



















Preview text:
NỘI DUNG I.
Khái quát chung Giao lưu và tiếp biến văn hóa Trung Hoa. II.
Giao lưu và tiếp biến
1. Văn hóa vật chất a. Kiến trúc b. Gốm c. Ẩm thực d. Trang phục
2. Văn hóa tinh thần a. Hệ tư tưởng a.1 Đạo giáo a.2 Nho giáo a.3 Văn học a.4 Tư tưởng b. Nghệ thuật múa b.1 Múa lân b.2 Múa rồng b.3 Đội múa lân sư rồng c. Âm nhạc d. Sân khấu kịch d.1 Tuồng d.2 Cải lương e. Chữ viết e.1 Định nghĩa e.2 Từ Hán - Việt f. Phong tục tập quán f.1
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên f.2
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng f.3 Tết Nguyên Tiêu f.4 Tiết Thanh Minh f.5 Xem bói f.6 Phong tục cưới hỏi III.
Vai trò của giao lưu và tiếp biến văn hóa Trung Hoa 1. Ưu điểm 2. Nhược điểm
3. Thực trạng ngày nay IV. Kết luận V. Nguồn tham khảo 2 I. Khái quát chung
Giao lưu và tiếp biến văn hóa Trung Hoa.
Việt Nam tiếp nhận văn hóa Trung Hoa qua hai con đường chính, phản ánh sự giao
thoa phức tạp giữa hai nền văn hóa. Con đường thứ nhất là con đường cưỡng chế,
được ghi chép rõ ràng trong sử sách thông qua các chính sách đồng hóa và áp đặt từ
các triều đại phong kiến Trung Quốc. Những chính sách này không chỉ nhằm kiểm soát
về mặt chính trị mà còn tác động mạnh mẽ đến văn hóa và xã hội Việt Nam. Trong suốt
lịch sử, Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược và áp bức
văn hóa, từ cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc, Trưng Nhị vào thế kỷ I đến các phong trào
kháng chiến chống Pháp và Mỹ sau này. Những cuộc khởi nghĩa này không chỉ thể hiện
lòng yêu nước mà còn khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện quyết tâm bảo vệ
và gìn giữ những giá trị văn hóa của mình trước sức ép của văn hóa ngoại lai.
Mặc dù chịu sự áp đặt của văn hóa Trung Hoa, người Việt đã khôn khéo tiếp nhận và
cải biên các yếu tố văn hóa này để phù hợp với bản sắc dân tộc. Chẳng hạn, trong lĩnh
vực ngôn ngữ, tiếng Việt đã tiếp thu nhiều từ Hán, nhưng vẫn giữ được cấu trúc và
cách diễn đạt riêng. Trong nghệ thuật, các thể loại như thơ ca, hội họa và điêu khắc
cũng chịu ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa, nhưng lại mang những đặc trưng riêng
của người Việt, tạo nên những tác phẩm độc đáo và sáng tạo.
Con đường thứ hai, mang tính chất lành tính, diễn ra thông qua giao lưu hòa bình với
các nhân dân Trung Hoa di cư sang Việt Nam. Những người này đã sống hòa nhập và
chia sẻ văn hóa của họ với người dân bản địa, tạo nên một mối quan hệ gần gũi và thân
thiện. Qua các hoạt động buôn bán, sinh hoạt hàng ngày và giao lưu văn hóa, nhiều yếu
tố văn hóa Trung Hoa đã được tiếp nhận một cách tự nguyện, từ ẩm thực, phong tục
tập quán đến ngôn ngữ. Chẳng hạn, nhiều món ăn đặc trưng của Trung Quốc như phở,
bánh cuốn đã được người Việt tiếp biến và phát triển theo cách riêng, tạo ra những món
ăn độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Việt.
Sự giao thoa văn hóa này đã góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam,
đồng thời hình thành những nét đặc trưng độc đáo của văn hóa Việt, mang đậm dấu ấn
của sự hòa quyện giữa hai nền văn minh. Nhờ vào nó, Việt Nam đã xây dựng được một
nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc và sức sống. Chính sự giao thoa và kết hợp này đã
giúp Việt Nam không chỉ gìn giữ được bản sắc văn hóa của mình mà còn mở ra một
không gian giao thoa văn hóa phong phú, phản ánh sự đa dạng và sức sống của nền
văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay. Thực tế này cho thấy rằng, sự
giao lưu văn hóa không chỉ là sự tiếp thu mà còn là quá trình biến đổi và sáng tạo, góp
phần định hình nên những giá trị văn hóa đặc sắc của mỗi quốc gia. 3
II. Giao Lưu và tiếp biến
1. Văn hóa vật chất a. Kiến trúc Nét tương đồng
Kiến trúc Việt Nam và Trung Hoa có khá nhiều nét tương đồng. Xét về mặt
địa lý thì đó là sự trải dài liên tục của các đới khí hậu và các miền tự nhiên, do
đó chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng giống nhau ở những vùng chuyển tiếp
và lân cận nên kiến trúc những vùng này sẽ có những nét tương đối giống nhau.
Ví dụ như là hình thức mái trong kiến trúc chùa với mái cong, trang trí rồng
phượng, và sử dụng các thuyền mái, tương đồng với kiến trúc chùa ở Trung
Quốc. Vật liệu xây dựng là gỗ, đá, gạch là đặc điểm chung, nhiều công trình
sử dụng nguyên tắc phong thủy, xuất phát từ triết lý Trung Hoa.
Ngoài ra, cả hai đều có sự giao thoa văn hóa liên tục suốt hơn một ngàn năm
lịch sử. Quá trình giao thoa văn hóa đã để lại dấu ấn rõ nét ở dòng kiến trúc
chính thống, chẳng hạn như là một số nét tương đồng giữa cố cung Bắc Kinh
và Tử cấm thành của kinh thành Huế hoặc sự giống nhau giữa Văn Miếu Hà
Nội và Văn Miếu Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông. Sự khác biệt
Để chống lại thời tiết lạnh giá thì người dân Trung Hoa đã hình thành kiến trúc
đóng. Nét tiêu biểu là tất cả các công trình đều quây kín xung quanh một cái
sân, chỉ sử dụng không gian bên trong và hầu như không sử dụng đến không
gian bên ngoài, tường thường được làm dày cách nhiệt, ít cửa sổ, trong nhà
thường có những bộ phận tạo nhiệt như giường lò, tường lò, hầm lò. Trong
khi đó, hình thức kiến trúc căn nhà của người Việt ngược lại với lối kiến trúc
mở để phù hợp với điều kiện môi trường nóng ẩm. Đặc trưng bởi sự cao ráo,
thông thoáng, tiếp cận với thiên nhiên và không gian bên ngoài được sử dụng
rất nhiều trong sinh hoạt, tường thường mỏng, nhiều cửa sổ và những yếu tố
như cây xanh, mặt nước là những yếu tố không thể thiếu được trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam.
Với lối sống đại gia đình thì ngôi nhà dân gian Trung Quốc tổ chức theo cơ
cấu “Tứ đại đồng đường”, và với cơ cấu này thì kiến trúc nhà ở thường là
những quần thể. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển của các thành viên thì 4
ngôi nhà thường được kéo dài ra theo phương Nam Bắc và tạo thành quần
thể được bố cục theo kiểu “Viện lạc”. Trong khi đó thì ngôi nhà dân gian Việt
Nam là những ngôi nhà riêng lẻ, con cái trong nhà lớn lên lập gia đình thì ra ở
riêng nên ngôi nhà thường có quy mô vừa phải để phục vụ cho một gia đình.
Trong kết cấu mái thì tinh hoa của người Việt là cái giá chiêng, trong khi đó thì
người Hán sử dụng kỹ thuật chồng rường. Để mở rộng diện tích hiên thì
người Hán đã sáng tạo ra “Đấu củng” vừa có tác dụng chịu lực, vừa là một
chi tiết trang trí. Cũng với mục đích đó thì người Việt đã sáng tạo ra cái “Bẫy”
và nó cũng không hề thua kém gì “Đấu củng” về mặt kết cấu cũng như về mặt
nghệ thuật trang trí. Sự khác biệt trong quá trình sáng tạo nghệ thuật càng
được thấy rõ nét hơn trong nghệ thuật trang trí. Mỗi một dân tộc đều có
những tinh hoa riêng nhằm tô điểm cho ngôi nhà của mình từ những tảng đá
kê chân cột cho đến những tàu đao lá mái. Nghệ thuật trang trí Trung Hoa thì
chú trọng đến chi tiết, còn nghệ thuật trang trí Việt Nam thì chú trọng đến hình
khối, sự hài hòa và tính biểu trưng của nó. 5 b. Gốm
Bắt đầu với gốm Việt Nam 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Cách ngày nay trên 2000
năm, từ những kỹ thuật mới trong chế tác đồ gốm được phổ biến từ Trung Hoa,
nghề gốm Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu, nắm vững và phát triển, trở thành một
trong số ít các quốc gia có nghề sản xuất đồ gốm men ra đời sớm và phát triển liên
tục. Đặc trưng của đồ gốm thời kỳ này có xương gốm dày, men mỏng thường không
phủ hết đồ vật, men màu vàng ngà, trắng nhạt, trắng xám; trang trí hoa văn in nổi ô
trám, hoa văn xương cá hoặc lá dừa, hình thoi, chữ S, văn chải, văn sóng nước.
Một số ấm, âu, hũ có trang trí hình cánh sen, chim, cá, đầu gà, đầu voi.
Vào thời Lý - Trần, đồ gốm Việt Nam phát triển mang tính độc lập, khám phá những
đề tài trang trí mang tính bản địa của người Việt, đồng thời tiếp nhận, cải biến mạnh
mẽ yếu tố kỹ thuật, hình dáng, hoa văn đặc trưng của truyền thống sản xuất gốm sứ
Trung Quốc thời Đường, Tống, tạo nên một trong những trang sử rực rỡ nhất của
truyền thống sản xuất gốm sứ Việt Nam. Gốm men trắng rất phổ biến trong thời kỳ
này, trong số đó có nhiều loại được chế tác tinh xảo, hoa văn trang trí độc đáo mang
tính biểu trưng cao quý như rồng, hoa sen, hoa cúc. Gốm men trắng có nhiều sắc độ
khác nhau như trắng ngà, trắng đục, trắng sáng ngả xanh, bề mặt men nhẵn bóng.
Vào thời Nguyễn, các đoàn sứ bộ đã đi sứ sang Trung Hoa ngoài nhiệm vụ chính
như cầu phong, cáo thụ, chúc mừng, tạ ơn, còn kiêm thêm việc đặt làm đồ sứ cho
triều đình, chủ yếu dưới các thời hoàng đế Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Khải Định.
Đồ gốm cổ thời Nguyễn quy tụ những đồ vật quý giá như chiếc bát được khắc
những lời răn dạy về cách xử thế, liễn hình phong cảnh với những đường nét hoa
văn tinh tế, đĩa trang trí họa tiết hoa lá bằng vàng, đĩa được in hình rồng cẩn vàng.
Như vậy, gốm sứ thời nhà Nguyễn chính là những món đồ sứ do người Việt Nam
(cụ thể là hoàng đế, quan lại, thường dân) đặt làm tại các lò gốm Trung Hoa, gọi là đồ sứ ký kiểu.
Nét đặc trưng của đồ sứ ký kiểu là chỉ dành riêng cho người Việt dùng, không lưu
hành trên thị trường Trung Hoa đương thời. Những đồ sứ này dù được sản xuất tại
Trung Quốc, nhưng mang các “tiêu chí Việt” như:
Hình trang trí trên đồ sứ miêu tả các địa danh Việt Nam như: núi Hải Vân, núi Tam
Thai, núi Thúy Vân, chợ Thuận Hóa, chùa Thiên Mụ,...
Thơ văn trên đồ sứ viết bằng chữ Nôm hoặc là thơ văn chữ Hán nhưng tác giả là
người Việt như chúa Nguyễn Phúc Chu, Đào Duy Từ, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức,… 6
Các hiệu đề đế hiệu trên đồ sứ mang niên hiệu các vua Việt Nam như: Gia Long,
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Khải Định; hoặc các hiệu đề ghi năm trên đồ sứ
trùng hợp với những năm có sứ bộ Việt Nam sang Trung Hoa.
Các đồ án trang trí trên đồ sứ không theo khuôn mẫu Trung Hoa mà mang phong
cách Việt Nam, từng được thể hiện trên các chất liệu khác như đồng, vải, giấy trong
các lĩnh vực như điêu khắc, kiến trúc, hội họa từ thời Lê đến thời Nguyễn. 7 c Ẩm thực
Việt Nam và Trung Quốc đều là hai quốc gia chịu ảnh hưởng lớn từ nền văn hóa Á
Đông. Về phương diện ẩm thực, cả 2 đều có những nét tương đồng.
Đầu tiên có thể kể đến là sử dụng đũa. Không chỉ Việt Nam và Trung Quốc rất nhiều
quốc gia châu Á như Nhật bản, Hàn Quốc…cũng dùng đũa. Đũa luôn đi theo đôi. Là
các thanh dài bằng nhau , làm bằng gỗ hay tre. Có một đầu nhỏ, một đầu lớn. Khi ăn
bạn sẽ cầm ở đầu lớn hơn còn đầu nhỏ dùng để gắp thức ăn. Nguyên liệu của cả
hai nước đều đa dạng và ăn theo mùa. Lương thực chính trong bữa ăn đó là cơm.
Điều xuất phát từ những nước có nền văn minh lúa nước lâu đời. Bên cạnh những
điểm giống nhau luôn có những điểm khác nhau. Điều này xảy ra trong quá trình
giao thoa và tiếp nhận văn hóa có những sửa đổi để phù hợp với hoàn cảnh.
Ẩm thực Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm khác nhau trong cách chế biến. Với
khí hậu nhiệt đới, miền bắc có mùa hè nóng, miền nam nóng quanh năm thì người
Việt Nam rất thích các món thanh đạm, tránh dầu mỡ. Phương pháp chế biến cho
các món ăn hàng ngày rất đơn giản, đôi khi chỉ luộc rau, luộc thịt. Các món ăn của
người Việt cũng là sự kết hợp của khá nhiều loại gia vị mang đến sự tổng hòa.
Ngược lại, người Trung Quốc thường dùng rất nhiều dầu mỡ trong chế biến món ăn
vì ở Trung Quốc thường có mùa đông rất lạnh và họ cũng ít khi tổng hợp lại các gia
vị để tạo sự kết hợp hương vị. Nếu lướt các video ẩm thực Trung Quốc trên mạng
xã hội có thể thấy khi chế biến xong còn rưới một lớp dầu lên và đặc biệt không thể thiếu ớt.
Cụ thể hơn có thể so sánh về hai món thịt và canh giữa hai nước. Về món canh
người Việt Nam thì canh không phải món chính và họ không bỏ quá nhiều tâm sức
vào món ăn này. Thông thường, canh chỉ là nước luộc rau hoặc phức tạp hơn một
chút thì có chế biến thêm các loại thịt, cá,… Người Việt có thói quen chan nước
canh vào cơm để ăn. Ngược lại, người Trung Quốc chế biến món canh rất phức tạp
với thời gian lâu. Canh thường được chế biến bằng cách hầm các nguyên liệu để
lấy được những chất dinh dưỡng tinh túy nhất từ chúng. Nước canh không cần quá
nhiều gia vị vì thông thường nó như một món khai vị. Điều đó cũng có nghĩa là
người Trung Quốc không ăn cơm kèm với canh. Còn món thịt, về cách chế biến thì
ở điểm này Trung Quốc hạn chế hơn so với Việt Nam. Ngoài những phương pháp
thông thường như luộc, nấu, hầm, nướng, kho,… người Việt còn sáng tạo bằng
cách làm nem rán, nem chua, chả quế, giò lụa,… Trong khi đó các món thịt của
người Trung Quốc chỉ được chế biến bằng các phương pháp truyền thống.
Nhìn chung ẩm thực Việt Nam và Trung Quốc rất dân dã và đa dạng nguyên liệu và
hương vị vẫn có đặc điểm riêng trong văn hóa chế biến. Hương vị của mỗi nước 8
đều có vẻ đẹp riêng và mang dấu ấn trong lịch sử văn hóa. Điều đó làm nên giá trị
cho mỗi món ăn sau khi nó được biết đến và được thưởng thức. d Trang phục
Thời Lý: Có 2 trang phục tiêu biểu. Đầu tiên là trang phục được đặc trưng bởi chiếc
mũ đội đầu và áo choàng lửng khá đơn giản và mộc mạc. Trong khi đó thiết kế đời
sau có phần cầu kỳ và điệu đà hơn với nhiều lớp áo choàng. Hoàng đế Việt Nam
thường xuất hiện với trang phục áo khoác hình Rồng, liên tưởng đến Hoàng đế của
Trung Quốc, điều này cho thấy họ và Trung Quốc ngang bằng. Trang phục này nổi
tiếng từ triều Lý. Những triều đại trước không làm như vậy do nhận được phản ứng gay gắt từ Trung Quốc.
Đến thời Trần bắt đầu từ thế kỷ 13-15 đặc trưng với áo có phần ống tay rộng, phần
áo choàng có cổ áo khoét sâu rộng, bên trong mặc một chiếc yếm quây. Đến thế kỷ
15-16, thời kỳ cuối nhà Trần, đầu nhà Lê, phần cổ áo được may kín đáo hơn với
phần cổ tròn, ống tay gọn gàng hơn. Màu sắc bắt mắt hơn.
Trang phục Việt Nam Triều Lê Có thể nói thời kỳ nhà Lê là thời kỳ thăng hoa của
trang phục phụ nữ Việt Nam . Nhìn chung các trang phục thời nhà Lê đều có thiết kế
khá cầu kỳ với nhiều lớp áo choàng, màu sắc bắt mắt . Nhưng vào thời Chiến quốc
(771-221 TCN): Thời này xuất hiện 1 loại trang phục một mảnh, liên kết các áo và
váy với nhau để bọc cơ thể. Chúng thay đổi kiểu phục trang trong quá khứ trước sau
bên trái được đính lại , phía sau của vạt áo được kéo dài ra, sau khi kéo dài vạt áo
sẽ có hình tam giác, khi mặc vào sẽ quấn từ sau lưng ra đến giữa eo. Mọi người
đều có thể mặc nó không phân biệt giới tính, nghề nghiệp hay tầng lớp xã hội.
Chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Trung Hoa nên các trang phục truyền thống thời
kỳ nhà Lê chưa thoát khỏi cái bóng của vùng đất hùng mạnh này. Trang phục của
phụ nữ Việt thời Lê có nhiều nét giống với kiểu áo choàng Hanfu của Trung Quốc.
Điển hình vào thời kì Hạ, Thương, Chu (2100-221 TCN): Quần áo thời kỳ này chủ
yếu gồm hai phần áo và xiêm,váy. Vòng tay áo hẹp, Áo không có nút và được cố
định với một đai rộng buộc quanh thắt lưng. Khi mặc thường đeo thêm 1 miếng ngọc
bội. Loại vải trong giai đoạn này chủ yếu là ở màu sắc ấm áp, đặc biệt là màu vàng
,đỏ, nâu. Cũng có màu lạnh như màu xanh, màu xanh lá cây. Các màu sắc cơ bản
như đỏ ,vàng thường được dùng để vẽ lên các loại vải sau khi dệt.Chính vì ảnh
hưởng bởi văn hóa Trung Hoa mà bộ trang phục này không được nhiều người hưởng ứng.
Nhưng đến thời kỳ nhà Nguyễn các bộ quần áo đã được may thêm phần cổ áo và
thắt lưng mang nét đặc trưng rất riêng của người Việt. Trong đó màu đen là màu
được ưa chuộng ở triều Nguyễn.Dạng áo thấy ở các bức tượng Lê sơ, Mạc, đầu
Trịnh Nguyễn. dành cho những cô gái thuộc dòng dõi quý tộc khi chất liệu được in
hoa văn tinh tế với áo choàng rộng. 9
2. Văn hóa tinh thần a. Hệ tư tưởng a.1 Đạo giáo
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỉ II. Sách Đạo Tạng kinh ghi: “Sau
khi vua Hán Linh đế băng hà, xã hội (Trung Hoa) rối loạn, chỉ có đất Giao Châu là
yên ổn. Người phương Bắc chạy sang lánh nạn rất đông, phần nhiều là các đạo
sĩ luyện phép trường sinh theo cách nhịn ăn”. Nhiều quan lại Trung Hoa sang ta
cai trị đều sính phương thuật (như Cao Biền đời Đường từng lùng tìm yểm
huyệt, hi vọng cắt đứt các long mạch để triệt nguồn nhân tài Việt Nam). Đạo giáo
đến sau Nho giáo và Phật giáo. Trong khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng ở
Việt Nam thì Đạo giáo đã tìm thấy ngay những tín ngưỡng tương đồng có sẵn từ lâu.
Tương truyền Hùng Vương là người giỏi pháp thuật nên có uy tín thu phục 15 bộ
lập nên nước Văn Lang. Ngay các nhà sư cũng phải học các phép trị bệnh, trừ tà
thì mới đưa Phật giáo thâm nhập sâu vào dân chúng vốn có tín ngưỡng ma thuật
được. Do vậy mà tình hình Đạo giáo ở Việt Nam rất phức tạp, khiến cho không ít
nhà nghiên cứu đã quy hết mọi tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam cho Đạo giáo và
ngược lại, người Việt Nam sính đồng bóng, bùa chú thì lại chẳng hề biết Đạo giáo là gì.
Nó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần, truyền thống của những
người dân lao động. Ngay khi thâm nhập, nó đã là vũ khí chống lại phong kiến
phương Bắc rồi. Phong trào nông dân khởi nghĩa ở các tỉnh Nam Trung Hoa vào
thế kỉ II đều có liên hệ với các cuộc khởi nghĩa nông dân hai quận Giao Chỉ, Cửu
Chân. Vào thời kì phong kiến dân tộc ở Việt Nam, Đạo giáo thường được dùng
để thu hút nông dân tham gia vào các cuộc bạo động chống lại cường hào ác bá
địa phương và quan lại trung ương: Thời Lý Nhân Tông có Lí Giác cầm đầu cuộc
bạo động ở Diễn Châu (Nghệ An), là kẻ học được phép lạ có thể “biến cỏ cây
thành nguồn”. Năm 1379 (đời Trần Phế Đế), ở Bắc Giang có Nguyên Bổ xưng
vương, hiệu là Đường Lang Tử Y. Đời Hồ có Trần Đức Huy dùng phương thuật
thu hút đông đảo người theo, bị Hồ Quý Ly dẹp năm 1403.
Đạo giáo thờ các vị thần là Ngọc Hoàng Thượng đế (Ngọc Hoàng), Thái Thượng
Lão Quân (Lão Tử), Quan Thánh Đế (Quan Công), người Việt còn thờ các vị
thánh của riêng mình. Câu tục ngữ, "Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ" là để chỉ
Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) và Bà Chúa Liễu (Liễu Hạnh Công chúa). Việc
thờ đức Thánh Trần với tam phủ và tứ phủ đi liền với tín ngưỡng đồng bóng.
Ngoài ra Đạo giáo Việt Nam còn thờ các vị thần khác như: Thần Tài,Thổ Địa,... 10
Ở Việt Nam, Đạo giáo như một tôn giáo đã tàn lụi từ lâu. Dấu vết hoạt động cuối
cùng của nó là sự kiện một nhóm tín đồ xuất bản vào năm 1933 ở Sài Gòn một
bộ sách mang tên Đạo giáo viết theo tinh thần tôn giáo gồm 3 tập. Đến nay,
những hiện tượng như đồng bóng, đội bát nhang, bùa chú… tuy vẫn lưu truyền,
nhưng chúng chỉ còn là những di sản của tín ngưỡng dân gian truyền thống mà thôi. a.2 Nho giáo
Nho giáo ra đời vào khoảng thế kỉ VI TCN ở Trung Quốc, Người sáng lập là Khổng
Tử dựa trên sự kế thừa tư tưởng của Chu Công Đán. Ông vốn là một người Trung
Quốc nên chúng ta có thể nói Nho giáo có xuất xứ từ Trung Hoa vì vậy chúng ta
thường gọi là nho giáo Trung Quốc. Tuy nhiên sau đó Nho giáo đã phát triển mạnh
mẽ vượt ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc và tác động sâu sắc đến văn hoá của các
quốc gia trong khu vực Đông Á bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên và cả Việt
Nam nữa. Sự giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và Trung Hoa không những trong
ngoại giao và kinh tế, mà còn trong giá trị văn hoá, lịch sử.
Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo đến Việt Nam
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ sớm qua giao thương và văn hóa với
Trung Hoa, ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và cách nhìn nhận về gia đình, xã hội.
Giai cấp phong kiến đã duy trì và phát triển Nho giáo như một công cụ cai trị hữu
hiệu, thể hiện qua việc xây dựng Văn Miếu và các hoạt động văn hóa chính thống.
Dù bị Hán hóa một phần, Nho giáo cũng đã Việt hóa trong quá trình thẩm thấu, góp
phần hình thành nền văn hóa tinh thần đa dạng của Việt Nam. a. Tín ngưỡng
Nhà nho Việt Nam coi Nho giáo như là tôn giáo; gạt bỏ, bài xích các tôn giáo khác
ngoại trừ những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích, như lòng tin
vào thiên mệnh, việc tế lễ, việc thờ cúng tổ tiên... Vì vậy, trong Nho giáo là tôn giáo
của đàn ông người Việt, bên cạnh các tôn giáo dành cho các bà các cô như đạo Phật, đạo Mẫu b. Phong tục
Về phong tục, sự tác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một phần
các phong tục vòng đời, đặc biệt là phong tục hôn nhân, phong tục tang ma. Trong
thời trung đại, các phong tục này đều lấy hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán
làm chuẩn mực. Chính vì vậy mà cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều người viết sách 11
mô tả các phong tục và nghi thức ấy trong văn hóa Việt Nam hiện đại như thể chúng
là bản sao của phong tục Trung Hoa trung đại!Thật ra, bên cạnh các phong tục hôn
nhân, phong tục tang ma theo hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán trước đây,
người Việt ở các vùng miền khác nhau và các tôn giáo ở Việt Nam đều có cách thức
riêng để thực hiện các phong tục ấy. c. Giáo dục
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ sớm qua văn hóa và giao thương với Trung Hoa,
làm phong phú tư tưởng Việt Nam và thay đổi cách nhìn về gia đình, xã hội. Nho
giáo là nền tảng của hệ thống giáo dục chính thống Việt Nam trung đại, bao gồm
bốn cấp: kinh đô, tỉnh, phủ, huyện. Chế độ thi tuyển giúp đào tạo quan lại nhà nước.
Hệ thống này tồn tại song song với giáo dục dân gian tại gia đình và cộng đồng,
nhấn mạnh tôn kính ông bà, tổ tiên. Trong 844 năm khoa cử Hán học (1075 - 1919),
nho học đã sản sinh nhiều nhân tài như Lê Văn Hưu, Nguyễn Trãi, Ngô Sĩ Liên cùng
nhiều nhà bác học và thi hào khác.
Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến hình ảnh thầy đồ trong giáo dục Việt Nam,
thể hiện qua các khía cạnh sau: Hình ảnh ông đồ
Nho giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và
cách nhìn nhận về gia đình, xã hội. Thầy đồ, như người thầy mẫu mực, không chỉ
giảng dạy tri thức mà còn truyền đạt đạo đức và nhân cách theo nguyên tắc "tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Chương trình học tập trung vào các tác phẩm kinh
điển như "Thư tịch" và "Luận ngữ", sử dụng phương pháp học thuộc lòng và đối thoại.
Trong xã hội, thầy đồ được tôn trọng là biểu tượng của tri thức và đạo đức, góp
phần duy trì trật tự xã hội và văn hóa. Nho giáo đã định hình hình ảnh, phương pháp
và vai trò của thầy đồ trong giáo dục Việt Nam, tạo nên di sản văn hóa còn ảnh hưởng đến ngày nay. 12
Hình ảnh ông đồ đang dạy học d. Kiến trúc
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là biểu tượng của văn hóa, tinh thần và tri thức Nho giáo
dưới chế độ quân chủ phương Đông. Đây không chỉ là nơi tôn thờ vị thánh tổ của
đạo Nho mà còn là trung tâm giáo dục, đào tạo nhân tài cho xã hội. Trong bài viết
của đại thần Thân Nhân Trung từ năm 1484, nhấn mạnh rằng "Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia", cho thấy sự quan trọng của việc giáo dục nhân tài trong việc phát
triển đất nước. Nho giáo đã góp phần hình thành tri thức và phẩm hạnh của trí thức
Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Ngày nay, Văn Miếu Huế được công nhận là Di sản văn
hóa thế giới từ năm 1993, trong khi Văn Miếu Thăng Long - Hà Nội không chỉ là di
tích quốc gia đặc biệt mà còn có 82 tấm bia tiến sĩ được UNESCO công nhận là Di
sản tư liệu thuộc chương trình ký ức thế giới (2010). Ngoài ra, nhiều Văn Miếu khác
ở các tỉnh cũng đã được công nhận là di tích cấp quốc gia và cần được bảo tồn.
Văn Miếu không chỉ là một địa điểm lịch sử, mà còn là biểu tượng của tri thức và
văn hóa, đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống
cho các thế hệ tương lai. 13 Văn miếu Quốc Tự Giám
f. Văn hóa và nghệ thuật
Nho giáo đã góp phần làm hình thành các thể văn khoa cử (kinh nghĩa, chiếu, biểu,
luận, văn sách, thơ, phú...), các thể loại văn học mô phỏng Trung Hoa (thơ Đường
luật, phú, từ, đối...), các điển tích văn học, các sách giáo khoa truyền thụ Nho giáo,
các tác phẩm văn học và nghệ thuật chịu ảnh hưởng của Nho giáo.Những sản phẩm
ấy làm thành dòng văn học nghệ thuật quan phương chính thống, tồn tại song hành
với dòng văn học dân gian, nghệ thuật dân gian.
g. Ngôn ngữ và văn tự
Về ngôn ngữ và văn tự, quá trình tiếp biến văn hóa Hán nói chung, Nho giáo nói
riêng đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ và chữ viết ở Việt Nam. Về ngữ âm,
Tiếng Việt và tiếng Mường đã biến đổi các phụ âm cuối, hình thành thanh điệu.
Tiếng Việt hiện đại đã loại bỏ một số âm tiết phụ và tổ hợp phụ âm đầu.
. Về từ vựng, Tiếng Việt có đến 70% từ gốc Hán, ảnh hưởng lớn nhất ở lĩnh vực văn
hóa. Ba cấp độ từ, ngữ, phụ tố đều chịu ảnh hưởng của yếu tố gốc Hán. Về ngữ
pháp, Sự rơi rụng các phụ tố tạo từ của thời Môn - Khơme và sự hình thành các phụ
tố gốc Hán - Việt trong tiếng Việt hiện đại.Tiếng Việt cũng mượn nhiều cách diễn đạt
từ tiếng Hán. Quá trình tiếp biến văn hóa Hán và Nho giáo trong ngôn ngữ ấy tồn tại
song hành với quá trình bảo tồn ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng gốc Môn - Khơme, và
tiếp biến các ngôn ngữ Tày, Chăm, Hoa, Khơme, Pháp trong tiếng Việt
Chữ Hán là văn tự chính thức của Việt Nam trong thời phong kiến, thường được gọi
là chữ Nho do vai trò chuyển tải Nho giáo. Trong quá trình tiếp biến văn hóa Hán và
Nho giáo, việc Việt hóa các văn tự ngoại lai cũng diễn ra. Chữ Nôm, phát sinh dưới
thời Trần, được sử dụng để truyền tải cả văn hóa dân gian lẫn văn hóa quan 14
phương theo Nho giáo. Vào đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ, hình thành từ thế kỷ
XVII, trở thành văn tự toàn dân, giúp truyền tải tư tưởng và tri thức mới, thoát khỏi
ảnh hưởng của Nho giáo.
Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đến Việt Nam a. Giáo dục
sự phát triển và hạn chế của nền giáo dục Nho học ở Việt Nam trong các triều đại
Lý, Trần, Lê, Mạc và Nguyễn. Trần Trọng Kim cho rằng sự học theo lối Hán - nho và
Tống - nho chưa tạo ra được một học thuyết mới, dẫn đến tình trạng học giả chỉ tập
trung vào khoa cử mà không đạt được những tri thức sâu sắc của Nho giáo. Đào
Duy Anh nhấn mạnh việc sĩ phong thời Lê suy yếu khi các khía cạnh của khoa cử
trở nên hủ bại, làm giảm nhân tài. Sự sai lầm trong hệ thống giáo dục khiến bộ máy
quan lại sản sinh ra những người không có thực quyền và chỉ làm những công việc
hành chính đơn giản, không ảnh hưởng lớn đến nền hành chính địa phương.
Một số vùng như Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, và Quảng Nam nổi tiếng với truyền thống
hiếu học nhưng vẫn chỉ sản xuất ra nho sĩ với những kiến thức thiên về văn chương
mà thiếu thực tiễn hữu ích cho quốc gia. Một số cá nhân vẫn thể hiện tài năng và
đóng góp cho đất nước, nhưng phần lớn là do các yếu tố bên ngoài chứ không phải
từ nền giáo dục nho học chủ yếu dựa vào khoa cử. b. Chính trị
Bài viết phân tích ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trung quân của Nho giáo đối với
chính trị và xã hội Đại Việt. Theo tác giả, tư tưởng này đã dẫn đến sự trì trệ của nho
sĩ và nho thần, khiến tình hình đất nước trở nên hỗn loạn và nhân dân phải sống
trong khổ cực. Các triều đại như nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn không thể thống nhất
chính quyền và vẫn có những người ủng hộ phục hồi các vương triều cũ, bất chấp
thực tế chính trị phức tạp.
Nguyễn Gia Long mặc dù đã chấm dứt chiến tranh nhưng vẫn phải đối mặt với việc
khôi phục nhà Lê từ những kẻ trung thành. Có những cá nhân lợi dụng lòng trung
thành để hợp tác với ngoại bang, đồng thời đáng buồn thay là một số vua như Lê 15
Chiêu Thống hay các vua bù nhìn cũng được tôn trọng bất chấp nhà cầm quyền
thực chất chỉ là tay sai cho thực dân Pháp.
Trong quá trình đó, những quan niệm như "Quân sử thần tử" đã trở thành một phần
không thể thiếu trong tư duy của nho sĩ, dẫn đến việc họ coi thường đạo đức và lòng tự hào dân tộc. c. Kinh tế
Trong bối cảnh kinh tế, sự độc tôn của Nho giáo đã gây cản trở lớn cho sự phát triển
của Việt Nam, làm yếu đi các nguồn lực nội tại và góp phần quan trọng vào việc mất
nước. Nho giáo coi nhẹ một số nghề nghiệp thiết yếu như nghề xướng ca và thương
mại, khiến những người theo các nghề này bị khinh miệt. Câu ngạn ngữ "xướng ca
vô loài" biểu trưng rõ ràng cho điều này, khi nghề xướng ca không được công nhận
trong hệ thống "tứ dân" (sĩ - nông - công - thương). Đào Duy Từ, một nhân vật xuất
thân từ gia đình con hát, đã phải tìm đường lập nghiệp ở Đàng Trong vì bị cấm thi.
Tuy nhiên, trong thời kỳ Nam Bắc phân tranh, các chính quyền lại thực thi chính
sách mở cửa giao thương để sử dụng nguồn lực bên ngoài. Đến thời Nguyễn, khi
Nho giáo chiếm ưu thế hoàn toàn, chính sách “trọng nông ức thương” và “bế quan
tỏa cảng” đã kìm hãm sự phát triển của đất nước, dẫn đến tình trạng nghèo nàn lạc
hậu, góp phần vào việc Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp. d. Xã hội
Về xã hội, quan điểm bất bình đẳng của Nho giáo đã chà đạp phụ nữ Việt Nam
xuống đất đen. “Đạo” mà Nho giáo dành cho người phụ nữ là đạo tam tòng: “Tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. “Đức” mà Nho giáo dạy cho phụ nữ là
tứ đức: “Công, dung, ngôn, hạnh”. Tất cả là để cho người phụ nữ làm tròn chức
trách phục vụ đàn ông. Đã thế, nền giáo dục và khoa cử theo Nho giáo cũng chỉ
dành cho nam giới; gần 100% phụ nữ Việt Nam bị gạt ra ngoài, chỉ được thụ hưởng
giáo dục gia đình, giáo dục dân gian, rất hiếm người được học chữ, học hỏi kiến
thức qua Nho giáo. Vì vậy mà trong suốt thời trung đại, toàn bộ việc làng, việc nước
là việc của đàn ông. Việc của phụ nữ chỉ là “tề gia, nội trợ”, có thể kiêm thêm việc
chạy chợ, chạy đồng, đầu tắt mặt tối, nhưng không vì thế mà địa vị trong gia đình,
xã hội của họ được nâng lên. e. Đối ngoại 16
Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy của người Việt về văn hóa Trung Hoa
và các nền văn hóa khác xung quanh. Người nho học Việt Nam thường có cái nhìn
tự ti đối với văn hóa Trung Hoa, nhưng lại thể hiện thái độ tự tôn với các nền văn
hóa bản địa. Mặc dù có một số nho sĩ nhận thức được nguồn gốc dân tộc và sự độc
đáo của văn hóa Việt Nam, nhưng nhiều người đã đồng nhất cội nguồn dân tộc Việt
với Hán tộc, cho rằng văn hóa Việt đã được "giáo hóa" bởi văn hóa Hán.
Quan điểm sai lệch này dẫn đến việc họ cải biên những truyền thuyết liên quan đến
cội nguồn dân tộc để phù hợp với văn hóa Hán. Tiếng Việt và chữ Nôm thường bị
coi là thấp kém so với chữ Hán, trong khi nhiều phong tục tập quán bản địa bị xem
thường và xóa bỏ để bắt chước Trung Hoa. Những tộc người chưa bị Hán hóa bị coi
là "man di mọi rợ", và đã diễn ra quá trình "giáo hóa" thực chất là đồng hóa họ theo
mô hình văn hóa Hán, đặc biệt dưới thời Minh Mạng.
f. Văn hóa tổ chức cộng đồng
Trong gia đình, Nho giáo phối hợp với văn hóa Hán làm hình thành chế độ gia đình
phụ hệ đi đôi với nam quyền cực đoan, tồn tại song hành với truyền thống trọng nam
đi đôi với trọng nữ của văn hóa dân gian. Trong gia đình, gia tộc, quốc gia, Nho giáo
trực tiếp làm hình thành chế độ tông pháp, trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai
trưởng chính dòng, song hành với tập quán trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai
út của dân gian. Trên bình diện quốc gia, Nho giáo là cơ sở làm hình thành tổ chức
nhà nước của Đại Việt, bao gồm hệ thống hành chính, tổ chức quân sự, quan chế,
lương bổng... mô phỏng Trung Hoa, tồn tại song hành với tổ chức cộng đồng cấp
làng quê ra đời từ thời Văn Lang - Âu Lạc. Kết luận
Quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa trong hệ tư
tưởng Nho giáo đã tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa, tư tưởng và xã
hội của Việt Nam. Dù phải đối mặt với nhiều thách thức, hệ tư tưởng Nho giáo vẫn
giữ được những giá trị cốt lõi, đồng thời thích ứng và phát triển trong bối cảnh mới.
Việc nghiên cứu và hiểu rõ quá trình này không chỉ giúp bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống mà còn góp phần xây dựng một nền tảng vững chắc cho sự phát triển trong tương lai. 17 a.3 Văn học
Trong Sách truyện: Ảnh hưởng từ các tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng như Tam
quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký,...
Văn học là một trong những lĩnh vực nghệ thuật phản ánh sâu sắc tâm hồn và bản
sắc văn hóa của một dân tộc. Văn học Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ trung đại, đã
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn học Trung Quốc, không chỉ về thể loại mà còn về
nội dung. Hai tác phẩm tiêu biểu là "Truyền kì mạn lục" của Nguyễn Dữ và "Đoạn
trường tân thanh" của Nguyễn Du cho thấy rõ những điểm chung và sự sáng tạo
độc đáo của văn học Việt Nam.
Văn Học Trung Đại Việt Nam và Sự Vay Mượn Từ Văn Học Trung Quốc. Như
"Truyền kì mạn lục" là một trong những tác phẩm nổi bật của văn học trung đại Việt
Nam, được viết bởi Nguyễn Dữ. Tác phẩm này không chỉ mang đậm dấu ấn của văn
hóa dân gian Việt Nam mà còn chịu ảnh hưởng từ "Tiễn Đăng Tăng Thoại" của Cù
Hựu. Cả hai tác phẩm đều thuộc thể loại truyện kỳ ảo, tập trung vào những câu
chuyện ly kỳ, huyền bí, phản ánh những niềm tin và giá trị văn hóa của thời đại.
Nguyễn Dữ đã khéo léo kết hợp những yếu tố thần thoại, hư cấu với những giá trị
nhân sinh, tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống con người và mối quan hệ
với thiên nhiên, thần linh. Điều này cho thấy sự sáng tạo của tác giả trong việc
chuyển hóa những yếu tố vay mượn thành một tác phẩm mang đậm bản sắc Việt Nam.
Tương tự như "Truyền kì mạn lục", "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi là "Truyện
Kiều" của Nguyễn Du cũng dựa trên "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài
Nhân. Tác phẩm của Nguyễn Du không chỉ là một truyện thơ xuất sắc mà còn là một
tác phẩm văn học lớn của nhân loại. Nội dung của "Truyện Kiều" xoay quanh cuộc
đời bi thảm của nàng Kiều, một người phụ nữ tài sắc nhưng gặp nhiều bất hạnh.
Nguyễn Du đã không chỉ đơn thuần chuyển thể nội dung mà còn sáng tạo, thêm thắt
những chi tiết, nhân vật, và cảm xúc, làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn. Ông
đã khắc họa thành công tâm lý nhân vật, thể hiện được những nỗi đau, khát vọng và
đấu tranh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Mặc dù có sự vay mượn từ văn học Trung Quốc, văn học trung đại Việt Nam không
chỉ dừng lại ở việc sao chép. Các tác giả Việt Nam đã khéo léo kết hợp những yếu
tố văn hóa dân gian, lịch sử và trí tưởng tượng cá nhân để tạo ra những tác phẩm
độc đáo. Sự sáng tạo này thể hiện rõ qua việc xây dựng nhân vật, cốt truyện và các biểu tượng văn hóa.
Nội dung của các tác phẩm thường lấy từ văn học dân gian hoặc trải nghiệm cụ thể
của con người Việt Nam, phản ánh tâm tư, tình cảm và nỗi niềm của dân tộc trong
bối cảnh lịch sử cụ thể. Qua đó, văn học trung đại Việt Nam đã tạo dựng được một
bản sắc riêng, khác biệt so với văn học Trung Quốc. 18
Tóm lại, Văn học trung đại Việt Nam tuy có nhiều điểm chung với văn học Trung
Quốc về thể loại và nội dung, nhưng vẫn thể hiện được sự sáng tạo và bản sắc
riêng. Các tác phẩm như "Truyền kì mạn lục" và "Đoạn trường tân thanh" không chỉ
là những tác phẩm nổi bật mà còn là minh chứng cho sự giao thoa văn hóa và khả
năng sáng tạo vô hạn của các tác giả Việt Nam. Qua đó, chúng ta thấy được sức
sống mãnh liệt của văn học dân tộc, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa nhân loại. a.4 Tư tưởng
Tư tưởng Việt Nam từ xưa đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tư tưởng Trung Quốc,
đặc biệt là Nho giáo và Phật giáo. Hai hệ tư tưởng này không chỉ định hình đời sống
văn hóa, xã hội mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến hành động của con người. Bài tiểu
luận này sẽ phân tích sự giao thoa tư tưởng giữa hai nền văn hóa này, tập trung vào
các quan điểm nhân nghĩa của Nho giáo và ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống
tinh thần của người Việt.
Nho giáo, với tư tưởng nhân nghĩa, đã được các bậc quân vương và quan đại thần
Việt Nam áp dụng để định hướng hành động của mình. Nhân nghĩa không chỉ là lý
tưởng mà còn là một nguyên tắc hành động, khuyến khích con người sống có đạo
đức, biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Điều này thể hiện rõ trong các chính sách
của triều đình, nơi mà sự công bằng và lòng nhân đạo được đặt lên hàng đầu.
Tư tưởng tam nguyên (trí, dũng, nhân) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) của
Nho giáo đã trở thành nền tảng cho việc xây dựng và phát triển xã hội Việt Nam.
Những giá trị này không chỉ ảnh hưởng đến các chính sách cai trị mà còn hướng
dẫn người dân trong các mối quan hệ xã hội. Qua đó, người ta thấy rõ sự kết nối
giữa tư tưởng Nho giáo và các hành động cụ thể trong đời sống hàng ngày.
Phật giáo cũng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tinh thần của người Việt.
Những quan niệm như "ở hiền gặp lành", "ăn chay", hay "cứu độ chúng sanh" phản
ánh triết lý sống từ bi và vị tha. Người dân thường tìm đến Phật giáo để tìm kiếm sự
an lạc, giải thoát khỏi khổ đau, đồng thời cũng thể hiện lòng từ bi đối với người khác.
Các tín ngưỡng dành cho Phật Tổ, Bồ Tát thể hiện sự giao thoa giữa tôn giáo và
văn hóa. Những lễ hội, phong tục tập quán liên quan đến Phật giáo không chỉ là
những hoạt động tôn thờ mà còn là dịp để cộng đồng gắn kết, thể hiện lòng nhân ái và sự đoàn kết.
Sự giao thoa giữa tư tưởng Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt qua Nho giáo và Phật
giáo, đã tạo nên một nền tảng văn hóa vững chắc cho xã hội Việt Nam. Từ những
giá trị nhân nghĩa của Nho giáo đến tinh thần từ bi của Phật giáo, chúng không chỉ
hình thành nên hành động của con người mà còn góp phần xây dựng một xã hội
hòa bình, công bằng và nhân ái. Việc hiểu rõ những ảnh hưởng này giúp chúng ta 19
trân trọng hơn di sản văn hóa của tổ tiên và phát huy những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống hiện đại. b. Nghệ thuật múa:
-Múa lân sư rồng là một môn nghệ thuật múa dân gian đường phố có nguồn gốc từ
Trung Quốc, thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán
và Tết Trung Thu, vì ba con thú này tượng trưng cho thịnh vượng, phát đạt, hạnh
phúc, hanh thông,... Ngoài được thực hiện chủ yếu tại các lễ hội truyền thống điệu
múa cũng có trong các dịp khác như khai trương một doanh nghiệp mới, sinh nhật và đám cưới. b.1 Múa lân:
-Điệu nhảy thường đi kèm với các võ sĩ và nhào lộn. Một đặc điểm của điệu nhảy kỳ
lân Việt Nam là bạn nhảy của ông Địa hay linh hồn của trái đất, được miêu tả là một
người đàn ông bụng to, cười toe toét cầm một chiếc quạt lá giống như 'Phật' ( ) 佛
của Trung Quốc. Tinh thần tốt bụng, theo tín ngưỡng phổ biến, có sức mạnh để triệu
tập kỳ lân tốt lành, và do đó trong khi nhảy, đi đầu trong việc dọn đường cho con kỳ
lân. Sự xuất hiện hài hước của Ông Địa làm tăng thêm tính chất lễ hội và vui vẻ của
điệu nhảy. Đầu sư tử Việt Nam được làm khác nhau vì thiếu sừng. Điều này là do
các đội thường chiến đấu với nhau và kết quả là còi bị đá liên tục. Để giải quyết vấn
đề này, nhiều đội tuyển Việt Nam đã yêu cầu không có sừng để khiến đối thủ khó làm hỏng con sư tử hơn.
"Phụng Lân" - Tranh dân gian Đông Hồ 20