1.4. Giai đoạn 1939 – 1945
- Lý luận về mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng của CN Mác- Lê nin chỉ rõ : Chiến
tranh đế quốc với nhau sẽ làm suy yếu kẻ thù của cách mạng và thúc đẩy nhân dân đứng
lên đấu tranh đánh đổ bọn thống trị và áp bức ; tình thế và thời cơ cách mạng sẽ xuất hiện.
- Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra ( 1- 9- 1939), với tầm nhìn chiến lược đúng đắn, lOMoAR cPSD| 58562220
Đảng đã nhận đinh: Nếu như chiến tranh thế giới lần thứ nhất đẻ ra một Liên xô thì chiến
tranh lần này đẻ ra nhiều Liên xô, ta cần tích cực chuẩn bị về mọi mặt, đón đợi thời cơ khởi nghĩa giành chính quyên.
- Trên cơ sở nhận thức sáng suốt đó, Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưanhiệm
vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Chủ trương này của Đảng được thể hiện trong những văn kiện chủ yếu sau:
+ Thông cáo của Đảng ngày 29-9-1939
+ Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 6 (11-1939)
+ Nghị quyết Hội nghị cán bộ Đảng (11-1940)
+ Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 (5-1941)
Các văn kiện này đã giải quyết đúng đắn những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định đúng mâu thuẫn chủ yếu và gay gắt của xã hội Việt nam lúc này
là giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Nhật – Pháp phải tập trung lực lượng đánh đổ chúng, giành chính quyền.
Thứ hai, về mối quan hệ dân tộc - giai cấp
- Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Vấn đềnà
y nếu được giải quyết đúng đắn, khoa học thì sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy cách
mạng tiến lên không ngừng, còn giải quyết không đúng sẽ gây tác hại to lớn cho phong
trào cách mạng nước nhà.
- Với kinh nghiệm thu được qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng đã tự mình vượt lên
và có nhận thức mới rất đúng đắn : "Trong lúc này... nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"
Thứ ba, mối quan hệ dân tộc – dân chủ (nhiệm vụ chống đế quốc vf choóng phong kiến)
- Vấn đề này Đảng chỉ rõ: Đây là nhiệm vụ chủ yếu có mối quan hệ mật thiết với nhautrong
cách mạng dân tộc, dân chủ. Tuy nhiên trong điều kiện chiến tranh cần phải tập trung vào
nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc. Đảng chỉ rõ: Cuộc CM giải phóng Đông
Dương hiện tại, không phải cuộc cách mạng tư sản dân quyền cuộc cách mạng phải giải
quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn
đề cần kíp dân tộc giải phóng, vậy thì cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại
là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. lOMoAR cPSD| 58562220
Như vậy trong khi giải quyết mối quan hệ dân tộc – dân chủ lúc này Đảng đã đặt nhiệm vụ
dân tộc (chống đế quốc) lên hàng đầu
Thứ tư, quan hệ dân tộc – quốc tế.
- Đảng chỉ rõ: chiến tranh lần này sẽ tạo điều kiện để cách mạng nhiề nước thành
công,Đảng và nhân dân ta phải tranh thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế ( với Mỹ) và tích cực,
chuẩn bị mọi mặt để ki tình hình quốc tế thuận lợi kịp thời khởi nghĩa giành chính quyền
với tinh thần: muốn người giúp cho trước hết mình phải tự giúp mình. Phân tích tình hình
lúc này lãnh tụ HCM dự báo “năm bốn lăm cách mạng thành công”.
- Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương, thi hànhchính
sách “dân tộc tự quyết” của Lênin và thành lập ở mỗi nước Đông Dương một Mặt trận
riêng trực tiếp lãnh đạo CM mỗi nước
Thứ năm, chủ trương ra sức xây dựng lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính
quyền coi khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm.
- Chủ trương xây dựng, củng cố, pt mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp các lực
lượngchống đế quốc và tay sai ( thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế, Mặt trận Việt Minh...)
- Nêu lên phương pháp giành chính quyền: khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền
từngđịa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc, bằng lực
lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu trên tinh thần: đem sức ta mà giải phóng cho
ta; dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành được độc lập.
Thứ sáu, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể
dân tộc” ; ‘‘chính phủ dân chủ cộng hòa” .
Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên (3- 2- 1930) đến Luận cương chính trị tháng
10 -1930 và các Hội nghị Trung ương trong các giai đoạn 1930 – 1935; 1936 – 1939;
1939 – 1945 nhất là Hội nghị Trung ương 8 ( tháng 5 - 1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
chủ trì, đường lối đấu tranh của Đảng được xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh, góp phần quyết
định vào thắng lợi của công cuộc giành chính quyền, làm nên thành công vĩ đại của cách
mạng tháng 8 – 1945. 2. Tổ chức thực hiện đường lối cách mạng lOMoAR cPSD| 58562220
2.1. Xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng
2.1.1. Giai đoạn 1930 – 1935
- Hội nghị Hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ( 3- 2-1930) do lãnh tụ NguyễnÁi
Quốc chủ trì đã thành công, Đảng Cộng sản Việt nam ra đời và chính thức nắm giữ ngọn
cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tạo ra bước ngoặt của cách mạng nước ta.
Đây là tổ chức chính trị quan trọng nhất của giai cấp công nhân và dân tộc Việt nam trong lịch sử hiện đại.
- Ban chấp hành lâm thời được cử ra gồm Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Châu
VănLiêm, Nguyễn Thiệu...
- Đến ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy
nhất được hoàn thành với việc Đông Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban chấp hành Trung ương họp hội nghị lần thứ nhất tại
Hương Cảng (Trung Quốc), quyết định “bỏ tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông
Dương cộng sản Đảng”.
- Bầu Ban chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng bí thư
2.1.2. Giai đoạn 1936-1939 -
Tháng 7-1936, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại Thượng Hải
(TrungQuốc), “sửa chữa những sai lầm” trước đó và “định lại chính sách mới” dựa theo
những nghị quyết của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản . Hội nghị cử Hà Huy Tập làm
Tổng bí thư (từ tháng 8 - 1936 đến tháng 3 - 1938) -
Tiếp theo BCH Trung ương họp các Hội nghị tháng 3 - 1937; tháng 9 - 1937; tháng
31938 để chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động nhằm tập hợp quần
chúng, xây dựng, phát triển Đảng và lực lượng cách mạng. Tại Hội nghị TƯ tháng 31938
quyết định lập mặt trận Dân chủ Đông dương. -
Tháng 3 – 1938 Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng bí thư (1938 – 1940) và đầu
năm1939 xuất bản cuốn sách Tự chỉ trích (Tự phê bình) để chỉ ra những sai lầm, khuyết
điểm của Đảng và nêu lên những bài học trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. -
Qua cuộc vận động Dân chủ, đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu
ngườiđược tập hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng.
Tổ chức Đảng được củng cố và phát triển. Đến tháng 4-1938, Đảng có 1.597 đảng viên
hoạt động bí mật và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số hội viên trong các tổ chức
quần chúng công nhân, nông dân, phụ nữ, học sinh, cứu tế là 35.009 người lOMoAR cPSD| 58562220
2.1.3. Giai đoạn 1939-1945
- Ngày 1- 9 - 1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới
vàViệt Nam. Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt
động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị.
- Ngày 29 -9-1939, Trung ương Đảng thông báo chỉ rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ
tiếnbước đến vấn đề dân tộc giải phóng”, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân bước vào
giai đoạn đấu tranh mới rất quyết liệt để giành chính quyền bởi Đảng ta hiểu sâu sắc rằng:
‘‘bằng cải cách không thể nào thay đổi một cách căn bản trật tự xã hội cũ’’.
- Ngày 17- 1- 1940 Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ bị bắt. Tháng 11 - 1939 Hội nghị cán
bộTrung ương họp và cử Trường Chinh làm quyền Tổng bí thư. Tại Hội nghị này Trung
ương Đảng vẫn còn trăn trở, chưa thật dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại Hội nghị tháng 11-1939.
- Tháng 5-1941, sau khi về nước Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấphành
Trung ương và chỉ rõ: “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt
Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính
là: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất” .
- Bầu Trường Chinh chính thức làm Tổng bí thư
- Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939,trở
thành ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng,
tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, tự do.
- Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, PhúcYên),
đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần chúng rộng rãi và đều khắp
nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa trong tương lai có thể nổ ra ở những trung
tâm đầu não của quân thù
- Ngày 12 - 3- 1945 Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta, xác định phát xít Nhật là kẻ thù chủ yếu của nhân dân ta và phát
động cao trào kháng Nhật cứu nước
- Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang), chỉ thị gấp rút chuẩn bị đạihội
quốc dân, thành lập “khu giải phóng”. Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được
thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái
Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận.
- Bước vào tháng 8 – 1945 tình thế cách mạng đã xuất hiện, ta đã làm chủ ở nhiều vùngrộng
lớn, các tầng lớp nhân dân đã sục sôi ý chí giành độc lập, Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng khởi
nghĩa giành chính quyền. Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh. lOMoAR cPSD| 58562220
- Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và 23 giờcùng
ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.
- Ngày 14 và 15-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, quyết định phátđộng
toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào nước ta.
- Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào (Tuyên Quang). Về dự đại hội
cókhoảng 60 đại biểu. Đại hội tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua
10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta nhất tề vùng dậy với ý chí dù hy sinh đến đâu,dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Ngày 19 8 -
1945 ta giành thắng lợi ở Hà nội; 23 - 8 ở Huế và 25 - 8 ở Sài Gòn, kết thúc thắng lợi
cuộc đấu tranh đầy gian khổ và hy sinh, đưa Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền sớm nhất ở Đông Á
2.2. Tổ chức các phong trào quần chúng
2.2.1. Phong trào cách mạng 1930 -1945 -
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với hệ thống tổ chức thống nhất và Cương lĩnh
chínhtrị đúng đắn, nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam đã “lãnh đạo
ngay một cuộc đấu tranh kịch liệt chống thực dân Pháp” -
Từ tháng 1 đến tháng 4-1930, bãi công của công nhân nổ ra liên tiếp ở nhà máy xi
măngHải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng, nhà
máy dệt Nam Định, nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy (8/1930)
Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái
Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh… Truyền đơn, cờ đỏ búa liềm xuất hiện trên các đường phố Hà
Nội và nhiều địa phương -
Ở vùng nông thôn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nổ ra nhiều cuộc biểu tình lớn
củanông dân với những hình thức ngày càng quyết liệt. Cuộc biểu tình của nông dân Hưng
Nguyên, ngày 12-9-1930, bị máy bay Pháp ném bom giết chết 171 người. Như lửa đổ thêm
dầu, phong trào cách mạng bùng lên dữ dội. -
Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở
nhiềunơi tan rã. Các tổ chức đảng lãnh đạo ban chấp hành nông hội ở thôn, xã đứng ra
quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông thôn, làm chức năng, nhiệm vụ một chính quyền
cách mạng dưới hình thức các uỷ ban tự quản theo kiểu Xô viết. lOMoAR cPSD| 58562220 -
Tuy bị đế quốc và tay sai dìm trong biển máu, nhưng cao trào cách mạng năm 1930
làbước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách
mạng Việt Nam. Nó đã “khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo
cách mạng của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta; Đó là bước thắng lợi đầu tiên có ý
nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng ’’ -
Cao trào cũng để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm
vụchiến lược phản đế và phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với
phong trào đấu tranh của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng
ở thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang v.v…” . -
Phong trào đã rèn luyện, sàng lọc, đào tạo được một lực lượng quần chúng kiên
trung,một đội ngũ cán bộ, Đảng viên kiên cường, hết sức trung thành với Đảng, gắn bó
máu thịt với nhân dân. Đây là nhân tố cơ bản để Đảng thực hiện thành công việc khôi phục
tổ chức Đảng và phong trào cách mạng giai đoạn 1932- 1935.
2.2.2. Phong trào dân chủ 1936 – 1939
- Nắm vững tình hình trong và ngoài nước lúc này, Đảng đã phát động phong trào đấutranh
mạnh mẽ đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình nhằm gây ảnh hưởng của Đảng trong quần
chúng, tập hợp và xây dựng lực lượng cách mạng. Đó là phong trào Dân chủ.
- Mở đầu bằng cuộc vận động lập “Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội” nhằm thu
thậpnguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc mít tinh, hội họp
để tập hợp “dân nguyện”, lập Ủy ban hành động. Riêng ở Nam Kỳ có 600 ủy ban hành động.
- Các báo của Đảng, Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra đời. Nhiều sách chính trị đượcxuất
bản để giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lênin và chính sách mới của Đảng. Cuốn Vấn đề dân
cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế
quốc và phong kiến đối với nông dân và làm rõ vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng.
- Tháng 7- 1936 Đảng quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế (đến tháng 3 –1938
đổi tên thành Mặt trận Dân chủ) để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước và dân chủ
đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.
- Theo sáng kiến của Đảng, Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ cuối năm 1937 phong
tràotruyền bá quốc ngữ phát triển mạnh.
- Các hình thức tổ chức quần chúng phát triển rộng rãi, bao gồm các hội tương tế, hội áihữu.
Trong những năm 1937-1938, Mặt trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận động tranh cử lOMoAR cPSD| 58562220
vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương.
- Qua cuộc vận động Dân chủ, đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người đượctập
hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức Đảng
được củng cố và phát triển. Đến tháng 4-1938, Đảng có 1.597 đảng viên hoạt động bí mật
và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số hội viên trong các tổ chức quần chúng 35.009 người.
- Đảng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới. Đó là kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lược:
giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt; về xây dựng một
mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị; về kết hợp các
hình thức tổ chức và đấu tranh; về phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất Đặc
biệt thực tiễn phong trào chỉ ra rằng: “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được
quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần chúng” .
- Phong trào Dân chủ 1936-1939 đã làm cho trận địa và lực lượng cách mạng được mởrộng
ở cả nông thôn và thành thị, thực sự là một bước chuẩn bị hết sức quan trọng cho thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám sau này. 2.2.3. Phong trào chống Pháp – Nhật, cứu quốc.
- Ngày 27-9-1940, khi quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút chạy đảng bộBắc
Sơn đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập.
- Ở Nam kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Xứ ủy Nam kỳđã
đề ra kế hoạch gấp rút khởi nghĩa vũ trang và 23- 11-1940 khởi nghĩa đã nổ ra quyết liệt,
chính quyền cách mạng được thành lập ở một số địa phương.
- Ngày 13-1-1941, cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng (huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) doĐội
Cung chỉ huy cũng đã nổ ra và đã làm chủ đồn .
- Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập đồngminh
(Việt Minh) ra đời”. Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng cứu nước của mọi
giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh phát triển rất mạnh.
- Nhiều tờ báo được xuất bản : Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, ViệtNam
độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập...
- Năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương văn hóa Việt Nam, xác định văn hóa cũng làmột
trận địa cách mạng, chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân
tộc, khoa học và đại chúng. lOMoAR cPSD| 58562220
- Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đầu năm 1945 đã xảy ra nạn đói nghiêm trọng. Đảng đãphát
động phong trào “phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói”. Tại nhiều địa phương, quần
chúng tự vũ trang, xung đột với binh lính và chính quyền Nhật, biến thành những cuộc
khởi nghĩa từng phần, giành quyền làm chủ. Bộ máy chính quyền Nhật nhiều nơi bị tê liệt.
- Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng chú trọng chuẩn bị lựclượng
vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
- Đội du kích Bắc Sơn được duy trì và phát triển thành Cứu quốc quân.
- Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp
tổchức ra đời ở Cao Bằng. Ngày 15-5-1945, hai tổ chức này hợp nhất thành Việt Nam
giải phóng quân. Các lực lượng bán vũ trang cũng được phát triển và bảy chiến khu được
xây dựng trong cả nước.
- Theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, ngày 4-6-1945, khu giải phóng gồm hầu hết các tỉnhCao
- Bắc - Lạng – Hà – Tuyên - Thái và một số vùng lân cận chính thức được thành lập và
trở thành căn cứ địa của cả nước. Ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập và thi
hành các chính sách của Việt Minh.
- Những chuyển biến của tình hình trong và ngoài nước lúc này đã dẫn đến xuất hiện thờicơ
cách mạng cho Việt Nam và nó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn (từ khi Nhật đầu hàng
Đồng minh, 15/8 đến cuối tháng 8, trước khi quân Đồng minh vào nước ta).
- Ba đặc trưng chủ yếu của thời cơ
+ Kẻ thù cách mạng đã suy yếu cực độ về lực lượng, hoang mang về tinh thần, rệu rã về tổ chức
+ Đa số quần chúng đã đi theo cách mạng
+ Đội tiên phong lãnh đạo cách mạng đã chuẩn bị đủ lực lượng và sẵn sàng lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền.
- Hội nghị toàn quốc của Đảng ( từ 14 – 15/8/1945) đã chỉ rõ phải kịp thời khởi nghĩagiành
chính quyền vì ‘‘Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại
địa vị cũ ở Đông Dương’’.
- Với gần 5000 Đảng viên, Đảng ta đã kịp thời lãnh đạo toàn dân đứng lên khởi nghĩagiành
chính quyền trong cả nước bằng lực lượng chính trị là chủ yếu. Chỉ trong vòng 15 ngày
cách mạng tháng 8 – 1945 đã toàn thắng; ách thống trị của bọn đế quốc, thực dân, phong
kiến bị đánh đổ; độc lập, chủ quyền quốc gia được khôi phục; Đảng ta trở thành Đảng
cầm quyền; nhân dân ta trở thành người chủ đất nước; lịch sử dân tộc đã bước sang thời kỳ mới đầy tự hào.