Giáo dục học - tin học đại cương | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Giáo dục học - tin học đại cương | Đại học Sư Phạm Việt Nam với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

1. Vai trò của yếu tố môi trường đến sự phát triển nhân cách
- Khái niệm nhân cách:
- Những phẩm chất và năng lực có giá trọ đối với cá nhân và xã hội được hình thành và phát triển qua hoạt động và giao
lưu mà cá nhân tham gia.
- Mỗi nhân một nhân cách riêng, bao gồm hai mặt: mặt tự nhiên mặt hội, trong đó mặt hội ý nghĩa
quan trọng đặc biệt, thể hiện đặc thù về nhân cách của mỗi con người.
- Nhân cáchtổ hợp những phẩm chất, năng lực không nhất thành bất biến thường xuyên vận động, biến đối theo
chuẩn mực, giá trị xã hội. Vì vậy, mọi cá nhân không chỉ phải thường xuyên giữ gìn, bảo vệ mà còn phải rèn luyện, bồi
dưỡng để nhân cách ngày càng hoàn thiện hơn.
- Khái niệm sự phát triển nhân cách
+ Khái niệm: Sự phát triển nhân cách là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh
thần ở trẻ diễn ra theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể có ý
thức trong xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách được thể hiện trên cả 3 phương diện như: Sự phát triển thể chất, sự phát triển về tâm lý và sự
phát triển về phương diện xã hội
+ Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách: Di truyền bẩm sinh môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Khái niệm môi trường:
+ Môi trường là: toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiệu hữu ảnh hưởng lớn lao đến đời sống và nhân cách con người.
Môi trường bao quanh con người gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên gồm khí hậu,
đất nước, sinh thái môi trườnghội, đó là các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa… Hoàn cảnh được hiểu
một yếu tố hoặc một môi trường nhỏ hợp thành của môi trường lớn, môi trường nhỏ tác động trực tiếp, mạnh mẽ,
quyết liệt trong một thời gian, không gian nhất định tạo nên hướng hình thành và phát triển nhân cách.
+ Phân loại:
Môi trường tự nhiên: khí hậu, đất, nước, hệ sinh thái
Môi trường xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa,…
- Vai trò của yếu tố môi trường
+ Tác động của môi trường đối với sự phát triển của cá nhân vô cùng mạnh mẽ, phức tạp, có thể cùng chiều hay ngược
chiều, có thể tốt hoặc xấu, chủ yếu theo con đường tự phát. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của môi trường bị “khúc
xạ” bởi yếu yếu tố giáo dục, bởi trình độ nhận thức, niềm tin, quan điểm, ý chí, xu hướng và năng lực của cá nhân.
Vì vậy C Mác đã khẳng định: “Hoàn cảnh sáng tạo ra con người, trong một mức độ con người lại sáng tạo ra hoàn
cảnh”
+ Như vậy trong sự tác động qua lại giữa nhân cách và môi trường cần chú ý đến hai mặt của vấn đề:
Thứ nhất, tính chất tác động của môi trường, hoàn cảnh vào quá trình phát triển nhân cách
Thứ hai là tính tích cực của nhân cách tác động vào môi trường, hoàn cảnh nhằm điều chỉnh, cải tạo nó phục vụ nhu cầu,
lợi ích của mình.
+ Có thể khẳng định ảnh hưởng to lớn của yếu tố môi trường đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên
nếu tuyệt đối hóa vai trò của môi trường là phủ nhận vai trò ý thức, sáng tạo của chủ thể, đó là sai lầm về nhận thức
luận. Ngược lại, việc hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của yếu tố môi trường cũng phạm sai lầm của thuyết “Giáo dục
vạn năng”. Do đó phải đặt quá trình giáo dục, quá trình hình thành và phát triển nhân cách trong mối quan hệ tương
tác giữa các yếu tố để có thể đánh giá đúng đắn.
- người có hoàn cảnh sống khó khăn nhưng người ta vẫn vươn lên hoàn cảnh ấy để có thể trở thành nhữngVí dụ:
nhân cách hoàn thiện hơn
- : Kết luận sư phạm
Trong quá trình giáo dục con người, cần chú ý:
1
- Gắn giáo dục, học tập với thực tiễn sáng tạo xã hội.
- Hình thành ở học sinh những định hướng giá trị đúng đắn.
- Xây dựng cho học sinh bản lĩnh vững vàng trước ảnh hưởng của môi trường.
- Tạo điều kiện cho học sinh tham gia cải tạo xây dựng môi trường theo yêu cầu của xã hội.
- Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cần đánh giá đúng mức vai trò của môi trường :
+ tránh tuyệt đối hoá vai trò của hoàn cảnh - hạ thấp vai trò của giáo dục;
+ ngược lại phủ nhận tính qui định của xã hội đối với sự hình thành và phát triển nhân cách).
Phải xem môi trường là yếu tố quyết định gián tiếp.
Không phủ nhận nhưng cũng không tuyệt đối hóa vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách. Tạo 1 môi
trường thuận lợi cho học sinh. Cải biến môi trường giáo dục cho học sinh
2. Vai trò của yếu tố di truyền bẩm sinh đến sự phát triển nhân cách
- Khái niệm sự phát triển nhân cách
+ Khái niệm: Sự phát triển nhân cách là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh
thần ở trẻ diễn ra theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể
có ý thức trong xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách được thể hiện trên cả 3 phương diện như: Sự phát triển thể chất, sự phát triển về tâm lý và sự
phát triển về phương diện xã hội
+ Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách: Di truyền bẩm sinh môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Di truyềnsự truyền lại từ thế hệ trước cho thế hệ sau những đặc điểm cấu trúcKhái niệm di truyền bẩm sinh:
giải phẫu của thể; về đặc điểm sinh học riêng nhưng: màu da, màu tóc, vóc dáng, thể trạng, các chất của hệ
thần kinh,…trước hết nói đảm bảo cho loài người tồn tại, thích ứng với những biến đổi của các điều kiện sinh tồn và
sau đó giúp loài người phát triển. Di truyền những đặc điểm sinh học của cha mẹ truyền lại cho con cái không phải
chỉ biểu hiện một cách hiện hữu khi đứa trẻ mới sinh mà có thể có những mầm mống, tư chất sau một thời gian mới
bộc lộ thành dấu hiệu của một số năng khiếu như: Hội họa, thơ ca, toán học…hoặc thiểu năng trong những vực cần
thiết trong cuộc sống. Bẩm sinh là những thuộc tính, đặc điểm sinh học có ngay khi đứa trẻ mới sinh.
- Vai trò của yếu tố di truyền bẩm sinh:
+ Di truyền bẩm sinh chỉ là tiền đề vật chất (mầm mống) của sự phát triển tâm lí, nhân cách. Di truyền bẩm sinh nói lên
chiều hướng, tốc độ, nhịp độ của sự phát triển. Những đứa trẻ có gen di truyền về một lĩnh vực hoạt động nào đó sẽ
sớm bộc lộ thiên hướng về lĩnh vực hoạt động đó. Tuy nhiên, di truyền bẩm sinh không phải yếu tố quyết định tương
lai của nhân cách đó. Nói cách khác, đứa trẻ muốn trở thành một tài năng cần phảimôi trường thuận lợi, những
tác động giáo dục đúng hướng và hoạt động tích cực của cá nhân. Mã di truyền mang bản chất, sự sống tự nhiên tích
cực hoặc tiêu cực là những mầm mống, tư chất tạo tiên đề vô cùng thuận lợi cho người đó hoạt động có kết quả trong
một lĩnh vực nào đó
- Trong thực tiễn đời sống, chúng ta dễ nhận thấy rằng người Châu Âu da trắng, mắt xanh, người Châu Phi dadụ:
đen tóc xoăn thì con cái của họ khi mới sinh cũng bố mẹ. Đây sự truyền lại từ thế hệ cha mẹ đến con cái những
đặc trưng sinh học nhất định của nòi giống, được ghi lại trong một chương trình độc đáo được gọi là gen. Gen là vật
mang di truyền những đặc điểm sinh học của giống loài trong quá trình tồn tại, phát triển theo con đường sinh
học của giống loài trong quá trình tồn tại, phát triển theo con đường tiến hóa tự nhiên.
- Kết luận sư phạm: Không phủ nhận nhưng cũng không tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố di truyền và bẩm sinh đối với
sự phát triển nhân cách.
3. Vai trò của yếu tố hoạt động tích cực của cá nhân sự phát triển nhân cách
- Khái niệm sự phát triển nhân cách
2
+ Khái niệm: Sự phát triển nhân cách là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh
thần ở trẻ diễn ra theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể
có ý thức trong xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách được thể hiện trên cả 3 phương diện như: Sự phát triển thể chất, sự phát triển về tâm lý và sự
phát triển về phương diện xã hội
+ Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách: Di truyền bẩm sinh môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Yếu tố hoạt động tích cực của cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở, là nhân tố quyết định trực tiếp sự
phát triển nhân cách. Hoạt động của cá nhân xuất phát từ mục đích và nhu cầu của cá nhân, nhu cầu luôn thúc đẩy cá
nhân hoạt động và ngược lại hoạt động lại là cơ sở, là điều kiện để nảy sinh nhu cầu.
- Hoạt động quá trình con người thực hiện mối quan hệ với tự nhiên, với hội, với người khác bản thân.
Thông qua hoạt động, con người chuyển hóa năng lực, phẩm chất tâm lí của bản thân thành sản phẩm thực tế, ngược
lại những sản phẩm thực tế đó làm phong phú, hoàn thiện them vốn liếng tinh thần của chủ thể.
- Thông qua hoạt động con người tiếp thu nền văn hóa xã hộibiến nền văn hóa của loài người thành vốn riêng
của mình, vận dụng chúng vào cuộc sống, làm cho nhân cách ngày càng phát triển. Hoạt động giúp cho cá nhân hiện
thực hóa khả năng về tố chất thành hiện thực, đồng thời nó nguồn quan trọng nhất cung cấp cho cá nhân những
kinh nghiệm hội. Thông qua hoạt động con người thể cải tạo những nét tâm nét nhân cách đang bị suy
thoái, hoàn thiện chúng theo chuẩn mực đạo đức của xã hội. Mỗi con người là sản phẩm hoạt động của chính mình,
đó chính là con đường để thành đạt, để vươn tới lí tưởng.
- Nhiệm vụ vô cùng quan trọng của giáo dục là phải giúp người học được giáo dục thông qua hoạt động. Từ đó biến
quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục để hoàn thiện nhân cách của mình phải sống trong những môi
trường, hoàn cảnh phức tạp
- Hoạt động của nhân có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành phát triển nhân cách. Muốn phát
huy vai trò của hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, nhà giáo dục cần:
- Nhà giáo dục phải am hiểu hoạt động chủ đạo của từng giai đoạn lứa tuổi từ đó xây dựng những chương trình hoạt
động cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh
- Tổ chức học sinh tham gia các hoạt động đa dạng về nội dung, phương pháp, hình thức, coi hoạt động là phương
tiện giáo dục cơ bản
- Kết luận sư phạm: Không phủ nhận nhưng cũng không tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố hoạt động tích cực của
nhân đối với sự phát triển nhân cách.
4. Vai trò của yếu tố giáo dục đến sự phát triển nhân cách
- Khái niệm sự phát triển nhân cách
+ Khái niệm: Sự phát triển nhân cách là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh
thần ở trẻ diễn ra theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể
có ý thức trong xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách được thể hiện trên cả 3 phương diện như: Sự phát triển thể chất, sự phát triển về tâm lý và sự
phát triển về phương diện xã hội
+ Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách: Di truyền bẩm sinh môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Khái niệm giáo dục: là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục) và đối tượng (người
được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội. Đây là quá trình tác động tự
giác có mục đích, có nội dung, phương pháp, phương tiện…được lựa chọn, tổ chức một cách khoa học giúp cho mọi
cá nhân chiếm lĩnh được những kinh nghiệm, những giá trị xã hội của nhân loại bằng con đường ngắn nhất => hình
thành và phát triển nhân cách theo yêu cầu xã hội.
- Vai trò của yếu tố giáo dục đến sự phát triển nhân cách:
+ Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển nhân cách của cá nhân
+ Xác định mục đích giáo dục cho cả hệ thống, cho từng bậc học, cấp học, trường học và từng hoạt động giáo dục cụ thể.
3
+ Xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức giáo
dục đáp ứng mục đích giáo dục, phù hợp với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể.
+ Tổ chức các hoạt động giao lưu.
+ Đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục…
+ Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu
cầu phát triển của tương lai để đẩy sự tiến bộ của xã hội. Vì vậy, giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Muốn
đi trước, đón đầu sự phát triển, giáo dục căn cứ trên những dự báo về tốc độ phát triển của xã hội, thiết kế nên
hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng.
+ Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách
+ Giáo dục tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm
sinh, di truyền tạo ra.
- Ví dụ: có những phương pháp dạy học riêng đối với những em học sinh bị khiếm khuyết…
- Kết luận sư phạm: không phủ nhận nhưng cũng không tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân
cách. Giáo dục cần tích cực góp phần cải tạo môi trường sống (gia đình, nhà trường, xã hội) làm chongày càng
lành mạnh, văn minh, thống nhất tác động của các lực lượng giáo dục theo mục tiêu chung phát triển nhân cách.
Đồng thời, giáo dục phảt phát hiện phát triển những tiềm năng bên trong mỗi người học (bẩm sinh, di truyền,
năng khiếu, tố chất) biến chúng trở thành hiện thực. Đặc biệt tránh tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, coi “giáo dục
là vạn năng”.
5. Bản chất của quá trình dạy học theo quan điểm nhận thức luận
- Khái niệm QTDH: quá trình hoạt động mục đích, tổ chức của giáo viênhọc sinh hình thành những quan
điểm, niểm tin, giá trị, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị, đạo đức, pháp
luật, thẩm mỹ, văn hóa, làm phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội.
- Bản chất QTDH: Bản chất của QTGD là quá trình tổ chức các hoạt động và giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho
người được giáo dục tự giác, tích cực, độc lập chuyển hóa những yêu cầu và chuẩn mực của xã hội thành hành vi và
thói quen tương ứng. QTGD là quá trình hình thành bản chất người – xã hội trong mỗi cá nhân một cách có ý thức,
là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các lực lượng bản chất xã hội của con người, được biểu hiện ở
toàn bộ các quan hệ xã hội của họ. Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống của mỗi cá nhân hoặc nhóm,
tầng lớp xã hội theo những chuẩn mực, các yêu cầu của sự phát triển xã hội, làm cho cá nhân biết sống phù hợp với
các chuẩn mực của xã hội. QTGD vừa mang bản chất của hoạt động vừa mang bản chất của giao lưu.
- So sánh QTNT của HS với QTNT của các nhà khoa học (đại diện cho quá trình nhận thức chung của loài người).
+ Giống nhau: đều là quá trình phản ánh thế giới khách quan và diễn ra theo con đường nhận thức mà Lênin đã chỉ ra,
đều làm cho vốn hiểu biết của chủ thể được phong phú hoàn thiện thêm
+ Khác nhau:
o Nhà Khoa học nhận thức, tìm ra cái mới với loài người , HS nhận thức cái mới đối với bản thân HS.
o con đường nhận thức: nhà khoa học mò mẫm, thử sai, gian nan, khó khăn; HS: con đường “khám phá lại”
o QTNT của nhà KH ko có khâu củng cố, rèn luyện kN,kx còn qtnt của hs phải có khâu này.
o qtnt của hs phải đảm bảo tính GD còn nhà KH thì không.
- Kết luận sư phạm: là một người giáo viên, chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học ntn?
6. Động lực của quá trình dạy học
- Khái niệm: Động lực của quá trình dạy học là việc phát hiện và giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn diễn ra trong
QTDH (bao gồm cả mâu thuẫn bên trong và bên ngoài)
- Mt bên trong và mt bên ngoài của qtdt:
4
+ Mâu thuẫn bên trong: là mâu thuẫn diễn ra giữa các thành tố của QTDH hoặc bên trong bản thân mỗi thành tố. Chẳng
hạn ND >< ND, HĐD>< HĐH…
+ Mâu thuẫn bên ngoài: là mâu thuẫn diễn ra giữa các thành tố trong QTDH với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, văn
hóa, xã hội, …
+ Mâu thuẫn bản: mâu thuẫn tồn tại suốt từ đầu đến cuối quá trình, việc giải quyết các mâu thuẫn khác xét cho
cùng đều phục vụ cho việc giải quyết nó. Mâu thuẫn bản của quá trình dạy học: mâu thuẫn giữa một bên
nhiệm vụ học tập do tiến trình dạy học đề ra một bên là trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trình độ phát triển
hiện có của người học. Các điều kiện để mâu thuẫn cơ bản của QTDH => mâu thuẫn của QT lĩnh hội tri thức, cần 3
điều kiện:
· Mâu thuẫn phải được người học ý thức đầy đủ và sâu sắc
· Mâu thuẫn phải vừa sức với người học
· Mâu thuẫn xảy ra do tiến trình dạy học mang lại.
- Kết luận sư phạm:
+ Quan tâm điều khiển tốt các mối liên hệ. GV lẫn HS cần nghiên cứu nắm vững hệ thốngluận về nhận thức để vận
dụng tốt trong hoạt động giảng dạy và học tập.
+ Quá trình hướng dẫn HS học tập phải tuân theo con đường nhận thức chung:
• Coi trọng việc hướng dẫn HS tìm tòi, tra cứu thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, hoặc coi trọng nguồn thông tin tạo cơ
sở ban đầu của sự học
• HS trung học phố thông là những người đã có kinh nghiệm, trong dạy học nên chú trọng những biện pháp giúp họ huy
động kinh nghiệm đã có để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ học tập;
• Hướng dẫn, kích thích HS tích cực thực hiện các thao tác trí tuệ (phân tích, so sánh, phân loại.. thông tin để rút ra kết
luận, hình thành kinh nghiệm lý luận trong học tập.
• Tổ chức cho HS vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống qua các hình thức thực
hành song song với học lý thuyết và thực hành sau khi học lý thuyết;
• Bồi dưỡng cho HS khả năng tự học, tự nghiên cứu và những phẩm chất cần thiết của nhà nghiên cứu khoa học.
7. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong dạy học
- Khái niệm nguyên tắc dạy học: Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính chất xuất
phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục,
với nhiệm vụ dạy học và với những tính quy luật của quá trình dạy học.
- Nội dung nguyên tắc đảm bảo thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục: Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá
trình dạy học phải võ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học,
công nghệ và văn hoá hiện đại, phải dần dần giúp học sinh tiếp cận với những phương pháp học tập, nhận thức, thói
quen suy nghĩ và làm việc một cách khoa học. Thông qua đó mà dần dần hình thànhsở thế giới quan khoa học,
tình cảmnhững phẩm chất đạo đức cao quý của con người hiện đại. Dạy học không chỉ làm phát triển trí của
con người và cung cấp cho người học một khối lượng kiến thức nào đóphải làm cháy lênhọ lòng khát khao
học tập một cách nghiêm túc. Thiếu điều đó thì cuộc sống không thể nào là một cuộc sống xứng đáng và hạnh phúc.
- Ảnh hưởng giáo dục của khoa học là người đồng hành không tránh khỏi của dạy học. Song từ đó sẽ không đúng
khi cho rằng dạy học bao giờ cũng có tác động như nhau đến học sinh và sự nỗ lực một cách tự giác, nghệ thuật của
nhà giáo dục không có ý nghĩa quan trọng. Trái lại, tính chất giáo dục của dạy học, phương hướngtưởng và sức
mạnh ảnh hưởng của tới học sinhdo nội dung, phương pháp dạy học, sự tổ chức tiết học và do tác động của
chính nhân cách người giáo viên quyết định.
- Yêu cầu thực hiện nguyên tắc đảm bảo
5
+ Võ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, hiện đại nhằm giúp cho họ nắm được quy luật phát triển
của tự nhiên, xã hội, tư duy, có cách nhìn và thái độ hành động đúng đắn đối với hiện thực.
+ Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã hội, con người Việt Nam, những truyền thống tốt đẹp trong
lịch sử dựng nước bảo vệ đất nước của dân tộc ta qua hàng ngàn năm, đặc biệt truyền thống đó ngày càng phát
triển mạnh mẽ dưới lãnh đạo của Dảng. Từ đó giáo dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân
trước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong học tập và tu dưỡng.
+ Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, biết phê phán một cách đúng mức những thông tin đăng tải trên
các phương tiện thông tin đại chúng, những quan niệm khác nhau về một vấn đề.
+ Vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học theo hướng giúp học sinh làm quen với một số phương
pháp nghiên cứu khoa họcmức độ đơn giản nhằm dần dần tiếp cận với hoạt động khoa học, rèn luyện những tác
phong, phẩm chất của người nghiên cứu khoa học.
- Kết luận sư phạm: chúng ta cần phải làm gì…
8. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong dạy học
- Khái niệm nguyên tắc dạy học: Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính chất xuất
phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục,
với nhiệm vụ dạy học và với những tính quy luật của quá trình dạy học.
- Khái niệm:
Lý luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về một lĩnh vực nào đó trong thế giới. Nói cách khác, lý luận là sự quan
sát, nghiên cứu,nhận ra, thảo luận.
Thực tiễn là phạm trù cơ bản trong lý luận nhận thức Mác- Lênin cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”.
Trong nội dung “ Lý luận liên hệ với thực tiễn” đã phản ánh nội dung “học đi đôi với hành”.
Theo Hồ Chí Minh thì luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận.luận cũng như cái tên.
Thực hành cũng như cái đích để bắn. tên không bắn hoặc bắn lung tung cũng như không tên. vậy,
chúng ta phải gắng học, đồng thời phải hành”.
Theo Bác, học phải toàn diện: Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thôngcòn phải đạo đức cách
mạng”. Còn “ hành” theo Người là vận dụng những điều đã học vào việc giải quyết những vấn đề do thực tiễn đề ra.
Song việc làm đó có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa cách mạng rất lớn, có tác dụng hình thành con người có tư tưởng cao cả,
tình cảm và hành vi, góp phần vào sự nghiệp đại của tập thể, của dân tộc từ những công việc bình thường hàng
ngày.
“Học” mà Bác nói đến ở đây là lý luận và “Hành” là thực tiễn, ta có thể thấy lý luận và thực tiễn là gắn bó với nhau, đan
kết chặt chẽ.
Vi vậy:
+ Thực tiễn và lý luận đều cần đến nhau, nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau
+ Thực tiễn luận không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò sở,
động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
+ Thực tiễn là động lực thúc đẩy hoạt động lý luận ở chỗ: nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày
càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển.
- Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học nắm vững tri thức, nắm vững cơ sở khoa học, kỹ thuật,
văn hoá khi kết hợp hai điều kiện:
1) Tri thức là những điểm có hệ thống, quan trọng và then chốt hơn cả.
2) Tri thức đó phải được vận dụng trong thực tiễn để cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân. Thông qua đó mà giúp họ ý thức
rõ tác dụng của tri thức thuyết đối với đời sống, với thực tiễn, với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, hình
thành cho họ những kỹ năng vận dụng chúng ở những mức độ khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần phát triển
kinh tế- xã hội và văn hoá- khoa học của đất nước.
- Yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc đảm bảo:
+ Khi xây dựng kế hoạch chương trình dạy học cần lựa chọn những môn học những tri bản, phù hợp với những
điều kiện thiên nhiên, với hoàn cảnh thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, chuẩn bị cho người học thích
ứng nhanh và tham gia có hiệu quả vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
6
+ Về nội dung dạy học phải làm cho người học nắm vững tri thức lý thuyết, thấy rõ nguồn gốc của những tri thức đó và
vai trò của tri thức khoa học đối với thực tiễn; phải vạch ra phương hướng ứng dụng tri thức khoa học vào hoàn cảnh
cụ thể đất nước, của địa phương; phải phản ánh tình hình thực tiễn vào nội dung dạy học.
+ Về phương pháp dạy học cần khai thác vốn sống của người học để minh hoạ, để đặt ra và giải quyết những vấn đề lý
luận. Cần vận dụng có đổi mới những phương pháp như thí nghiệm, thực nghiệm, nghiên cứu các tài liệu thực tiễn…
làm cho học sinh nắm nhanh và nắm chắc những tri thức lý thuyết và vận dụng những tri thức lý thuyết đó vào giải
quyết những tình huống khác nhau.Thông qua đó, bước đầu giúp học sinh làm quen với những phương pháp nghiên
cứu khoa học.
+ Về hình thức tổ chức dạy học thì cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học khác nhau, đặc biệt là hình thức lên lớp với
hình thức tham quan học tập, hình thức thực hành, thực tập ở phòng thí nghiệm, ở các trung tâm kỹ thuật tổng hợp…
+ Dạy học kết hợp với lao động sản xuất và hoạt động công ích là điều kiện quan trọng để thực hiện hiệu quả nguyên tắc
này.
- Kết luận sư phạm:
9. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan với sự phát triển tư duy lý thuyết trong dạy học
- Khái niệm nguyên tắc dạy học: Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính chất xuất
phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục,
với nhiệm vụ dạy học và với những tính quy luật của quá trình dạy học.
- Nội dung nguyên tắc đảm bảo: trong quá trình dạy học có thể cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng
hay hình tượng của chúng, từ đó hình thành những khái niệm, quy luật, lý thuyết; ngược lại,thể từ việc lĩnh hội
những tri thức lý thuyết trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng cụ thể sau. Trong việc vận dụng nguyên tắc này
bao giờ cũng đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng.
- Yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc đảm bảo:
+ Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là phương tiện và nguồn nhận thức.
+ Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh động, diễn cảm, nghĩa là kết hợp hai hệ thống tín hiệu.
+ Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu tượng đã có để hình thành những biểu tượng
mới, qua đó mà hình thành những khái niệm, định luật mới.
+ Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên phù hợp với lứa tuổi, nội dunghoàn cảnh cụ thể
nhằm hình thành và phát triển tư duy lý thuyết cho họ.
- Kết luận phạm: Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả. Đề ra cho học sinh
những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập được mối quan hệ giữa cái cụ thể, cái trừu tượng và ngược lại.
10. Phương pháp thuyết trình trong dạy học
- Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy
học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học.
- Khái niệm phương pháp thuyết trình: phương pháp GV dùng lời nói để trình bày, giải thích ND bài học một
cách có hệ thống, logic cho HS tiếp thu
- Ưu điểm của phương pháp thuyết trình
+ Trong một thời gian ngắn, giáo viên có thể trình bày một khối lượng kiến thức lớn cho nhiều người học
+ HS có thể học được cách tư duy lôgic, cách đặt và giải quyết vấn, cách diễn đạt chính xác, rõ ràng, súc tích của GV
+ Là PP dễ thực hiện nhất vì không cần đến TBDH nào
+ Khi được nâng lên thành thuyết trình nêu vấn đề sẽ kích thích được tính tích cực tư duy của học sinh
+ Nếu kết hợp minh họa bằng các PTTQ, vấn đáp, thảo luận thực hành sẽ kích thích được tính năng động tích cực
của HS
- Hạn chế của PP thuyết trình
+ PP độc thoại nên HS dễ hình thành thói quen thụ động, chống mệt mỏi => thiếu sáng tạo, ghi nhớ kém bền
vững
+ Học sinh thiếu cơ hội phát triển ngôn ngữ nói
+ Giáo viên khó có thể chú ý đầy đủ đến trình độ nhận thức và KT sự lĩnh hội tri thức của từng học sinh
- Yêu cầu sư phạm của pptt:
7
+ Ngôn ngữ biểu đạt và nội dung phải có tính logic, phù hợp. GV càng nắm vững ND thì ngôn ngữ biểu đạt càng phong
phú và tăng tính thuyết phục
+ Phát âm rõ ràng, chính xác, tốc độ tần số âm thanh vừa phải
+ Ngôn ngữ phải tính thuyết phục (giải thích, tả chứng minh bằng các VD). Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, thiện
cảm, giàu hình ảnh
+ Nên kết hợp thuyết trình với các phương pháp khác như trực quan, vấn đáp, tình huống có vấn đề…
- Kết luận sư phạm:
11. Phân tích phương pháp vấn đáp trong dạy học
- Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy
học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học.
- Phương pháp vấn đáp:PPDH trong đó GV tổ chức thực hiện quá trình hỏi đáp giữa GV và HS nhằm làm
sáng tỏ tri thức mới, rút ra những KL cần thiết.
- Ưu điểm
+ Nếu sử dụng khéo léo, phối hợp với PPTT sẽ kích thích được tính tích cực tư duy, năng lực diễn đạt bằng lời của HS
+ Cả giáo viên và học sinh đều có thể nhanh chóng thu được tín hiệu ngược để điều chỉnh HĐ của mình
+ Tạo không khí sôi nổi trong giờ học
+ Giáo viên có thể sửa chữa ngay những sai sót của học sinh.
- : Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng đến KH dự kiếnHạn chế
- Yêu cầu xây dựng câu hỏi:
+ Câu hỏi phải rõ ràng, đơn giản, số lượng vừa phải, tập trung vào trọng tâm bài học
+ Câu hỏi phải chính xác, giúp học sinh hiểu đúng và hình thành được câu trả lời đúng vấn đề
+ Cần căn cứ vào ND bài học để XD câu hỏi lôgic, chặt chẽ
+ Hệ thống câu được XD từ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái quát và ngược lại, từ câu hỏi tái tạo đến câu hỏi sáng tạo
- Yêu cầu khi nêu câu hỏi cho học sinh:
+ Câu hỏi đưa ra một cách rõ ràng, hướng tới cả lớp
+ Chỉ định một HS trả lời, cả lớp nghe và phân tích
+ Bình tĩnh khi HS trả lời sai, tránh nôn nóng, vội vàng cắt ý HS
+ Giáo viên KL
- Kết luận sư phạm:
12. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao đối với con người trong công tác giáo dục
- Nhân cách là gì?
- Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lý luận giáo dục, có tác dụng chỉ
đạo việc lựa chọn và vận dụng nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu mục
đích và nhiệm vụ giáo dục.
- Nội dung nguyên tắc:
+ Tôn trọng nhân cách học sinh tôn trọng nhân phẩm, tài năng trí tuệ, tự do tưởng, nhu cầu, nguyện vọng thói
quen sống của mỗi nhân : Tôn trọng nhân cách còn bao gồm tôn trọng thân thể, không ai được xúc phạm đến
phẩm giá và thân thể con người.
+ Tôn trọng nhân cáchtin tưởng con người, tin tưởng ở khả năng trí tuệ, khả năng lao động sáng tạo của con người.
Tin tưởng là thể hiện sự mong muốn của các nhà giáo dục đối với đối tượng giáo dục và đồng thời cũng là một biện
pháp tế nhị buộc họ phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
+ Yêu cầu hợpchính là sự đòi hỏi cao hơn thực tế các em phải phấn đấu. Bằng hệ thống những mục tiêu, những tiêu
chuẩn nâng dần từng bước, thúc đẩy học sinh phải phấn đấu liên tục. Khi nhà giáo dục đặt ra những yêu cầu hợp lí,
học sinh sẽ cảm nhận được sự tin tưởng của giáo viên về mình, như tiếp thêm sức mạnh để cố gắng nhiều hơn.
Yêu cầu cao chính là thể hiện niềm tin và sự tôn trọng nhân cách con người.
+ Muốn giáo dục con người phải tôn trọng nhân cách con người và phải có những yêu cầu hợp lí đối với con người. Vì:
Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp cho học sinh vươn lên, phát triển nhân cách tốt
8
hơn. Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử sư phạm phải thể hiện sự
tôn trọng, yêu thương, dìu dắt các em tiến bộ.
- Những lưu ý khi thực hiện nguyên tắc:
+ Nhà giáo dục không được xúc phạm đến nhân cách học sinh, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ lí do gì, tránh
thành kiến đối với học sinh.
+Nhà giáo dục cần tránh những thái độ gay gắt, nhạo báng, mỉa mai, mệnh lệnh, áp đặt, nhưng đồng thời tránh những dễ
dãi, xuề xoà “vô nguyên tắc”.
+ Luôn đánh giá cao hơn một chút so với cái mà họ có, đồng thời đòi hỏi cao hơn một chút so với những gì họ đạt được.
Tế nhị, khéo léo, có tình, có lý trong ứng xử sư phạm của giáo viên.
+ Cần xác nhận những ưu điểm, những thành công của học sinh dù đóthành công nhỏ bé, phát huy ưu điểm là cơ sở
tạo ra những thành công mới trong quá trình phấn đấu của học sinh.
- Ngoài ra, cần đối xử công bằng dân chủ, khách quan với các học sinh. Biết giao việc, lẳng nghe, tin tưởng và sẵn lòng
đôn đốc, giúp đỡ học sinh tiến bộ.
4) Ý nghĩa của việc tôn trọng nhân cách của người được giáo dục
- Tôn trọng nhân cách HS là tôn trọng chính bản thân của nhà giáo dục, tôn trọng quá trình giáo dục, giúp quá trình giáo
dục được diễn ra thuận lợi và phù hợp với bản chất, đặc điểm của quá trình giáo dục
- Hình thành được niềm tin: nhà giáo dục tin vào phương pháp giáo dục, tin vào triển vọng hoàn thiện nhân cách người
được giáo dục; HS tin tưởng vào khả năng của bản thân, tin tưởng vào những biện pháp giáo dục nhà giáo dục
đưa ra
- Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
13. Phương pháp nêu gương trong công tác giáo dục
- Phương pháp giáo dục: Phương pháp giáo dục (PPGD) thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá trình giáo
dục, có quan hệ mật thiết với các thành tố khác của quá trình này, đặc biệt là với mục đích, nội dung, nhà giáo dục,
người được giáo dục, phương tiện giáo dục, với các điều kiện thực hiện quá trình này. Phương pháp giáo dục được
xem là cách thức tác động qua lại giữa nhà giáo dục người được giáo dục trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ
đạo nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra.
- Phương pháp nêu gương là phương pháp phát huy tác dụng của các nguyên tắc, chuẩn mực, là sử dụng những
hình mẫu đạo đức được thể hiện cụ thể, trực quan sinh động trong hiện thực nhằm tác động có mục đích và hệ thống
đến ý thức và tình cảm đạo đức của con người, thôi thúc họ học tập và làm theo.
- Nội dung:
+ Nêu gương trong gia đình:
· Sự giáo dục chu đáo của gia đình nhất là bằng những tấm gương đạo đức của chính những người thân có vai trò to
lớn đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, có tác dụng kích thích sự tự rèn luyện của trẻ.
· Là công việc rất quan trọng nhằm tạo nền tảng vững chắc, tiền đề xuất phát cho giáo dục đạo đức trong nhà trường
ngoài xã hội; bởi gia đình“tế bào của hội”, môi trường quan trọng trong việc giáo dục lối sốnghình
thành nhân cách cho mỗi người công dân ngay từ nhỏ cho đến khi trưởng thành.
· Để phát huy vai trò nêu gương của gia đình, đòi hỏi mỗi thành viên trong mỗi gia đình phải là những tấm gương
đạo đức mẫu mực. Trong đó, ông cần làm gương cho con cháu, cha mẹ làm gương cho con cái, anh chị làm
gương cho các em; đồng thời, cần sử dụng những tấm gương tiêu biểu về đạo đức, tài năng của các thành viên
trong trong gia đình, dòng họ qua các thế hệ để giáo dục con cháu... Mỗi gia đình phải thực sự là một “tổ ấm” để mỗi
đứa trẻ được lớn lên trong tình cảm tốt đẹp, với tràn đầy tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau của những
người thân.
9
+ Nêu gương trong nhà trường:
· Nhà trường là nơi đào tạo con người phát triển toàn diện, không những trang bị về mặt kiến thức mà còn giáo dục
cả về mặt đạo đức, lối sống; tạo môi trường lý tưởng cho trẻ hình thành và phát triển nhân cách.
· Đối với học sinh tấm gương tốt nhất đó là bạn bè cùng lớp, cùng trường, là thầy cô giáo đang trực tiếp dạy dỗ các
em. Sau đó là các hình tượng các nhân vật văn học, cuộc đời, tuổi trẻ, sự nghiệp của các danh nhân văn hóa.
· Do vậy, đội ngũ giáo viên trong các nhà trường cần thường xuyên tu dưỡng phẩm chất đạo đức, năng lực
phạm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ; phải biết kết hợp chặt chẽ giữa “dạy chữ”, “dạy nghề” và “dạy người”
để cho trẻ học tập và noi theo, tích cực đẩy mạnh nêu gương cho các em về những tấm gương “người tốt việc tốt” là
chính bạn bè xung quanh các em.
+ Nêu gương trong xã hội:
· Là môi trường góp phần làm phong phú thêm cho những điều được tiếp thu, lĩnh hội trong gia đình, trong nhà
trường.
· Để giáo dục trẻ em, cần phát huy vai trò của môi trường đạo đức xã hội; trong đó cần chú trọng xây dựng hệ thống
các giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức và hướng việc giáo dục, tu dưỡng rèn luyện của trẻ theo những nguyên
tắc, chuẩn mực đó. Mặt khác, đi đôi với “xây” cần kết hợp chặt chẽ với “chống”; trong đó cần khắc phục
từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong xã hội đã đang ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến việc giáo
dục đạo đức, lối sống hiện nay.
- Lưu ý:
+ Lựa chọn điển hình, phù hợp đặc điểm tâm lứa tuổi, tạo ra ấn tượng tốt, cảm xúc mạnh để kích thích thái độ, tình
cảm lành mạnh ở học sinh.
+ Khi nêu gương cần giúp học sinh biết được sự kiện, phân tích nguyên nhân, ý nghĩa, những bài học rút ra từ những tấm
gương đó, nhằm giúp học sinh nhận thức đầy đủ ý nghĩa và có ý thức noi theo.
+ Cần khách quan, công bằng, đúng mực khi nêu gương học sinh trong lớp, không “thổi phồng” thành tích cho nhân vật.
+ Cần phải có sự đánh giá đúng mức những tấm gương tốt, xấu để học sinh có căn cứ tiếp thu.
+ Cần phải phê bình một cách khéo léo, nhẹ nhàng, tránh sự mặc cảm xấu hổ trước tập thể dẫn đến tính tiêu cực của học
sinh.
- Ví dụ: Thầy hiệu trưởng biểu dương em Q. trước toàn trường vì đã nhặt được tiền và trả lại cho người mất. Thầy đề
nghị tất cả các bạn học sinh trường mình phải học tập và noi gương bạn, khuyến khích các bạn trả lại dù là những vật
nhỏ nhất, tuyên dương các bạn trước toàn trường. Q. bước xuống trong tiếng vỗ tay không ngớt của mọi người. Kể
từ sau lần đó, học sinh các lớp của trường luôn thể hiện lòng thật thà của mình bằng việc trả lại những đồ vật các em
nhặt được. Có thể chỉ là cây bút chì, quyển sách cũ, từ một ngàn đồng đến vài trăm ngàn... Ngày càng có nhiều học
sinh trả lại những đồ vật mình nhặt được.
- Kết luận sư phạm:
Để phương pháp nêu gương mang lại ý nghĩa giáo dục cáo cho học sinh, giáo viên phải thực hiện được các yêu cầu sau:
- Giáo viên phải nêu những tấm gương gần giũ với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của học sinh.
- Cần phải có sự đánh giá đúng mức những tấm gương tốt, xấu để học sinh có căn cứ tiếp thu.
- Cần phải phê bình một cách khéo léo, nhẹ nhàng, tránh sự mặc cảm xấu hổ trước tập thể dẫn đến tính tiêu cực của học
sinh.
- Mỗi giáo viên phải thật sự là những tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
4) Ưu nhược điểm của phương pháp nêu gương
10
Trong nội dung dạy học, môn Đạo đức là một môn học gắn bó mật thiết với quá trình giáo dục Đạo đức ở tiểu học. Quá
trình giáo dục Đạo đức ở tiểu học là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể (hay quá trình sư phạm tổng thể).
Nó có nhiệm vụ bồi dưỡng cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi Đạo đức, tạo ra ở các em
niềm tin Đạo đức, hình thành ở các em xúc cảm và tình cảm Đạo đức và tổ chức cho các em rèn luyện những hành vi
và thói quen hành vi Đạo đức. Môn Đạo đức là một môn học trong hệ thống các môn học ở tiểu học có tác dụng định
hướng cho các môn học khác. Qua dạy học môn Đạo đức hình thành cho học sinh những hành vi và thói quen hành
vi Đạo đức, phù hợp với những chuẩn mực hành vi đã được quy định. Như vậy muốn dạy tốt môn Đạo đức ở lớp 2, 3
trong trường tiểu học người giáo viên phải nắm vững phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học. Đặc biệt là tính
khả thi của từng phương pháp. Mỗi phương pháp dạy học đều có những mặt mạnh, yếu khác nhau. Phương pháp nêu
gương cũng vậymột phương pháp nằm trong hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống (khen thưởng,
trách phạt,…) có những ưu khuyết điểm sau :
4.1) Ưu điểm :
- Phương pháp nêu gương luôn đưa đến cho các em những cơ sở chuẩn mực về Đạo đức để các em xem đó là điểm tựa
học tập và rèn luyện.
- Thông qua phương pháp nêu gương không chỉ giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với nhà trường, gia
đình và xã hội mà còn giáo dục học sinh có trách nhiệm đối với chính bản thân mình, biết quý trọng bản thân và biết
tự chăm sóc mình.
- Phương pháp nêu gương đem đến cho học sinh một số kĩ năng cơ bản như : biết tự nhận thức; biết xác định giá trị và có
khả năng ra quyết định
- Phương pháp nêu gương hướng dẫn các em có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh Đạo đức thông qua tấm gương giáo
viên nêu ra.
- Qua hình thức nêu gương học sinh được hình thành năng lực quan sát và đánh giá hành vi của người khác là phù hợp
hay không phù hợp với chuẩn mực Đạo đức xã hội.
4.2) Nhược điểm :
lứa tuổi lớp 2, 3 lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, các em thường cảm nhận sự vật hiện tượng bằng trực quan sinh
động, thường e ngại trước đám động không dám nói ra những điểm yếu của mình. Vì thế khi phê bình những điểm
xấu của học sinh nếu giáo viên không khéo léo sẽ gây mặc cảm, tự ti cho học sinh trước tập thể lớp. Những tấm
gương đưa ra mà xa lạ với thực tế cuộc sống hằng ngày sẽ gây sự nhàm chán trước học sinh.
Tóm lại ở lứa tuổi học sinh tiểu học nói chung học sinh lớp 2, 3 nói riêng, đặc điểm tâm sinhcủa các em mới được
hình thành, ý thức chủ định chưa được nâng cao, mọi hoạt động, việc làm của các em đều mang tính chất bột
phát, các em thường làm theo ý thích của mình nhiều hơn là gò ép. Đối với lứa tuổi này các em thường không xét từ
góc độ Đạo đức của bản thân trước mà lấy điểm tựa của người khác để điều chỉnh cho hoạt động của bản thân. Chính
vì thế có thể khẳng định rằng phương pháp nêu gương là phương pháp phù hợp tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học.
5) Giải pháp
- Cần phát huy phương pháp nêu gương nhiều hơn trong những bài học có nội dung sát thực và gần gũi với học sinh để
phát huy tính học hỏi, biến nội dung bài học thành hành động cụ thể cho các em.
- Giáo viên cần sưu tầm thêm nhiều tấm gương tiêu biểu và hướng dẫn các em tự sưu tầm các câu chuyện hay hình ảnh
nội dung tương ứng với yêu cầu bài học. Đây sẽ là động lực rất lớn giúp cho các em tự mình học hỏi về những
tấm gương sưu tầm được trước hướng dẫn của thầy, cô giáo.
11
- Khi đưa tấm gương không phải là hoạt động tốt, giáo viên không nên nhận xét nhiều về những hoạt động của các em so
sánh với gương xấu trong tranh. Cần lựa chọn ngôn ngữ khéo léo, vừa chỉ ra những cái chưa tốt của các em tránh
được sự tự ti, xấu hổ của các em trước lớp.
- Những câu hỏi trong nêu gương phải sát thực không nên xa thực tế, câu hỏi cần phát huy được tính tích cực, độc lập tư
duy của học sinh.
- Đối với một số em có tâm lý yếu, rụt rè, giáo viên cần chú ý và có biện pháp giúp đỡ các em qua hình thức nêu gương
trực tiếp (lấy những bạn học giỏi, ngoan, hăng say phát biểu để giúp các em mạnh dạnï hơn).
- Không nên lạm dụng việc tự liên hệ bản thân, việc buộc các em phải luôn luôn tự kiểm điểm làm cho không khí lớp
nặng nề và nhiều khi dẫn các em không hứng thú học tập.
14. Phân tích phương pháp giao việc trong công tác giáo dục
- Khái niệm: Phương pháp giáo dục (PPGD) là thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá trình giáo dục, có quan hệ mật
thiết với các thành tố khác của quá trình này, đặc biệt là với mục đích, nội dung, nhà giáo dục, người được giáo dục,
phương tiện giáo dục, với các điều kiện thực hiện quá trình này. Phương pháp giáo dục được xemcách thức tác
động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo nhằm thực hiện tốt
các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra.
- Khái niệm phương pháp giao việc
+ Là phương pháp lôi cuốn học sinh vào các hoạt động đa dạng với những công việc cụ thể, với những nghĩa vụ xã hội
nhất định.
+ Qua đó, học sinh sẽ có điều kiện để thể hiện những kinh nghiệm vốn có của mình hình thành được những hành vi phù
hợp với công việc được giao, thu nhận kiến thức phù hợp.
- Nội dung phương pháp giao việc
+ Lựa chọn bài dạy phù hợp với phương pháp giao việc.
+ Xây dựng kế hoạch: Căn cứ vào mục tiêu của bài , điều kiện, phương tiện dạy học cũng như đặc điểm, trình độ nhận
thức của học sinh trong lớp và kinh nghiệm của bản thân mà GV sẽ lập ra hệ thống câu hỏi và phân chia công việc
cho từng nhóm(cá nhân)
+ Hỗ trợ - Kiểm tra: Trong quá trình học sinh thực hiện nhiệm vụ của nhóm mình GV cần hỗ trợ gợi ý giúp các em tìm
kiếm thông tin và kiểm tra tiến độ thực hiện của các nhóm. Đồng thời cũng giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn trong
quá trình thu nhận thong tin của mình.
+ Tiến hành tiết dạy: Trong từng hoạt động, các nhóm sẽ lần lượt trình bày sản phẩm hay thông tin thu thập được theo
điều khiển của GV. Những phần kiến thức học sinh trình bày sẽ là phần mở đầu cho một hoạt động hoặc sẽ là phần
đúc kết kiến thức của hoạt động đó. GV sẽ là người nhận xét và đúc kết kiến thức của hoạt động.
+ Nhận xét – lưu ý – tuyên dương.
- Ưu điểm:
+ Học sinh chủ động tìm ra kiến thức.
+Các em không chỉ sử dụng vốn sống của bản thân mà trong quá trình tham gia đi tìm kiếm thông tin giúp các em tự gây
dựng thêm vốn sống cho mình.
+ Giáo viên tránh được lối truyền đạt thụ động, không gây hứng thú cho học sinh.
+ Tạo được mối liên kết cũng như có sự phối họp giữa gia đình và nhà trường trong quá trinh giáo dục các em.
+ Gây cho học sinh sự đam mê, sự khám phá.
+ Rèn kĩ năng chủ động trong việc nắm bắt kiến thức và giúp cho các em khắc sâu kiến thức hơn.
12
- Nhược điểm:
+ Đối tượng học sinh còn nhỏ nên trong quá trình tìm tòi kiến thức cần có sự hỗ trợ của gia đình. - Các em dễ tìm hiểu
lan man, không đúng trọng tâm yêu cầu.
+ Trình bày chưa logic, mang tính chất liệt kê.
+ Dễ dẫn đến việc phân công quá sức với học sinh.
+ Phải tiến hành thực hiện kéo dài trong một thời gian nhất định.
- Kết luận sư phạm:
+ Cần sự trao đổi trực tiếp với phụ huynh trong các buổi họp để sự hỗ trợ, chia sẻ từ họ trong việc thực hiện
phương pháp này
+ Cần xây dựng kế hoạch giảng dạy cụ thể, chi tiết trong việc phân công nhiệm vụ cho từng nhóm:
+ Giúp học sinh trong quá trình tìm tòi kiến thức. Phải kiểm tra thường xuyên tiến độ làm việc từng nhóm. Định hướng
cho các em tìm kiếm đúng trọng tâm kiến thức.
Cách tiến hành
- Lựa chọn bài dạy phù hợp với phương pháp giao việc.
- Xây dựng kế hoạch: Căn cứ vào mục tiêu của bài, điều kiện, phương tiện dạy học cũng như đặc điểm, trình độ nhận
thức của học sinh trong lớp và kinh nghiệm của bản thân mà GV sẽ lập ra hệ thống câu hỏi và phân chia công việc
cho từng nhóm (cá nhân)
- Hỗ trợ - Kiểm tra: Trong quá trình học sinh thực hiện nhiệm vụ của nhóm mình GV cần hỗ trợ gợi ý giúp các em tìm
kiếm thông tin và kiểm tra tiến độthực hiện của các nhóm. Đồng thời cũng giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn trong quá
trình thu nhận thong tin của mình.
- Tiến hành tiết dạy: Trong từng hoạt động,các nhóm sẽ lần lượt trình bày sản phẩm hay thông tin thuthập được theo điều
khiển của GV. Những phần kiến thức học sinh trình bày sẽlà phần mở đầu cho một hoạt động hoặc sẽ là phần đúc kết
kiến thức của hoạt động đó. GV sẽ là người nhận xét và đúc kết kiến thức của hoạt động.
- Nhận xét – lưu ý – tuyên dương.
Giải pháp:
- Cần sự trao đổi trực tiếp với phụ huynh trong các buổi họp để sự hỗ trợ, chia sẻ từ họ trong việc thực hiện
phương pháp này
- Cần xây dựng kế hoạch giảng dạy cụ thể, chi tiết trong việcphân công nhiệm vụ cho từng nhóm
- Giúp học sinh trong quá trình tìm tòi kiến thức
- Yêu cầu các nhóm trình bày thử cho giáo viên sau khi hoàn thành. Giáo viên sẽ gợi ý giúp các em trình bày lưu loát
hơn
- Khi giao việc giáo viên cần lưu ý đến đặc điểm của từng học sinh như: tính cách, điều kiện sống, nơi ở.... để tránh giao
những nhiệm vụkhông phù hợp, quá sức đối với học sinh. Cần lưu ý đặc điểm của tùng học sinh để giao việc sao cho
phù hợp, không gây ảnh hưởng đến phụ huynh cũng như tâm lý của các em.
- Cần chú ý đến khoảng thời gian sao cho hợp lý: Khi thực hiện phương pháp này đòi hỏi phải kéo dài trong một thời
gian nhưng người GV chủ động để tránh kéo dài lâu, gây ảnh hưởng sao nhãng các môn học khác của các em.
Cần cân đối thời gian hợp lý tránh tình trạng để thời gian tìm thông tin quá dài, hiệu quả của giao việc sẽ không cao.
15. Nguyên tắc giáo dục phát huy ưu điểm để khắc phục nhược điểm trong công tác giáo dục
- Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy luật củaluận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo
việc lựa chọn và vận dụng nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu mục đích
và nhiệm vụ giáo dục.
- Nội dung:
+ Tìm hiểu đối tượng để phát hiện mặt tốt và xấu của học sinh.
+ Nói nhiều tới những mặt tốt, ưu điểm của học sinh, coi đó như là phẩm chất chủ yếu của họ. Đồng thời nói đến mức tối
thiểu, khi nói về những khuyết điểm, hạn chế của học sinh.
+ Phải dựa vào ưu điểm để khắc phục nhược điểm cho học sinh.
- Yêu cầu khi thực hiện:
+ Tổ chức tốt các phong trào thi đua, theo dõi những điển hình gương mẫu, thường xuyên động viên, khen thưởng, khích
lệ học sinh.
13
+ Mỗi năm cần tổng kết, đánh giá, xếp loại và khen thưởng những học sinh đạt được thành tích cao trong học tập và rèn
luyện.
+ Cần có sự bao dung độ lượng của người giáo viên, của tập thể, của bạn bè đối với từng học sinh.
- KẾT LUẬN: Hãy nâng đỡ họ khi vấp ngã, sai lầm, qua đây cảm họ, dẫn họ đi trên con đường mới, đến những thành
công mới.
16. Nhiệm vụ và quyền của nhà giáo được đề cập trong Luật giáo dục 2019
a. Nhiệm vụ của nhà giáo
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục;
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học,
bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học;
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới
phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người học;
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
b. Quyền của nhà giáo
- Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo;
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ;
- Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học
với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ nơi mình công tác;
- Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự;
- Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo và các ngày nghỉ
khác theo quy định của Bộ luật lao động.
c. Các hành vi nhà giáo không được làm
- Nhà giáo không được có các hành vi sau đây:
- Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của người học;
- Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của người học;
- Xuyên tạc nội dung giáo dục;
- Ép buộc học sinh học thêm để thu tiền.
17. Nhiệm vụ và quyền của người học được đề cập trong Luật giáo dục 2019
Học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục, quy tắc ứng xử của cơ sở giáo dục.
- Tôn trọng nhà giáo, cán bộ và người lao động của cơ sở giáo dục; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện;
thực hiện nội quy, điều lệ, quy chế của cơ sở giáo dục; chấp hành quy định của pháp luật.
- Tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và năng lực.
14
- Giữ gìn, bảo vệ tài sản của cơ sở giáo dục.
- Góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của cơ sở giáo dục.
Theo Điều 82 Luật Giáo dục năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ 1/7/2020) thì người học có quyền sau: người học
- Được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân.
- Được tôn trọng; bình đẳng về hội giáo dục học tập; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh;
được cung cấp đầy đủ thông tin về việc học tập, rèn luyện của mình.
- Được học vượt lớp, học rút ngắn thời gian thực hiện chương trình, học độ tuổi cao hơn tuổi quy định, học kéo dài
thời gian, học lưu ban, được tạo điều kiện để học các chương trình giáo dục theo quy định của pháp luật.
- Được học tập trong môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.
- Được cấp văn bằng, chứng chỉ, xác nhận sau khi tốt nghiệp cấp học, trình độ đào tạo và hoàn thành chương trình giáo
dục theo quy định.
- Được tham gia hoạt động của đoàn thể, tổ chức xã hội trong cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.
- Được sử dụng cơ sở vật chất, thư viện, trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động học tập, văn hóa, thể dục, thể
thao của cơ sở giáo dục.
- Được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị với sở giáo dục các giải pháp góp phần xây
dựng cơ sở giáo dục, bảo vệ quyền, lợi ích của người học.
- Được hưởng chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng vào cácquan nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi
có đạo đức tốt.
- Được cử người đại diện tham gia hội đồng trường theo quy định
18. Nhà văn người Pháp Anatole France đoạt giải Nobel văn học 1921 cho rằng: “Giáo dục chín phần mười
động viên khích lệ”. Suy nghĩ gì về quan điểm này?
Nói về lời khích lệ, động viên, khen ngợi trong việc dạy con từ gia đình đến nhà trường. Sự khích lệ của người
thầy chính là cách thừa nhận cao nhất về sự tiến bộ, cố gắng của các em.Việc khen ngợi trẻ tưởng chừng quá dễ với
bố mẹ, nhưng nó chỉ đúng khi lũ trẻ còn bé xíu thôi. Bố mẹ có thể nói rất tự nhiên những câu như “Con gái mẹ xinh
quá!”, “Ôi! Con cười xinh quá!”, “Ôi! Con mọc răng rồi kìa! Nó mới đáng yêu làm sao!”, “Ôi! Con đã biết uống sữa
bằng cốc rồi. Con giỏi quá!”, “Con xếp hình lâu đài đẹp thật đấy! Mẹ thích lắm!”… Nhưng rồi chuyện gì xảy ra sau
đó? Cùng với việc con dần lớn lên, kỳ vọng của bố mẹ về con cũng lớn dần lên. Thế rồi, bố mẹ, bắt đầu kiệm lời
khen, bắt đầu quên khen con. Nhưng thực ra, con vẫn cần những lời khen ngợi nhiều biết bao để cảm thấy được bố
mẹ quan tâm, ghi nhận, cảm thấy tự tin hơn vào bạn thân; nhận biết việc đúng, sai; có động lực làm được nhiều việc
hơn, làm tốt hơn. Muốn khích lệ con ngày một tốt hơn, bố mẹ hãy nhìn nhận, tìm ra những điểm tốt của con, để khen
ngợi. Những lần con đạt kết quả vượt trội hơn bình thường, bố mẹ nên khen ngợi và khen thưởng kịp thời. Điều đó
rất có ý nghĩa với consẽ thúc đẩy con muốn tiếp tục phát huy những lần sau, muốn cố gắng vươn lên để tiến bộ
hơn. Bố mẹ lưu ý đừng khen quá lời khiến con dễ sinh chủ quan, tự mãn, tự phụ. Đừng khen chung chung, khen sáo
rỗng khiến trẻ không biết tự đánh giá đúng bản thân. Cần khen ngợi cụ thể, để con hiểu đã làm tốt việc gì mà tiếp tục
phát huy vào lần sau. Một lời khen rõ ràng, cụ thể càng cần thiết hơn với những trẻ nhỏ tuổi để chúng hiểu rõ động
lực và hành vi tích cực mình đã làm được.
15
19. Nhận định như thế nào về phát biểu sau William A. Warrd: của
Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.
một nhà hiền triết đã nói: Người thầy trung bình chỉ biết nói. Người thầy giỏi biết giải thích. Người thầy xuất
chúng biết minh họa. Người thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng.Có lẽ bạn và tôi còn có những cách hiểu khác nhau về
câu châm ngôn này. Song có một điều chắc chắn là những ai đã có một thời đứng trên bục giảng dễ dàng thống nhất
với nhau: người thầy trung bình hay người thầy đại mức độ nào đó đều dạy cho các em cách duy, nghĩa
giáo viên dạy cho các em cách suy nghĩ về một đơn vị kiến thức nào đó. Điều này được kiểm nghiệm rất ràng
trong những giờ dạy học. Trong một tiết học nếu giáo viên quan sát thấy nét mặt học sinh luôn tươi roi rói, có những
khoảnh khắc ánh mắt vụt sáng lên, đó là cao trào giáo viên đã truyền được cảm hứng cho học sinh duy.Một giáo
viên có thể là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ học tròhọ không hề hay biết. Với cách giảng dạy - tổ chức chức
cho học sinh tư duy, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cảm hứng cho học sinh. Và trên thực tế, đã
có rất nhiều học trò thành công xuất phát từ cảm hứng của họ nhận được từ cảm hứng của giáo viên thắp sáng tâm
hồn. Trong một lần trả lời phỏng vấn của nhà báo, LêKhánh trình đã nói như sau: “Trong toán học tôi chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ hai người thầy. Người đầu tiên là thầy Trần Quốc Khải, một người rất độc lập. Lần đầu tiên tiếp
xúc với những bài toán khó, lạ, chính thầy đã truyền cho tôi cách nghĩ mới, không theo khuôn mẫu. Sự phá cách hơi
ngang tàng trong phong cách sống, miễn sao không ảnh hưởng đến ai của thầy cũng là một triết lý sống mà tôi thích
thú”1. Ngoài cảm hứng duy người giáo viên cần phải truyền cho học trò động lực. Người xưa đã nói: sông
khúc, người có lúc. Cuộc sống của mỗi người lúc thuận lợi, lúc khó khăn. Khi cuộc sống gặp khó khăn, nếu
không có động lực thúc đẩy, bạn sẽ khó có thể vượt qua. Đối với học sinh cũng vậy, những khó khăn và những thay
đổi về tâm sinh lý sẽ làm cuộc sống của họ bị đảo lộn, họ luôn cần sự giúp đỡ. Đôi khi, cha mẹ không hiểunhu
cầu cụ thể của con em mình và nảy sinh mâu thuẫn. Do đó, một trong những phương pháp giảng dạy hiệu quả là giáo
viên tổ chức tiết dạy theo kiểu trao đổi, đối thoại kết hợp với các thiết bị dạy học. Qua đó, học sinh có thể cởi mở
với giáo viên những khúc mắc về cuộc sống cá nhân cũng như những vấn đề về học tập. Có một số giáo viên giúp đỡ
học sinh của mình thông qua việc vấn cho phụ huynh, giải thích những vấn đề chúng gặp phải, như thế mới
giúp cha mẹ chúng hiểu thêm về con cái của mình. Có rất nhiều thời khắc trong cuộc đời của chúng ta in đậm dấu ấn
của những người thầy. Đó là những người luôn sát cánh, dạy dỗ, chỉ bảo và cung cấp kiến thức cho bạn. Khi bạn cần
được hỗ trợ về kiến thức, hay cần một lời chỉ bảo, phê bình để mình không đi sai đường, khi đó, bạn sẽ luôn cần đến
sự hiện diện của thầy cô. “Không thầy đố mày làm nên” Thầy giáo luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục. Vai trò ấy là không thể thay thế, cho dù ngày nay, nhiều phương tiện, trang thiết bị hiện đại
đã được áp dụng để hỗ trợ quá trình dạy học.
20. Làm sáng tỏ câu nói của Nelson Mandela: “Giáo dục là vũ khí lợi hại nhất mà người ta có thể dùng để làm thay
đổi thế giới”.
Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã chỉ ra: "Giáo dục đào tạo quốc sách hàng đầu", điều đó đã khẳng định tầm
quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước, đồng thời chính là chủ trương, chính sách của Đảng
nhà nước ta trong việc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hồ Chủ tịch cũng đã từng nhấn mạnh vai trò của
giáo dục và đào tạo trong Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
rằng: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Như vậy có
thể nói rằng giáo dục được sinh ra là để thay đổi vận mệnh con người, thay đổi vận mệnh dân tộc và thậm chí là vận
mệnh của cả nhân loại, điều ấy cũng những điểm khá tương đồng với quan điểm của N. Mandela - vị anh hùng
giải phóng dân tộc Nam Phi rằng: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới".
Vậy giáo dục là gì và tại sao nó được xem là vũ khí mạnh nhất để thay đổi cả thế giới?. Giáo dục là hình thức học tập
phổ biến nhất của con người thông qua đó chúng ta được tiếp thu những nguồn tri thức mới từ nhiều lĩnh vực
khác nhau bao gồm cả kiến thức thuyết, kỹ năng thực hành, những kinh nghiệm của người đi trước, những thói
quen được hình thành,... dưới sự giảng dạy, hướng dẫn, đào tạo hoặc nghiên cứu. Sự học tập một cách không chủ
16
đích dưới hình thức trải nghiệm cũng được xem là một loại giáo dục, bởi thông qua đó con người đã tích lũy được
một lượng lớn những tri thức mới thông qua việc quan sát, cảm nhận, hưởng thụ. Sự giáo dục bao gồm nhiều giai
đoạn, ở nhà trẻ em chịu sự giáo dục của cha mẹ, đến trường chịu sự giáo dục của thầy cô, khi trưởng thành họ chịu
sự giáo dục của hội. Chúng ta cũng không nên hiểu sự giáo dục một hành động cưỡng ép, bởi trên thực tế
hội, giáo dục đã diễn ra như một chân lý tự nhiên, từ thuở khai thiên lập địa con người đã được thừa hưởng sự giáo
dục của các thế hệ đi trước để có thể phát triển và tồn tại. Có thể nói rằng giáo dục hiện diện ở mọi quốc gia dân tộc,
thậm chí thế giới động vật cũng có quy luật giáo dục riêng,dụ như chim mẹ dạy con tập bay, hổ mẹ dạy con tập
săn mồi,... Và có một sự thật không thể chối cãi rằng bản thân giáo dục đã tạo ra đạo đứctrí tuệ của con người,
hai điều kiện tối cần để cấu thành một thực thể con người hoàn chỉnh. Lúc này này đây tôi đặt một câu hỏi ai đã và
đang tác động để thay đổi thế giới? Tôi tin chắc đáp án không gì khác ngoài hai tiếng con người, vậy nên ta có thể dễ
dàng suy ra giáo dục chính là thứ vũ khí mà con người sử dụng để thay đổi thế giới. Bởi con người ta không thể thay
đổi thế giới bằng sự ngu dốt và ấu trĩ, họ cần có kiến thức, dùng chính kiến thức ấy làm công cụ để phát triển thế giới
ngày một tốt đẹp hơn. Hồ Chủ tịch đã từng dạy rằng: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", chúng ta không thể chiến
thắng kẻ thù thay đổi vận mệnh dân tộc nếu chúng ta "yếu" hơn họ về tri thức, điều ấy buộc chúng ta phải tìm
kiếm sự giáo dục. Và bản thân Bác chínhngười đi tìm kiếm sự giáo dục cách mạng để trở về giải phóng dân tộc
Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc. Đây thể xem một dụ kinh điển cho câu nói "Giáo dục
chính thứ khí mạnh nhất để thay đổi thế giới", bởi chính Bác đã thay đổi cả số mệnh của một dân tộc, để
một Việt Nam như ngày hôm nay. Bàn rộng hơn trên phạm vi thế giới thể nói rằng giáo dục một thứ công cụ
hữu dụng trong việc thay đổi bộ mặt của xã hội, thay đổi nền văn minh của cả nhân loại. Nếu không có giáo dục có
lẽ con người sẽ chỉ dừng lại ở thời kỳ ăn lông ở lỗ, chứ không phải trong thời kỳ công nghệ 4.0, nếu không có giáo
dục lẽ khoa học công nghệ sẽ mãi dừng vạch xuất phát, sẽ không một Thomas Edison chế tạo ra bóng
đèn, để ngày nay nơi nào cũng tràn ngập ánh đèn điện; sẽ không có một James Watt phát minh ra động cơ hơi nước
tiền thân của các loại động ngày nay; cũng skhông một A.Fleming chế tạo ra Penicillin, tiền đề cho việc
nghiên cứu hàng trăm loại kháng sinh quan trọng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe con người; cuối cùng sẽ
không có một tổ chức nào với bộ óc thiên tài tạo ra internet, máy tính, điện thoại và TV, những thứ làm thay đổi cả
nhận thức của nhân loại. Như vậy có thể thấy rằng giáo dục đã gián tiếp làm thay đổi thế giới thông qua việc đào tạo
ra những con người có bộ óc siêu phàm cùng những kỹ năng tuyệt đỉnh. Chính con người đã sử dụng giáo dục như
một thứ công cụ thần kỳ để tạo ra những bước tiến đại trong lịch sử loài người, kéo chúng ta ra khỏi sự tối tăm,
buồn tẻ, sự đau đớn bệnh tật, sự mệt mỏi về thể xác trong lao động tay chân và nhiều những vấn đề khác nữa. Không
chỉ dừng lại ở đó giáo dục thay đổi thế giới còn thông qua việc thay đổi nhận thức của con người, một hệ thống giáo
dục tốt sẽ tạo ra những con người có nhân cách tốt đẹp, phẩm chất đạo đức đáng quý, luôn hướng về cộng đồng, về
thế giới,cái nhìn khách quan. Họ sẽ tự ý thức được việc tự hoàn thiện bản thân bằng các tự giáo dục, đồng thời
trở thành người truyền cảm hứng, tri thức cho các thế hệ tiếp nối, họ sẽ có một tâm hồn tươi đẹp hướng thiện, sẽ bỏ
qua những thói ích kỷ, nhỏ nhen, bỏ qua những thù hằn không đáng có để tiến bước về phía trước. Ngược lại người
không nhận được sự giáo dưỡng từ gia đình và xã hội và cũng không tự nỗ lực học tập thì dễ trở thành người có nhân
phẩm tồi tệ, gây hại cho cộng đồng, trở thành gánh nặng của cả xã hội. Tôi nghĩ rằng bất cứ ai từ chối sự tốt đẹp của
giáo dục đều là những con người thiển cận và thất bại, họ đã thua ngay khi bước vào vạch xuất phát. Họ đã từ chối
thứ vũ khí tiềm năng mà cả nhân loại đang hướng đến, họ đang tự tách mình ra khỏi nền văn minh nhân loại, có lẽ họ
đang có ý định qua về thời tiền sử chăng? Thêm nữa, có một kiểu người nhận sự giáo dục một cách khiên cưỡng nửa
vời, với tâm thế đối phó và hời hợt, tôi cho đó là sự lãng phí và vô trách nhiệm với chính bản thân và cả xã hội. Mỗi
chúng ta sinh ra đều có bổn phận tự phát triển và hoàn thiện bản thân, để trở thành điểm tựa vững chắc cho gia đình,
góp phần xây dựng một xã hội văn minh. Các bạn nên biết rằng, khi chúng ta cầm vũ khí trong tay nhưng lại không
biết sử dụng thì điều ấy còn tệ hại hơn cả việc bạn không có gì, thế nên mỗi chúng ta cần cố gắng nỗ lực trong việc
tiếp thu kiến thức, tiếp nhận sự giáo dục một cách chủ động, đồng thời năng động hơn trong việc tìm kiếm những
nguồn tri thức hữu ích để có thể theo kịp bước chân của nền văn minh nhân loại, bởi William Author Ward đã nói:
"Tất cả những người đáng giá đều có phần tự lập trong học vấn của mình"
Câu nói của N. Mandela: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới", điều ấy
đã được chứng minh rất rõ ràng qua những trang sử của dân tộc và của cả nhân loại. Chúng ta có được cuộc sống đầy
đủ và tiện nghi như ngày hôm nay chính là nhờ sự phát triển của giáo dục, chính vì vậy mỗi chúng ta phải biết quý
trọng sự giáo dục mình đang được nhận đồng thời tìm kiếm thêm những sự giáo dục về các lĩnh vực khác nhau để
nâng cao kiến thức nội hàm của bản thân.
17
21. Cho ý kiến về quan điểm: “Nên bỏ giáo dục lao động trong nhà trường hiện nay học sinh hầu như không
phải lao động ở trường, kể cả những hoạt động đơn giản nhất như trực nhật lớp, tổng vệ sinh trường sở”
Giáo dục lao động là một trong 11 nguyên tắc của giáo dục có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành nhân cách người
học. Cuộc sống lao động là môi trường, là phương tiện góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho những
con người đang sống và làm việc trong đó. Vì thế mà giáo dục phải có sự gắn kết chặt chẽ với cuộc sống và lao động để
hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện cho học sinh.
Hoạt động giáo dục nhằm giáo dục học sinh trở thành người công dân thích ứng với cuộc sống lao động và sinh hoạt xã
hội. Thực tiễn giáo dục cho thấy rằng, hiệu quả giáo dục phụ thuộc vào kiến thức sự trải nghiệm của bản thân học
sinh. Nên muốn có kiến thức và kinh nghiệm, con người phải tham gia các hoạt động trong các môi trường, hoàn cảnh và
tình huống sống khác nhau. Chính cuộc sống lao động là môi trường, phương tiện góp phần vào việc phát triển nhân
cách toàn diện. Bỏ qua, hoặc xem nhẹ nguyên tắc này đồng nghĩa với việc các nhà trường không hoàn thành mục tiêu
giáo dục toàn diện. Ngoài giờ học, hàng tuần, học sinh phải tham gia lao động, vệ sinh trường lớp, vệ sinh nơi công cộng
tham gia lao động công ích địa phương. như vậy, với sự tiến hành thường xuyên kế hoạch của các nhà
trường sẽ giúp ích rất lớn vào việc hình thành đức tính yêu lao độngtrẻ, giúp các em hiểutrách nhiệm với bản
thân, cuộc sống…
Những công việc hàng ngày khi các em đến trường phải làm tưởng như đơn giản: quét dọn lớp, sân trường, tưới nước
cây, lau bàn ghế…cũng đã hình thành ở các em tình yêu lao động và khả năng hoàn thiện các kỹ năng lao động phục vụ
cho sinh hoạt, phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay: chú trọng “giáo dục năng lực và phẩm chất”, “giáo dục kỹ năng
sống”, tăng cường hoạt động trải nghiệm trong các nhà trường.
→ Nếu bỏ giáo dục lao động trong nhà trường sẽ tạo nên những yếu kém về ý thức - kỹ năng lao động và kỹ năng sống.
cần xác định rõ mục tiêu của giáo dục học sinh qua lao động và coi đây là yếu tố không thể thiếu được trong hành trình
đưa các em trở thành con người hữu ích của xã hội.
22. Tại sao nói sản phẩm giáo dục là thành quả chung của tất cả lực lượng giáo dục và cửa chính bản thân người
được giáo dục?
Nói sản phẩm giáo dục là thành quả chung của tất cả lực lượng giáo dục và của chính bản thân người được giáo dục vì có
sự kết hợp giữa Hiệu trưởng, gia đình, giáo viên, bản thân và xã hội:
1. Hiệu trưởng nhà trường có trách nhiệm tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội thực hiện xã hội hóa giáo dục
một cách chủ động, tích cực. Các lực lượng xã hội nói ở đây có thể là lực lượng xã hội trong nhà trường hay lực lượng
xã hội ngoài nhà trường. Để sự tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có nhiều kết quả, người hiệu trưởng phải hiểu
rõ sự tham gia quản lý của các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng; các tính chất của mối quan hệ giữa chính quyền
và các đoàn thể quần chúng và những nguyên tắc thực hiện quyền dân chủ trong nhà trường.
2. Giáo dục gia đình là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp giáo dục chung. Nhà trường và gia đình trong giáo dục
đã có những cơ sở pháp lý để thực hiện sự phối hợp nhưng điều quan trọng lại là sự thống nhất về nhu cầu, lợi ích giữa
nhà trường gia đình trong việc giáo dục con em, tình cảm của gia đình đối với con cái họ, do đó đối với nhà
trường. Vì thế, nhất thiết nhà trường phải phối hợp chặt chẽ với gia đình. Sự phối hợp đó là điều kiện cơ bản để làm tốt
việc giáo dục của nhà trường và việc giáo dục của gia đình, là yếu tố bảo đảm tính thống nhất giáo dục, là biện pháp để
xây dựng nhà trường và thực hiện mục tiêu giáo dục. Hiệu trưởng có nhiệm vụ tổ chức sự phối hợp với gia đình và Ban
đại diện cha mẹ học sinh để đạt được mục tiêu phối hợp là: Thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa
nhà trường và gia đình. Huy động mọi lực lượng của cộng đồng chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học
tập môi trường giáo dục lành mạnh, góp phần xây dựng sở vật chất nhà trường. Muốn vậy, hiệu trưởng phải tổ
chức tốt hội nghị cha mẹ học sinh đầu năm. xây dựng, củng cố Ban đại diện cha mẹ học sinh; tư vấn cho Ban đại diện
cha mẹ học sinh trong xây dựngsử dụng quỹ Hội, hỗ trợ nhân lực, vật lực; thu hút Hội tham gia giáo dục học sinh;
chỉ đạo đội ngũ giáo viên, nhân viên phối hợp với gia đình và Ban đại diện cha mẹ học sinh.
3. Công đoàn là một tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp trong hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa
các chức năng: Tham gia giáo dục người lao động; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của quan nhà nước; Chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Hiệu trưởng trách nhiệm
phối hợp với công đoàn để xây dựng và thực hiện kế hoạch nhà nước ở trường học; thực hiện chế độ chính sách và chăm
lo đời sống cán bộ, giáo viên; xây dựng tập thể sư phạm và tổ chức công đoàn vững mạnh qua các việc: tổ chức hội nghị
cán bộ công chức và các phong trào thi đua; cải tiến lề lối làm việc nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác; phối
hợp hiệu quả trong các hội đồng được thành lập theo quy định; thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của
18
quan; phối hợp trong việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công chức và trong việc xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức.
4.Đoàn/Đội là một lực lượng giáo dục quan trọng trong nhà trường. Để phát huy vai trò của Đoàn/Đội ở trường học, hiệu
trưởng cần xây dựng các điều kiện tối thiểu cho hoạt động Đoàn/Đội; thực hiện các chính sách đối với trợ thanh
niên/tổng phụ trách, tạo thuận lợi cho giáo viên này hoạt động. Sự quan tâm giúp đỡ của hiệu trưởng cần thể hiện ra các
biện pháp cụ thể. Đa dạng hoá các loại hình tổ chức hoạt động thích hợp với từng loại hình trường, thích hợp với nhu cầu
của thanh thiếu niên và mục tiêu giáo dục. Kết hợp giải quyết mâu thuẫn giữa việc tăng số lượng và nâng cao chất lượng
Đoàn/Đội viên. Để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp với Đoàn/Đội, tuỳ tình hình cụ thể ở mỗi trường, hiệu trưởng có
thể lựa chọn giải quyết một hay một số, thậm chí tất cả các vấn đề sau đây, nếu thấy cần thiết:
Thiết lập mối quan hệ đúng đắn trên cơ sở hiểu đúng chức năng, nhiệm vụ của Đoàn/Đội trường học. \
Giúp đỡ xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn/Đội học sinh đủ khả năng để đáp ứng vai trò của của tổ chức đó.  Tạo điều kiện
về thời gian, cơ sở vật chất, kinh phí... cho Đoàn/Đội hoạt động.
Tăng cường chỉ đạo sự phối hợp của giáo viên chủ nhiệm với chi đoàn học sinh; chú ý theo dõi, kiểm tra thường xuyên
công tác của giáo viên chủ nhiệm với chi đoàn lớp để giáo viên chủ nhiệm giúp đỡ ban chấp hành chi đoàn/ban chấp
hành chi đội nhưng không làm thay.
Giúp đỡ hướng tới những công tác thích hợp và lựa chọn những nội dung công tác có trọng tâm.
5. Sự nghiệp giáo dục của toàn hội, mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước hội, TW địa phương
cùng làm giáo dục, tạo ra phong trào học tập trong toàn dân. Xã hội hóa giáo dục nâng cao trách nhiệm của mọi người
đối với giáo dục thế hệ trẻ, từng xã/phường thực hiện cơ chế Đại hội giáo dục, tạo ra môi trường giáo dục thống nhất,
tích cực cho cả xã hội, gia đình, nhà trường; xã hội hóa giáo dục cũng tăng thêm các nguồn lực, nhất là nguồn tài chính
cho giáo dục, động viên tinh thần và vật chất tạo ra động lực cho người dạy; khen thưởng học sinh giỏi, giúp đỡ học sinh
khó khăn, khuyến khích các học sinh chăm học. Xã hội hóa giáo dục gắn với đa dạng hoá các nguồn lực, nguồn đầu
cho giáo dục. Sự phối hợp các lực lượng xã hội, xã hội hóa giáo dục, một mặt là sự tham gia của xã hội với nhà trường
trong hoạt động giáo dục, mặt khác đòi hỏi ngành giáo dục và nhà trường phải đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Mối
quan hệ giữa nhà trường và xã hội là mối quan hệ hai chiều phải được quan tâm thường xuyên và giải quyết kịp thời theo
hướng phát triển của xã hội. Cần chú ý những việc trọng tâm sau đây:
Mối quan hệ giữa nhà trường với chính quyền địa phương: Tham dự hội nghị tổng kết hoặc đại hội với địa phương; tham
dự hoạt động xã hội với địa phương; đề xuất yêu cầu của đơn vị.
Huy động cộng đồng: Dựa vào yêu cầu cụ thể của trường; chọn thời điểm thích hợp; dựa vào cha mẹ học sinh.
Xây dựng môi trường giáo dục: Nắm chắc yêu cầu của địa phương; có hiểu biết về các phong trào mà địa phương đang
phát động; chú trọng đến công tác phòng chống các tệ nạn xã hội tác động đến học sinh.
23. Ý kiến về quan điểm: “Không có phương pháp giáo dục nào là vạn năng”
Khái niệm vạn năng : vạn có nghĩa là nhiều năng có nghĩa là chức năng ý nói một vật gì đó có rất
nhiều chức năng khác nhau cũng có thể nói về 1 người có thể làm đc rất nhiều việc. Trong QTGD
không có phương pháp giáo dục nào là vạn năng hoặc tối ưu. Mỗi phương pháp có những ưu, nhược
điểm riêng của nó.Vì vậy cần phối hợp các phương pháp giáo dục một cách hợp lý và mềm dẻo, linh
hoạt. Những điều kiện lựa chọn phương pháp giáo dục: - Mục tiêu giáo dục cụ thể. - Nội dung giáo
dục cụ thể. - Đặc điểm đối tượng giáo dục. - Khả năng của nhà giáo dục. - Điều kiện thực tế để vận
dụng các phương pháp giáo dục. Cần kết hợp và thống nhất giữa hoạt động của nhà giáo dục với hoạt
động của người được giáo dục. Tuyệt đối tránh hai xu hướng: áp đặt, khi đề cao vai trò nhà giáo dục,
hoặc tự do vô tổ chức trong giáo dục khi đề cao vai trò người được giáo dục. Vì vậy, không có
phương pháp nào là hoàn hảo, mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng. Giáo viên phải là người
chủ động vận dụng phối hợp các phương pháp để tạo nên một bài giảng hoàn hảo, phục vụ cho mục
đích học tập.
19
24. Quan điểm về trường hợp học sinh: học trước chương trình lớp 1 nhà; học trước, học vượt qua chương
trình các môn học trên lớp.
các bậc học cao, người học có thể tiết kiệm thời gian học nhờ năng lực tốt và nên những chế đặc biệt để nuôi
dưỡng nhân tài; nhưng ở các bậc học dưới, không nên chạy theo kiểu học “rút ngắn tuổi thơ”. Thế nên tôi vẫn nhấn
mạnh việc học vượt lớp, trước tuổi cần phải xem xét trên quyền lợi của trẻ”. Lát cắt giữa 5 và 6 tuổi với trẻ rất quan
trọng. Đối với trẻ em, khi bước vào lớp một, việc học chữ đối với trẻ thực sự chưa gây được hứng thú, việc phải làm
những bài tập viết chữ ở nhà là một gánh nặng đối với trẻ, do vậy trẻ thường tìm cách lảng tránh. Mục đích giáo dục
mầm non là chăm sóc, nuôi dưỡng, tổ chức hoạt động vui chơi. Trẻ được làm quen với chữ cái và chữ số không đồng
nghĩa với việc dạy học viết chữtính toán. Các cô giáo mầm non cũng không có chức năng và nhiệm vụ dạy học
cho trẻ như cácgiáo lớp 1. Trẻ đi học trước, không được đào tạo theo một quy trình bài bản sẽ không đạt được
hiệu quả sư phạm như mong muốn. Chưa kể người dạy trước không có phương pháp sư phạm, không uốn nắn khi trẻ
ngồi sai thế, cầm bút sai...khi vào lớp 1 được dạy đúng chuẩn giáo sẽ rất khó uốn và trẻ rất khó sửa. Mặt
khác, không phải tất cả học sinh đều được đi học trước, thế sẽ tạo chênh lệch và áp lực lớn trong môi trường
phạm giữa học sinh biết và chưa biết. Lớp có nhiều trẻ biết chữ cô dạy đỡ vất vả hơn, tiến độ cũng nhanh hơn, nhưng
trẻ chưa biết sẽ bị điểm kém, sinh tự ti, chán học, rồi về cằn nhằn làm khổ bố mẹ, rồi bố mẹ cũng bị áp lực liên
quan... Do vậy điều quan trọng là cha mẹ, người lớn phải tìm cách động viên trẻ và không yêu cầu làm quá nhiều bài
tập, xen kẽ là những trò chơi trẻ ưa thích, những hình thức vận động, sau một thời gian trẻ sẽ quen dần với nề nếp và
sẽ hình thành tính tự giác.
25. Cho ý kiến về danh ngôn: “ của Chủ tịch Hồ ChíHiền dữ đâu phải do tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”
Minh
Con người sống trong một xã hội có sự đa dạng về tính cách, có người hiền, nhân hậu, vị tha cũng có những con người
dữ dằn, khó tính, thậm chí là độc ác. Sự khác nhau về nhân cách này theo cách nhận xét và đánh giá của chủ tịch Hồ Chí
Minh thì đó không phải là do bẩm sinh, tức không phải là bản chất ban đầu của con ngườido sự giáo dục cũng như
môi trường sống của người đó tạo nên: “Hiền dữ đâu phải tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Trong những môi trường sống khác nhau thì con người xu hướng phân hóa tính cách khác nhau, chẳng hạn như khi
sống trong một xã hội, một cộng đồng lành mạnh, trong sạch, tiếp xúc với những con người tốt thì người sống trong
hội ấy cũng có xu hướng trở thành một người tốt, tính cách cũng phần thiện lương hơn. Và ngược lại, nếu như một
người sống trong một xã hội có nhiều tệ nạn, tiếp xúc với những con người có nhiều thiên hướng xấu thì tính cách cũng
có phần tiêu cực hơn. Ngay khi con người được sinh ralớn lên thì những ngườihọ tiếp xúc nhiều nhất, lâu nhất
chính là những người thân trong gia đình, cụ thể hơn, tác động mạnh mẽ hơn thì đó chính bố mẹ của họ. Bố mẹ
không chỉ sinh con ra mà còn nuôi dưỡng những đứa con ấy, trong quá trình đứa con trưởng thành, nếu như bố mẹ có ý
thức giáo dục con tốt, đúng cách thì đứa con ấy sẽ trở thành những người con ngoan, ích cho hội. Nếu như giáo
dục sai cách, dụ như dùng bạo lực với con hay văng tục chửi bậy trước mặt con cũng như làm ra những hành động
đáng lên án như ăn trộm, ăn cướp, sa vào các tệ nạn xã hội thì đứa con ấy dù ít hay nhiều cũng sẽ bị tác động xấu đến ý
thức cũng như hành động.
Như vậy, ta có thể thấy sự giáo dục của bố mẹ có sự ảnh hưởng rất lớn đến những đứa con. Và một nhân tố giáo dục nữa
cũng ảnh hưởng lớn đến con người, đó chính là sự giáo dục từ trường học. Trường họcnơi mọi người đến trường để
học những kiến thức, năng về văn hóa cũng như tu rèn về phẩm chất, đạo đức. trường tuy chỉ dạy học sinh theo
những giờ giấc nhất định, không có điều kiện tiếp xúc với các em nhiều như những người thân trong gia đình nhưng hiệu
quả của việc giáo dục trường mang lại cùng cao. Bởi trường đội ngũ các thầy giáo được đào tạo về
chuyên môn, năng giáo dục những kiến thức được đưa vào giảng dạy cũng được đảm bảo về tính chuẩn mực
cũng như tính khoa học. Hơn nữa,trường không chỉ giáo dục cho học sinh về những kiến thức bộ môn còn giáo
dục các em về các kĩ năng sống, cách ứng xử, giao tiếp cũng như bồi dưỡng cho các em về các phẩm chất đạo đức để các
em có thể hình thành những nhân cách đúng đắn, chuẩn mực và có thể trở thành những người có ích cho xã hội.
Câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh “Hiền dữ đâu phải do tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” là một câu nói hay,
thể hiện được tầm vóc tưởng cũng như sự hiểu biết của Bác. Điều đặc biệt nhất của câu nói này đó Bác không
khẳng định chắc chắn một trăm phần trăm vai trò của giáo dục với nhân cách của con người.
20
26. (Ngạn ngữ Nga). Hãy đưa quan điểm của bản thân về“Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người”
ngạn ngữ trên
Trong cuộc sống xã hội hiện đại, con người luôn cố gắng phấn đấu và nỗ lực hằng ngày để hoàn thiện bản thân, đề chuẩn
bị cho một tương lai thật tươi đẹp phía trước. Những nỗ lực ấy bao gồm việc bồi dưỡngcách phẩm chất đạo đức
đặc biệt hơn cả đó là quá trình trau dồi kiến thức, lấy học vấn làm mục tiêu phấn đấu, để nâng cao giá trị của bản thân,
hiểu một cách đơn giản là làm đẹp bản thân bằng sự thu hút từ trí tuệ và nguồn kiến thức. Vẻ đẹp nội hàm xuất phát từ
bên trong con người luôn là đáng quý hơn cả, vậy nên ngạn ngữ Ngacâu: "Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm
đẹp con người", để nói về tầm quan trọng của học vấn trong quá trình hoàn thiện vẻ đẹp, sức hấp dẫn của một thể
trong cộng đồng. Vạn vật trong thế giới tự nhiên đều mang trong mình một vẻ đẹp, một sức hấp dẫn riêng, loài bướm say
mê với đôi cánh mỏng nhẹ rực rỡ, những loài hoa ngất ngây với hương thơm dịu ngọt, rồi thì ánh bình minh làm say lòng
người bởi sức sống tràn trề, cái nắng vàng nhạt thật ấm áp,... Riêng loài công cũng không ngoại lệ, những chú công đực
đã được tạo hóa ban tặng cho một bộ lông thật đẹp, khiến người ta phải trầm trồ, ngưỡng mộ không thôi, bởi độ tinh tế,
kỳ diệu của nó. Đó được xemkhí ái tình của mỗi chú công đực, mỗi một con lại có một bộ lông khác nhau, vào
mùa sinh sản chúng thi nhau khoe chiếc đuôi rực rỡ tựa những cái quạt lông vũ khổng lồ để thu hút sự chú ý của những
con cái. Tôi không biết loài công nghĩ gì, nhưng chắc hẳn chúng phải trân trọng bộ lông ấy lắm, bởi suy cho cùng
chính bộ lông đã làm nên giá trị và sức hấp dẫn riêng biệt của chúng, khiến chúng được tồn tại có ý nghĩa hơn. Chẳng ai
để ý đến một con công trụi lủi không có bộ lông sặc sỡ, dù chúng có mang danh loài công đi chăng nữa, vì thế nên đối
với công bộ lông chính là cả cuộc đời. Ngược lại, với con người, tạo hóa cũng ban tặng cho chúng ta ngoại hình từ thuở
khai sinh, thế nhưng ngoại hình ấy lại chỉ là thứ yếu, bởi cuộc sống vốn không phải ai cũng may mắn có một ngoại hình
thật mỹ miều. Và hơn tất cả chúng ta hơn muôn loài khác ở chỗ chúng ta có ngôn ngữ và một hệ thống tri thức cực kỳ đồ
sộ, chỉ đợi con người khai phá. Vẻ đẹp ngoại hình tuy lúc ban đầu có thể dễ dàng làm siêu lòng bất kỳ ai ngắm nhìn thế
nhưng, nhìn mãi nó cũng đâm ra ngán ngẩm nếu chúng ta không có những giá trị khác có chiều sâu hơn, hoặc với sức tàn
phá của thời gian thì vẻ đẹp tuyệt mỹ cũng đến ngày úa tàn, già nua. Thế nên chúng ta chẳng thể trông cậy quá
nhiều vào vẻ đẹp bên ngoài, đó là một sự liều lĩnh và thậm chí là hơi nông cạn. Khác với những vẻ đẹp tự nhiên sẵn có,
thì học vấn và tri thức lại là những thứ tồn tại mãi mãi, không thể mất đi mà chỉ có thể được bồi đắp dần theo thời gian.
tôi phải khẳng định rằng vẻ đẹp xuất phát từ một tâm hồn mang nhiều tri thức hữu ích luôn là một vẻ đẹp thật hấp
dẫn khó thể chối từ, dường như người ta chỉ muốn đi sâu để tìm hiểu thêm nữa chứ chẳng bao giờ thấy nhạt
nhẽo và ngán ngẩm. Một con người dẫu có đẹp đến đâu, nhưng phần nội hàm lại trống rỗng và nhạt nhẽo thì cũng khó có
thể khiến người ta thích thú và duy trì mối quan hệ, những cá thể ấy thường được gọi là "bình hoa di động", nghĩa rằng
đó là thứ chỉ để ngắm chứ không mấy hữu ích. Ngược lại, một người có ngoại hình thường thường bậc trung, nhưng lại
có vốn hiểu biết rộng rãi, luôn có cách mở rộng vấn đề, khiến những cuộc trao đổi trở nên thật thú vị, khiến cuộc sống
trở nên nhiều màu sắc, thì lâu dần ta bỗng thấy họ đẹp đẽ là kỳ. Đó không phải là vẻ đẹp hào nhoáng chói mắt, mà là vẻ
đẹp bừng sáng từ trong chính tâm hồn, từ chính bản chất con người ấy, và lâu dần họ lại càng trở nên đẹp hơn, lấn át cả
cái vẻ đẹp ngoại hình vốn chỉ là bề nổi. Tôi không phủ nhận vẻ đẹp ngoại hình, thế nhưng giá trị của một con người phần
nhiều nằm ở lượng tri thứcbạn có thể tích lũy được, bạn có thể làm được gì cho cuộc đời cho xã hội. Vẻ đẹp ngoại
hình không phải là cái bất biến và cũng có thể dần cải thiện, điều quan trọng nhất vẫn là chăm chỉ tích lũy kiến thức, làm
đẹp tâm hồn, nâng cao trí tuệ. thế trong tầm mắt của mọi người chúng ta mới thực đẹp và tỏa sáng, khiến người ta
phải nể phục và tôn trọng. Học không bao giờ là muộn, một con người thông minh sẽ học suốt đời, như lời Lê Nin từng
nói: "Học, học nữa, học mãi", chúng học bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian, bất kể mọi hình thức, chứ chẳng đơn thuần
thuần qua sách vở. Đôi khi những bài học trong thực tiễn cuộc sống lại khai mở cho chúng ta nhiều điều thú vị
chẳng sách vở nào đem lại được. Câu ngạn ngữ "Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người" quả thực là một
câu nói rất hay, thức tỉnh một bộ phận không nhỏ những con người ưa chuộng vẻ đẹp hình thức, mà quên đi rằng vẻ đẹp
thực sự của con người phải xuất phát từ tâm hồn, từ học vấn tích lũy được. Mỗi chúng ta hãy cố hoàn thiện bản thân từ
ngoại hình đến nhân cách và quan trọng nhất ấynền tảng tri thức, thứ sẽ quyết định tương lai của chúng ta tươi sáng
hay tối tăm. Đừng chỉ chăm chăm vào những thứ hào nhoáng, nhưng lại vô hồn trống rỗng nhé các bạn trẻ, hãy sống và
học tập một cách thật tích cực và tỉnh táo.
21
27. Cho ý kiến về danh ngôn “Không nên dạy cho trẻ em những chúng phải suy nghĩ, dạy cho chúng cách
suy nghĩ”. Margaret Mead.
Làm cha mẹ là nên tạo cho trẻ cái gốc rễ vững chắc bằng cách để chúng học hỏi từ những sai lầm và rèn luyện tính tự lập
khi còn trong vòng tay của chúng ta, và cũng đến lúc để chúng có đôi cánh để bay đi tìm nơi rộng mở để có cuộc sống
riêng của chúng. Nếu không có sự chấp cánh bay đi, chúng sẽ trở thành những đứa trẻ lớn xác nhưng tầm hồn "thơ dại"
như những đứa trẻ ở đầu bài. Rồi cuộc sống của những đứa trẻ này sẽ ra sao khi cha mẹ chúng không còn ở bên? Làm
sao giúp trẻ "nhận ra bản thân". Trong nuôi dạy trẻ, chúng ta không phải chỉ cho trẻ ăn, trò chuyện vui chơi cùng trẻ
đủ, mà chúng ta còn cho trẻ biết "trẻ là ai!". Nghĩa là, trẻ cần được cho sự tự tin trong suy nghĩ, sự độc lập trong những
việc làm. Điều này mới cho trẻ nhận ra rằng chính trẻ chứ không ai khác làm trên cuộc đời của trẻ. Điều này nên làm từ
sớm khi trẻ còn nhỏ. Nghe có vẻ khó hiểu, chúng ta rất dễ bắt gặp 2 dạng trẻ. Ngay trong gia đình, chúng ta có thể gặp
những đứa trẻ đã có suy nghĩ "lớn" sớm như cần học tiếng Anh, tìm tòi cái này cái kia và đã sớm thành công. Đó là trẻ đã
sớm nhận ra bản thân trẻ. Nhưng, chúng ta cũng hay gặp những đứa trẻ hay làm những việc không có mục đích như chơi
game, tán gẫu,... rồi loay hoay mãi ở độ tuổi 30 chưa rõ làm gì.
1. Trẻ con học từ trải nghiệm, không có đúng sai, chỉ là trải nghiệm.
Khái niệm trải nghiệm có thể được chúng nghĩ là những hoạt động trẻ sẽ trải qua. Đúng là như vậy, nhưng cần hiểu sâu
hơn. những hoạt động trẻ cần chính trẻ, chính bản thân trẻ nhận ra vấn đề giải quyết. Khái niệm này khá
trừu tượng và đây là 1 số ví dụ để chúng ta dễ hình dung như thế nào là "chính bản thân trẻ".
VD1: Trẻ dưới 2 tuổi thường hay khóc thức đêm. Đây là 1 trải nghiệm của trẻ. Dĩ nhiên, chúng ta loại bỏ yếu tố trẻ
đang có 1 vấn đề bệnh lý nào đó. Trẻ trải nghiệm có thể là do trẻ đói cần bú hoặc chỉ đơn giản cần mẹ chứ không cần
thiết bú. Đầu tiên, hãy để trẻ nhận ra trải nghiệm này bằng cách đừng bế trẻ lên liền để ru ngủ lại. Hãy để trẻ nằm
ngay trên giường, bạn có thể vỗ lưng trẻ. Một số trẻ chỉ cần lăn qua lăn lại rồi ngủ, một số trẻ cần nhiều nổ lực hơn.
Nếu cần cho trẻ bú, hãy cho trẻ tự nổ lực tìm ti và cho bú tại chỗ, không nên di chuyển trẻ đi 1 nơi khác.
VD2: Trẻ không hài lòng thường đập đầu vào gối. Hành vi này không phải "cách gây áp lực" như chúng ta hay nghĩ.
Đơn giản là thể hiện 1 "sự rối bời" trong tìm cách giải quyết của trẻ. Cha mẹ nên bình tĩnh, giữ con lại bằng hai tay
để cho trẻ lấy lại sự chú ý -tín hiệu này cho trẻ biết bạn đang lắng nghe trẻ. Hãy hỏi con bằng những câu hỏi để giúp
trẻ diễn đạt vấn đề rõ hơn. Có những câu hỏi cần câu trả lời của trẻ, nhưng có những câu hỏi chỉ cần mang tính dẫn
dắt để trẻ mở rộng diễn đạt. Khi trẻ bình tĩnh, hãy cho trẻ biết việc đập đầu vào gối là không cần thiết, khi cần con
hãy nắm tay mẹ, mẹ sẽ trả lời con. Bạn đừng nghĩ trẻ 12 tháng tuổi không hiểu gì khi bạn áp dụng những điều này.
Đúng là, trẻ chưa có ngôn ngữ để trả lời câu hỏi của bạn, nhưng trẻ sẽ dùng những cử chỉ, ánh mắt hoặc ngôn ngữ
riêng để cho bạn biết. Đó là cách mà trẻ học và nhận ra trải nghiệm và cũng là cách để trẻ giải quyết vấn đề.
2. Luôn cho trẻ có ý kiến, không có ý sai hay đúng, chỉ là ý kiến để thảo luận.
Làm cách nào để trẻ bớt đòi mua đồ chơi? Tôi vẫn khuyên cha mẹ: Hãy cho trẻ quyết định mua cái gì và không mua cái
gì? thì trẻ sẽ chỉ đòi mua khi đã suy nghĩ thật kỹ. Tại sao? Bởi thông thường trẻ em đòi mua món đồ nào đó
thường do trẻ thích, trẻ muốn cái mới chưa thật sự bỏ công suy nghĩ "Mua làm gì". Nếu bạn cho trẻ lựa
chọn, trẻ bắt đầu lôi 1 danh sách cái này, cái kia và cũng bắt đầu suy tính. Do đó, sự cân nhắc sẽ bắt đầu hình thành.
Khi có sự cân nhắc thì trẻ sẽ không vội đưa ra quyết định nếu chưa suy nghĩ kỹ.
3. Tranh luận với trẻ, không có ý kiến sai hay đúng, chỉ là cách mở rộng vấn đề.
Tranh luận không phải là cách chúng ta dùng sự la hét, ép buộc trẻ phải đồng ý với ý kiến của bạn. Tranh luận là giúp trẻ
ý kiến phản biện. Tranh luận rất dễ làm bạn suy nghĩ tiêu cực, do đó, nên chú ý bình tĩnh lắng nghe con
bằng trái tim.
Trẻ nhỏ có thể cho rằng: chiếc lá màu đỏ (khái niệm nghe có vẻ sai về thực tế, nhưng thật ra vẫn có những chiếc lá màu
này biết đâu bé đã nhìn thấy). Do đó, tranh luận là cách giúp trẻ nhận ra sự kết nối các sự thật để đưa vào nhận định
riêng của trẻ . Ai cho bạn 1 nhận định, điều này có thể đúng hay sai, nhưng nhận định này sẽ có giá trị sử dụng nếu
nó là sự kết nối các sự thật hay bằng chứng. Đó là nguyên lý cơ bản của sự tư duy.
28.Cho ý kiến về danh ngôn “Thầy giáo của anh có thể dắt anh đến cửa; đạt được sự học là việc tùY thuộc vào mỗi
người” (Danh Ngôn Trung Quốc)
Câu danh ngôn này làm em nhớ đến câu nói: Không thầy đố mày làm nên. Thật vậy, đối với mỗi một người học trò,
người thầy luôn đóng vai trò quan trọng. Giống như ngọn đèn dầu soi sáng giữa trời đêm, thầy cô giáo chính những
người sẽ định hướng, dạy dỗđưa học trò tiếp cận đến bến bờ tri thức. Tuy vậy nhìn vào thực tế, ta có thể thấy một
nghịch lí: tại sao học cùng một người thầy giỏi, cùng tiếp xúc môi trường học tập như nhau, tại sao xã hội chúng ta vẫn
22
có những học sinh ưu túnhững học trò “cá biệt”. Đó chính là ý nghĩa mà vế sau của câu danh ngôn muốn gửi gắm:
“đạt được sự học là việc tuỳ thuộc vào mỗi người”. Mỗi chúng ta, ai cũng có những sở trường, sở đoản, những khả năng
và những khiếm khuyết riêng. Không ai hoàn hảo tuyệt đối trên thế giới này, chúng ta không có quyền lựa chọn trí thông
minh, hay khả năng của bản thân khi sinh ra, tuy nhiên mỗi người đềuthể lựa chọn cách phát triển những khả năng
hiện có. Giống như trong lịch sử âm nhạc thế giới, chúng ta được thấy một Beethoven - nhà soạn nhạc thiên tài với
những bản nhạc bất hủ, nổi tiếng đến tận ngày nay, song, nếu không nhờ công dạy dỗ của người thầy Neefe sự
luyện tập không ngừng nghỉ, tài năng của Beethoven được cả thế giới công nhận. Ngay cả khi số phận trở nên nghiệt ngã
hơn, khi nhà soạn nhạc thiên tài không còn nghe được âm thanh, trở thành người khiếm thính, ông vẫn nỗ lực vượt qua
nghịch cảnhhàng loạt sáng để đời như Sonata ánh trăng, bản giao hưởng số 5,... đã ra đời trong khoảng thời gian
khắc nghiệt ấy. Tuy nhiên, người không học như ngọc không mài, nếu không trau dồi, không luyện tập, người tài năng
đến mấy cũng sẽ bị thui chột. Nữ idol Lisa của nhóm Blackpink - nhóm nhạc nữ nổi tiếng thế giới thời điểm hiện tại đã
từng nói: “những người năng tốt, không đáng sbằng những người chăm chỉ, kiên cường”. Chúng ta không thể
chọn được cách sinh ra, nhưng chúng ta hoàn toàn lựa chọn bản thân phát triển thành viên đất sét hay toả sáng như viên
ngọc rạng ngời.
23
| 1/23

Preview text:

1. Vai trò của yếu tố môi trường đến sự phát triển nhân cách
- Khái niệm nhân cách:
- Những phẩm chất và năng lực có giá trọ đối với cá nhân và xã hội được hình thành và phát triển qua hoạt động và giao lưu mà cá nhân tham gia.
- Mỗi cá nhân có một nhân cách riêng, bao gồm hai mặt: mặt tự nhiên và mặt xã hội, trong đó mặt xã hội có ý nghĩa
quan trọng đặc biệt, thể hiện đặc thù về nhân cách của mỗi con người.
- Nhân cách là tổ hợp những phẩm chất, năng lực không nhất thành bất biến mà thường xuyên vận động, biến đối theo
chuẩn mực, giá trị xã hội. Vì vậy, mọi cá nhân không chỉ phải thường xuyên giữ gìn, bảo vệ mà còn phải rèn luyện, bồi
dưỡng để nhân cách ngày càng hoàn thiện hơn.
- Khái niệm sự phát triển nhân cách
+ Khái niệm: Sự phát triển nhân cách là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh
thần ở trẻ diễn ra theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể có ý thức trong xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách được thể hiện trên cả 3 phương diện như: Sự phát triển thể chất, sự phát triển về tâm lý và sự
phát triển về phương diện xã hội
+ Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách: Di truyền bẩm sinh môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Khái niệm môi trường:
+ Môi trường là: toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiệu hữu ảnh hưởng lớn lao đến đời sống và nhân cách con người.
Môi trường bao quanh con người gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên gồm khí hậu,
đất nước, sinh thái và môi trường xã hội, đó là các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa… Hoàn cảnh được hiểu
một yếu tố hoặc một môi trường nhỏ hợp thành của môi trường lớn, môi trường nhỏ tác động trực tiếp, mạnh mẽ,
quyết liệt trong một thời gian, không gian nhất định tạo nên hướng hình thành và phát triển nhân cách. + Phân loại:
Môi trường tự nhiên: khí hậu, đất, nước, hệ sinh thái
Môi trường xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa,…
- Vai trò của yếu tố môi trường
+ Tác động của môi trường đối với sự phát triển của cá nhân vô cùng mạnh mẽ, phức tạp, có thể cùng chiều hay ngược
chiều, có thể tốt hoặc xấu, chủ yếu theo con đường tự phát. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của môi trường bị “khúc
xạ” bởi yếu yếu tố giáo dục, bởi trình độ nhận thức, niềm tin, quan điểm, ý chí, xu hướng và năng lực của cá nhân.
Vì vậy C Mác đã khẳng định: “Hoàn cảnh sáng tạo ra con người, trong một mức độ con người lại sáng tạo ra hoàn cảnh”
+ Như vậy trong sự tác động qua lại giữa nhân cách và môi trường cần chú ý đến hai mặt của vấn đề:
Thứ nhất, tính chất tác động của môi trường, hoàn cảnh vào quá trình phát triển nhân cách
Thứ hai là tính tích cực của nhân cách tác động vào môi trường, hoàn cảnh nhằm điều chỉnh, cải tạo nó phục vụ nhu cầu, lợi ích của mình.
+ Có thể khẳng định ảnh hưởng to lớn của yếu tố môi trường đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên
nếu tuyệt đối hóa vai trò của môi trường là phủ nhận vai trò ý thức, sáng tạo của chủ thể, đó là sai lầm về nhận thức
luận. Ngược lại, việc hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của yếu tố môi trường cũng phạm sai lầm của thuyết “Giáo dục
vạn năng”. Do đó phải đặt quá trình giáo dục, quá trình hình thành và phát triển nhân cách trong mối quan hệ tương
tác giữa các yếu tố để có thể đánh giá đúng đắn.
- Ví dụ: người có hoàn cảnh sống khó khăn nhưng người ta vẫn vươn lên hoàn cảnh ấy để có thể trở thành những nhân cách hoàn thiện hơn
- Kết luận sư phạm:
Trong quá trình giáo dục con người, cần chú ý: 1
- Gắn giáo dục, học tập với thực tiễn sáng tạo xã hội.
- Hình thành ở học sinh những định hướng giá trị đúng đắn.
- Xây dựng cho học sinh bản lĩnh vững vàng trước ảnh hưởng của môi trường.
- Tạo điều kiện cho học sinh tham gia cải tạo xây dựng môi trường theo yêu cầu của xã hội.
- Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cần đánh giá đúng mức vai trò của môi trường :
+ tránh tuyệt đối hoá vai trò của hoàn cảnh - hạ thấp vai trò của giáo dục;
+ ngược lại phủ nhận tính qui định của xã hội đối với sự hình thành và phát triển nhân cách).
Phải xem môi trường là yếu tố quyết định gián tiếp.
Không phủ nhận nhưng cũng không tuyệt đối hóa vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách. Tạo 1 môi
trường thuận lợi cho học sinh. Cải biến môi trường giáo dục cho học sinh
2. Vai trò của yếu tố di truyền bẩm sinh đến sự phát triển nhân cách
- Khái niệm sự phát triển nhân cách
+ Khái niệm: Sự phát triển nhân cách là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh
thần ở trẻ diễn ra theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể có ý thức trong xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách được thể hiện trên cả 3 phương diện như: Sự phát triển thể chất, sự phát triển về tâm lý và sự
phát triển về phương diện xã hội
+ Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách: Di truyền bẩm sinh môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Khái niệm di truyền bẩm sinh: Di truyền là sự truyền lại từ thế hệ trước cho thế hệ sau những đặc điểm cấu trúc
giải phẫu của cơ thể; về đặc điểm sinh học riêng nhưng: màu da, màu tóc, vóc dáng, thể trạng, các tư chất của hệ
thần kinh,…trước hết nói đảm bảo cho loài người tồn tại, thích ứng với những biến đổi của các điều kiện sinh tồn và
sau đó giúp loài người phát triển. Di truyền những đặc điểm sinh học của cha mẹ truyền lại cho con cái không phải
chỉ biểu hiện một cách hiện hữu khi đứa trẻ mới sinh mà có thể có những mầm mống, tư chất sau một thời gian mới
bộc lộ thành dấu hiệu của một số năng khiếu như: Hội họa, thơ ca, toán học…hoặc thiểu năng trong những vực cần
thiết trong cuộc sống. Bẩm sinh là những thuộc tính, đặc điểm sinh học có ngay khi đứa trẻ mới sinh.
- Vai trò của yếu tố di truyền bẩm sinh:
+ Di truyền bẩm sinh chỉ là tiền đề vật chất (mầm mống) của sự phát triển tâm lí, nhân cách. Di truyền bẩm sinh nói lên
chiều hướng, tốc độ, nhịp độ của sự phát triển. Những đứa trẻ có gen di truyền về một lĩnh vực hoạt động nào đó sẽ
sớm bộc lộ thiên hướng về lĩnh vực hoạt động đó. Tuy nhiên, di truyền bẩm sinh không phải yếu tố quyết định tương
lai của nhân cách đó. Nói cách khác, đứa trẻ muốn trở thành một tài năng cần phải có môi trường thuận lợi, những
tác động giáo dục đúng hướng và hoạt động tích cực của cá nhân. Mã di truyền mang bản chất, sự sống tự nhiên tích
cực hoặc tiêu cực là những mầm mống, tư chất tạo tiên đề vô cùng thuận lợi cho người đó hoạt động có kết quả trong một lĩnh vực nào đó
- Ví dụ: Trong thực tiễn đời sống, chúng ta dễ nhận thấy rằng người Châu Âu da trắng, mắt xanh, người Châu Phi da
đen tóc xoăn thì con cái của họ khi mới sinh cũng bố mẹ. Đây là sự truyền lại từ thế hệ cha mẹ đến con cái những
đặc trưng sinh học nhất định của nòi giống, được ghi lại trong một chương trình độc đáo được gọi là gen. Gen là vật
mang mã di truyền những đặc điểm sinh học của giống loài trong quá trình tồn tại, phát triển theo con đường sinh
học của giống loài trong quá trình tồn tại, phát triển theo con đường tiến hóa tự nhiên.
- Kết luận sư phạm: Không phủ nhận nhưng cũng không tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố di truyền và bẩm sinh đối với
sự phát triển nhân cách.
3. Vai trò của yếu tố hoạt động tích cực của cá nhân sự phát triển nhân cách
- Khái niệm sự phát triển nhân cách 2
+ Khái niệm: Sự phát triển nhân cách là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh
thần ở trẻ diễn ra theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể có ý thức trong xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách được thể hiện trên cả 3 phương diện như: Sự phát triển thể chất, sự phát triển về tâm lý và sự
phát triển về phương diện xã hội
+ Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách: Di truyền bẩm sinh môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Yếu tố hoạt động tích cực của cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở, là nhân tố quyết định trực tiếp sự
phát triển nhân cách. Hoạt động của cá nhân xuất phát từ mục đích và nhu cầu của cá nhân, nhu cầu luôn thúc đẩy cá
nhân hoạt động và ngược lại hoạt động lại là cơ sở, là điều kiện để nảy sinh nhu cầu.
- Hoạt động là quá trình con người thực hiện mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với người khác và bản thân.
Thông qua hoạt động, con người chuyển hóa năng lực, phẩm chất tâm lí của bản thân thành sản phẩm thực tế, ngược
lại những sản phẩm thực tế đó làm phong phú, hoàn thiện them vốn liếng tinh thần của chủ thể.
- Thông qua hoạt động con người tiếp thu nền văn hóa xã hội và biến nền văn hóa của loài người thành vốn riêng
của mình, vận dụng chúng vào cuộc sống, làm cho nhân cách ngày càng phát triển. Hoạt động giúp cho cá nhân hiện
thực hóa khả năng về tố chất thành hiện thực, đồng thời nó là nguồn quan trọng nhất cung cấp cho cá nhân những
kinh nghiệm xã hội. Thông qua hoạt động con người có thể cải tạo những nét tâm lí và nét nhân cách đang bị suy
thoái, hoàn thiện chúng theo chuẩn mực đạo đức của xã hội. Mỗi con người là sản phẩm hoạt động của chính mình,
đó chính là con đường để thành đạt, để vươn tới lí tưởng.
- Nhiệm vụ vô cùng quan trọng của giáo dục là phải giúp người học được giáo dục thông qua hoạt động. Từ đó biến
quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục để hoàn thiện nhân cách của mình dù phải sống trong những môi
trường, hoàn cảnh phức tạp
- Hoạt động của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Muốn phát
huy vai trò của hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, nhà giáo dục cần:
- Nhà giáo dục phải am hiểu hoạt động chủ đạo của từng giai đoạn lứa tuổi từ đó xây dựng những chương trình hoạt
động cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh
- Tổ chức học sinh tham gia các hoạt động đa dạng về nội dung, phương pháp, hình thức, coi hoạt động là phương tiện giáo dục cơ bản
- Kết luận sư phạm: Không phủ nhận nhưng cũng không tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố hoạt động tích cực của cá
nhân đối với sự phát triển nhân cách.
4. Vai trò của yếu tố giáo dục đến sự phát triển nhân cách
- Khái niệm sự phát triển nhân cách
+ Khái niệm: Sự phát triển nhân cách là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh
thần ở trẻ diễn ra theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể có ý thức trong xã hội.
+ Sự phát triển nhân cách được thể hiện trên cả 3 phương diện như: Sự phát triển thể chất, sự phát triển về tâm lý và sự
phát triển về phương diện xã hội
+ Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách: Di truyền bẩm sinh môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.
- Khái niệm giáo dục: là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục) và đối tượng (người
được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội. Đây là quá trình tác động tự
giác có mục đích, có nội dung, phương pháp, phương tiện…được lựa chọn, tổ chức một cách khoa học giúp cho mọi
cá nhân chiếm lĩnh được những kinh nghiệm, những giá trị xã hội của nhân loại bằng con đường ngắn nhất => hình
thành và phát triển nhân cách theo yêu cầu xã hội.
- Vai trò của yếu tố giáo dục đến sự phát triển nhân cách:
+ Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển nhân cách của cá nhân
+ Xác định mục đích giáo dục cho cả hệ thống, cho từng bậc học, cấp học, trường học và từng hoạt động giáo dục cụ thể. 3
+ Xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức giáo
dục đáp ứng mục đích giáo dục, phù hợp với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể.
+ Tổ chức các hoạt động giao lưu.
+ Đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục…
+ Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu
cầu phát triển của tương lai để đẩy sự tiến bộ của xã hội. Vì vậy, giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Muốn
đi trước, đón đầu sự phát triển, giáo dục căn cứ trên những dự báo về tốc độ phát triển của xã hội, thiết kế nên mô
hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng.
+ Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách
+ Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra.
- Ví dụ: có những phương pháp dạy học riêng đối với những em học sinh bị khiếm khuyết…
- Kết luận sư phạm: không phủ nhận nhưng cũng không tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân
cách. Giáo dục cần tích cực góp phần cải tạo môi trường sống (gia đình, nhà trường, xã hội) làm cho nó ngày càng
lành mạnh, văn minh, thống nhất tác động của các lực lượng giáo dục theo mục tiêu chung phát triển nhân cách.
Đồng thời, giáo dục phảt phát hiện và phát triển những tiềm năng bên trong mỗi người học (bẩm sinh, di truyền,
năng khiếu, tố chất) biến chúng trở thành hiện thực. Đặc biệt tránh tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, coi “giáo dục là vạn năng”.
5. Bản chất của quá trình dạy học theo quan điểm nhận thức luận
- Khái niệm QTDH: quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của giáo viên và học sinh hình thành những quan
điểm, niểm tin, giá trị, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị, đạo đức, pháp
luật, thẩm mỹ, văn hóa, làm phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội.
- Bản chất QTDH: Bản chất của QTGD là quá trình tổ chức các hoạt động và giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho
người được giáo dục tự giác, tích cực, độc lập chuyển hóa những yêu cầu và chuẩn mực của xã hội thành hành vi và
thói quen tương ứng. QTGD là quá trình hình thành bản chất người – xã hội trong mỗi cá nhân một cách có ý thức,
là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các lực lượng bản chất xã hội của con người, được biểu hiện ở
toàn bộ các quan hệ xã hội của họ. Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống của mỗi cá nhân hoặc nhóm,
tầng lớp xã hội theo những chuẩn mực, các yêu cầu của sự phát triển xã hội, làm cho cá nhân biết sống phù hợp với
các chuẩn mực của xã hội. QTGD vừa mang bản chất của hoạt động vừa mang bản chất của giao lưu.
- So sánh QTNT của HS với QTNT của các nhà khoa học (đại diện cho quá trình nhận thức chung của loài người).
+ Giống nhau: đều là quá trình phản ánh thế giới khách quan và diễn ra theo con đường nhận thức mà Lênin đã chỉ ra,
đều làm cho vốn hiểu biết của chủ thể được phong phú hoàn thiện thêm + Khác nhau:
o Nhà Khoa học nhận thức, tìm ra cái mới với loài người , HS nhận thức cái mới đối với bản thân HS.
o con đường nhận thức: nhà khoa học mò mẫm, thử sai, gian nan, khó khăn; HS: con đường “khám phá lại”
o QTNT của nhà KH ko có khâu củng cố, rèn luyện kN,kx còn qtnt của hs phải có khâu này.
o qtnt của hs phải đảm bảo tính GD còn nhà KH thì không.
- Kết luận sư phạm: là một người giáo viên, chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học ntn?
6. Động lực của quá trình dạy học
- Khái niệm: Động lực của quá trình dạy học là việc phát hiện và giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn diễn ra trong
QTDH (bao gồm cả mâu thuẫn bên trong và bên ngoài)
- Mt bên trong và mt bên ngoài của qtdt: 4
+ Mâu thuẫn bên trong: là mâu thuẫn diễn ra giữa các thành tố của QTDH hoặc bên trong bản thân mỗi thành tố. Chẳng
hạn ND >< ND, HĐD>< HĐH…
+ Mâu thuẫn bên ngoài: là mâu thuẫn diễn ra giữa các thành tố trong QTDH với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, văn hóa, xã hội, …
+ Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn tồn tại suốt từ đầu đến cuối quá trình, việc giải quyết các mâu thuẫn khác xét cho
cùng đều phục vụ cho việc giải quyết nó. Mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học: là mâu thuẫn giữa một bên là
nhiệm vụ học tập do tiến trình dạy học đề ra và một bên là trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và trình độ phát triển
hiện có của người học. Các điều kiện để mâu thuẫn cơ bản của QTDH => mâu thuẫn của QT lĩnh hội tri thức, cần 3 điều kiện:
· Mâu thuẫn phải được người học ý thức đầy đủ và sâu sắc
· Mâu thuẫn phải vừa sức với người học
· Mâu thuẫn xảy ra do tiến trình dạy học mang lại. - Kết luận sư phạm:
+ Quan tâm điều khiển tốt các mối liên hệ. GV lẫn HS cần nghiên cứu nắm vững hệ thống lý luận về nhận thức để vận
dụng tốt trong hoạt động giảng dạy và học tập.
+ Quá trình hướng dẫn HS học tập phải tuân theo con đường nhận thức chung:
• Coi trọng việc hướng dẫn HS tìm tòi, tra cứu thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, hoặc coi trọng nguồn thông tin tạo cơ
sở ban đầu của sự học
• HS trung học phố thông là những người đã có kinh nghiệm, trong dạy học nên chú trọng những biện pháp giúp họ huy
động kinh nghiệm đã có để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ học tập;
• Hướng dẫn, kích thích HS tích cực thực hiện các thao tác trí tuệ (phân tích, so sánh, phân loại.. thông tin để rút ra kết
luận, hình thành kinh nghiệm lý luận trong học tập.
• Tổ chức cho HS vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống qua các hình thức thực
hành song song với học lý thuyết và thực hành sau khi học lý thuyết;
• Bồi dưỡng cho HS khả năng tự học, tự nghiên cứu và những phẩm chất cần thiết của nhà nghiên cứu khoa học.
7. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong dạy học
- Khái niệm nguyên tắc dạy học: Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính chất xuất
phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục,
với nhiệm vụ dạy học và với những tính quy luật của quá trình dạy học.
- Nội dung nguyên tắc đảm bảo thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục: Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá
trình dạy học phải võ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học,
công nghệ và văn hoá hiện đại, phải dần dần giúp học sinh tiếp cận với những phương pháp học tập, nhận thức, thói
quen suy nghĩ và làm việc một cách khoa học. Thông qua đó mà dần dần hình thành cơ sở thế giới quan khoa học,
tình cảm và những phẩm chất đạo đức cao quý của con người hiện đại. Dạy học không chỉ làm phát triển lý trí của
con người và cung cấp cho người học một khối lượng kiến thức nào đó mà phải làm cháy lên ở họ lòng khát khao
học tập một cách nghiêm túc. Thiếu điều đó thì cuộc sống không thể nào là một cuộc sống xứng đáng và hạnh phúc.
- Ảnh hưởng giáo dục của khoa học là người đồng hành không tránh khỏi của dạy học. Song từ đó sẽ không đúng
khi cho rằng dạy học bao giờ cũng có tác động như nhau đến học sinh và sự nỗ lực một cách tự giác, nghệ thuật của
nhà giáo dục không có ý nghĩa quan trọng. Trái lại, tính chất giáo dục của dạy học, phương hướng tư tưởng và sức
mạnh ảnh hưởng của nó tới học sinh là do nội dung, phương pháp dạy học, sự tổ chức tiết học và do tác động của
chính nhân cách người giáo viên quyết định.
- Yêu cầu thực hiện nguyên tắc đảm bảo 5
+ Võ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, hiện đại nhằm giúp cho họ nắm được quy luật phát triển
của tự nhiên, xã hội, tư duy, có cách nhìn và thái độ hành động đúng đắn đối với hiện thực.
+ Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã hội, con người Việt Nam, những truyền thống tốt đẹp trong
lịch sử dựng nước và bảo vệ đất nước của dân tộc ta qua hàng ngàn năm, đặc biệt truyền thống đó ngày càng phát
triển mạnh mẽ dưới sư lãnh đạo của Dảng. Từ đó giáo dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân
trước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong học tập và tu dưỡng.
+ Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, biết phê phán một cách đúng mức những thông tin đăng tải trên
các phương tiện thông tin đại chúng, những quan niệm khác nhau về một vấn đề.
+ Vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học theo hướng giúp học sinh làm quen với một số phương
pháp nghiên cứu khoa học ở mức độ đơn giản nhằm dần dần tiếp cận với hoạt động khoa học, rèn luyện những tác
phong, phẩm chất của người nghiên cứu khoa học.
- Kết luận sư phạm: chúng ta cần phải làm gì…
8. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong dạy học
- Khái niệm nguyên tắc dạy học: Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính chất xuất
phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục,
với nhiệm vụ dạy học và với những tính quy luật của quá trình dạy học. - Khái niệm:
Lý luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về một lĩnh vực nào đó trong thế giới. Nói cách khác, lý luận là sự quan
sát, nghiên cứu,nhận ra, thảo luận.
Thực tiễn là phạm trù cơ bản trong lý luận nhận thức Mác- Lênin cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”.
Trong nội dung “ Lý luận liên hệ với thực tiễn” đã phản ánh nội dung “học đi đôi với hành”.
Theo Hồ Chí Minh thì “ Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên.
Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn hoặc bắn lung tung cũng như không có tên. Vì vậy,
chúng ta phải gắng học, đồng thời phải hành”.
Theo Bác, học phải toàn diện: “ Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà còn phải có đạo đức cách
mạng”. Còn “ hành” theo Người là vận dụng những điều đã học vào việc giải quyết những vấn đề do thực tiễn đề ra.
Song việc làm đó có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa cách mạng rất lớn, có tác dụng hình thành con người có tư tưởng cao cả,
tình cảm và hành vi, góp phần vào sự nghiệp vĩ đại của tập thể, của dân tộc từ những công việc bình thường hàng ngày.
“Học” mà Bác nói đến ở đây là lý luận và “Hành” là thực tiễn, ta có thể thấy lý luận và thực tiễn là gắn bó với nhau, đan kết chặt chẽ. Vi vậy:
+ Thực tiễn và lý luận đều cần đến nhau, nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau
+ Thực tiễn và lý luận không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở,
động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
+ Thực tiễn là động lực thúc đẩy hoạt động lý luận ở chỗ: nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày
càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển.
- Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học nắm vững tri thức, nắm vững cơ sở khoa học, kỹ thuật,
văn hoá khi kết hợp hai điều kiện:
1) Tri thức là những điểm có hệ thống, quan trọng và then chốt hơn cả.
2) Tri thức đó phải được vận dụng trong thực tiễn để cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân. Thông qua đó mà giúp họ ý thức
rõ tác dụng của tri thức lý thuyết đối với đời sống, với thực tiễn, với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, hình
thành cho họ những kỹ năng vận dụng chúng ở những mức độ khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần phát triển
kinh tế- xã hội và văn hoá- khoa học của đất nước.
- Yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc đảm bảo:
+ Khi xây dựng kế hoạch chương trình dạy học cần lựa chọn những môn học và những tri cơ bản, phù hợp với những
điều kiện thiên nhiên, với hoàn cảnh thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, chuẩn bị cho người học thích
ứng nhanh và tham gia có hiệu quả vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. 6
+ Về nội dung dạy học phải làm cho người học nắm vững tri thức lý thuyết, thấy rõ nguồn gốc của những tri thức đó và
vai trò của tri thức khoa học đối với thực tiễn; phải vạch ra phương hướng ứng dụng tri thức khoa học vào hoàn cảnh
cụ thể đất nước, của địa phương; phải phản ánh tình hình thực tiễn vào nội dung dạy học.
+ Về phương pháp dạy học cần khai thác vốn sống của người học để minh hoạ, để đặt ra và giải quyết những vấn đề lý
luận. Cần vận dụng có đổi mới những phương pháp như thí nghiệm, thực nghiệm, nghiên cứu các tài liệu thực tiễn…
làm cho học sinh nắm nhanh và nắm chắc những tri thức lý thuyết và vận dụng những tri thức lý thuyết đó vào giải
quyết những tình huống khác nhau.Thông qua đó, bước đầu giúp học sinh làm quen với những phương pháp nghiên cứu khoa học.
+ Về hình thức tổ chức dạy học thì cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học khác nhau, đặc biệt là hình thức lên lớp với
hình thức tham quan học tập, hình thức thực hành, thực tập ở phòng thí nghiệm, ở các trung tâm kỹ thuật tổng hợp…
+ Dạy học kết hợp với lao động sản xuất và hoạt động công ích là điều kiện quan trọng để thực hiện hiệu quả nguyên tắc này. - Kết luận sư phạm:
9. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan với sự phát triển tư duy lý thuyết trong dạy học
- Khái niệm nguyên tắc dạy học: Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính chất xuất
phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục,
với nhiệm vụ dạy học và với những tính quy luật của quá trình dạy học.
- Nội dung nguyên tắc đảm bảo: trong quá trình dạy học có thể cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng
hay hình tượng của chúng, từ đó hình thành những khái niệm, quy luật, lý thuyết; ngược lại, có thể từ việc lĩnh hội
những tri thức lý thuyết trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng cụ thể sau. Trong việc vận dụng nguyên tắc này
bao giờ cũng đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng.
- Yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc đảm bảo:
+ Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là phương tiện và nguồn nhận thức.
+ Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh động, diễn cảm, nghĩa là kết hợp hai hệ thống tín hiệu.
+ Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu tượng đã có để hình thành những biểu tượng
mới, qua đó mà hình thành những khái niệm, định luật mới.
+ Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên phù hợp với lứa tuổi, nội dung và hoàn cảnh cụ thể
nhằm hình thành và phát triển tư duy lý thuyết cho họ.
- Kết luận sư phạm: Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả. Đề ra cho học sinh
những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập được mối quan hệ giữa cái cụ thể, cái trừu tượng và ngược lại.
10. Phương pháp thuyết trình trong dạy học
- Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy
học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học.
- Khái niệm phương pháp thuyết trình: Là phương pháp GV dùng lời nói để trình bày, giải thích ND bài học một
cách có hệ thống, logic cho HS tiếp thu
- Ưu điểm của phương pháp thuyết trình
+ Trong một thời gian ngắn, giáo viên có thể trình bày một khối lượng kiến thức lớn cho nhiều người học
+ HS có thể học được cách tư duy lôgic, cách đặt và giải quyết vấn, cách diễn đạt chính xác, rõ ràng, súc tích của GV
+ Là PP dễ thực hiện nhất vì không cần đến TBDH nào
+ Khi được nâng lên thành thuyết trình nêu vấn đề sẽ kích thích được tính tích cực tư duy của học sinh
+ Nếu kết hợp minh họa bằng các PTTQ, vấn đáp, thảo luận thực hành sẽ kích thích được tính năng động tích cực của HS
- Hạn chế của PP thuyết trình
+ Là PP độc thoại nên HS dễ hình thành thói quen thụ động, chống mệt mỏi => thiếu sáng tạo, ghi nhớ kém bền vững
+ Học sinh thiếu cơ hội phát triển ngôn ngữ nói
+ Giáo viên khó có thể chú ý đầy đủ đến trình độ nhận thức và KT sự lĩnh hội tri thức của từng học sinh
- Yêu cầu sư phạm của pptt: 7
+ Ngôn ngữ biểu đạt và nội dung phải có tính logic, phù hợp. GV càng nắm vững ND thì ngôn ngữ biểu đạt càng phong
phú và tăng tính thuyết phục
+ Phát âm rõ ràng, chính xác, tốc độ tần số âm thanh vừa phải
+ Ngôn ngữ phải có tính thuyết phục (giải thích, mô tả chứng minh bằng các VD). Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, thiện cảm, giàu hình ảnh
+ Nên kết hợp thuyết trình với các phương pháp khác như trực quan, vấn đáp, tình huống có vấn đề… - Kết luận sư phạm:
11. Phân tích phương pháp vấn đáp trong dạy học
- Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy
học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học.
- Phương pháp vấn đáp: là PPDH trong đó GV tổ chức thực hiện quá trình hỏi và đáp giữa GV và HS nhằm làm
sáng tỏ tri thức mới, rút ra những KL cần thiết. - Ưu điểm
+ Nếu sử dụng khéo léo, phối hợp với PPTT sẽ kích thích được tính tích cực tư duy, năng lực diễn đạt bằng lời của HS
+ Cả giáo viên và học sinh đều có thể nhanh chóng thu được tín hiệu ngược để điều chỉnh HĐ của mình
+ Tạo không khí sôi nổi trong giờ học
+ Giáo viên có thể sửa chữa ngay những sai sót của học sinh.
- Hạn chế: Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng đến KH dự kiến
- Yêu cầu xây dựng câu hỏi:
+ Câu hỏi phải rõ ràng, đơn giản, số lượng vừa phải, tập trung vào trọng tâm bài học
+ Câu hỏi phải chính xác, giúp học sinh hiểu đúng và hình thành được câu trả lời đúng vấn đề
+ Cần căn cứ vào ND bài học để XD câu hỏi lôgic, chặt chẽ
+ Hệ thống câu được XD từ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái quát và ngược lại, từ câu hỏi tái tạo đến câu hỏi sáng tạo
- Yêu cầu khi nêu câu hỏi cho học sinh:
+ Câu hỏi đưa ra một cách rõ ràng, hướng tới cả lớp
+ Chỉ định một HS trả lời, cả lớp nghe và phân tích
+ Bình tĩnh khi HS trả lời sai, tránh nôn nóng, vội vàng cắt ý HS + Giáo viên KL - Kết luận sư phạm:
12. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách và yêu cầu cao đối với con người trong công tác giáo dục - Nhân cách là gì?
- Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lý luận giáo dục, có tác dụng chỉ
đạo việc lựa chọn và vận dụng nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu mục
đích và nhiệm vụ giáo dục. - Nội dung nguyên tắc:
+ Tôn trọng nhân cách học sinh là tôn trọng nhân phẩm, tài năng trí tuệ, tự do tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng và thói
quen sống của mỗi cá nhân : Tôn trọng nhân cách còn bao gồm tôn trọng thân thể, không ai được xúc phạm đến
phẩm giá và thân thể con người.
+ Tôn trọng nhân cách là tin tưởng con người, tin tưởng ở khả năng trí tuệ, khả năng lao động sáng tạo của con người.
Tin tưởng là thể hiện sự mong muốn của các nhà giáo dục đối với đối tượng giáo dục và đồng thời cũng là một biện
pháp tế nhị buộc họ phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
+ Yêu cầu hợp lí chính là sự đòi hỏi cao hơn thực tế các em phải phấn đấu. Bằng hệ thống những mục tiêu, những tiêu
chuẩn nâng dần từng bước, thúc đẩy học sinh phải phấn đấu liên tục. Khi nhà giáo dục đặt ra những yêu cầu hợp lí,
học sinh sẽ cảm nhận được sự tin tưởng của giáo viên về mình, như là tiếp thêm sức mạnh để cố gắng nhiều hơn.
Yêu cầu cao chính là thể hiện niềm tin và sự tôn trọng nhân cách con người.
+ Muốn giáo dục con người phải tôn trọng nhân cách con người và phải có những yêu cầu hợp lí đối với con người. Vì:
Tôn trọng nhân cách học sinh cần phải luôn đề ra các yêu cầu giúp cho học sinh vươn lên, phát triển nhân cách tốt 8
hơn. Đòi hỏi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử sư phạm phải thể hiện sự
tôn trọng, yêu thương, dìu dắt các em tiến bộ.
- Những lưu ý khi thực hiện nguyên tắc:
+ Nhà giáo dục không được xúc phạm đến nhân cách học sinh, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ lí do gì, tránh
thành kiến đối với học sinh.
+Nhà giáo dục cần tránh những thái độ gay gắt, nhạo báng, mỉa mai, mệnh lệnh, áp đặt, nhưng đồng thời tránh những dễ
dãi, xuề xoà “vô nguyên tắc”.
+ Luôn đánh giá cao hơn một chút so với cái mà họ có, đồng thời đòi hỏi cao hơn một chút so với những gì họ đạt được.
Tế nhị, khéo léo, có tình, có lý trong ứng xử sư phạm của giáo viên.
+ Cần xác nhận những ưu điểm, những thành công của học sinh dù đó là thành công nhỏ bé, phát huy ưu điểm là cơ sở
tạo ra những thành công mới trong quá trình phấn đấu của học sinh.
- Ngoài ra, cần đối xử công bằng dân chủ, khách quan với các học sinh. Biết giao việc, lẳng nghe, tin tưởng và sẵn lòng
đôn đốc, giúp đỡ học sinh tiến bộ.
4) Ý nghĩa của việc tôn trọng nhân cách của người được giáo dục
- Tôn trọng nhân cách HS là tôn trọng chính bản thân của nhà giáo dục, tôn trọng quá trình giáo dục, giúp quá trình giáo
dục được diễn ra thuận lợi và phù hợp với bản chất, đặc điểm của quá trình giáo dục
- Hình thành được niềm tin: nhà giáo dục tin vào phương pháp giáo dục, tin vào triển vọng hoàn thiện nhân cách người
được giáo dục; HS tin tưởng vào khả năng của bản thân, tin tưởng vào những biện pháp giáo dục mà nhà giáo dục đưa ra
- Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
13. Phương pháp nêu gương trong công tác giáo dục
- Phương pháp giáo dục: Phương pháp giáo dục (PPGD) là thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá trình giáo
dục, có quan hệ mật thiết với các thành tố khác của quá trình này, đặc biệt là với mục đích, nội dung, nhà giáo dục,
người được giáo dục, phương tiện giáo dục, với các điều kiện thực hiện quá trình này. Phương pháp giáo dục được
xem là cách thức tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ
đạo nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra.
- Phương pháp nêu gương là phương pháp phát huy tác dụng của các nguyên tắc, chuẩn mực, là sử dụng những
hình mẫu đạo đức được thể hiện cụ thể, trực quan sinh động trong hiện thực nhằm tác động có mục đích và hệ thống
đến ý thức và tình cảm đạo đức của con người, thôi thúc họ học tập và làm theo. - Nội dung:
+ Nêu gương trong gia đình:
· Sự giáo dục chu đáo của gia đình nhất là bằng những tấm gương đạo đức của chính những người thân có vai trò to
lớn đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, có tác dụng kích thích sự tự rèn luyện của trẻ.
· Là công việc rất quan trọng nhằm tạo nền tảng vững chắc, tiền đề xuất phát cho giáo dục đạo đức trong nhà trường
và ngoài xã hội; bởi gia đình là “tế bào của xã hội”, là môi trường quan trọng trong việc giáo dục lối sống và hình
thành nhân cách cho mỗi người công dân ngay từ nhỏ cho đến khi trưởng thành.
· Để phát huy vai trò nêu gương của gia đình, đòi hỏi mỗi thành viên trong mỗi gia đình phải là những tấm gương
đạo đức mẫu mực. Trong đó, ông bà cần làm gương cho con cháu, cha mẹ làm gương cho con cái, anh chị làm
gương cho các em; đồng thời, cần sử dụng những tấm gương tiêu biểu về đạo đức, tài năng của các thành viên
trong trong gia đình, dòng họ qua các thế hệ để giáo dục con cháu... Mỗi gia đình phải thực sự là một “tổ ấm” để mỗi
đứa trẻ được lớn lên trong tình cảm tốt đẹp, với tràn đầy tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau của những người thân. 9
+ Nêu gương trong nhà trường:
· Nhà trường là nơi đào tạo con người phát triển toàn diện, không những trang bị về mặt kiến thức mà còn giáo dục
cả về mặt đạo đức, lối sống; tạo môi trường lý tưởng cho trẻ hình thành và phát triển nhân cách.
· Đối với học sinh tấm gương tốt nhất đó là bạn bè cùng lớp, cùng trường, là thầy cô giáo đang trực tiếp dạy dỗ các
em. Sau đó là các hình tượng các nhân vật văn học, cuộc đời, tuổi trẻ, sự nghiệp của các danh nhân văn hóa.
· Do vậy, đội ngũ giáo viên trong các nhà trường cần thường xuyên tu dưỡng phẩm chất đạo đức, năng lực sư
phạm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ; phải biết kết hợp chặt chẽ giữa “dạy chữ”, “dạy nghề” và “dạy người”
để cho trẻ học tập và noi theo, tích cực đẩy mạnh nêu gương cho các em về những tấm gương “người tốt việc tốt” là
chính bạn bè xung quanh các em.
+ Nêu gương trong xã hội:
· Là môi trường góp phần làm phong phú thêm cho những điều được tiếp thu, lĩnh hội trong gia đình, trong nhà trường.
· Để giáo dục trẻ em, cần phát huy vai trò của môi trường đạo đức xã hội; trong đó cần chú trọng xây dựng hệ thống
các giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức và hướng việc giáo dục, tu dưỡng rèn luyện của trẻ theo những nguyên
tắc, chuẩn mực đó. Mặt khác, đi đôi với “xây” cần kết hợp chặt chẽ với “chống”; trong đó cần khắc phục và
từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong xã hội đã và đang có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến việc giáo
dục đạo đức, lối sống hiện nay. - Lưu ý:
+ Lựa chọn điển hình, phù hợp đặc điểm tâm lý lứa tuổi, tạo ra ấn tượng tốt, cảm xúc mạnh để kích thích thái độ, tình
cảm lành mạnh ở học sinh.
+ Khi nêu gương cần giúp học sinh biết được sự kiện, phân tích nguyên nhân, ý nghĩa, những bài học rút ra từ những tấm
gương đó, nhằm giúp học sinh nhận thức đầy đủ ý nghĩa và có ý thức noi theo.
+ Cần khách quan, công bằng, đúng mực khi nêu gương học sinh trong lớp, không “thổi phồng” thành tích cho nhân vật.
+ Cần phải có sự đánh giá đúng mức những tấm gương tốt, xấu để học sinh có căn cứ tiếp thu.
+ Cần phải phê bình một cách khéo léo, nhẹ nhàng, tránh sự mặc cảm xấu hổ trước tập thể dẫn đến tính tiêu cực của học sinh.
- Ví dụ: Thầy hiệu trưởng biểu dương em Q. trước toàn trường vì đã nhặt được tiền và trả lại cho người mất. Thầy đề
nghị tất cả các bạn học sinh trường mình phải học tập và noi gương bạn, khuyến khích các bạn trả lại dù là những vật
nhỏ nhất, tuyên dương các bạn trước toàn trường. Q. bước xuống trong tiếng vỗ tay không ngớt của mọi người. Kể
từ sau lần đó, học sinh các lớp của trường luôn thể hiện lòng thật thà của mình bằng việc trả lại những đồ vật các em
nhặt được. Có thể chỉ là cây bút chì, quyển sách cũ, từ một ngàn đồng đến vài trăm ngàn... Ngày càng có nhiều học
sinh trả lại những đồ vật mình nhặt được. - Kết luận sư phạm:
Để phương pháp nêu gương mang lại ý nghĩa giáo dục cáo cho học sinh, giáo viên phải thực hiện được các yêu cầu sau:
- Giáo viên phải nêu những tấm gương gần giũ với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của học sinh.
- Cần phải có sự đánh giá đúng mức những tấm gương tốt, xấu để học sinh có căn cứ tiếp thu.
- Cần phải phê bình một cách khéo léo, nhẹ nhàng, tránh sự mặc cảm xấu hổ trước tập thể dẫn đến tính tiêu cực của học sinh.
- Mỗi giáo viên phải thật sự là những tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
4) Ưu nhược điểm của phương pháp nêu gương 10
Trong nội dung dạy học, môn Đạo đức là một môn học gắn bó mật thiết với quá trình giáo dục Đạo đức ở tiểu học. Quá
trình giáo dục Đạo đức ở tiểu học là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể (hay quá trình sư phạm tổng thể).
Nó có nhiệm vụ bồi dưỡng cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi Đạo đức, tạo ra ở các em
niềm tin Đạo đức, hình thành ở các em xúc cảm và tình cảm Đạo đức và tổ chức cho các em rèn luyện những hành vi
và thói quen hành vi Đạo đức. Môn Đạo đức là một môn học trong hệ thống các môn học ở tiểu học có tác dụng định
hướng cho các môn học khác. Qua dạy học môn Đạo đức hình thành cho học sinh những hành vi và thói quen hành
vi Đạo đức, phù hợp với những chuẩn mực hành vi đã được quy định. Như vậy muốn dạy tốt môn Đạo đức ở lớp 2, 3
trong trường tiểu học người giáo viên phải nắm vững phương pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học. Đặc biệt là tính
khả thi của từng phương pháp. Mỗi phương pháp dạy học đều có những mặt mạnh, yếu khác nhau. Phương pháp nêu
gương cũng vậy nó là một phương pháp nằm trong hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống (khen thưởng,
trách phạt,…) có những ưu khuyết điểm sau : 4.1) Ưu điểm :
- Phương pháp nêu gương luôn đưa đến cho các em những cơ sở chuẩn mực về Đạo đức để các em xem đó là điểm tựa học tập và rèn luyện.
- Thông qua phương pháp nêu gương không chỉ giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với nhà trường, gia
đình và xã hội mà còn giáo dục học sinh có trách nhiệm đối với chính bản thân mình, biết quý trọng bản thân và biết tự chăm sóc mình.
- Phương pháp nêu gương đem đến cho học sinh một số kĩ năng cơ bản như : biết tự nhận thức; biết xác định giá trị và có khả năng ra quyết định
- Phương pháp nêu gương hướng dẫn các em có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh Đạo đức thông qua tấm gương mà giáo viên nêu ra.
- Qua hình thức nêu gương học sinh được hình thành năng lực quan sát và đánh giá hành vi của người khác là phù hợp
hay không phù hợp với chuẩn mực Đạo đức xã hội. 4.2) Nhược điểm :
Ở lứa tuổi lớp 2, 3 là lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, các em thường cảm nhận sự vật hiện tượng bằng trực quan sinh
động, thường e ngại trước đám động không dám nói ra những điểm yếu của mình. Vì thế khi phê bình những điểm
xấu của học sinh nếu giáo viên không khéo léo sẽ gây mặc cảm, tự ti cho học sinh trước tập thể lớp. Những tấm
gương đưa ra mà xa lạ với thực tế cuộc sống hằng ngày sẽ gây sự nhàm chán trước học sinh.
Tóm lại ở lứa tuổi học sinh tiểu học nói chung học sinh lớp 2, 3 nói riêng, đặc điểm tâm sinh lý của các em mới được
hình thành, ý thức có chủ định chưa được nâng cao, mọi hoạt động, việc làm của các em đều mang tính chất bột
phát, các em thường làm theo ý thích của mình nhiều hơn là gò ép. Đối với lứa tuổi này các em thường không xét từ
góc độ Đạo đức của bản thân trước mà lấy điểm tựa của người khác để điều chỉnh cho hoạt động của bản thân. Chính
vì thế có thể khẳng định rằng phương pháp nêu gương là phương pháp phù hợp tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học. 5) Giải pháp
- Cần phát huy phương pháp nêu gương nhiều hơn trong những bài học có nội dung sát thực và gần gũi với học sinh để
phát huy tính học hỏi, biến nội dung bài học thành hành động cụ thể cho các em.
- Giáo viên cần sưu tầm thêm nhiều tấm gương tiêu biểu và hướng dẫn các em tự sưu tầm các câu chuyện hay hình ảnh
có nội dung tương ứng với yêu cầu bài học. Đây sẽ là động lực rất lớn giúp cho các em tự mình học hỏi về những
tấm gương sưu tầm được trước hướng dẫn của thầy, cô giáo. 11
- Khi đưa tấm gương không phải là hoạt động tốt, giáo viên không nên nhận xét nhiều về những hoạt động của các em so
sánh với gương xấu trong tranh. Cần lựa chọn ngôn ngữ khéo léo, vừa chỉ ra những cái chưa tốt của các em tránh
được sự tự ti, xấu hổ của các em trước lớp.
- Những câu hỏi trong nêu gương phải sát thực không nên xa thực tế, câu hỏi cần phát huy được tính tích cực, độc lập tư duy của học sinh.
- Đối với một số em có tâm lý yếu, rụt rè, giáo viên cần chú ý và có biện pháp giúp đỡ các em qua hình thức nêu gương
trực tiếp (lấy những bạn học giỏi, ngoan, hăng say phát biểu để giúp các em mạnh dạnï hơn).
- Không nên lạm dụng việc tự liên hệ bản thân, việc buộc các em phải luôn luôn tự kiểm điểm làm cho không khí lớp
nặng nề và nhiều khi dẫn các em không hứng thú học tập.
14. Phân tích phương pháp giao việc trong công tác giáo dục
- Khái niệm: Phương pháp giáo dục (PPGD) là thành tố quan trọng trong cấu trúc của quá trình giáo dục, có quan hệ mật
thiết với các thành tố khác của quá trình này, đặc biệt là với mục đích, nội dung, nhà giáo dục, người được giáo dục,
phương tiện giáo dục, với các điều kiện thực hiện quá trình này. Phương pháp giáo dục được xem là cách thức tác
động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo nhằm thực hiện tốt
các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra.
- Khái niệm phương pháp giao việc
+ Là phương pháp lôi cuốn học sinh vào các hoạt động đa dạng với những công việc cụ thể, với những nghĩa vụ xã hội nhất định.
+ Qua đó, học sinh sẽ có điều kiện để thể hiện những kinh nghiệm vốn có của mình hình thành được những hành vi phù
hợp với công việc được giao, thu nhận kiến thức phù hợp.
- Nội dung phương pháp giao việc
+ Lựa chọn bài dạy phù hợp với phương pháp giao việc.
+ Xây dựng kế hoạch: Căn cứ vào mục tiêu của bài , điều kiện, phương tiện dạy học cũng như đặc điểm, trình độ nhận
thức của học sinh trong lớp và kinh nghiệm của bản thân mà GV sẽ lập ra hệ thống câu hỏi và phân chia công việc cho từng nhóm(cá nhân)
+ Hỗ trợ - Kiểm tra: Trong quá trình học sinh thực hiện nhiệm vụ của nhóm mình GV cần hỗ trợ gợi ý giúp các em tìm
kiếm thông tin và kiểm tra tiến độ thực hiện của các nhóm. Đồng thời cũng giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn trong
quá trình thu nhận thong tin của mình.
+ Tiến hành tiết dạy: Trong từng hoạt động, các nhóm sẽ lần lượt trình bày sản phẩm hay thông tin thu thập được theo
điều khiển của GV. Những phần kiến thức học sinh trình bày sẽ là phần mở đầu cho một hoạt động hoặc sẽ là phần
đúc kết kiến thức của hoạt động đó. GV sẽ là người nhận xét và đúc kết kiến thức của hoạt động.
+ Nhận xét – lưu ý – tuyên dương. - Ưu điểm:
+ Học sinh chủ động tìm ra kiến thức.
+Các em không chỉ sử dụng vốn sống của bản thân mà trong quá trình tham gia đi tìm kiếm thông tin giúp các em tự gây
dựng thêm vốn sống cho mình.
+ Giáo viên tránh được lối truyền đạt thụ động, không gây hứng thú cho học sinh.
+ Tạo được mối liên kết cũng như có sự phối họp giữa gia đình và nhà trường trong quá trinh giáo dục các em.
+ Gây cho học sinh sự đam mê, sự khám phá.
+ Rèn kĩ năng chủ động trong việc nắm bắt kiến thức và giúp cho các em khắc sâu kiến thức hơn. 12 - Nhược điểm:
+ Đối tượng học sinh còn nhỏ nên trong quá trình tìm tòi kiến thức cần có sự hỗ trợ của gia đình. - Các em dễ tìm hiểu
lan man, không đúng trọng tâm yêu cầu.
+ Trình bày chưa logic, mang tính chất liệt kê.
+ Dễ dẫn đến việc phân công quá sức với học sinh.
+ Phải tiến hành thực hiện kéo dài trong một thời gian nhất định. - Kết luận sư phạm:
+ Cần có sự trao đổi trực tiếp với phụ huynh trong các buổi họp để có sự hỗ trợ, chia sẻ từ họ trong việc thực hiện phương pháp này
+ Cần xây dựng kế hoạch giảng dạy cụ thể, chi tiết trong việc phân công nhiệm vụ cho từng nhóm:
+ Giúp học sinh trong quá trình tìm tòi kiến thức. Phải kiểm tra thường xuyên tiến độ làm việc từng nhóm. Định hướng
cho các em tìm kiếm đúng trọng tâm kiến thức. Cách tiến hành
- Lựa chọn bài dạy phù hợp với phương pháp giao việc.
- Xây dựng kế hoạch: Căn cứ vào mục tiêu của bài, điều kiện, phương tiện dạy học cũng như đặc điểm, trình độ nhận
thức của học sinh trong lớp và kinh nghiệm của bản thân mà GV sẽ lập ra hệ thống câu hỏi và phân chia công việc cho từng nhóm (cá nhân)
- Hỗ trợ - Kiểm tra: Trong quá trình học sinh thực hiện nhiệm vụ của nhóm mình GV cần hỗ trợ gợi ý giúp các em tìm
kiếm thông tin và kiểm tra tiến độthực hiện của các nhóm. Đồng thời cũng giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn trong quá
trình thu nhận thong tin của mình.
- Tiến hành tiết dạy: Trong từng hoạt động,các nhóm sẽ lần lượt trình bày sản phẩm hay thông tin thuthập được theo điều
khiển của GV. Những phần kiến thức học sinh trình bày sẽlà phần mở đầu cho một hoạt động hoặc sẽ là phần đúc kết
kiến thức của hoạt động đó. GV sẽ là người nhận xét và đúc kết kiến thức của hoạt động.
- Nhận xét – lưu ý – tuyên dương. Giải pháp:
- Cần có sự trao đổi trực tiếp với phụ huynh trong các buổi họp để có sự hỗ trợ, chia sẻ từ họ trong việc thực hiện phương pháp này
- Cần xây dựng kế hoạch giảng dạy cụ thể, chi tiết trong việcphân công nhiệm vụ cho từng nhóm
- Giúp học sinh trong quá trình tìm tòi kiến thức
- Yêu cầu các nhóm trình bày thử cho giáo viên sau khi hoàn thành. Giáo viên sẽ gợi ý giúp các em trình bày lưu loát hơn
- Khi giao việc giáo viên cần lưu ý đến đặc điểm của từng học sinh như: tính cách, điều kiện sống, nơi ở.... để tránh giao
những nhiệm vụkhông phù hợp, quá sức đối với học sinh. Cần lưu ý đặc điểm của tùng học sinh để giao việc sao cho
phù hợp, không gây ảnh hưởng đến phụ huynh cũng như tâm lý của các em.
- Cần chú ý đến khoảng thời gian sao cho hợp lý: Khi thực hiện phương pháp này đòi hỏi phải kéo dài trong một thời
gian nhưng người GV chủ động để tránh kéo dài lâu, gây ảnh hưởng và sao nhãng các môn học khác của các em.
Cần cân đối thời gian hợp lý tránh tình trạng để thời gian tìm thông tin quá dài, hiệu quả của giao việc sẽ không cao.
15. Nguyên tắc giáo dục phát huy ưu điểm để khắc phục nhược điểm trong công tác giáo dục
- Nguyên tắc giáo dục được hiểu là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lý luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo
việc lựa chọn và vận dụng nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thực hiện tối ưu mục đích và nhiệm vụ giáo dục. - Nội dung:
+ Tìm hiểu đối tượng để phát hiện mặt tốt và xấu của học sinh.
+ Nói nhiều tới những mặt tốt, ưu điểm của học sinh, coi đó như là phẩm chất chủ yếu của họ. Đồng thời nói đến mức tối
thiểu, khi nói về những khuyết điểm, hạn chế của học sinh.
+ Phải dựa vào ưu điểm để khắc phục nhược điểm cho học sinh.
- Yêu cầu khi thực hiện:
+ Tổ chức tốt các phong trào thi đua, theo dõi những điển hình gương mẫu, thường xuyên động viên, khen thưởng, khích lệ học sinh. 13
+ Mỗi năm cần tổng kết, đánh giá, xếp loại và khen thưởng những học sinh đạt được thành tích cao trong học tập và rèn luyện.
+ Cần có sự bao dung độ lượng của người giáo viên, của tập thể, của bạn bè đối với từng học sinh.
- KẾT LUẬN: Hãy nâng đỡ họ khi vấp ngã, sai lầm, qua đây cảm họ, dẫn họ đi trên con đường mới, đến những thành công mới.
16. Nhiệm vụ và quyền của nhà giáo được đề cập trong Luật giáo dục 2019
a. Nhiệm vụ của nhà giáo
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục;
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học,
bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học;
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới
phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người học;
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
b. Quyền của nhà giáo
- Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo;
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ;
- Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học
với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ nơi mình công tác;
- Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự;
- Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ
khác theo quy định của Bộ luật lao động.
c. Các hành vi nhà giáo không được làm
- Nhà giáo không được có các hành vi sau đây:
- Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của người học;
- Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của người học;
- Xuyên tạc nội dung giáo dục;
- Ép buộc học sinh học thêm để thu tiền.
17. Nhiệm vụ và quyền của người học được đề cập trong Luật giáo dục 2019
Học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục, quy tắc ứng xử của cơ sở giáo dục.
- Tôn trọng nhà giáo, cán bộ và người lao động của cơ sở giáo dục; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện;
thực hiện nội quy, điều lệ, quy chế của cơ sở giáo dục; chấp hành quy định của pháp luật.
- Tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và năng lực. 14
- Giữ gìn, bảo vệ tài sản của cơ sở giáo dục.
- Góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của cơ sở giáo dục.
Theo Điều 82 Luật Giáo dục năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ 1/7/2020) thì người học có quyền sau: người học
- Được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân.
- Được tôn trọng; bình đẳng về cơ hội giáo dục và học tập; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh;
được cung cấp đầy đủ thông tin về việc học tập, rèn luyện của mình.
- Được học vượt lớp, học rút ngắn thời gian thực hiện chương trình, học ở độ tuổi cao hơn tuổi quy định, học kéo dài
thời gian, học lưu ban, được tạo điều kiện để học các chương trình giáo dục theo quy định của pháp luật.
- Được học tập trong môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.
- Được cấp văn bằng, chứng chỉ, xác nhận sau khi tốt nghiệp cấp học, trình độ đào tạo và hoàn thành chương trình giáo dục theo quy định.
- Được tham gia hoạt động của đoàn thể, tổ chức xã hội trong cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.
- Được sử dụng cơ sở vật chất, thư viện, trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động học tập, văn hóa, thể dục, thể
thao của cơ sở giáo dục.
- Được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị với cơ sở giáo dục các giải pháp góp phần xây
dựng cơ sở giáo dục, bảo vệ quyền, lợi ích của người học.
- Được hưởng chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi và có đạo đức tốt.
- Được cử người đại diện tham gia hội đồng trường theo quy định
18. Nhà văn người Pháp Anatole France đoạt giải Nobel văn học 1921 cho rằng: “Giáo dục chín phần mười là
động viên khích lệ”. Suy nghĩ gì về quan điểm này?
Nói về lời khích lệ, động viên, khen ngợi trong việc dạy con từ gia đình đến nhà trường. Sự khích lệ của người
thầy chính là cách thừa nhận cao nhất về sự tiến bộ, cố gắng của các em.Việc khen ngợi trẻ tưởng chừng quá dễ với
bố mẹ, nhưng nó chỉ đúng khi lũ trẻ còn bé xíu thôi. Bố mẹ có thể nói rất tự nhiên những câu như “Con gái mẹ xinh
quá!”, “Ôi! Con cười xinh quá!”, “Ôi! Con mọc răng rồi kìa! Nó mới đáng yêu làm sao!”, “Ôi! Con đã biết uống sữa
bằng cốc rồi. Con giỏi quá!”, “Con xếp hình lâu đài đẹp thật đấy! Mẹ thích lắm!”… Nhưng rồi chuyện gì xảy ra sau
đó? Cùng với việc con dần lớn lên, kỳ vọng của bố mẹ về con cũng lớn dần lên. Thế rồi, bố mẹ, bắt đầu kiệm lời
khen, bắt đầu quên khen con. Nhưng thực ra, con vẫn cần những lời khen ngợi nhiều biết bao để cảm thấy được bố
mẹ quan tâm, ghi nhận, cảm thấy tự tin hơn vào bạn thân; nhận biết việc đúng, sai; có động lực làm được nhiều việc
hơn, làm tốt hơn. Muốn khích lệ con ngày một tốt hơn, bố mẹ hãy nhìn nhận, tìm ra những điểm tốt của con, để khen
ngợi. Những lần con đạt kết quả vượt trội hơn bình thường, bố mẹ nên khen ngợi và khen thưởng kịp thời. Điều đó
rất có ý nghĩa với con và sẽ thúc đẩy con muốn tiếp tục phát huy những lần sau, muốn cố gắng vươn lên để tiến bộ
hơn. Bố mẹ lưu ý đừng khen quá lời khiến con dễ sinh chủ quan, tự mãn, tự phụ. Đừng khen chung chung, khen sáo
rỗng khiến trẻ không biết tự đánh giá đúng bản thân. Cần khen ngợi cụ thể, để con hiểu đã làm tốt việc gì mà tiếp tục
phát huy vào lần sau. Một lời khen rõ ràng, cụ thể càng cần thiết hơn với những trẻ nhỏ tuổi để chúng hiểu rõ động
lực và hành vi tích cực mình đã làm được. 15
19. Nhận định như thế nào về phát biểu sau của William A. Warrd:
Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.

Có một nhà hiền triết đã nói: Người thầy trung bình chỉ biết nói. Người thầy giỏi biết giải thích. Người thầy xuất
chúng biết minh họa. Người thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng.Có lẽ bạn và tôi còn có những cách hiểu khác nhau về
câu châm ngôn này. Song có một điều chắc chắn là những ai đã có một thời đứng trên bục giảng dễ dàng thống nhất
với nhau: người thầy trung bình hay người thầy vĩ đại ở mức độ nào đó đều dạy cho các em cách tư duy, nghĩa là
giáo viên dạy cho các em cách suy nghĩ về một đơn vị kiến thức nào đó. Điều này được kiểm nghiệm rất rõ ràng
trong những giờ dạy học. Trong một tiết học nếu giáo viên quan sát thấy nét mặt học sinh luôn tươi roi rói, có những
khoảnh khắc ánh mắt vụt sáng lên, đó là cao trào giáo viên đã truyền được cảm hứng cho học sinh tư duy.Một giáo
viên có thể là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ học trò mà họ không hề hay biết. Với cách giảng dạy - tổ chức chức
cho học sinh tư duy, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cảm hứng cho học sinh. Và trên thực tế, đã
có rất nhiều học trò thành công xuất phát từ cảm hứng của họ nhận được từ cảm hứng của giáo viên thắp sáng tâm
hồn. Trong một lần trả lời phỏng vấn của nhà báo, Lê Bá Khánh trình đã nói như sau: “Trong toán học tôi chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ hai người thầy. Người đầu tiên là thầy Trần Quốc Khải, một người rất độc lập. Lần đầu tiên tiếp
xúc với những bài toán khó, lạ, chính thầy đã truyền cho tôi cách nghĩ mới, không theo khuôn mẫu. Sự phá cách hơi
ngang tàng trong phong cách sống, miễn sao không ảnh hưởng đến ai của thầy cũng là một triết lý sống mà tôi thích
thú”1. Ngoài cảm hứng tư duy người giáo viên cần phải truyền cho học trò động lực. Người xưa đã nói: sông có
khúc, người có lúc. Cuộc sống của mỗi người có lúc thuận lợi, có lúc khó khăn. Khi cuộc sống gặp khó khăn, nếu
không có động lực thúc đẩy, bạn sẽ khó có thể vượt qua. Đối với học sinh cũng vậy, những khó khăn và những thay
đổi về tâm sinh lý sẽ làm cuộc sống của họ bị đảo lộn, họ luôn cần sự giúp đỡ. Đôi khi, cha mẹ không hiểu rõ nhu
cầu cụ thể của con em mình và nảy sinh mâu thuẫn. Do đó, một trong những phương pháp giảng dạy hiệu quả là giáo
viên tổ chức tiết dạy theo kiểu trao đổi, đối thoại kết hợp với các thiết bị dạy học. Qua đó, học sinh có thể cởi mở
với giáo viên những khúc mắc về cuộc sống cá nhân cũng như những vấn đề về học tập. Có một số giáo viên giúp đỡ
học sinh của mình thông qua việc tư vấn cho phụ huynh, giải thích những vấn đề chúng gặp phải, có như thế mới
giúp cha mẹ chúng hiểu thêm về con cái của mình. Có rất nhiều thời khắc trong cuộc đời của chúng ta in đậm dấu ấn
của những người thầy. Đó là những người luôn sát cánh, dạy dỗ, chỉ bảo và cung cấp kiến thức cho bạn. Khi bạn cần
được hỗ trợ về kiến thức, hay cần một lời chỉ bảo, phê bình để mình không đi sai đường, khi đó, bạn sẽ luôn cần đến
sự hiện diện của thầy cô. “Không thầy đố mày làm nên” – Thầy cô giáo luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục. Vai trò ấy là không thể thay thế, cho dù ngày nay, nhiều phương tiện, trang thiết bị hiện đại
đã được áp dụng để hỗ trợ quá trình dạy học.
20. Làm sáng tỏ câu nói của Nelson Mandela: “Giáo dục là vũ khí lợi hại nhất mà người ta có thể dùng để làm thay
đổi thế giới”.
Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã chỉ ra: "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu", điều đó đã khẳng định tầm
quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước, đồng thời chính là chủ trương, chính sách của Đảng và
nhà nước ta trong việc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hồ Chủ tịch cũng đã từng nhấn mạnh vai trò của
giáo dục và đào tạo trong Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
rằng: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Như vậy có
thể nói rằng giáo dục được sinh ra là để thay đổi vận mệnh con người, thay đổi vận mệnh dân tộc và thậm chí là vận
mệnh của cả nhân loại, điều ấy cũng có những điểm khá tương đồng với quan điểm của N. Mandela - vị anh hùng
giải phóng dân tộc Nam Phi rằng: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới".
Vậy giáo dục là gì và tại sao nó được xem là vũ khí mạnh nhất để thay đổi cả thế giới?. Giáo dục là hình thức học tập
phổ biến nhất của con người mà thông qua đó chúng ta được tiếp thu những nguồn tri thức mới từ nhiều lĩnh vực
khác nhau bao gồm cả kiến thức lý thuyết, kỹ năng thực hành, những kinh nghiệm của người đi trước, những thói
quen được hình thành,... dưới sự giảng dạy, hướng dẫn, đào tạo hoặc nghiên cứu. Sự học tập một cách không chủ 16
đích dưới hình thức trải nghiệm cũng được xem là một loại giáo dục, bởi thông qua đó con người đã tích lũy được
một lượng lớn những tri thức mới thông qua việc quan sát, cảm nhận, hưởng thụ. Sự giáo dục bao gồm nhiều giai
đoạn, ở nhà trẻ em chịu sự giáo dục của cha mẹ, đến trường chịu sự giáo dục của thầy cô, khi trưởng thành họ chịu
sự giáo dục của xã hội. Chúng ta cũng không nên hiểu sự giáo dục là một hành động cưỡng ép, bởi trên thực tế xã
hội, giáo dục đã diễn ra như một chân lý tự nhiên, từ thuở khai thiên lập địa con người đã được thừa hưởng sự giáo
dục của các thế hệ đi trước để có thể phát triển và tồn tại. Có thể nói rằng giáo dục hiện diện ở mọi quốc gia dân tộc,
thậm chí thế giới động vật cũng có quy luật giáo dục riêng, ví dụ như chim mẹ dạy con tập bay, hổ mẹ dạy con tập
săn mồi,... Và có một sự thật không thể chối cãi rằng bản thân giáo dục đã tạo ra đạo đức và trí tuệ của con người,
hai điều kiện tối cần để cấu thành một thực thể con người hoàn chỉnh. Lúc này này đây tôi đặt một câu hỏi ai đã và
đang tác động để thay đổi thế giới? Tôi tin chắc đáp án không gì khác ngoài hai tiếng con người, vậy nên ta có thể dễ
dàng suy ra giáo dục chính là thứ vũ khí mà con người sử dụng để thay đổi thế giới. Bởi con người ta không thể thay
đổi thế giới bằng sự ngu dốt và ấu trĩ, họ cần có kiến thức, dùng chính kiến thức ấy làm công cụ để phát triển thế giới
ngày một tốt đẹp hơn. Hồ Chủ tịch đã từng dạy rằng: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", chúng ta không thể chiến
thắng kẻ thù và thay đổi vận mệnh dân tộc nếu chúng ta "yếu" hơn họ về tri thức, điều ấy buộc chúng ta phải tìm
kiếm sự giáo dục. Và bản thân Bác chính là người đi tìm kiếm sự giáo dục cách mạng để trở về giải phóng dân tộc
Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc. Đây có thể xem là một ví dụ kinh điển cho câu nói "Giáo dục
chính là thứ vũ khí mạnh nhất để thay đổi thế giới", bởi chính Bác đã thay đổi cả số mệnh của một dân tộc, để có
một Việt Nam như ngày hôm nay. Bàn rộng hơn trên phạm vi thế giới có thể nói rằng giáo dục là một thứ công cụ
hữu dụng trong việc thay đổi bộ mặt của xã hội, thay đổi nền văn minh của cả nhân loại. Nếu không có giáo dục có
lẽ con người sẽ chỉ dừng lại ở thời kỳ ăn lông ở lỗ, chứ không phải trong thời kỳ công nghệ 4.0, nếu không có giáo
dục có lẽ khoa học và công nghệ sẽ mãi dừng ở vạch xuất phát, sẽ không có một Thomas Edison chế tạo ra bóng
đèn, để ngày nay nơi nào cũng tràn ngập ánh đèn điện; sẽ không có một James Watt phát minh ra động cơ hơi nước
tiền thân của các loại động cơ ngày nay; cũng sẽ không có một A.Fleming chế tạo ra Penicillin, tiền đề cho việc
nghiên cứu hàng trăm loại kháng sinh quan trọng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe con người; và cuối cùng sẽ
không có một tổ chức nào với bộ óc thiên tài tạo ra internet, máy tính, điện thoại và TV, những thứ làm thay đổi cả
nhận thức của nhân loại. Như vậy có thể thấy rằng giáo dục đã gián tiếp làm thay đổi thế giới thông qua việc đào tạo
ra những con người có bộ óc siêu phàm cùng những kỹ năng tuyệt đỉnh. Chính con người đã sử dụng giáo dục như
một thứ công cụ thần kỳ để tạo ra những bước tiến vĩ đại trong lịch sử loài người, kéo chúng ta ra khỏi sự tối tăm,
buồn tẻ, sự đau đớn bệnh tật, sự mệt mỏi về thể xác trong lao động tay chân và nhiều những vấn đề khác nữa. Không
chỉ dừng lại ở đó giáo dục thay đổi thế giới còn thông qua việc thay đổi nhận thức của con người, một hệ thống giáo
dục tốt sẽ tạo ra những con người có nhân cách tốt đẹp, phẩm chất đạo đức đáng quý, luôn hướng về cộng đồng, về
thế giới, có cái nhìn khách quan. Họ sẽ tự ý thức được việc tự hoàn thiện bản thân bằng các tự giáo dục, đồng thời
trở thành người truyền cảm hứng, tri thức cho các thế hệ tiếp nối, họ sẽ có một tâm hồn tươi đẹp hướng thiện, sẽ bỏ
qua những thói ích kỷ, nhỏ nhen, bỏ qua những thù hằn không đáng có để tiến bước về phía trước. Ngược lại người
không nhận được sự giáo dưỡng từ gia đình và xã hội và cũng không tự nỗ lực học tập thì dễ trở thành người có nhân
phẩm tồi tệ, gây hại cho cộng đồng, trở thành gánh nặng của cả xã hội. Tôi nghĩ rằng bất cứ ai từ chối sự tốt đẹp của
giáo dục đều là những con người thiển cận và thất bại, họ đã thua ngay khi bước vào vạch xuất phát. Họ đã từ chối
thứ vũ khí tiềm năng mà cả nhân loại đang hướng đến, họ đang tự tách mình ra khỏi nền văn minh nhân loại, có lẽ họ
đang có ý định qua về thời tiền sử chăng? Thêm nữa, có một kiểu người nhận sự giáo dục một cách khiên cưỡng nửa
vời, với tâm thế đối phó và hời hợt, tôi cho đó là sự lãng phí và vô trách nhiệm với chính bản thân và cả xã hội. Mỗi
chúng ta sinh ra đều có bổn phận tự phát triển và hoàn thiện bản thân, để trở thành điểm tựa vững chắc cho gia đình,
góp phần xây dựng một xã hội văn minh. Các bạn nên biết rằng, khi chúng ta cầm vũ khí trong tay nhưng lại không
biết sử dụng thì điều ấy còn tệ hại hơn cả việc bạn không có gì, thế nên mỗi chúng ta cần cố gắng nỗ lực trong việc
tiếp thu kiến thức, tiếp nhận sự giáo dục một cách chủ động, đồng thời năng động hơn trong việc tìm kiếm những
nguồn tri thức hữu ích để có thể theo kịp bước chân của nền văn minh nhân loại, bởi William Author Ward đã nói:
"Tất cả những người đáng giá đều có phần tự lập trong học vấn của mình"
Câu nói của N. Mandela: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới", điều ấy
đã được chứng minh rất rõ ràng qua những trang sử của dân tộc và của cả nhân loại. Chúng ta có được cuộc sống đầy
đủ và tiện nghi như ngày hôm nay chính là nhờ sự phát triển của giáo dục, chính vì vậy mỗi chúng ta phải biết quý
trọng sự giáo dục mình đang được nhận đồng thời tìm kiếm thêm những sự giáo dục về các lĩnh vực khác nhau để
nâng cao kiến thức nội hàm của bản thân. 17
21. Cho ý kiến về quan điểm: “Nên bỏ giáo dục lao động trong nhà trường vì hiện nay học sinh hầu như không
phải lao động ở trường, kể cả những hoạt động đơn giản nhất như trực nhật lớp, tổng vệ sinh trường sở”
Giáo dục lao động là một trong 11 nguyên tắc của giáo dục có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành nhân cách người
học. Cuộc sống lao động là môi trường, là phương tiện góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho những
con người đang sống và làm việc trong đó. Vì thế mà giáo dục phải có sự gắn kết chặt chẽ với cuộc sống và lao động để
hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện cho học sinh.
Hoạt động giáo dục nhằm giáo dục học sinh trở thành người công dân thích ứng với cuộc sống lao động và sinh hoạt xã
hội. Thực tiễn giáo dục cho thấy rằng, hiệu quả giáo dục phụ thuộc vào kiến thức và sự trải nghiệm của bản thân học
sinh. Nên muốn có kiến thức và kinh nghiệm, con người phải tham gia các hoạt động trong các môi trường, hoàn cảnh và
tình huống sống khác nhau. Chính cuộc sống lao động là môi trường, phương tiện góp phần vào việc phát triển nhân
cách toàn diện. Bỏ qua, hoặc xem nhẹ nguyên tắc này đồng nghĩa với việc các nhà trường không hoàn thành mục tiêu
giáo dục toàn diện. Ngoài giờ học, hàng tuần, học sinh phải tham gia lao động, vệ sinh trường lớp, vệ sinh nơi công cộng
và tham gia lao động công ích ở địa phương. Có như vậy, với sự tiến hành thường xuyên và có kế hoạch của các nhà
trường sẽ giúp ích rất lớn vào việc hình thành đức tính yêu lao động ở trẻ, giúp các em hiểu và có trách nhiệm với bản thân, cuộc sống…
Những công việc hàng ngày khi các em đến trường phải làm tưởng như đơn giản: quét dọn lớp, sân trường, tưới nước
cây, lau bàn ghế…cũng đã hình thành ở các em tình yêu lao động và khả năng hoàn thiện các kỹ năng lao động phục vụ
cho sinh hoạt, phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay: chú trọng “giáo dục năng lực và phẩm chất”, “giáo dục kỹ năng sống”, tăng cường hoạt động trải nghiệm trong các nhà trường.
→ Nếu bỏ giáo dục lao động trong nhà trường sẽ tạo nên những yếu kém về ý thức - kỹ năng lao động và kỹ năng sống.
cần xác định rõ mục tiêu của giáo dục học sinh qua lao động và coi đây là yếu tố không thể thiếu được trong hành trình
đưa các em trở thành con người hữu ích của xã hội.
22. Tại sao nói sản phẩm giáo dục là thành quả chung của tất cả lực lượng giáo dục và cửa chính bản thân người được giáo dục?
Nói sản phẩm giáo dục là thành quả chung của tất cả lực lượng giáo dục và của chính bản thân người được giáo dục vì có
sự kết hợp giữa Hiệu trưởng, gia đình, giáo viên, bản thân và xã hội: 1.
Hiệu trưởng nhà trường có trách nhiệm tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội thực hiện xã hội hóa giáo dục
một cách chủ động, tích cực. Các lực lượng xã hội nói ở đây có thể là lực lượng xã hội trong nhà trường hay lực lượng
xã hội ngoài nhà trường. Để sự tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có nhiều kết quả, người hiệu trưởng phải hiểu
rõ sự tham gia quản lý của các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng; các tính chất của mối quan hệ giữa chính quyền
và các đoàn thể quần chúng và những nguyên tắc thực hiện quyền dân chủ trong nhà trường. 2.
Giáo dục gia đình là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp giáo dục chung. Nhà trường và gia đình trong giáo dục
đã có những cơ sở pháp lý để thực hiện sự phối hợp nhưng điều quan trọng lại là sự thống nhất về nhu cầu, lợi ích giữa
nhà trường và gia đình trong việc giáo dục con em, là tình cảm của gia đình đối với con cái họ, và do đó đối với nhà
trường. Vì thế, nhất thiết nhà trường phải phối hợp chặt chẽ với gia đình. Sự phối hợp đó là điều kiện cơ bản để làm tốt
việc giáo dục của nhà trường và việc giáo dục của gia đình, là yếu tố bảo đảm tính thống nhất giáo dục, là biện pháp để
xây dựng nhà trường và thực hiện mục tiêu giáo dục. Hiệu trưởng có nhiệm vụ tổ chức sự phối hợp với gia đình và Ban
đại diện cha mẹ học sinh để đạt được mục tiêu phối hợp là: Thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa
nhà trường và gia đình. Huy động mọi lực lượng của cộng đồng chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học
tập và môi trường giáo dục lành mạnh, góp phần xây dựng cơ sở vật chất nhà trường. Muốn vậy, hiệu trưởng phải tổ
chức tốt hội nghị cha mẹ học sinh đầu năm. xây dựng, củng cố Ban đại diện cha mẹ học sinh; tư vấn cho Ban đại diện
cha mẹ học sinh trong xây dựng và sử dụng quỹ Hội, hỗ trợ nhân lực, vật lực; thu hút Hội tham gia giáo dục học sinh;
chỉ đạo đội ngũ giáo viên, nhân viên phối hợp với gia đình và Ban đại diện cha mẹ học sinh. 3.
Công đoàn là một tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp trong hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa có
các chức năng: Tham gia giáo dục người lao động; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước; Chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Hiệu trưởng có trách nhiệm
phối hợp với công đoàn để xây dựng và thực hiện kế hoạch nhà nước ở trường học; thực hiện chế độ chính sách và chăm
lo đời sống cán bộ, giáo viên; xây dựng tập thể sư phạm và tổ chức công đoàn vững mạnh qua các việc: tổ chức hội nghị
cán bộ công chức và các phong trào thi đua; cải tiến lề lối làm việc nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác; phối
hợp có hiệu quả trong các hội đồng được thành lập theo quy định; thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ 18
quan; phối hợp trong việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công chức và trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức.
4.Đoàn/Đội là một lực lượng giáo dục quan trọng trong nhà trường. Để phát huy vai trò của Đoàn/Đội ở trường học, hiệu
trưởng cần xây dựng các điều kiện tối thiểu cho hoạt động Đoàn/Đội; thực hiện các chính sách đối với trợ lý thanh
niên/tổng phụ trách, tạo thuận lợi cho giáo viên này hoạt động. Sự quan tâm giúp đỡ của hiệu trưởng cần thể hiện ra các
biện pháp cụ thể. Đa dạng hoá các loại hình tổ chức hoạt động thích hợp với từng loại hình trường, thích hợp với nhu cầu
của thanh thiếu niên và mục tiêu giáo dục. Kết hợp giải quyết mâu thuẫn giữa việc tăng số lượng và nâng cao chất lượng
Đoàn/Đội viên. Để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp với Đoàn/Đội, tuỳ tình hình cụ thể ở mỗi trường, hiệu trưởng có
thể lựa chọn giải quyết một hay một số, thậm chí tất cả các vấn đề sau đây, nếu thấy cần thiết:
Thiết lập mối quan hệ đúng đắn trên cơ sở hiểu đúng chức năng, nhiệm vụ của Đoàn/Đội trường học. \
Giúp đỡ xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn/Đội học sinh đủ khả năng để đáp ứng vai trò của của tổ chức đó.  Tạo điều kiện
về thời gian, cơ sở vật chất, kinh phí... cho Đoàn/Đội hoạt động.
Tăng cường chỉ đạo sự phối hợp của giáo viên chủ nhiệm với chi đoàn học sinh; chú ý theo dõi, kiểm tra thường xuyên
công tác của giáo viên chủ nhiệm với chi đoàn lớp để giáo viên chủ nhiệm giúp đỡ ban chấp hành chi đoàn/ban chấp
hành chi đội nhưng không làm thay.
Giúp đỡ hướng tới những công tác thích hợp và lựa chọn những nội dung công tác có trọng tâm. 5.
Sự nghiệp giáo dục là của toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước và xã hội, TW và địa phương
cùng làm giáo dục, tạo ra phong trào học tập trong toàn dân. Xã hội hóa giáo dục nâng cao trách nhiệm của mọi người
đối với giáo dục thế hệ trẻ, từng xã/phường thực hiện cơ chế Đại hội giáo dục, tạo ra môi trường giáo dục thống nhất,
tích cực cho cả xã hội, gia đình, nhà trường; xã hội hóa giáo dục cũng tăng thêm các nguồn lực, nhất là nguồn tài chính
cho giáo dục, động viên tinh thần và vật chất tạo ra động lực cho người dạy; khen thưởng học sinh giỏi, giúp đỡ học sinh
khó khăn, khuyến khích các học sinh chăm học. Xã hội hóa giáo dục gắn với đa dạng hoá các nguồn lực, nguồn đầu tư
cho giáo dục. Sự phối hợp các lực lượng xã hội, xã hội hóa giáo dục, một mặt là sự tham gia của xã hội với nhà trường
trong hoạt động giáo dục, mặt khác đòi hỏi ngành giáo dục và nhà trường phải đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Mối
quan hệ giữa nhà trường và xã hội là mối quan hệ hai chiều phải được quan tâm thường xuyên và giải quyết kịp thời theo
hướng phát triển của xã hội. Cần chú ý những việc trọng tâm sau đây:
Mối quan hệ giữa nhà trường với chính quyền địa phương: Tham dự hội nghị tổng kết hoặc đại hội với địa phương; tham
dự hoạt động xã hội với địa phương; đề xuất yêu cầu của đơn vị.
Huy động cộng đồng: Dựa vào yêu cầu cụ thể của trường; chọn thời điểm thích hợp; dựa vào cha mẹ học sinh.
Xây dựng môi trường giáo dục: Nắm chắc yêu cầu của địa phương; có hiểu biết về các phong trào mà địa phương đang
phát động; chú trọng đến công tác phòng chống các tệ nạn xã hội tác động đến học sinh.
23. Ý kiến về quan điểm: “Không có phương pháp giáo dục nào là vạn năng”
Khái niệm vạn năng : vạn có nghĩa là nhiều năng có nghĩa là chức năng ý nói một vật gì đó có rất
nhiều chức năng khác nhau cũng có thể nói về 1 người có thể làm đc rất nhiều việc. Trong QTGD
không có phương pháp giáo dục nào là vạn năng hoặc tối ưu. Mỗi phương pháp có những ưu, nhược
điểm riêng của nó.Vì vậy cần phối hợp các phương pháp giáo dục một cách hợp lý và mềm dẻo, linh
hoạt. Những điều kiện lựa chọn phương pháp giáo dục: - Mục tiêu giáo dục cụ thể. - Nội dung giáo
dục cụ thể. - Đặc điểm đối tượng giáo dục. - Khả năng của nhà giáo dục. - Điều kiện thực tế để vận
dụng các phương pháp giáo dục. Cần kết hợp và thống nhất giữa hoạt động của nhà giáo dục với hoạt
động của người được giáo dục. Tuyệt đối tránh hai xu hướng: áp đặt, khi đề cao vai trò nhà giáo dục,
hoặc tự do vô tổ chức trong giáo dục khi đề cao vai trò người được giáo dục. Vì vậy, không có
phương pháp nào là hoàn hảo, mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng. Giáo viên phải là người
chủ động vận dụng phối hợp các phương pháp để tạo nên một bài giảng hoàn hảo, phục vụ cho mục đích học tập. 19
24. Quan điểm về trường hợp học sinh: học trước chương trình lớp 1 ở nhà; học trước, học vượt qua chương
trình các môn học trên lớp.
Ở các bậc học cao, người học có thể tiết kiệm thời gian học nhờ năng lực tốt và nên có những cơ chế đặc biệt để nuôi
dưỡng nhân tài; nhưng ở các bậc học dưới, không nên chạy theo kiểu học “rút ngắn tuổi thơ”. Thế nên tôi vẫn nhấn
mạnh việc học vượt lớp, trước tuổi cần phải xem xét trên quyền lợi của trẻ”. Lát cắt giữa 5 và 6 tuổi với trẻ rất quan
trọng. Đối với trẻ em, khi bước vào lớp một, việc học chữ đối với trẻ thực sự chưa gây được hứng thú, việc phải làm
những bài tập viết chữ ở nhà là một gánh nặng đối với trẻ, do vậy trẻ thường tìm cách lảng tránh. Mục đích giáo dục
mầm non là chăm sóc, nuôi dưỡng, tổ chức hoạt động vui chơi. Trẻ được làm quen với chữ cái và chữ số không đồng
nghĩa với việc dạy học viết chữ và tính toán. Các cô giáo mầm non cũng không có chức năng và nhiệm vụ dạy học
cho trẻ như các cô giáo lớp 1. Trẻ đi học trước, không được đào tạo theo một quy trình bài bản sẽ không đạt được
hiệu quả sư phạm như mong muốn. Chưa kể người dạy trước không có phương pháp sư phạm, không uốn nắn khi trẻ
ngồi sai tư thế, cầm bút sai... và khi vào lớp 1 được dạy đúng chuẩn cô giáo sẽ rất khó uốn và trẻ rất khó sửa. Mặt
khác, không phải tất cả học sinh đều được đi học trước, vì thế sẽ tạo chênh lệch và áp lực lớn trong môi trường sư
phạm giữa học sinh biết và chưa biết. Lớp có nhiều trẻ biết chữ cô dạy đỡ vất vả hơn, tiến độ cũng nhanh hơn, nhưng
trẻ chưa biết sẽ bị điểm kém, sinh tự ti, chán học, rồi về cằn nhằn làm khổ bố mẹ, rồi bố mẹ cũng bị áp lực liên
quan... Do vậy điều quan trọng là cha mẹ, người lớn phải tìm cách động viên trẻ và không yêu cầu làm quá nhiều bài
tập, xen kẽ là những trò chơi trẻ ưa thích, những hình thức vận động, sau một thời gian trẻ sẽ quen dần với nề nếp và
sẽ hình thành tính tự giác.
25. Cho ý kiến về danh ngôn: “Hiền dữ đâu phải do tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Con người sống trong một xã hội có sự đa dạng về tính cách, có người hiền, nhân hậu, vị tha cũng có những con người
dữ dằn, khó tính, thậm chí là độc ác. Sự khác nhau về nhân cách này theo cách nhận xét và đánh giá của chủ tịch Hồ Chí
Minh thì đó không phải là do bẩm sinh, tức không phải là bản chất ban đầu của con người mà do sự giáo dục cũng như
môi trường sống của người đó tạo nên: “Hiền dữ đâu phải tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Trong những môi trường sống khác nhau thì con người có xu hướng phân hóa tính cách khác nhau, chẳng hạn như khi
sống trong một xã hội, một cộng đồng lành mạnh, trong sạch, tiếp xúc với những con người tốt thì người sống trong xã
hội ấy cũng có xu hướng trở thành một người tốt, tính cách cũng có phần thiện lương hơn. Và ngược lại, nếu như một
người sống trong một xã hội có nhiều tệ nạn, tiếp xúc với những con người có nhiều thiên hướng xấu thì tính cách cũng
có phần tiêu cực hơn. Ngay khi con người được sinh ra và lớn lên thì những người mà họ tiếp xúc nhiều nhất, lâu nhất
chính là những người thân trong gia đình, mà cụ thể hơn, tác động mạnh mẽ hơn thì đó chính là bố mẹ của họ. Bố mẹ
không chỉ sinh con ra mà còn nuôi dưỡng những đứa con ấy, trong quá trình đứa con trưởng thành, nếu như bố mẹ có ý
thức giáo dục con tốt, đúng cách thì đứa con ấy sẽ trở thành những người con ngoan, có ích cho xã hội. Nếu như giáo
dục sai cách, ví dụ như dùng bạo lực với con hay văng tục chửi bậy trước mặt con cũng như làm ra những hành động
đáng lên án như ăn trộm, ăn cướp, sa vào các tệ nạn xã hội thì đứa con ấy dù ít hay nhiều cũng sẽ bị tác động xấu đến ý
thức cũng như hành động.
Như vậy, ta có thể thấy sự giáo dục của bố mẹ có sự ảnh hưởng rất lớn đến những đứa con. Và một nhân tố giáo dục nữa
cũng ảnh hưởng lớn đến con người, đó chính là sự giáo dục từ trường học. Trường học là nơi mọi người đến trường để
học những kiến thức, kĩ năng về văn hóa cũng như tu rèn về phẩm chất, đạo đức. Ở trường tuy chỉ dạy học sinh theo
những giờ giấc nhất định, không có điều kiện tiếp xúc với các em nhiều như những người thân trong gia đình nhưng hiệu
quả của việc giáo dục ở trường mang lại là vô cùng cao. Bởi ở trường có đội ngũ các thầy cô giáo được đào tạo về
chuyên môn, có kĩ năng giáo dục và những kiến thức được đưa vào giảng dạy cũng được đảm bảo về tính chuẩn mực
cũng như tính khoa học. Hơn nữa, ở trường không chỉ giáo dục cho học sinh về những kiến thức bộ môn mà còn giáo
dục các em về các kĩ năng sống, cách ứng xử, giao tiếp cũng như bồi dưỡng cho các em về các phẩm chất đạo đức để các
em có thể hình thành những nhân cách đúng đắn, chuẩn mực và có thể trở thành những người có ích cho xã hội.
Câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh “Hiền dữ đâu phải do tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” là một câu nói hay,
thể hiện được tầm vóc tư tưởng cũng như sự hiểu biết của Bác. Điều đặc biệt nhất của câu nói này đó là Bác không
khẳng định chắc chắn một trăm phần trăm vai trò của giáo dục với nhân cách của con người. 20
26. “Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người” (Ngạn ngữ Nga). Hãy đưa quan điểm của bản thân về ngạn ngữ trên
Trong cuộc sống xã hội hiện đại, con người luôn cố gắng phấn đấu và nỗ lực hằng ngày để hoàn thiện bản thân, đề chuẩn
bị cho một tương lai thật tươi đẹp phía trước. Những nỗ lực ấy bao gồm việc bồi dưỡng tư cách phẩm chất đạo đức và
đặc biệt hơn cả đó là quá trình trau dồi kiến thức, lấy học vấn làm mục tiêu phấn đấu, để nâng cao giá trị của bản thân,
hiểu một cách đơn giản là làm đẹp bản thân bằng sự thu hút từ trí tuệ và nguồn kiến thức. Vẻ đẹp nội hàm xuất phát từ
bên trong con người luôn là đáng quý hơn cả, vậy nên ngạn ngữ Nga có câu: "Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm
đẹp con người", để nói về tầm quan trọng của học vấn trong quá trình hoàn thiện vẻ đẹp, sức hấp dẫn của một cá thể
trong cộng đồng. Vạn vật trong thế giới tự nhiên đều mang trong mình một vẻ đẹp, một sức hấp dẫn riêng, loài bướm say
mê với đôi cánh mỏng nhẹ rực rỡ, những loài hoa ngất ngây với hương thơm dịu ngọt, rồi thì ánh bình minh làm say lòng
người bởi sức sống tràn trề, cái nắng vàng nhạt thật ấm áp,... Riêng loài công cũng không ngoại lệ, những chú công đực
đã được tạo hóa ban tặng cho một bộ lông thật đẹp, khiến người ta phải trầm trồ, ngưỡng mộ không thôi, bởi độ tinh tế,
kỳ diệu của nó. Đó được xem là vũ khí ái tình của mỗi chú công đực, mỗi một con lại có một bộ lông khác nhau, vào
mùa sinh sản chúng thi nhau khoe chiếc đuôi rực rỡ tựa những cái quạt lông vũ khổng lồ để thu hút sự chú ý của những
con cái. Tôi không biết loài công nghĩ gì, nhưng chắc hẳn là chúng phải trân trọng bộ lông ấy lắm, bởi suy cho cùng
chính bộ lông đã làm nên giá trị và sức hấp dẫn riêng biệt của chúng, khiến chúng được tồn tại có ý nghĩa hơn. Chẳng ai
để ý đến một con công trụi lủi không có bộ lông sặc sỡ, dù chúng có mang danh loài công đi chăng nữa, vì thế nên đối
với công bộ lông chính là cả cuộc đời. Ngược lại, với con người, tạo hóa cũng ban tặng cho chúng ta ngoại hình từ thuở
khai sinh, thế nhưng ngoại hình ấy lại chỉ là thứ yếu, bởi cuộc sống vốn không phải ai cũng may mắn có một ngoại hình
thật mỹ miều. Và hơn tất cả chúng ta hơn muôn loài khác ở chỗ chúng ta có ngôn ngữ và một hệ thống tri thức cực kỳ đồ
sộ, chỉ đợi con người khai phá. Vẻ đẹp ngoại hình tuy lúc ban đầu có thể dễ dàng làm siêu lòng bất kỳ ai ngắm nhìn thế
nhưng, nhìn mãi nó cũng đâm ra ngán ngẩm nếu chúng ta không có những giá trị khác có chiều sâu hơn, hoặc với sức tàn
phá của thời gian thì dù là vẻ đẹp tuyệt mỹ cũng đến ngày úa tàn, già nua. Thế nên chúng ta chẳng thể trông cậy quá
nhiều vào vẻ đẹp bên ngoài, đó là một sự liều lĩnh và thậm chí là hơi nông cạn. Khác với những vẻ đẹp tự nhiên sẵn có,
thì học vấn và tri thức lại là những thứ tồn tại mãi mãi, không thể mất đi mà chỉ có thể được bồi đắp dần theo thời gian.
Và tôi phải khẳng định rằng vẻ đẹp xuất phát từ một tâm hồn mang nhiều tri thức hữu ích luôn là một vẻ đẹp thật hấp
dẫn và khó có thể chối từ, dường như người ta chỉ muốn đi sâu để tìm hiểu nó thêm nữa chứ chẳng bao giờ thấy nhạt
nhẽo và ngán ngẩm. Một con người dẫu có đẹp đến đâu, nhưng phần nội hàm lại trống rỗng và nhạt nhẽo thì cũng khó có
thể khiến người ta thích thú và duy trì mối quan hệ, những cá thể ấy thường được gọi là "bình hoa di động", nghĩa rằng
đó là thứ chỉ để ngắm chứ không mấy hữu ích. Ngược lại, một người có ngoại hình thường thường bậc trung, nhưng lại
có vốn hiểu biết rộng rãi, luôn có cách mở rộng vấn đề, khiến những cuộc trao đổi trở nên thật thú vị, khiến cuộc sống
trở nên nhiều màu sắc, thì lâu dần ta bỗng thấy họ đẹp đẽ là kỳ. Đó không phải là vẻ đẹp hào nhoáng chói mắt, mà là vẻ
đẹp bừng sáng từ trong chính tâm hồn, từ chính bản chất con người ấy, và lâu dần họ lại càng trở nên đẹp hơn, lấn át cả
cái vẻ đẹp ngoại hình vốn chỉ là bề nổi. Tôi không phủ nhận vẻ đẹp ngoại hình, thế nhưng giá trị của một con người phần
nhiều nằm ở lượng tri thức mà bạn có thể tích lũy được, bạn có thể làm được gì cho cuộc đời cho xã hội. Vẻ đẹp ngoại
hình không phải là cái bất biến và cũng có thể dần cải thiện, điều quan trọng nhất vẫn là chăm chỉ tích lũy kiến thức, làm
đẹp tâm hồn, nâng cao trí tuệ. Có thế trong tầm mắt của mọi người chúng ta mới thực đẹp và tỏa sáng, khiến người ta
phải nể phục và tôn trọng. Học không bao giờ là muộn, một con người thông minh sẽ học suốt đời, như lời Lê Nin từng
nói: "Học, học nữa, học mãi", chúng học bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian, bất kể mọi hình thức, chứ chẳng đơn thuần
thuần là qua sách vở. Đôi khi những bài học trong thực tiễn cuộc sống lại khai mở cho chúng ta nhiều điều thú vị mà
chẳng sách vở nào đem lại được. Câu ngạn ngữ "Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người" quả thực là một
câu nói rất hay, thức tỉnh một bộ phận không nhỏ những con người ưa chuộng vẻ đẹp hình thức, mà quên đi rằng vẻ đẹp
thực sự của con người phải xuất phát từ tâm hồn, từ học vấn tích lũy được. Mỗi chúng ta hãy cố hoàn thiện bản thân từ
ngoại hình đến nhân cách và quan trọng nhất ấy là nền tảng tri thức, thứ sẽ quyết định tương lai của chúng ta tươi sáng
hay tối tăm. Đừng chỉ chăm chăm vào những thứ hào nhoáng, nhưng lại vô hồn trống rỗng nhé các bạn trẻ, hãy sống và
học tập một cách thật tích cực và tỉnh táo. 21
27. Cho ý kiến về danh ngôn “Không nên dạy cho trẻ em những gì chúng phải suy nghĩ, mà dạy cho chúng cách
suy nghĩ”. Margaret Mead.
Làm cha mẹ là nên tạo cho trẻ cái gốc rễ vững chắc bằng cách để chúng học hỏi từ những sai lầm và rèn luyện tính tự lập
khi còn trong vòng tay của chúng ta, và cũng đến lúc để chúng có đôi cánh để bay đi tìm nơi rộng mở để có cuộc sống
riêng của chúng. Nếu không có sự chấp cánh bay đi, chúng sẽ trở thành những đứa trẻ lớn xác nhưng tầm hồn "thơ dại"
như những đứa trẻ ở đầu bài. Rồi cuộc sống của những đứa trẻ này sẽ ra sao khi cha mẹ chúng không còn ở bên? Làm
sao giúp trẻ "nhận ra bản thân". Trong nuôi dạy trẻ, chúng ta không phải chỉ cho trẻ ăn, trò chuyện vui chơi cùng trẻ là
đủ, mà chúng ta còn cho trẻ biết "trẻ là ai!". Nghĩa là, trẻ cần được cho sự tự tin trong suy nghĩ, sự độc lập trong những
việc làm. Điều này mới cho trẻ nhận ra rằng chính trẻ chứ không ai khác làm trên cuộc đời của trẻ. Điều này nên làm từ
sớm khi trẻ còn nhỏ. Nghe có vẻ khó hiểu, chúng ta rất dễ bắt gặp 2 dạng trẻ. Ngay trong gia đình, chúng ta có thể gặp
những đứa trẻ đã có suy nghĩ "lớn" sớm như cần học tiếng Anh, tìm tòi cái này cái kia và đã sớm thành công. Đó là trẻ đã
sớm nhận ra bản thân trẻ. Nhưng, chúng ta cũng hay gặp những đứa trẻ hay làm những việc không có mục đích như chơi
game, tán gẫu,... rồi loay hoay mãi ở độ tuổi 30 chưa rõ làm gì.
1. Trẻ con học từ trải nghiệm, không có đúng sai, chỉ là trải nghiệm.
Khái niệm trải nghiệm có thể được chúng nghĩ là những hoạt động trẻ sẽ trải qua. Đúng là như vậy, nhưng cần hiểu sâu
hơn. Là những hoạt động trẻ cần là chính trẻ, chính bản thân trẻ nhận ra vấn đề và giải quyết. Khái niệm này khá
trừu tượng và đây là 1 số ví dụ để chúng ta dễ hình dung như thế nào là "chính bản thân trẻ".
VD1: Trẻ dưới 2 tuổi thường hay khóc và thức đêm. Đây là 1 trải nghiệm của trẻ. Dĩ nhiên, chúng ta loại bỏ yếu tố trẻ
đang có 1 vấn đề bệnh lý nào đó. Trẻ trải nghiệm có thể là do trẻ đói cần bú hoặc chỉ đơn giản cần mẹ chứ không cần
thiết bú. Đầu tiên, hãy để trẻ nhận ra trải nghiệm này bằng cách đừng bế trẻ lên liền để ru ngủ lại. Hãy để trẻ nằm
ngay trên giường, bạn có thể vỗ lưng trẻ. Một số trẻ chỉ cần lăn qua lăn lại rồi ngủ, một số trẻ cần nhiều nổ lực hơn.
Nếu cần cho trẻ bú, hãy cho trẻ tự nổ lực tìm ti và cho bú tại chỗ, không nên di chuyển trẻ đi 1 nơi khác.
VD2: Trẻ không hài lòng thường đập đầu vào gối. Hành vi này không phải "cách gây áp lực" như chúng ta hay nghĩ.
Đơn giản là thể hiện 1 "sự rối bời" trong tìm cách giải quyết của trẻ. Cha mẹ nên bình tĩnh, giữ con lại bằng hai tay
để cho trẻ lấy lại sự chú ý -tín hiệu này cho trẻ biết bạn đang lắng nghe trẻ. Hãy hỏi con bằng những câu hỏi để giúp
trẻ diễn đạt vấn đề rõ hơn. Có những câu hỏi cần câu trả lời của trẻ, nhưng có những câu hỏi chỉ cần mang tính dẫn
dắt để trẻ mở rộng diễn đạt. Khi trẻ bình tĩnh, hãy cho trẻ biết việc đập đầu vào gối là không cần thiết, khi cần con
hãy nắm tay mẹ, mẹ sẽ trả lời con. Bạn đừng nghĩ trẻ 12 tháng tuổi không hiểu gì khi bạn áp dụng những điều này.
Đúng là, trẻ chưa có ngôn ngữ để trả lời câu hỏi của bạn, nhưng trẻ sẽ dùng những cử chỉ, ánh mắt hoặc ngôn ngữ
riêng để cho bạn biết. Đó là cách mà trẻ học và nhận ra trải nghiệm và cũng là cách để trẻ giải quyết vấn đề.
2. Luôn cho trẻ có ý kiến, không có ý sai hay đúng, chỉ là ý kiến để thảo luận.
Làm cách nào để trẻ bớt đòi mua đồ chơi? Tôi vẫn khuyên cha mẹ: Hãy cho trẻ quyết định mua cái gì và không mua cái
gì? thì trẻ sẽ chỉ đòi mua khi đã suy nghĩ thật kỹ. Tại sao? Bởi vì thông thường trẻ em đòi mua món đồ nào đó
thường là do trẻ thích, trẻ muốn cái mới mà chưa thật sự bỏ công suy nghĩ "Mua nó làm gì". Nếu bạn cho trẻ lựa
chọn, trẻ bắt đầu lôi 1 danh sách cái này, cái kia và cũng bắt đầu suy tính. Do đó, sự cân nhắc sẽ bắt đầu hình thành.
Khi có sự cân nhắc thì trẻ sẽ không vội đưa ra quyết định nếu chưa suy nghĩ kỹ.
3. Tranh luận với trẻ, không có ý kiến sai hay đúng, chỉ là cách mở rộng vấn đề.
Tranh luận không phải là cách chúng ta dùng sự la hét, ép buộc trẻ phải đồng ý với ý kiến của bạn. Tranh luận là giúp trẻ
có ý kiến phản biện. Tranh luận rất dễ làm bạn có suy nghĩ tiêu cực, do đó, nên chú ý bình tĩnh và lắng nghe con bằng trái tim.
Trẻ nhỏ có thể cho rằng: chiếc lá màu đỏ (khái niệm nghe có vẻ sai về thực tế, nhưng thật ra vẫn có những chiếc lá màu
này biết đâu bé đã nhìn thấy). Do đó, tranh luận là cách giúp trẻ nhận ra sự kết nối các sự thật để đưa vào nhận định
riêng của trẻ . Ai cho bạn 1 nhận định, điều này có thể đúng hay sai, nhưng nhận định này sẽ có giá trị sử dụng nếu
nó là sự kết nối các sự thật hay bằng chứng. Đó là nguyên lý cơ bản của sự tư duy.
28.Cho ý kiến về danh ngôn “Thầy giáo của anh có thể dắt anh đến cửa; đạt được sự học là việc tùY thuộc vào mỗi
người” (Danh Ngôn Trung Quốc)
Câu danh ngôn này làm em nhớ đến câu nói: Không thầy đố mày làm nên. Thật vậy, đối với mỗi một người học trò,
người thầy luôn đóng vai trò quan trọng. Giống như ngọn đèn dầu soi sáng giữa trời đêm, thầy cô giáo chính là những
người sẽ định hướng, dạy dỗ và đưa học trò tiếp cận đến bến bờ tri thức. Tuy vậy nhìn vào thực tế, ta có thể thấy một
nghịch lí: tại sao học cùng một người thầy giỏi, cùng tiếp xúc môi trường học tập như nhau, tại sao xã hội chúng ta vẫn 22
có những học sinh ưu tú và những học trò “cá biệt”. Đó chính là ý nghĩa mà vế sau của câu danh ngôn muốn gửi gắm:
“đạt được sự học là việc tuỳ thuộc vào mỗi người”. Mỗi chúng ta, ai cũng có những sở trường, sở đoản, những khả năng
và những khiếm khuyết riêng. Không ai hoàn hảo tuyệt đối trên thế giới này, chúng ta không có quyền lựa chọn trí thông
minh, hay khả năng của bản thân khi sinh ra, tuy nhiên mỗi người đều có thể lựa chọn cách phát triển những khả năng
hiện có. Giống như trong lịch sử âm nhạc thế giới, chúng ta được thấy một Beethoven - nhà soạn nhạc thiên tài với
những bản nhạc bất hủ, nổi tiếng đến tận ngày nay, song, nếu không nhờ có công dạy dỗ của người thầy Neefe và sự
luyện tập không ngừng nghỉ, tài năng của Beethoven được cả thế giới công nhận. Ngay cả khi số phận trở nên nghiệt ngã
hơn, khi nhà soạn nhạc thiên tài không còn nghe được âm thanh, trở thành người khiếm thính, ông vẫn nỗ lực vượt qua
nghịch cảnh và hàng loạt sáng tâ để đời như Sonata ánh trăng, bản giao hưởng số 5,... đã ra đời trong khoảng thời gian
khắc nghiệt ấy. Tuy nhiên, người không học như ngọc không mài, nếu không trau dồi, không luyện tập, người tài năng
đến mấy cũng sẽ bị thui chột. Nữ idol Lisa của nhóm Blackpink - nhóm nhạc nữ nổi tiếng thế giới thời điểm hiện tại đã
từng nói: “những người có kĩ năng tốt, không đáng sợ bằng những người chăm chỉ, kiên cường”. Chúng ta không thể
chọn được cách sinh ra, nhưng chúng ta hoàn toàn lựa chọn bản thân phát triển thành viên đất sét hay toả sáng như viên ngọc rạng ngời. 23