







Preview text:
Giao dịch dân sự là gì? Đặc điểm, phân loại, ví dụ giao dịch dân sự? Trả lời:
1. Khái niệm giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Giao dịch dân sự thực chất
là một loại sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý gồm hợp đồng hoặc hành vi pháp lý
đơn phương. Việc các chủ thể xác lập hợp đồng nhằm hướng tới làm phát
sinh các hậu quả pháp lý nhất định.
Hợp đồng có sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của hai hay nhiều chủ thể làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự như họp đồng mua
bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản... Trong số các loại giao dịch dân sự, hợp
đồng là loại giao dịch phổ biến nhất.
Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 dành riêng Mục 7 để quy định về họp
đồng với các hợp đồng thông dụng gồm: hợp đồng mua bán tài sản, hợp
đồng trao đổi tài sản, hợp đồng vay tài sản, họp đồng tặng cho tài sản, hợp
đồng thuê tài sản, hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận
chuyển, họp đồng gia công, hợp đồng gửi giữ, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng
hợp tác và hợp đồng về quyền sử dụng đất. Khi các chủ thể giao kết hợp
đồng với nhau thì quyền và nghĩa vụ được xác lập cho các bên chủ thể. Tùy
theo từng loại hợp đồng cụ thể mà các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
được xác lập tương ứng.
Ví dụ: Hai bên chủ thể xác lập hợp đồng thuê nhà ở thì bên cho thuê có
quyền thu tiền thuê nhà, có nghĩa vụ giao nhà cho bên thuê sử dụng. Còn bên
thuê cỏ quyền sử dụng căn nhà, có nghĩa vụ trả tiền thuê theo thỏa thuận.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch chỉ thể hiện ý chí của một bên chủ
thể nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền nghĩa vụ như lập di chúc,
hứa thưởng, thi có giải... Hành vi lập di chúc là ý chí của người lập di chúc
trong việc đinh đoạt tài sản của họ sau khi chết. Hứa thưởng là hành vi của
bên hứa thưởng nhằm trao cho chủ thể khác một lợi ích vật chất nếu chủ thể
đó thực hiện được công việc hứa thưởng do bên hứa thưởng đưa ra.
Khi các chủ thể xác lập giao dịch dân sự đều hướng tới mục đích nhất định.
Mục đích là những lợi ích chính đáng mà các bên mong muốn đạt được khi
xác lập giao dịch. Chủ thể của giao dịch chỉ đạt được mục đích khi các bên
trong giao dịch thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận và
theo quy định của luật. Khi xác lập giao dịch, các bên chủ thể đều mong
muốn đạt được mục đích mà họ đã đặt ra. Tuy nhiên, không phải trong mọi
trường hợp các chủ thể đều đạt được mục đích mà họ đã đề ra. Có một số
nguyên nhân sau đây khiến chủ thể không đạt được mục đích khi xác lập
giao dịch: Một là, giao dịch dân sự không phát sinh hiệu lực.
Ví dụ: A bán cho B sừng tê giác thì B không được quyền xác lập sở hữu đối
với sừng tê giác vì đây là tài sản không được phép mua bán; Hai là, các bên
chủ thể trong giao dịch không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong giao dịch. Ví dụ:
A thỏa thuận cho B thuê nhà nhưng sau đó A không giao nhà cho B theo
đúng thỏa thuận. Trường họp này mục đích của B không đạt được và A phải
chịu trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ trong giao dịch.
Trong số các căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể trong
xã hội, giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng. Giao dịch dân sự là
công cụ pháp lý quan trọng để các bên thực hiện việc trao đổi lợi ích, dịch
chuyển tài sản và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của tất cả các thành viên trong xã hội. Thông qua giao dịch dân sự, các chủ
thể đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác
trong đời sống hàng ngày của mình.
Nên chính vì thế, Điều 116 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về giao dịch
dân sự như sau: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn
phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định
nghĩa này được xây dựng theo hướng liệt kê, theo đó giao dịch dân sự là họp
đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương.
Sau khi giao dịch dân sự được xác lập và có hiệu lực, các chủ thể trong giao
dịch cần thực hiện theo những nội dung đã thống nhất và được ghi nhận. Một
trong những yêu cầu trong quá trình thỏa thuận và soạn thảo giao dịch dân
sự là nội dung cần rõ ràng, được hiểu thống nhất. Tuy nhiên, trong quá trình
xác lập, thực hiện giao dịch do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc thể
hiện ý chí của chủ thể không được rõ ràng, chính xác. Bởi vậy, hoạt động giải
thích giao dịch dân sự được đặt ra. Hoạt động giải thích giao dịch là công cụ
xác định rõ ý chí của các bên trong trường hợp giao dịch còn có những nội
dung không rõ ràng, khó hiểu hoặc được hiểu theo nhiều nghĩa. Hoạt động
giải thích giao dịch dân sự sẽ giúp các bên làm rõ những nội dung còn chưa
có cách hiểu chung, giải quyết những nội dung còn tồn tại sự bất đồng.
Chủ thể giải thích giao dịch dân sự trước hết chính là các bên trong giao dịch.
Họ là những chủ thể nắm bắt rõ nhất nội dung của giao dịch. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, các chủ thể trong giao dịch không thống nhất được cách
hiểu đối với nội dung cần giải thích mà có yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa
là chủ thể có quyền giải thích giao dịch dân sự.
2. Đặc điểm của giao dịch dân sự
- Là sự kiện pháp lý thuộc hành vi pháp lý, luôn thể hiện ý chí tự nguyện của
chủ thể tham gia (ít nhất thể hiện ý chí trước của 1 bên hoặc cả hai bên).
- Là loại sự kiện pháp lý phổ biến nhất và quan trọng nhất làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Giao dịch dân sự dù là hợp đồng hay hành vi pháp lý đơn phương đều có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, giao dịch dân sự luôn thể hiện ý chí của chủ thể trong giao dịch.
Giao dịch dân sự là hợp đồng hay hành vi pháp lý đơn phương thì đều là
hành vi có ý thức của chủ thể tham gia nhằm đạt được những mục đích nhất
định. Trường hợp giao dịch dân sự là hợp đồng thì đó là sự thể hiện và thống
nhất ý chí của từ các bên chủ thể. Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn
phương thì đó là sự thể hiện ý chí của một bên chủ thể. Nội dung của giao
dịch phải nhằm truyền tải những suy nghĩ bên trong của mỗi chủ thể. Ý chí là
những suy nghĩ bên trong của mỗi chủ thể nên để xác lập giao dịch thì ý chỉ
cần phải được thể hiện ra bên ngoài dưới hình thức nhất định. Do đó, giao
dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên
ngoài của chủ thể. Thiếu sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, giao dịch
dân sự có thể bị vô hiệu. Có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến ý chí và sự
bày tỏ ý chí của chủ thể không thống nhất như trường hợp chủ thể bị nhầm
lẫn, bị lừa dối hay cưỡng ép trong việc xác lập giao dịch. Ví dụ: A muốn mua
một chiếc bình cổ nhưng do bị người bán lừa dối nên chiếc bình A mua là bình giả cổ.
Thứ hai, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự đều hướng đến phát sinh,
thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự cho các chủ thể. Giao dịch
dân sự là hành vi của một hay nhiều chủ thể nhằm hướng tới việc làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Như vậy, hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự gồm:
+ Một là, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự: đây là trường hợp giao
dịch dân sự làm xác lập quyên và nghĩa vụ cho các bên chủ thể trong giao dịch.
Ví dụ: A thỏa thuận bán cho B căn hộ chung cư. Giao dịch dân sự giữa A và
B có hậu quả pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa A và B. Trong đó,
A có quyền nhận tiền bán căn hộ, có nghĩa vụ chuyển giao căn hộ và chuyển
quyền sở hữu cho B. Còn B có quyền được nhận chuyển giao và sở hữu căn
hộ, có nghĩa vụ trả tiền mua bán cho A.
+ Hai là, làm thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự: đây là trường hợp giữa các
bên chủ trong giao dịch dân sự đã tồn tại quyền và nghĩa vụ với nhau nhưng
các bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung qua đó làm thay đổi quyền và nghĩa
vụ của mình cũng như của bên kia; Ba là, làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự: đây là trường hợp giữa các bên chủ trong giao dịch dân sự đã tồn tại
quyền và nghĩa vụ với nhau. Sau đó, các bên chủ thể xác lập giao dịch để
làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đang tồn tại giữa các bên.
Một giao dịch dân sự được xác lập có thể làm phát sinh một hoặc nhiều hậu
quả pháp lý. Điều này phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên chủ thể trong
giao dịch. Như vậy, giao dịch dân sự có hai đặc điểm chính: (i) giao dịch dân
sự phải là sự thể hiện ý chí của chủ thể tham gia và (i ) sự thể hiện ý chí phải
nhằm đạt được một hậu quả pháp lý nhất định.
3. Các loại giao dịch dân sự
Có 2 loại giao dịch dân sự:
- Hành vi pháp lý đơn phương: là giao dịch thể hiện ý chí của một bên chủ thể
nhằm phát sinh quan hệ dân sự mà không cần ý chí của các chủ thể khác.
Hành vi pháp lý đơn phương có thể do một hoặc nhiều chủ thể ở cùng một
bên bày tỏ ý chí. Ví dụ: Lập di chúc chung.
Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả
pháp lý khi có điều kiện do chủ thể bày tỏ ý chí đặt ra, phía bên kia phải đáp
ứng mới làm phát sinh nghĩa vụ của bên bày tỏ ý chí đơn phương. Ví dụ: phát
sinh nghĩa vụ trả lương.
- Hợp đồng dân sự: là giao dịch thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay
nhiều bên chủ thể ở hai phía của giao dịch, làm phát sinh, thay đổi . chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ: hợp đồng mua bán xe đạp.
=> Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hay hợp đồng đều có thể
là giao dịch có điều kiện.
4. Căn cứ giải thích ý nghĩa của giao dịch dân sự
Khi giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đỏ được thực hiện
theo thứ tự sau đây: 1. Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
2. Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch; và 3. Theo tập quán nơi
giao dịch được xác lập.
Giải thích giao dịch dân sự theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập
giao dịch. Căn cứ giải thích này dựa trên ý chí của các bên chủ thể trong
giao dịch. Đây là căn cứ được áp dụng trước tiên khi tiến hành giải thích giao
dịch. Điều này hoàn toàn phù hợp bởi chính các chủ thể ừong giao dịch là
người thỏa thuận xây dựng nội dung của giao dịch nên khi có nội dung cần
giải thích thì trước hết phải căn cứ vào chính ý chí của họ. Hơn bất kỳ chủ thể
nào khác, chủ thể trực tiếp tham gia giao dịch dân sự mới biết được suy nghĩ,
mong muốn, nhu cầu đích thực của mình là gì. Căn cứ giải thích giao dịch
dân sự theo ý chí đích thực của chủ thể trong giao dịch được áp dụng đối với
cả trường hợp giải thích hợp đồng và giải thích hành vi pháp lý đơn phương
nhưng với cách thức khác nhau: trường họp giao dịch dân sự là hợp đồng thì
việc giải thích hợp đồng phải theo ý chí của các bên chủ thể giao kết hợp
đồng; còn đối với hành vi pháp lý đơn phương như việc lập di chúc thì việc
giải thích trước hết căn cứ vào ý chí của chủ thể xác lập hành vi pháp lý đơn phương.
Giải thích giao dịch dân sự theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao
dịch. Mục đích của giao dịch là lợi ích hợp pháp mà các bên chủ thể hướng
tới khi xác lập giao dịch. Trong quá trình giao kết giao dịch dân sự các bên
phải thể hiện rõ mục đích của mình. Khi giao dịch dân sự có những ngôn từ,
nội dung không rõ ràng, mục đích giao dịch sẽ là công cụ được sử dụng để
giải thích giao dịch. Tuy nhiên, căn cứ này chỉ được áp dụng khi không thể
giải thích được giao dịch dân sự theo ý chí của các bên chủ thể trong giao
dịch do các bên có các cách hiểu khác nhau và không thống nhất được.
Giải thích giao dịch dân sự theo tập quán nơi giao dịch được xác
lập. Tập quán là thói quen sính hoạt tồn tại từ nhiều thế hệ và được thừa
nhận ở mỗi địa phương, trong từng lĩnh vực sản xuất hoặc giữa những người
cùng ngành nghề. Căn cứ giải thích giao dịch dân sự theo tập quán chỉ được
áp dụng khi không thể giải thích được giao dịch dân sự theo ý chí và theo
mục đích của giao dịch. Ngoài ra, để giải thích được giao dịch dân sự theo
tập quán thì tại nơi xác lập giao dịch phải có tập quán tương thích để giải
thích nội dung giao dịch còn vướng mắc. Tập quán áp dụng để giải thích hợp
đồng không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái nguyên tắc
chung của pháp luật và đạo đức xã hội.
Bên cạnh quy định chung về giải thích giao dịch dân sự, khoản 2 Điều 121 Bộ
luật Dân sự năm 2015 còn có quy định: “Việc giải thích hợp đồng được thực
hiện theo quy định tại Điều 404 của Bộ luật này; việc giải thích nội dung di
chúc được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật này"
Đối với việc giải thích hợp đồng, Điều 404 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định riêng như sau:
Một là, khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều
khoản đó không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đông mà còn phải căn cứ vào ý
chí của các bên được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời điểm xác
lập, thực hiện hợp đồng. Căn cứ vào ý chí của chủ thể của hợp đồng cũng là
căn cứ chung được ghi nhận để giải thích các giao dịch dân sự.
Hai là, khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với mục đích, tính chất của họp đồng.
Ba là, khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải
thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng. Đây cũng là căn cứ được
áp dụng cho giải thích các giao dịch dân sự nói chung.
Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với
nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung
hợp đồng. Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với
ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để
giải thích hợp đồng. Trường họp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung
bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia.
Đối với việc giải thích nội dung di chúc được thực hiện theo quy định tại Điều
648 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, trường hợp nội dung di chúc không
rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di
chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực
trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với
người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu
nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường họp có một
phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến
các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực.
5. Các nguyên tắc khi áp dụng giải thích giao dịch dân sự
Một là, thứ tự ưu tiên khi áp dụng giải thích
Trong trường hợp giao dịch dân sự cần giải thích thì thứ tự ưu tiên áp dụng
như khoản 1 Điều 138 Dự thảo BLDS. Giao dịch dân sự là quan hệ pháp luật
có tính chất dân sự. Do đó ý chí tự nguyện được coi là yếu tố quan trọng nhất
của một giao dịch. Khi thỏa thuận, các bên được cho là đã có ý chí cùng
hướng về một mục đích. Chính vì thế, khi giải thích giao dịch dân sự thì yếu
tố đầu tiên cần được xem xét đến là ý chí thực sự của các bên khi thiết lập
giao dịch. Ngay cả khi ý chí chung của các bên không thống nhất với sự thể
hiện trong giao dịch dân sự thì luật vẫn cho phép sử dụng ý chí chung thật sự
của các bên để giải thích. Ý chí này được thể hiện thông qua hành vi của các
bên từ thời điểm tiền giao dịch, trong bản thân giao dịch, đến thời gian thực
hiện giao dịch dân sự. Mọi hành vi của các chủ thể có liên quan đến giao dịch
dân sự có thể dùng làm chứng cứ để chứng minh cho ý chí của mình trong
giao dịch dân sự. Các yếu tố đó có thể là các tình tiết liên quan đến việc đàm
phán giữa các bên, thói quen đã được thiết lập giữa các bên, bản chất và
mục đích của giao dịch…
Tương tự, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng ý chí thực của các bên mà Bộ
quy tắc UNIDROIT 2004 quy định các hợp đồng cần được giải thích sao cho
tất cả đều tạo ra hiệu lực hơn là theo cách làm cho một vài điều khoản không
có hiệu lực. BLDS Pháp quy định: Khi giải thích hợp đồng, không chỉ dựa vào
ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên giao kết (Điều 1156).
Khi không thể khám phá được ý chí thực sự của các chủ thể thì cần dựa vào
các quy phạm được chứa đựng trong các nguồn pháp luật điều chỉnh giao
dịch dân sự. Điều này không thể ứng dụng thay các quy định của nguyên tắc
áp dụng pháp luật điều chỉnh giao dịch dân sự. Khi có sự không rõ ràng của
ngôn từ hay các điều khoản thì có thể sử dụng đến các quy định có sẵn của
luật, hay tập quán. Quy định về thứ tự áp dụng của các nguồn pháp luật tức
là nói đến việc đã có hay không có một thỏa thuận. Còn khi nói đến giải thích
giao dịch dân sự tức là cần phải hiểu ngôn từ hay điều khoản đó như thế nào?
Việc hiểu này mới đòi hỏi phát sinh những quy định về quyền và nghĩa vụ của
các bên, được chứa đựng trong các nguồn pháp luật đã định sẵn, hoặc các
định nghĩa ngôn từ mà luật định sẵn. Do đó hai việc làm này mang lại hậu
quả pháp lý giống nhau nhưng đối tượng điều chỉnh thì khác nhau.
Hai là, trường hợp không thể áp dụng theo quy định của luật
Việc xác định thứ tự ưu tiên khi áp dụng tại Điều 138 Dự thảo BLDS có thể đã
là một sự hợp lý hơn so với BLDS năm 2005 và BLDS Pháp. Song nó còn
một vướng mắc nhỏ mà chúng tôi muốn đề cập đến: Khoản 4 Điều 138 Dự
thảo quy định: “4. Trong trường hợp không thể áp dụng quy định tại các
khoản 1, 2 và 3 Điều này thì giao dịch dân sự được giải thích theo lẽ công
bằng và hợp lý”.
Lẽ công bằng và sự hợp lý luôn là một nguyên tắc bao trùm mọi hành xử của
con người. Như vậy, trong khi thực hành đời sống hoặc áp dụng pháp luật, lẽ
ra nó phải chứa đựng yêu cầu trên. Việc thiết lập thứ tự ưu tiên áp dụng giải
thích pháp luật tại Điều 138 Dự thảo BLDS vô tình đặt ba nguyên tắc đầu
nằm ngoài yêu cầu về lẽ công bằng. Tất nhiên nó sẽ kéo đổ hàng loạt các
nguyên tắc khác của giao dịch dân sự, như tôn trọng, bảo đảm quyền dân sự;
bình đẳng; thiện chí; tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Và
theo chúng tôi, cần áp dụng giải thích ở tất cả các thứ tự trên trong thái độ coi
trọng lẽ công bằng và sự hợp lý, đương nhiên điều đó sẽ không dẫn đến sự
bế tắc trong giao dịch. Ngược lại, một giao dịch không đạt yêu cầu về lẽ công
bằng nó đã lập tức trái với nguyên tắc có hiệu lực của một giao dịch dân sự,
đương nhiên nó vô hiệu.
Document Outline
- Giao dịch dân sự là gì? Đặc điểm, phân loại, ví dụ
- 1. Khái niệm giao dịch dân sự
- 2. Đặc điểm của giao dịch dân sự
- 3. Các loại giao dịch dân sự
- 4. Căn cứ giải thích ý nghĩa của giao dịch dân sự
- 5. Các nguyên tắc khi áp dụng giải thích giao dịch