



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58737056 ̀
B Ô THÔNG TIN V A TRUY Ê N THÔNG
H O C VI Ệ N CÔNG NGH Ệ BƯU CH I NH VI Ê N THÔNG
----- ----- LÊ VŨ ĐIỆP
GIÁO TRÌNH BÀI GIẢNG
KỊCH BẢN ĐA PHƯƠNG TIỆN Tháng 11/ 2019 lOMoAR cPSD| 58737056
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
KHOA ĐA PHƯƠNG TIỆN *****
GIÁO TRÌNH BÀI GIẢNG
(Phương pháp đào tạo theo tín chỉ)
TÊN HỌC PHẦN: KỊCH BẢN ĐA PHƯƠNG TIỆN
Mã học phần: MUL1423 (02 tín chỉ) Biên soạn
LÊ VŨ ĐIỆP LƯU HÀNH NỘI BỘ
Hà Nội, tháng 11/2019 lOMoAR cPSD| 58737056 MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ ............................................................... 5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỊCH BẢN ................................................... 7
1.1. Khái niệm kịch bản.......................................................................................................... 7
1.2. Nguồn gốc của kịch bản................................................................................................... 7
1.3. Những đặc trưng và yếu tố của kịch trong kịch bản ...................................................... 9 1.3.1.
Xung đột kịch .......................................................................................................... 9 1.3.2.
Hành động kịch ..................................................................................................... 10 1.3.3.
Ngôn ngữ kịch ....................................................................................................... 12
1.4 Một số loại kịch bản........................................................................................................ 14
1.4.1. Kịch bản văn học ...................................................................................................... 14
1.4.2. Kịch bản sân khấu ..................................................................................................... 16
1.4.3. Kịch bản điện ảnh .................................................................................................... 17
1.4.4. Kịch bản truyền hình ................................................................................................. 27 1.4.5.
Kịch bản phim quảng cáo ...................................................................................... 31 1.5.
Quy trình sản xuất và kế hoạch sản xuất .................................................................. 32
1.5.1. Quy trình sản xuất .................................................................................................... 32
1.5.2. Kế hoạch sản xuất ..................................................................................................... 37
Chương 2. CẤU TRÚC HỆ DỌC PHÂN BA ....................................................40
2.1. Hệ dọc phân ba cổ điển.................................................................................................. 40
2.1.1. Cấu trúc hệ dọc phân ba theo Bliss Perry .................................................................. 40
2.1.2. Cấu trúc hệ dọc phân ba trong kịch bản Andromaque của Jean Racine ...................... 42
2.2. Hệ dọc phân ba hiện đại ................................................................................................ 48
2.2.1. Cấu trúc hệ dọc phân ba theo Syd Field .................................................................... 48
2.2.2. Cấu trúc hệ dọc phân ba theo Raymond G.Frensham................................................. 50
2.2.3. Cấu trúc hệ dọc phân ba theo Linda Seger ................................................................. 50
Chương 3. CÁC TÌNH TIẾT BƯỚC NGOẶT ..................................................55
VÀ SỰ SÁNG TẠO BẺ GÃY KẾT CẤU BA HỒI ...........................................55
3.1. Tình tiết và bước ngoặt ................................................................................................. 57
3.1.1. Tính chất và chức năng của các bước ngoặt và cao điểm ........................................... 57 lOMoAR cPSD| 58737056
3.1.2. Những tính tiết truyền thống trong ba hồi .................................................................. 59
3.2 Tính drama (kịch tính) trong kịch bản .......................................................................... 62
3.2.1. Drama là gì? ............................................................................................................. 62
3.2.2. Hiệu quả khi sử dụng tính drama trong kịch bản ....................................................... 63
3.2.3. Drama và các giá trị xã hội........................................................................................ 67
3.3. Sự sáng tạo bẻ gãy kết cấu ba hồi ................................................................................. 68
3.3.1. Cấu trúc phân mảnh .................................................................................................. 68
3.3.2. Cấu trúc phi tuyến tính .............................................................................................. 73
3.3.3. Cấu trúc song song.................................................................................................... 75
Chương 4: NGỮ PHÁP DỰNG PHIM ..............................................................78
4.1. Nghệ thuật không gian và thời gian trong dựng phim ................................................. 78
4.1.1. Không gian nghệ thuật .............................................................................................. 78
4.1.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................................................. 80
4.2. Lời thoại trong phim ..................................................................................................... 82
4.2.1. Các loại ngôn ngữ đối thoại ...................................................................................... 83
4.2.2. Cách xử lý tình huống đối thoại và những yêu cầu cần có ......................................... 85
4.2.3. Một số quy tắc khi viết lời thoại trong phim .............................................................. 86
4.3. Phương pháp dựng phim cơ bản ................................................................................... 89
4.3.1. Bố cục ...................................................................................................................... 89
4.3.2. Cỡ cảnh/Góc quay .................................................................................................... 95
4.3.3. Nguyên tắc dựng ....................................................................................................... 99
4.3.4. Các phương pháp dựng phim ...................................................................................102
4.3.5. Các phương pháp chuyển cảnh, cắt cảnh .................................................................106
4.4. Nhịp điệu trong dựng phim ..........................................................................................112
4.5. Ngữ pháp trục trong dựng phim: .................................................................................114
4.5.1. Những trục cơ bản trong dựng phim .........................................................................114
4.5.2. Các loại định hướng trong trục phim ........................................................................115
4.5.3. Nguyên tắc 180 độ trong điện ảnh ............................................................................115
Chương 5: THỰC HÀNH ................................................................................. 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 127 lOMoAR cPSD| 58737056
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ Chương 1
Hình 1: Các bước của quy trình làm phim
Hình 2: Mẫu kịch bản viết (script)
Hình 3: Mẫu kịch bản phân cảnh
Hình 4: Kịch bản phân cảnh dạng tổng quát
Hình 5: Kịch bản phân cảnh với nhiều thông tin chi tiết Hình 6:
Kế hoạch sả xuất chương trình, quản trị theo trình tự và dòng
thời gian của các hạng mục công việc
Hình 7: Bảng mô tả quy trình sản xuất Chương 2 Hình 8: Raymond G.Frensham
Hình 9: Nhà biên kịch Linda Seger
Hình 10: Mô hình cơ bản của cấu trúc hệ dọc phân ba Chương 3
Hình 11: Kết cấu ba hồi
Hình 12: Cốt truyện- khả năng sáng tạo tình huống của người viết kịch bản
Hình 13: Khán giả tìm được sự đồng cảm và muốn gắn bó hơn với bộ phim
Hình 14: Trào lưu Cosplay- Hóa thân, đóng giả, bắt chước nhân vật trong phim
Hình 15: Trào lưu thời trang theo phim ảnh
Hình 16: Ứng dụng drama cho các thể loại khác
Hình 17: Gia tăng drama để tạo ra sự hồi hộp cho khán giả
Hình 18: Đao diễn Quentin Tarantino
Hình 19: Trình tự diễn tiến phim Pulp Fiction Hình 20: Poster phim Memento
Hình 21: Đồ thị thể hiện trình tự thời gian kể chuyện trong Memento
Hình 22: Đạo diễn Christopher Nolan
Hình 23: Memento- những thành tựu đạt được
Hình 24: Mô hình các tuyến truyện trong cấu trúc song song
Hình 25: Mô hình tuyến truyện trong The Usual Suspects lOMoAR cPSD| 58737056
Hình 26: Nhà biên kịch Christopher McQuarrie và Đạo diễn Bryan Singer Chương 4
Hình 27: Ngôn ngữ thoại trong kịch bản văn học và ngôn ngữ thoại kịch bản phim
Hình 28: Mẫu kịch bản viết (scripts) trong khung hình chữ T Hình 29: Bố cục tròn
Hình 30: Bố cục vuông và một số bố cục sáng tạo khác
Hình 31: Các cỡ cảnh trong khung hình
Hình 32: Minh họa các cỡ cảnh trong khung hình Hình 33: Góc máy ngang Hình 34: Góc máy cao Hình 35: Góc máy thấp
Hình 36: Một góc máy sáng tạo
Hình 37: Hình ảnh minh họa luật xa gần
Hình 38: Hình ảnh minh họa cho nguyên tắc logic trong phim
Hình 39: Khung hình minh họa cho nguyên tắc 1/3
Hình 40: Dựng song song còn được sử dụng khi có nhiều nhân vật hành động cùng thời điểm
Hình 41: Hiệu ứng Kuleshov
Hình 42: Minh họa cho khung hình nối tiếp
Hình 43: Minh họa cho quy tắc Eyeline match (Hướng nhìn)
Hình 44: Dựng phim thủ công
Hình 45: Việc cắt cảnh trong phim luôn nhằm mục đích cụ thể
Hình 46: Hình minh họa cho hiệu ứng mờ chồng
Hình 47: Hình minh họa cho hiệu ứng gạt cảnh
Hình 48: Hình minh họa cho hiệu ứng hiện dần vào và mất dần đi
Hình 49: Từ cảnh trước chuyển sang cảnh sau làm cho một đối tượng trong khung hình
dường như nhảy (jump) một cách đột ngột Hình 50: Hình minh họa cho cắt nối khung hình
Hình 51: Hình minh họa cảnh dựng sót hình (khung hình ma)
Hình 52: Hình minh họa cho trục chuyển động trong dựng phim
Hình 53: Hình minh họa cho trục định hướng trong dựng phim Hình 54: Nguyên tắc 180 lOMoAR cPSD| 58737056 Hình 55: Trục đúng Hình 56: Trục sai
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỊCH BẢN
1.1. Khái niệm kịch bản
“Kịch bản bắt nguồn từ tiếng Latin là “scenario”, có nghĩa là văn bản kịch
hoặc văn bản viết có tính kịch dùng để chỉ một bộ phận cấu thành rất quan trọng
của tác phẩm văn học, điện ảnh hay truyền hình”.
Theo Từ điển tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, Nxb Khoa học xã
hội định nghĩa: “Kịch bản- đó là vở kịch ở dạng văn bản”.
Theo nhóm tác giả G.V.Cudonhetnhop, V.L,Xvich, A.Ia.Iuropxki thì “Kịch bản-
đó là việc ghi chép giải pháp tạo hình và âm thanh về một thông tin màn ảnh”.
PGS-TS Dương Xuân Sơn cho rằng: “Kịch bản là một vở kịch, một bộ phim, một
chương trình được phác thảo, mô hình hóa trên văn bản với tư cách là một đề
cương hay chi tiết đến từng chi tiết nhỏ (tùy theo yêu cầu của mỗi loại hình), là
cơ sở chính cho “tập thể tác giả” làm nên, hoàn thiện tác phẩm của mình”.
1.2. Nguồn gốc của kịch bản
Theo định nghĩa trên đây, kịch bản là “một vở kịch dạng văn bản”, kịch bản
ra đời cùng với sự xuất hiện của loại hình kịch (hay phương thức kịch).
“Kịch thường được hiểu vừa theo nghĩa là một loại hình nghệ thuật sân
khấu, vừa có nghĩa là một kịch bản văn học”. lOMoAR cPSD| 58737056
Như vậy, với định nghĩa này, có thể hiểu nguồn gốc của kịch bản là kịch
bản văn học. Nghiên cứu kịch bản văn học qua phương thức kịch. Là một thể loại
văn học nằm trong thể loại kịch, tác phẩm kịch nói chỉ thực sự được khai thác
trọn vẹn khi được trình diễn trên sân khấu. Kịch cũng là một loại hình sân khấu.
Sau lao động của nhà văn (người sáng tác kịch bản văn học) là chặng đường sáng
tạo thứ hai của đội ngũ nghệ sỹ sân khấu như diễn viên, nhạc sỹ, họa sỹ… Bằng
những ưu thế riêng của dàn dựng, diễn xuất, âm nhạc, trang trí… họ đã tái hiện
sinh động, trực tiếp nội dung của kịch bản văn học trên sàn diễn.
Không phải bất cứ một kịch bản văn học nào cũng có điều kiện được dàn
dựng trên sân khấu. Kịch bản văn học có đầy đủ những đặc trưng riêng trong cấu
trúc hình tượng, trong phương thức biểu hiện, trong ngôn ngữ nghệ thuật nên
người ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm kịch bằng cách đọc kịch bản văn học.
Khác với kịch múa, kịch hát, kịch sân khấu truyền thống (chèo, tuồng, cải
lương)… là những loại hình chỉ có thể thưởng thức được nếu chúng được trình
diễn trên sân khấu, bởi lẽ, phương tiện biểu hiện chủ yếu của những loại hình này
mang tính đặc thù cao: những động tác múa nếu đó là kịch múa, là làn điệu nếu
đó là kịch hát. Tuy nhiên, kịch bản không thể thay thế và bộc lộ được đầy đủ vẻ
đẹp của một tác phẩm kịch như được trình diễn trên sân khấu. Các nhà viết kịch
nổi tiếng thế giới nhu Moolie, Shakespeare là những nhà văn chuyển thể từ tác
phẩm văn học sang kịch bản văn học như Gôgôn, Ôxtơrôpxki, Sêkhốp, Gorki…
đều thừa nhận mối liên hệ mật thiết giữa kịch bản văn học với bộ môn nghệ thuật
sân khấu, trong đó kịch bản văn học là linh hồn, là cái gốc của sự thành công. Vì
thế, việc tìm hiểu đặc trưng của thể loại kịch bản văn học theo hướng tiếp cận từ
phía sân khấu là hợp lý.
Cũng như các loại hình sân khấu khác, đặc trưng của kịch không thể thoát
ly khỏi những điều kiện sân khấu và giới hạn về mặt không gian, thời gian, khối
lượng sự kiện, số lượng nhân vật. Tác phẩm kịch không chứa một dung lượng lOMoAR cPSD| 58737056
hiện thực lớn, bề bộn như tiểu thuyết, cũng không lắng lại trong những mạch chìm
của cảm xúc như thơ trữ tình. Gạt bỏ đi tất cả những rườm rà, tản mạn, không phù
hợp với điều kiện sân khấu, kịch lựa chọn những xung đột trong đời sống làm đối tượng mô tả.
1.3. Những đặc trưng và yếu tố của kịch trong kịch bản
Cũng là việc miêu tả những bức tranh sinh hoạt của đời sống xã hội, nhưng
không giống với thơ ca, tiểu thuyết, không gian và thời gian của một tác phẩm
kịch bị giới hạn, không có thì giờ rông dài để mạn đàm, giải thích, luận bàn. Trong
kịch, hiện thực bị dồn nén. Cốt truyện phải có tính kịch.
Kịch bản có thể coi là một khung giới hạn cho nội dung tác phẩm định đề
cập. Nó vạch ra đường đi nước bước để xây dựng và hoàn thiện những sản phẩm
tinh thần phục vụ cho công chúng. Để viết được kịch bản, tác giả phải hiểu rõ những đặc trưng sau:
1.3.1. Xung đột kịch
Nhà phê bình Beelinxki đã viết: “Tính kịch được bộc lộ bằng sự va chạm,
xô đẩy giữa những tư tưởng có khuynh hướng chống đối và thù địch nhau”. Tính
kịch bộc lộ qua những xung đột mang sắc thái thẩm mỹ khác nhau. Tác phẩm văn
học phải có tính kịch, muốn có tính kịch, phải tạo ra xung đột kịch. Các xung đột
kịch chi phối cốt truyện, cấu trúc tác phẩm, đến nhịp độ vận động khác thường
của cốt truyện, xung đột là động lực thúc đẩy phát triển của hành động kịch, nhằm
xác lập nên những mối quan hệ mới giữa các nhân vật. Thiếu xung đột, tác phẩm
sẽ mất đi đặc trưng cơ bản của thể loại và không thể là một kịch bản văn học.
Nét chủ đạo của kịch là tính kịch. Kịch tính được tạo ra do mâu thuẫn và
xung đột một khi đã xảy ra thì sẽ liên tục phát triển, không gián đoạn theo chiều
hướng mỗi lúc một căng thẳng cho tới tình thế đòi hỏi phải giải quyết bằng một lOMoAR cPSD| 58737056
kết cục nào đó. Thiếu xung đột thì tác phẩm sẽ mất đi đặc trưng cơ bản của thể
loại và không thể là một kịch bản văn học. Xung đột kịch có thể được biểu thị
bằng mối xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa tính cách với tính cách hay
trong bản thân một tính cách. Xung đột kịch thường nằm ở thời điểm cao trào của
sự vận động ấy. Từ những mâu thuẫn tồn tại trong lòng hiện thực, người viết kịch
bản phải tiến hình quá trình chọn lọc, tổng hợp, sáng tạo nên những xung đột vừa
mang tính chất khái quát, vừa mang tính điển hình hóa.
Xét theo ý nghĩa của xung đột, có thể phân ra ba loại kịch: bi kịch, hài kịch, chính kịch.
+ ) Bi kịch là loại vở diễn phản ánh xung đột giữa các nhân vật tươi sáng,
cao thượng, có phẩm chất đẹp, có tinh thần hướng tới cái tiến bộ với những thế lực đen tối, hiểm ác.
+) Hài kịch là vở diễn phản ánh xung đột ở các nhân vật ở mức độ không
quá trầm trọng, phần lớn là từ các tình huống hiểu lầm hoặc các nhân vật cố tình
chọc ghẹo nhau, tạo nên tiếng cười vui vẻ, thoải mái.
+) Chính kịch dùng để chỉ vở diễn trung gian giữa bi kịch và hài kịch trong
đó vẫn phản ánh những mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống hàng ngày nhằm
hướng tới một sự khẳng định hoặc phủ định nào đó.
1.3.2. Hành động kịch
Trong đời sống hàng ngày, hành động là phương tiện bộc lộ rõ rệt bản chất
của từng người. Trong văn học, kịch là thể loại mang lại sự nhận thức thực tại
thông qua hành động. Tuy nhiên, hành động ở đây không chỉ là động tác, cử chỉ
của nhân vật mà là hành động trong mối tương quan với các yếu tố cấu thành nên
tác phẩm như xung đột cốt truyện và nhân vật, được thể hiện trong kịch bản văn học. lOMoAR cPSD| 58737056
Trong kịch, nếu xung đột là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm thì
hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành của tác phẩm đó.
Xung đột là một quy tụ, chọn lọc và tổ chức của hành động kịch, hành động
kịch là sự thể hiện trực tiếp nội dung của xung đột kịch, nhưng hành động là yếu
tố giải tỏa nội dung của xung đột ấy và nó là yếu tố đặc trưng không thể thiếu đối
với bất kỳ một kịch bản nào. Hành động kịch thường phát triển theo hướng thuận
chiều của xung đột kịch. Xung đột càng căng thẳng thì thiên hướng hành động
càng trở nên quyết liệt, làm tăng thêm sự hấp dẫn của tác phẩm.
Hành động kịch là một chuỗi hành động liên tục xoay quanh trục xung đột
“các hành động vấp phải phản hành động thì phản hành động lại thúc đẩy hành
động” (Xtanilapxki). Cứ như thế, nội dung câu chuyện kịch vận động nhanh tới kết thúc.
Do sự chi phối của sân khấu, cốt truyện kịch thường rất chặt chẽ, tập trung.
Nó không dung nạp những chi tiết vụn vặt, những đoạn bình luận trữ tình ngoại
đề (khác với loại ca kịch truyền thống: thường xuất hiện đoạn trữ tình ngoại đề
qua các lời ca, tiếng hát) ngoài cốt truyện như trong mạch tự sự.
Cốt truyện bằng hành động xoáy vào trọng tâm xung đột bằng sự liên kết
theo một quy luật riêng: quy luật nhân quả (hành động này là kết quả của hành
động trước và lại là nguyên nhân của hành động sau). Theo hướng vận động đó
các cảnh, các màn, các hồi, các lớp liên kết chặt chẽ với nhau, loại bỏ những gì
thừa thãi, vượt lên đỉnh điểm của xung đột và hướng nhanh tới kết thúc.
Mối quan hệ giữa hành động và nhân vật kịch là trục chính để xác định
tính cách nhân vật. Nhân vật kịch luôn tự khẳng định bản chất của mình bằng
hành động. Bản chất đó được thể hiện qua những giằng xé dữ dội từ bên trong và
những hành động quyết liệt bên ngoài. lOMoAR cPSD| 58737056
Do đặc trưng của thể loại, nhân vật kịch không được khắc họa tỉ mỉ từ nhiều
góc độ như nhân vật trong tác phẩm tự sự dài. Kịch là chớp lấy những khoảnh
khắc thời gian trong cuộc sống có sự xuất hiện những xung đột gay gắt, nóng
bỏng nhất để phản ánh cuộc sống trong tác phẩm. Vì thế nhân vật kịch hiện hình
trong tác phẩm vào đúng thời điểm “bước ngoặt số phận”. Sau khi xuất hiện, nhân
vật nhập ngay vào tuyến xung đột và bị cuốn nhanh vào guồng hành động của tác
phẩm. Mọi tình huống trong tác phẩm đều góp phần đắc lực để cho nhân vật hành
động. Tình huống kịch phải được khai thác tập trung, tiêu biểu của tính cách kịch.
Nhân vật kịch không có tính cách đa dạng nhưng lại có được những đường nét
nổi bật hơn và xác định hơn về mặt bản chất.
Quá trình diễn biến của xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động
kịch. Hành động kịch là yếu tố quan trọng hàng đầu của kịch phẩm. Không phải
ngẫu nhiên khái niệm kịch drama trong tiếng Hy Lạp cũng có nghĩa là hành động.
Đó là sự tổ chức các tình tiết sự kiện, biến cố trong cốt truyện theo một diễn biến
logic, chặt chẽ, nhất quan, chi phối bởi một quy luật nhất định mà qua đó công
chúng có thể tiếp nhận được mâu thuẫn, xung đột trong đời sống mà tác giả muốn
truyền tải. Hành động kịch được thể hiện bằng các nhân vật và mối quan hệ giữa
hành động kịch và nhân vật kịch là trục chính để xác định tính cách nhân vật.
Trong kịch, các nhân vật tự xây dựng nên tính cách riêng biệt của mình qua ngôn ngữ mà nó thể hiện.
1.3.3. Ngôn ngữ kịch
Đối với một tác phẩm kịch, tất cả mọi vấn đề xoay quanh hình tượng đều
nằm trong ngôn ngữ nhân vật. Đó chính là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn ngữ
kịch. Các nhân vật kịch hình thành là do những lời lẽ của họ. Tác giả kịch bản
không chỉ đứng trong tác phẩm với tư cách là nhân vật trung gian, có thể mách
bảo, giải thích, thậm chí giật dây độc giả như trong tiểu thuyết. Tác giả xây dựng lOMoAR cPSD| 58737056
nhân vật của mình chủ yếu bằng ngôn ngữ hội thoại, chứ không phải bằng ngôn
ngữ miêu tả. Qua ngôn ngữ hội thoại mà cốt truyện được thể hiện và phát triển.
Khi tiếp xúc với kịch bản văn học, chúng ta thấy có những lời chú thích ít
ỏi của tác giả. Đó thường chỉ là những gợi ý cho phương pháp dàn cảnh, cách bài
trí sân khấu và diễn xuất của diễn viên. Nó sẽ được thay thế hoàn toàn bằng nghệ
thuật sân khấu khi kịch bản được trình diễn lúc ấy, nhân vật kịch sống trước chúng
ta bằng những lời lẽ đối thoại, trước hết đó là ngôn ngữ khắc họa tính cách. Mỗi
nhân vật với một nguồn gốc xuất thân, bản chất xã hội và một đặc điểm cá tính
riêng nên phải có một tiếng nói riêng thật phù hợp.
Ngôn ngữ kịch là một hệ thống ngôn ngữ mang tính hành động. Hệ thống
ngôn ngữ ấy có nhiệm vụ mô tả chân dung nhân vật kịch bằng một loạt các thao
tác, hành động. Tính hành động của nhân vật kịch không chỉ bộc lộ trong hình
tượng sân khấu mà nó đã được hình thành ngay từ trong cấu tạo kịch bản văn học.
Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch phải đảm bảo cho sự phát triển đầy kịch tính của
cốt truyện và phân tích hành động theo kiểu dây chuyền của các nhân vật kịch.
Tính hành động là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kịch, là cơ sở giúp cho
đạo diễn, diễn viên xử lý thích hợp cho hành động của nhân vật trên sân khấu.
Có 3 loại ngôn ngữ kịch:
+) Ngôn ngữ đối thoại: tức là các nhân vật đối đáp với nhau
+) Ngôn ngữ độc thoại: tức là nhân vật tự đối thoại với chính mình, tự bộc lộ tâm tư, tình cảm.
+) Ngôn ngữ dẫn truyện: ngôn ngữ nhân vật nói riêng với khán giả.
Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ khắc họa tính cách, ngôn ngữ biểu hiện đặc
điểm phẩm chất của nhân vật. M. Gorki viết: “Các nhân vật kịch hình thành là do
lời lẽ của họ, và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi”. Ngôn ngữ mang tính
hành động, tức là ngôn ngữ mang tính tranh luận, tác động trực tiếp và mang tính lOMoAR cPSD| 58737056
mâu thuẫn, xung đột tăng tiến tạo kịch tính với những sắc thái tấn công, phản
công, thăm dò lảng tránh, chất vấn, chối cãi, đe dọa, coi thường…
1.4 Một số loại kịch bản
Dựa theo tiêu chí mục đích sử dụng, có thể phân chia một số loại kịch bản
như sau: kịch bản văn học, kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, kịch bản truyền
hình, kịch bản phim quảng cáo.
1.4.1. Kịch bản văn học
Kịch bản là một bản đề cương, một bản ghi tóm tắt các tác phẩm nghệ thuật,
đó là sự mô tả vắn tắt cảnh diễn và trật tự các nhân vật phía sau sân khấu để hướng
dẫn cho các diễn viên biết thời gian họ bước lên sân khấu và đi từ phía nào lên
sân khấu, đồng thời người đó còn theo dõi việc kịp thời đưa vào vận hành các thủ pháp sân khấu.
Những tìm tòi về một sự ghi chép hoàn hảo hơn của kịch bản phim tài liệu
cho đến nay vẫn được tiếp tục. Vì kịch bản là tác phẩm văn học dành cho màn
ảnh, cho nên hình thức bên ngoài của kịch bản luôn hết sức đa dạng, như chính
thế giới của thông tin tài liệu. Mỗi chủ đề, mỗi tư tưởng, mỗi tài liệu đều đòi hỏi
phải có một hình thức thể hiện trên màn ảnh. Do đó, hình thức viết kịch bản đòi
hỏi phải phù hợp; cô đọng hay là mở rộng, mang tính cảm xúc, cởi mở hay là kìm
nén, chính xác hay là tự do.
Có một số tác phẩm văn học không có khả năng tái hiện trên sân khấu mà
chỉ ở dạng văn bản giấy. Thực ra việc thưởng thức tác phẩm văn học bằng văn
bản cũng là một cách tiếp cận vì kịch bản văn học đã có đầy đủ những đặc trưng riêng về ngôn ngữ. lOMoAR cPSD| 58737056
Để khám phá được vấn đề thuộc về bản chất của đời sống xã hội, người
viết kịch phải tạo được những xung đột mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Hiện thực là sự vận động đa chiều của các phạm trù thẩm mỹ (cái đẹp- cái
xấu; cái cao cả- cái thấp hèn; cái thiện- cái ác; cái tiến bộ- cái lạc hậu). Tất cả đều
phải đến tính chân thực và điển hình. Thiếu ý nghĩa điển hình, kịch bản văn học
chỉ là sự mô phỏng những mâu thuẫn vụn vặt, tầm thường của cuộc sống, thiếu ý
nghĩa chân thực, kịch bản văn học chỉ là sự giả tạo, là những dòng lý thuyết suông.
Một yếu tố cuối cùng cũng không thể thiếu đối với một kịch bản văn học
của một tác phẩm kịch đó là một hình thái ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời
sống, súc tích dễ hiểu và ít nhiều mang tính khẩu ngữ. Khác với hình thái ngôn
ngữ mang tính ước lệ; cách điệu trong ngôn ngữ truyền thống như tuồng, chèo
hoặc cải lương, ngôn ngữ kịch nói không sử dụng thứ ngôn ngữ xa lạ với cuộc
sống mà là thứ ngôn ngữ hội thoại giản dị, tự nhiên, gần với cuộc đời thường nhật.
Tuy nhiên, sự giản dị tự nhiên ấy không mâu thuẫn với cách nói năng giàu ẩn ý
và mang tính hình tượng mà có ý nghĩa triết lý sâu xa thường có và phải có trong
tác phẩm kịch. Là một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ tác phẩm kịch
phải đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện. Mặc dù rất gần gũi với ngôn ngữ nói
hàng ngày song tác phẩm kịch phải loại bỏ những lời lẽ thô thiển cũng như những
cách nói tự nhiên chủ nghĩa. Tài năng của một người biên kịch bộc lộ ngay trong
khả năng vận dụng tối đa sức mạnh của ngôn ngữ hội thoại để cấu trúc tác phẩm
và khắc họa hình tượng.
Tuy nhiên, kịch bản văn học với vốn từ vựng phong phú, giàu hình tượng,
có khả năng phản ánh những cái lắt léo, những điều thầm kín nhất của đời sống
xã hội. Những hình ảnh tưởng tượng trên những trang viết lần lượt hiện lên trong
tư duy mỗi người, rõ nét hay mờ nhạt- còn tùy thuộc vào trí tưởng tượng, vào
trình độ kiến thức và sự từng trải của từng cá thể. lOMoAR cPSD| 58737056
1.4.2. Kịch bản sân khấu
Tuy nhiên, có thể khẳng định việc gắn kết giữa kịch bản văn học và bộ môn
nghệ thuật sân khấu luôn đem lại thành công bởi vì môn nghệ thuật sân khấu giúp
cho kịch bản văn học thăng hoa và ngược lại. Người xem thay vì chỉ đọc văn bản
thì họ được chứng kiến và hòa cùng cảm xúc với nhân vật.
Điều đầu tiên là phải có một kịch bản văn học, đạo diễn sân khấu dùng thủ
pháp sân khấu để “chuyển ngữ” cho tác phẩm văn học thành tác phẩm sân khấu.
Quá trình “chuyển ngữ” đó chính là sáng tạo.
Điển hình là vở kịch Hamlet của nhà soạn nhạc vĩ đại người Anh William
Shakespeare. Cốt truyện của tác phẩm có nguồn gốc từ thể loại Saga thời đại
Trung cổ. Nhưng sau khi tác phẩm văn học được chuyển thể trên sân khấu của
nước Anh, khán giả đã biết đến sự bát nháo của xã hội nhà tù, “phải hàng vạn
người mới nhặt ra được một kẻ lương thiện, vẫn lóe lên những tấm gương sáng
của chủ nghĩa nhân văn với nhân vật Hamlet- nhân vật không chỉ quan tâm đến
nghĩa vụ trả thù và ngai vàng mà còn quan tâm hơn đến phẩm giá, lẽ sống và lối sống của con người.
Hamlet dù là kịch bản văn học hay kịch bản sân khấu vẫn xứng đáng là một trong
những bi kịch nổi tiếng nhất trong lịch sử sân khấu thế giới.
Một thành công nữa trong việc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang loại
hình sân khấu chính là các vở kịch của nhà viết kịch Tây Ban Nha Jose Echgaray
Eizaguirre. Rất nhiều vở kịch của ông sau này được chuyển thể thành tác phẩm
sân khấu. Vở kịch nổi tiếng đầu tiên của ông là Điên khùng hay thần thánh viết
năm 1874 được dịch sang tiếng Anh và đem lại tiếng tăm cho ông. lOMoAR cPSD| 58737056
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Geleoto vĩ đại viết năm 1881, viết về sức tàn
phá của những tin đồn thổi khiến những người vô tội trở thành nạn nhân. Ông
được xem là mắt xích kết nối kịch cổ điển và hiện đại Tây Ban Nha.
Ở Mỹ có nhiều tác phẩm văn học được chuyển thể thành tác phẩm sân khấu.
Điển hình là vở kịch Tất cả đều là con tôi của nhà viết kịch lớn nhất nước Mỹ là
Arthur Miller. Vở kịch này được Arthur Miller viết năm 1947 với nội dung nói về
gia đình Joe Keller- chủ một xí nghiệp chế tạo bộ phận động cơ máy bay, vì chạy
theo lợi nhuận đã giao hàng không đảm bảo khiến nhiều phi công thiệt mạng. Con
trai của Keller cũng là một phi công. Khi nghe tin con trai chết trong một tai nạn,
Keller tin rằng đó chỉ là một sự nhầm lẫn. Keller không hề biết rằng khi tìm hiểu
và khám phá ra sự thật tội lỗi của cha mình, con trai Keller đã tự vẫn. Tác phẩm
văn học này đã được dàn dựng ở nhiều quốc gia khác nhau. Tại Việt Nam, trong
khuôn khổ hoạt động của chương trình “Đại sứ văn hóa” mang tên “Nâng cao kĩ
năng diễn xuất cho diễn viên trẻ”, đạo diễn người Mỹ Neil Fleckman đã dựng lại
tác phẩm trên sân khấu của Nhà hát Tuổi trẻ.
Trong văn học Việt Nam, nhiều tác phẩm văn học cũng đã được chuyển thể
thành kịch bản sân khấu, đạt được nhiều thành công nhất định và đã xuất hiện từ
khá lâu. Đã có nhiều tác phẩm văn học được chuyển thể và có sức sống lâu dài và
đem lại cho khán giả nhiều dư âm. Chẳng hạn như tác phẩm Số đỏ (Vũ Trọng
Phụng) đã được sân khấu Phú Nhuận (Thành phố Hồ Chí Minh) dàn dựng hàng
chục năm, Nửa đời ngơ ngác (Chiều vắng- Nguyễn Ngọc Tư), Hãy khóc đi em
(Trăng nơi đáy giếng- Thùy Mai); Bao giờ sông cạn (Dòng nhớ- Nguyễn Ngọc Tư)…
1.4.3. Kịch bản điện ảnh
- Sự ra đời của điện ảnh: lOMoAR cPSD| 58737056
Thế kỷ XIX chẳng những mở rộng nhiều ranh giới của thế giới mà còn đem
lại cho loài người những phương tiện đầy hiệu lực để nhận thức thực tiễn quanh
họ một cách khoa học. Tuy nhiên, việc nắm bắt thế giới trên cơ sở khoa học đã
không được xác định chính xác trước sự phát triển nhanh chóng của nghệ thuật
cũng như nhận thức về nghệ thuật. Người nghệ sỹ luôn nhận thấy những thiếu sót
của các phương tiện mà họ sử dụng và cố gắng tìm cách khắc phục những hạn
chế do kỹ thuật dành cho loại hình nghệ thuật đó gây nên. Chính việc khắc phục
những trở ngại ấy đã làm nảy sinh những tác phẩm nghệ thuật chân chính. Thế kỷ
XIX đã mở ra cho con người những triển vọng phát triển mới và những chân trời
mới, thể hiện sự mong muốn từ lâu của con người nhằm tạo ra những nghệ thuật
có thể truyền đạt sự phong phú và tính đa dạng của thế giới một cách đầy đủ và
rõ ràng hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó.
Ý muốn nhằm tiến tới sự hoàn thiện quá trình sáng tạo, tới việc khắc phục
sự thiếu sót của các phương tiện biểu hiện tất sẽ dẫn đến sự xuất hiện ước mơ về
một thứ siêu nghệ thuật nào đó có khả năng sử dụng mọi phương thức tác động
đến con người cả về thị giác lẫn thính giác, đủ bao hàm trong bản thân nó tất cả
các tác phẩm hội họa, âm nhạc, văn học cùng một lúc.
Ở thế kỷ XIX, người ta chỉ thấy việc thực hiện lý tưởng đó ở nhà hát.
Goethe đã miêu tả sự phong phú về tinh thần và tính đa diện về tình cảm của môn
sân khấu: “Bạn ngồi đó với đầy đủ tiện nghi y như một ông hoàng, và các vở kịch
diễn ra ngay trước mắt bạn, tạo ra cho tình cảm của bạn và trí tuệ của bạn tất cả
những gì mà bạn mong muốn, ở đó vừa có thi ca, vừa có hội họa, vừa có âm nhạc,
vừa có nghệ thuật sân khấu rồi đủ tất cả, cái gì cũng có. Thế rồi, khi tất cả những
nghệ thuật ấy với ước vọng của tuổi trẻ và vẻ đẹp cùng tác động trong cùng một
lúc và nhất là với một đội ngũ diễn viên hoàn hảo nhất thì đó quả là một ngày hội
chẳng có gì so sánh.” Beelinxki cũng nhìn thấy ở nhà hát một thứ nghệ thuật hoàn lOMoAR cPSD| 58737056
thiện nhất, gần gũi nhất với con tim chúng ta, bởi vì nó truyền đạt những ước mơ
và việc làm của con người một cách chính xác và toàn diện hơn cả.
Trong những quan điểm rất khác nhau của các nghệ sỹ, vẫn thấy có một
quan điểm giống nhau- đó là ước mơ. Khái niệm về một nền nghệ thuật tổng hợp,
nhất quán, có khả năng phối hợp rộng rãi những phương tiện biểu hiện nhằm miêu
tả thực tiễn một cách toàn diện, đầy đủ hơn.
Nghệ thuật điện ảnh ra đời chính là sự biểu hiện mơ ước ấy.
Từ sân khấu, từ “kịch bản” được chuyển vào điện ảnh. Điện ảnh ra đời năm
1895 với bộ phim của anh em nhà Lumière người Pháp. Anh em nhà Lumière đã
bắt tay nghiên cứu những chiếc máy Kinetoscope của nhà vật lý Mỹ
Thomas Edison, và cùng với người thợ máy Jules Carpentier để làm nên chiếc
Excentrique của Hornblower và những thước phim nhựa theo kích thước của
Edison, nhưng lúc này ảnh màu không lôi cuốn được công chúng. Đến ngày
22/3/1985, hai anh em Lumière đã cho dựng màn hình để chiếu các hình ảnh cử
động mà họ đã quay mấy ngày trước đó, đoạn phim có tên Buổi tan tầm của các
công nhân nhà máy ở Lyon.
Chính sự thay đổi bất ngờ này đã đánh dấu sự ra đời của điện ảnh. Các vị
khách mời, chán chường sắp bước ra phòng treo áo, đã đột ngột ngồi nán lại.
Trong bóng tối, từng động tác của con người nhảy múa trên chiếc màn căng đã
mang đến một quyền lực ảo giác mà chính anh em Lumière cho đến lúc đó, cũng
chưa ý thức được. Đó chính là đời sống đang diễn ra trên tấm vải, một sự kiện mà
trước nay chưa một ai từng thấy bao giờ.
Sau nhiều lần trình chiếu trước công chúng, từ tháng 3/1895, hai anh em
Lumière lại cùng Carpentier chế tạo máy Cinematographe để thể hiện giấc mơ mà
họ hằng đeo đuổi. Thực ra vào thời điểm này đã có nhiều buổi chiếu phim trước lOMoAR cPSD| 58737056
công chúng có thu tiền vé, nhưng những người thực hiện lại không hề biết đến
nhau. Tình trạng này dẫn đến việc đã nảy sinh rất nhiều tranh cãi về việc ai là
người phát minh ra điện ảnh. Cuối cùng, tất cả các nhà hoạt động điện ảnh trên
khắp thế giới đã nhất trí coi ngày 28/12/1895- ngày mà anh em Lumière chiếu
phim trong nhà hầm của Quán cà phê số 14- đại lộ Capunines, là ngày khi sinh ra
điện ảnh của nhân loại.
Thế kỷ XIX chẳng những mở rộng rất nhiều ranh giới của thế giới mà còn
đem lại cho loài người những phương tiện đầy hiệu lực để nhận thức thực tiễn
quanh họ một cách đầy khoa học. Tuy nhiên, việc nắm bắt thế giới trên cơ sở khoa
học đã không xác định được một cách chính xác trước sự phát triển nhanh chóng
của nghệ thuật cũng như nhận thức về nghệ thuật. Người nghệ sỹ luôn nhận thấy
những thiếu sót của các phương tiện mà họ sử dụng và cố gắng tìm cách khắc
phục những hạn chế do kĩ thuật dành cho loại hình nghệ thuật đó gây nên. Chính
việc khắc phục những trở ngại ấy đã thôi thúc sự ra đời của những tác phẩm nghệ
thuật chân chính. Thế kỷ XIX đã mở ra cho con người những triển vọng phát triển
mới và những chân trời mới thể hiện sự mong muốn từ lâu của con người nhằm
tạo ra những nghệ thuật có thể truyền đạt sự phong phú và tính đa dạng của thế
giới một cách đầy đủ và rõ ràng hơn bất cứ lúc nào trước đây. Và cũng với sự phát
minh của con người, nghệ thuật tạo hình điện ảnh hình thành từ sự kế thừa những
yếu tố tạo hình căn bản của hội họa và nhiếp ảnh, kết hợp với một kỹ thuật đặc
thù- kỹ thuật tạo ra ảo giác về chuyển động từ những hình ảnh tĩnh. Như vậy, cái
động chính là cốt lõi của hình ảnh điện ảnh, một trong những yếu tố quan trọng
nhất của ngôn ngữ tạo hình điện ảnh, là mục tiêu mà điện ảnh luôn hướng tới.
Chuyển từ trạng thái tĩnh của kịch bản sang trạng thái động của điện ảnh với sự
hỗ trợ của khoa học kỹ thuật là một bước tiến đột phá của nhân loại.
Thời kỳ điện ảnh còn chưa ra khỏi chức năng giải trí, thì người ta gọi kịch
bản là tờ giấy ghi lại những thời điểm các diễn viên bước ra trước máy quay phim.