



















Preview text:
MAĨ NGỌC CHỪ  vC ĐỨC NGHIỆU 
HOÀNG TRỌNG ẸHlẾN 3UYẼN LIỆU
MAI NGỌC CHỪ- VŨ ĐÚC NGHIÊU  HOÀNG TRỌNG PHIẾN Cơ SỞ  NGỒN NGỮHỌC  ^ VA  TIẾNG VIỆT
(Tái bàn lần thứ chín) NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bản quyền ihuộc Nhà xuất bản Giáo dục  04-2008/CXB/468-1999/GD  Mã số : 7XI 89h8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
LÒI NÓI ĐAU CHO LAN TÁI BẨN THỨ 9
N gay từ khi in lăn dàu, giáo trĩnh này dã dưoc dộc giả trong 
cả nước, nhát là giảng viên và sinh viỄn nhiêu trường đại học đón 
nhận và sù dụng. Từ đó dến nay, giáo trình dã dược tái bản tới 
9 làn. Di'éu dó dù nói lẽn tính hữu dụng của nó dối VÓI dông dào  bạn đọc.
N hư tên gọi cùa cuốn sách, dãy là giáo trình ca sỏ vẽ ngôn 
ngữ và tiếng Việt. N hững kiến thức dược đê cập đến ỏ dẫy, vì vậy 
tưang đói dơn giản, dề hiểu, mang tính "nhập môn" là chủ yếu. 
Giáo trình không d ĩ cập dến những tranh luận khoa học phức tạp 
và những ván dè m ang tính chuyên său của từng chuyên ngành.
Đói tượng phục vụ của giáo trình là sinh viên các chuyên ngành 
Ngữ vãn, Ngoại ngữ, Dông phương học, Quốc tế học,... thuộc các 
trường Dại học Khoa học xã hội và nhăn văn, Dại học Sư phạm , 
Dại học Ngoại ngữ, v.v...
Tập thể tác già cùa giáo trình là Giáo sư và phó Giáo sư đã 
có nhiều năm giảng dạy ngôn ngữ học và Việt ngữ hoc tại Trường 
Dại học Khoa học xã hội và nhăn vãn Hà Nội (trước dăy là Trường 
Dại học Tổng hợp Hà Nội). Trong giáo trình này, nội dung dược 
bìẻn soạn theo sự phần công nhu sau :
Phăn thứ nhát : T ổng lu ận
Chương I, II : PGS. TS Vũ Dức Nghiệu và GS. TS Hoàng Trọng Phiến
Chưang III, IV : PGS. T S Vũ Dức N ghiịu
Phần thứ hai Cơ sd ngữ âm h ọc v à n g ứ âm tiể n g V iệt 
GS. T S Mai Ngọc Chừ
Phần thứ ba : Cơ sà từ v ự n g học v à từ v ự n g tiế n g V iệt :
PGS. TS Vũ Đức Nghiêu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phân thứ tu . .Cơ sở ngữ p h á p học vã ngứ p h á p tiê n g V iệt
Chương XVIII, XIX, X X  . GS. TS Mai Ngoe Chừ và GS. TS  Hoàng Trọng Phiến.
Chương XXI, XXII, X X III : GS. T S Hoàng Trong Phiến
Trong khi soạn thào giáo trink, chúng lõi dă nhặn dưoc su 
giúp dỡ của các dõng nghiệp trong và ngoài trường. Riéng GS. TS 
Diệp Quang Ban dă dóng góp rất tích cưc cho ba chương CUỐI của 
phần thứ tư. N hăn đăy chúng tôi xin chán thành cảm an tất cả.
Các tác giả và N hà xuất bản cũng xin bày tò lòi cảm an trăn 
trong đến các dôc giả và mong nhận được ý kiến góp ý d é chất 
lượng cuốn sách ngày càng tót han. Hà Nội, mùa Xuân 2008  Thay m ật các tác giả  GS. TS m ai N gọc C h ừ 4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
QUY ƯỚC TRONG CÁCH TR ÌN H BÀY
1. Các chú thích ở cuối trang ứng với những chữ số ghi ở phía 
trên, đặt giữa hai ngoặc tròn, ví dụ : (1).
2. Tài liệu dẫn trong sách được ghi bàng chữ số, đặt giữa hai 
ngoậc vuông, ví dụ : [15] - Chữ số này ứng với số được ghi ở mục 
Tài liệu tham khảo cuối mỗi phấn, v í dụ ở phẩn II (Co sá ngữ 
ăm học và ngữ ãm tiếng Việt) số [15] là tài liệu : Đoàn Thiện 
Thuật. Ngữ ăm tiếng Việt, H., 1980. 3  Dấu ngoặc kép 
...ế được dùng để phiên âm các từ hoặc 
biểu thị các âm bàng chữ cái thõng thường, ví dụ "a", ''cam" ; đẩu 
ngoặc vuông [...] dùng ghi các ảm tó, ví dụ [sistra] và dấu vạch 
chéo dùng ghi các ăm uị, ví dụ /tan/. Kỉ hiệu đật trong hai ngoậc 
vuông và trong hai vạch chéo là kí hiệu phiên âm quốc tế. 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phan thứ nhất TỒNG LUẬN * *  *
• Bản chất xữ hội của ngôn ngữ
• Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ
• Nguồn gốc và diễn tiến của ngôn ngữ
• Phân loại các ngôn ngữ 7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Chương Ị
BÀN CHẤT XÃ HỘI CỦA NGÔN NGỮ
Vé m ật thời gian lịch sử, chác hần ngôn ngữ của loài người 
phài cổ xưa hơn rã t nhiêu lán so với ngay cả những huyén thoai 
xưa cũ nhát Nó gắn bó với sự sống cùa con người như đố ăn thức- 
uống, như sự thở ra, hít vào.. ; đến nỗi dường nhu không mấy 
khi mỗi người chúng ta nghỉ tới nó, nghỉ ràng có một cái gọi là 
ngôn ngữ tồn tại với mình.
N hung rói có lúc chúng ta tự hòi . Ngôn ngữ là gì ?
Lòi giải đáp cho câu hỏi đó không phải chỉ có một và không 
th ể chi có một, bỏi vỉ bàn thân ngôn ngữ vốn là một đói tượng 
hết sức phức tạp và đa diện
I. TRƯỚC HẾT, NGÔN NGỮ LÀ MỘT  HIỆN TƯỢNG XÁ HỘI 1. 
Nói rằng ngôn ngữ là m ột hiện tượng xã hội là bời vì một 
sự thật hiển nhiên : nó không phải là hiện tượng tự nhiên í vốn 
là những hiện tượng tổn tại một cách khách quan, không lệ thuộc 
vào ý muốn chù quan của con người) như sao băng, thủy triéu,  động đất..
Ngôn ngữ chi sinh ra và phát triển trong xã hội loài người, do 
ý muốn và nhu cầu người ta phải giao tiếp với nhau trong quá 
trình sống và tổn tại, phát triển. Bên ngoài xã hội loài người, ngôn 
ngữ không th ể phát sinh. Điều này được chứng minh qua hai câu 
chuyện sau đây. Chuyện thứ nhất : Theo nhã sử học Hêđôrỏt 
hoàng đế Zêlan U tđin Acba đã cho tiến hành một thí nghiệm đế 
xem một đứa trẻ không cần ai dạy bảo, có th ể biết được đạo cùa 
mình hay không, có biết nói tiếng nói của tổ tiên minh và gọi tên 
vị th ẫn của dòng đạo minh hay không Ông ta đã cho bát cóc 
một số trẻ sơ sinh thuộc nhiễu dân tộc. nhiễu tôn giáo, dòng đạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
khác nhau, đem nuôi cách li hoàn toàn với xã hội trong m ột Iháp 
kin ; không ai được đến gán ; cho ăn uống qua một đường dây 
Mười hai năm sau, cửa tháp được mở. Những đứa trẻ vẫn lớn lẽn ; 
nhưng chúng có nhiéu biểu hiện của thú hơn là người ; và không 
hễ có biểu hiện nào vé tiếng nói hoặc tín ngưỡng, tôn giáo cà. 
Chuyện thứ hai Nãm 1920, ở Ấn Độ, người ta phát hiện ra hai 
em bé gái được chó sói nuôi sống trong một cái hang. Một em 
khoảng hai tuồi, một em khoảng bảy, tám tuồi. Sau khi được cứu 
trở vé, em nhò bị chết ; em lớn sống được, nhưng chỉ có những 
tập tính cùa chó sói không có ngôn ngữ, chi biết gẩm gừ, bò 
bàng cả tứ chi dựa trên hai bàn tay, hai bàn chân ; thỉnh thoảng 
cất tiếng sủa như sói vê ban đêm...
Sau gấn bón năm em bé này mới học đuợc 6 từ, và qua 7 nám 
được gần 50 tù. Đến 16 tuối, em mới nói như một đứa trẻ 4 tuổi 
và không sống được nữa.
2 Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tượng của cá nhân tôi, 
cá nhân anh ; mà nó là của chúng ta. Chính vỉ nó là cái chung 
của xã hội, cùa chúng ta , cho nên anh nói tôi mới hiểu, và chúng 
ta hiểu nhau. Vé m ật này, đối với mỗi cá nhãn, ngôn ngữ nhu 
một thiết chế xã hội chặt chẽ, được giữ gìn và phát triền trong 
kinh nghiệm, trong truyén thống chung của cà cộng đổng. Thiết 
chế đó chính là một tập hợp của nhũng thói quen nói, nghe và 
hiểu, được tiếp thu một cách dễ dàng và liên tục ngay từ thời thơ 
ấu của mỗi chúng ta. v ì thế, những thói quen này vễ sau rấ t khó 
thay đổi. Nó như là một cái gỉ đấy bát buộc đối với mỗi người  trong mọi người.
Dáu sao thl tiếng Việt cũng vẫn gọi con mèo, cái nhà, người 
mẹ... bằng các từ mèo, nhà, me... Còn tiếng Anh thì gọi bàng các 
từ cat, house, mother... chứ không thê’ dễ dàng thay thế bằng từ 
khác hoậc đánh đổi cho nhau
Mặt khác, sụ phân biệt giữa ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ vãn 
hóa chung của mỗi cộng đổng dân tộc với các biến dạng khác cùa 
nó trong các cộng đống người nhỏ hơn, phân chia theo phạm vi 
lãnh thô’ hoặc tấng lớp xã hội (gọi là những tiếng địa phương, 
phương ngữ xâ hội) cũng chính là những biếu hiện sinh động. 9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
đa dạng vê tính xâ hội của ngôn ngữ. ví dụ, từ lời lẽ cùa tièng 
Việt chuẩn mực được phát âm thành nhài nhẽ, đó là cách phát 
âm cùa phưdng ngữ Bác bộ Việt Nam. Trong khi đó, nếu phát âm 
thành nời nẽ thì đây lại là hiện tượng nói ngọng và bị coi là lỗi
3. Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tượng sinh vật vì nó 
không m ang tỉnh di truyén. Ngưòi ta có được ngôn ngữ là nhờ 
quá trình học tập, tiếp thu từ những người cùng sổng à  xung quanh.
Mặt khác, so với tiếng kêu cùa các loài động vật, ngôn ngữ loài 
người cũng khác hản vé chất. Tiếng kêu đó, loài động vật có thể 
dùng để "trao đổi thông tin ’ như : kêu gọi bạn tỉnh trong các mùa 
hôn phối, hay là báo tin có thức ăn, có sự nguy hiểm ... nhưng tẵ t 
cà đểu vô tình xuất hiện dưới ảnh hưởng cùa những "cảm xúc" 
khác nhau. Chúng - nhũng tiếng kêu đó - là bẩm sinh ; sự "trao 
đổi thông tin" là vô ý thức. Đó là những kết quả của quá trình di 
truyén chứ không giống nhau như kết quà của trẻ em học nói.
Còn hiện tượng m ột số con vật học nói được tiếng người thi rõ 
ràng lại'là kết quả của quá trình rèn luyện phản xạ có điéu kiện 
N hững con vật "biết nói” đó dù thõng minh đến mẫy cũng không 
thể nào tự iĩnh hội được hoác phát âm được những âm thanh để 
biểu thị khái niệm khi nó ở ngoài một hoàn cảnh cụ thể với một  kích thích cụ thể
4. Chẳng những ngôn ngũ là một hiện tượng xã hội như đã 
phân tích bẽn trên ; mà hơn thế nữa, nó là m ột hiện tượng xã hội 
đặc biệt. Tính chất đậc biệt này thể hiện ở chỗ nó không thuộc 
về kiến trúc thượng táng của riêng một xã hội nào ; cho nên khi 
một cơ sở hạ tẩng nào đó bị phá vỡ, kéo theo sự sụp đổ của kiến 
trúc thượng tần g tương ứng, thỉ nó (ngôn ngữ) vẫn là nó Mãt 
khác ngôn ngữ không m ang tính giai cẩp. Nó ứng xử binh đảng 
đối với tất cả mọi người trong xã hội. Tuy vậy, mỗi người, mỗi 
nhóm người., không vô can với nó mà họ sử dụng cho nó mục 
đích của mình, theo cách của m ình sao cho có hiệu quả nhất 10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chính vị tính chát đặc biệt này mà người ta không thế hi vọng 
tác động làm biến đồi ngôn ngũ bàng một cuộc cách mạng chính  trị xã hội
II NGÔN NGỮ LÀ PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP 
QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI 1. 
Có thê’ hiểu một cách giản dị rằng giao tiếp là sự truyén 
đạt thông tin từ người này đến người khác với một mục đích nhát  định nào đó.
Sự giao tiếp được thực hiện nhờ hoạt động giao tiếp giữa hai 
hoặc hơn hai người với nhau trong một bối cảnh nhất định và 
bàng một phương tiện giao tiếp chung.
Các kết quả nghiên cứu vễ sinh lí học và tâm lí học cho thấy 
rằng ở con người, như cấu giao tiếp dường như mang tính bẩm 
sinh. Ngay cả bây gid, nếu thiếu ngôn ngữ hoặc giao tiếp bầng 
ngôn ngữ bị hạn chế do những nguyên nhân nào đó thì người ta 
dùng "ngôn ngữ cử chi" cho đến khi không còn có thề trao đổi 
bầng "ngôn ngữ” này nữa mới thôi.
Khi giao tiếp, người ta trao đổi tư tưởng, tình càm, trí tuệ, sự 
hiểu biết. . với nhau ; và tác động đến nhau. Chính nhờ thế mà 
con người mới tập hợp với nhau thành cộng đổng xã hội, có tổ 
chức và hoạt động cùa xã hội ; những tư tưởng và trí tuệ cùa 
người này, thê' hệ này mới truyền tới người khác, thế hệ khác được
Những hoạt động được gọi là giao tiếp đó, đã được thực hiện 
nhò một công cụ tốt n hãt là ngôn ngữ. Nhờ nó mà con người có 
khả năng hiểu biết lản nhau. Nó !à một trong những động lực bảo 
đám sự tốn tại và phát triển cùa xã hội loài nguời Chức năng 
trung tâm của ngôn ngữ là chức nàng giao tiếp 2, 
Ngôn ngữ là công cụ đê’ giao tiếp giữa người với người ; 
nhưng không phải mọi yếu tố, mọi đơn vị của nó đễu tham gia 
như nhau vào quá trình này Nói khác đi, các đơn vị của nó tham 
gia thực hiên chức nâng xã hội vôn có cùa nó một cách khác nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trục tiếp tham gia vào quá trinh mang thông tin và truyén đạt 
thông tin là các đơn vị định danh như từ, cụm từ ; và các đơn vị 
thông báo như câu, vãn bản Chảng hạn, các từ  nguôi, máy, 
nhà, cây, di, cười, một, hai, giỏi... Các cụm từ đá tai mèo, nhà 
cao tăng, bề tông đúc sản, mẹ tròn con vuóng... Các câu . Nguài 
vói người là bạn ; Trên trái dát có chừng m ột triệu giống dóng 
vật ; Máu người không phải nước lã... đều là những đơn VỊ trực 
tiếp m ang thông tin hoặc truyén tải thông tin
Ngược lại, các đơn vị như : âm vị, hình vị lại chi gián tiếp tham 
gia vào quá trinh giao tiếp ; bởi vì chúng chỉ là chất liệu cấu tạo 
nên những đơn vị vừa nêu trên mà thôi.
3. Trong xã hội loài người, phần lốn nhất và trọng yếu nhát 
của thông tin (gồm các kiểu dạng, các nguổn gốc khác nhau) được 
tàng trữ và lưu hành nhờ ngôn ngữ. Nói như V.Lênin . Ngôn ngữ 
là phương tiện giao tiếp quan trọng nhát cùa con ngưài. Sở di nó 
quan trọng nhất là vì trên góc độ lịch sử và toàn diện mà xét, 
không một phương tiện giao tiếp nào có thê’ sánh được với nó.
Cho dù ngôn ngữ bàng lời của con người có bị những hạn chế 
vé không gian và thời gian ; cho dù ngoài ngôn ngữ ra, con người 
còn dùng những phương tiện giao tiếp khác nữa như các điệu 
bộ, cử chi ; các loại kí hiệu, tín hiệu giao thông ; các biểu trưng 
quân hàm, quân hiệu ; các tác phẩm nghệ thuật tạo hình, âm 
nhạc... nhưng ở vị trí trên hết và truóc hết, vẫn phải là ngôn ngữ.
So với ngôn ngữ, các loại phương tiện giao tiếp khác chỉ có thể 
đóng vai trò là phương tiện bổ sung cho nó (giao tiếp ở đây được 
hiểu là giao tiẽp trong đời sống rộng rãi thuộc phạm vi toàn xã 
hội). Sd di nói như vậy là vì phạm ví sử dụng của chúng rất hạn 
chẽ ; và m ặt khác, chúng không đù sức để phản ánh những hoạt 
động và kết quả hoạt động tư tưởng phức tạp cùa con người ; còn 
như âm nhạc hay các tác phấm nghệ thuật tạo hình thì chi có thể 
nhác gợi, hướng ngưòi ta đến với một tư tưởng, tình cảm nào đó 
m à thôi. Trong khi các phương tiện giao tiếp bổ sung khác có thể 
được ' biểu diễn lại", "diễn dich lại' bàng ngôn ngũ, thì việc làm 12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngược lại. dường như là không thế ; hoặc nếu có thế, thi kết quả 
chi là phán rất nhỏ và không đáy đú
III. NGÔN NGỮ LÀ HIỆN THựC TRựC TIẾP  CỦA TƯ TƯỞNG 1. 
Khi nói ngón ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhát, 
chúng ta muốn nhấn mạnh đến chức năng hàng đẫu cùa nó : chức  nàng giao tiếp
Bên cạnh đó ngôn ngữ còn có một chức năng nữa là chức năng 
phản ánh. Tư duy của con người - sự phàn ánh thế giới khách 
quan xung quanh - chủ yếu được tiến hành, được thực hiện dưới  hỉnh thức ngôn ngữ.
Từ cội nguồn của mình, ngôn ngữ loài người ra đòi và phát 
triển là do người ta thấy cần phải nói với nhau m ột cái gì đó. 0 
đây, mệnh đé này bao hàm hai vấn đề
a) Con người dã có m ột cái gì dáy (những kết quả, quá trình 
hoạt động thuộc lỉnh vực tinh thẩn, tư tưởng...) cần phải được 
truyén đạt, trao đổi với người khác
b) Phuang tiện đê’ truyén đạt những thõng tin đó.
Nói rõ hơn, các kết quả của sự phản ánh thế giới khách quan 
(củng tức là tư duy) cùa con người cán được thông báo với những 
người khác trong cộng đống ; và chính con người đã chọn phương 
tiện đê’ thông báo là ngôn ngữ. Từ đây, nảy sinh vãn đé quan hệ 
giửa ngôn ngữ với tư duy 2. 
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy vón hết sức phức tạp 
cho nên có thể tiếp cặn nghiên cứu từ nhiéu phương diện, nhiéu 
xuẫt phát điểm khác nhau Nếu chi xét từ góc độ chức nàng phàn 
ánh cúa ngôn ngữ khỏng thôi, thl trước hết cắn phải tháy : Hiện 
thục truc tiếp của tu tưởng là ngôn ngữ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa ràng ngón ngũ chì là cái vò 
vật chăt trống rỗng ; mà nó tà một thế chất hai m ặt vật chất -  tình thẫn.
Kết luận mà Mác nêu như vừa đẫn, hết sức quan trọng Ông 
còn có một nhận xét khác : Ngôn ngữ củng cố xưa nhu ỷ thức vậy 
(...) là ý thức thực tại, thực tiễn ; và tương tụ nhu ý thức, ngôn 
ngữ sinh ra chí do nhu càu, do sự càn thiết phải giao tiếp với  người khác.
ở đây, cần phân biệt các tên gọi tu duy và ý thức. Bàn thân 
tên gọi tu duy cũng đã có những cách hiểu không hoàn toàn đóng 
nhất trong các khoa học khác nhau như triết học, tâm lí học, sinh 
!í học thần kinh cao cấp... Ngay trong một khoa học, người ta 
cũng có thể hiểu tư duy là sự phản ánh thực tại khách quan được 
tiến hành bởi con người ; hoặc cũng có thê’ hiểu tư duy là sản 
phẩm của các hoạt động trí tuệ đó.
Vậy ý thức cấn phài được hiểu là nó rộng hơn tu duy. No là 
m ột tập hợp hoàn chinh gổm những vếu tố nhận thức vé cảm xúc, 
có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó tư duy chi là một trong 
những quá trinh nhận thức m à thôi.
Trong mói tương quan tư duy - ý thức thi tư duy là bộ phận 
cơ bản cấu thành ý thức ; bởi vì trong ý thức, cùng với các quá 
trình nhận thức như cảm giác, tri giác, kí ức, biểu tượng, tư duy, 
còn có các quá trỉnh cảm xúc gán liên với sự đánh giá và trạng 
thái ý chí của con người.
Do dó khi nói vẽ chức năng của ngôn ngữ trong quan hệ ngôn 
ngữ - tu duy nhu th ế nào, thì cũng có thề nói ve quan hệ ngôn 
ngữ - ý thức như vậy. 3. 
Ngôn ngữ là hinh thức tồn tại, là phương tiện vặt chát đế 
th ể hiện tư duy. Vế phương diện này, tu duy là cái được biểu hiện 
còn ngôn ngữ là cái đê’ biểu hiện tu duy Các kết quà hoạt động 
của tư duy (thuộc lĩnh vực tinh thấn) bao giờ cũng được khoác 
m ột cái vỏ vặt chất âm thanh (ngôn ngữ) để th ể hiện ra ngoài 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
dưới dạng vật chất nhàm làm cho những người khác "thấy được'. 
Mối quan hệ ngôn ngữ - tư duy ở đày có thẽ hinh dung như hai 
mặt của một tò giấy vậy : đã có m ặt này là phải có mặt kia. Chính 
ở trong ngôn ngữ và nhờ có ngôn ngữ mà ý thức tiém tại trở nên 
được hiện thực hóa, thực tại hóa. Mật khác chính trong quan hệ 
với tư duy, với ý thức mà ngôn ngữ không phài là cái xác không 
hốn, không phài là hiện tượng thuấn túy vật chát Nó trở thành 
hiện tượng vật chất - tinh thấn.
Bởi thế, ta không thể nói một tiếng hắt hơi hay nói một tiếng 
ho (vì đó là những tiếng, những âm thanh phát ra vô ý thức do hoạt 
động, phản ứng thuán túy sinh lí của cơ thể con ngưỡi). Tuy 
nhiên, ta có các từ ho, hất hơi đê’ nói trong những câu, chảng hạn :
Liên ho suốt ngày vì bị cảm lạnh.
- Ông áy ngỗi và h ấ t hơ i liên tục.
Tiếng ho hoặc tiếng hắt hơi cùa ai đó m à ta nghe thấy được,  không phải là ngôn ngữ. 4. 
Chẳng những là phương tiện vật chát để biểu đạt tư duy, 
ngôn ngữ còn là công cụ của hoạt động tư duy. Nó trực tiếp tham 
gia vào quá trình hình thành và phát triển tư duy của con người.
Đê’ tiến hành các hoạt động tư duy, trí tuệ, con người cẩn phải 
có một cái vốn tri thức, hiếu biết nhẫt định (có thê’ là nhiêu hoặc 
ít, tùy theo). Vón tri thức đó con nguời có được nhờ những hoạt 
động thực tiễn, tìm hiểu và khám phá thế giới khách quan quanh 
mình. Nó được tàng trữ, được bảo toàn chủ yếu nhờ ngôn ngữ ; 
rồi chính nhò ngôn ngữ mà người ta có thê’ truyền thụ những tri 
thức, những hiểu biết từ người này sang người khác, từ th ế hệ 
này đến thế hệ khác, từ nơi này đến nơi khác..
Vé m ặt sinh lí học thấn kinh cao cấp, sự truyền đạt tri thức 
bàng ngón ngữ, nhờ ngôn ngữ nhu vậy, chính là hiện tượng ngôn 
ngữ tham gia vào việc tạo nên các liên hệ tạm thời. Nhò các liẽn 
hệ tạm thời này mà con người khác hẳn động vật : Người ta không 
nhất thiết phài làm quen trực tiếp với sự vật này hay sự vật kia, 
nhưng vẫn có thể biết được ít nhiéu nó là gỉ, nó như thế nào.. 15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
nếu như có một người nào đó dã biết và nói lại cho biết, hu.-u- 
người ta biết đuợc những sự vật khác có quan hệ đên chúng 'Tôi 
chưa tháy sao Hỏa bao giờ, nhưng tôi cũng biết được Phò bồt của 
nó là gì, nó nhu thế nào... nhờ các nhà thiên vãn học nói cho biết)
Việc truyén kiến thức như thế đã rú t ngán được thời gian cấn 
thiết cho sự tỉm hiểu th ế giới xung quanh con người. Cứ như vậy, 
truyén đạt, tích lũy, phát triển thêm , tư duy con ngưòi càng ngày 
càng trở nén phong phú hơn và sâu xa hơn. 5. 
Để làm rõ hơn bản chãt của ngôn ngữ cùng với chức Dàng 
giao tiếp, chức năng phản ánh cùa nó, cẩn làm sáng tỏ hơn mối 
quan hệ tay ba giừa ý thức (tư duy) với ngôn ngữ và thực tại  khách quan
Ta biết ràng cội nguổn cùa ý thức chính là thực tại khách quan, 
vì ý thức chính là hỉnh ảnh chù quan của thực tại khách quan, là 
tốn tại được phản ánh. Ý thức được biểu hiện bàng ngôn ngữ Vậy 
ngôn ngữ quan hệ gián tiếp với thực tại khách quan thông qua ý 
thức. Quan hệ ngôn ngữ - ý thức thực tại khách quan như vừa 
nêu, thường được biếu diễn qua m ột quan hệ bộ ba quen thuộc 
khác là từ - khái niệm - sụ vật.
Ngôn ngữ và ý thức (tư duy) gắn bó với nhau như một, không 
bao giờ tách rời nhau, nhưng chúng không phải là một. Đổi với 
thực tại khách quan, ngôn ngữ có tác dụng, vai trò như một công 
cụ đề định danh, gọi tên cho các sự vật, hiện tượng, quan hệ... 
tốn tại trong đó. Mặt khác, quan trọng hon là : ngôn ngũ như 
một công cụ đê’ cáu trúc hóa, mô hình hóa thực tại khách quan 
Nó cũng cho tháy được ít nhiêu những đặc điểm vãn hóa - dản 
tộc, văn hóa vật chất và vãn hóa tinh thắn cùa mỗi cộng đống 
người ; nhưng không thể nói đó là những biểu hiện cao thấp của 
các trình độ tư duy khác nhau.
rv. NGÔN NGỮ - LÒI NÓI - HOẠT ĐỘNG LÒI NÓI 1. 
Trong giao tiếp ngôn ngữ, sờ dì tôi nói, anh nghe và chúng 
ta hiếu nhau được (mặc dù ai náy đéu nhận ra và phân biệt : đáv 16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
la tiếng nói của tôi, kia là tiếng nói của anh. ) là bởi vỉ giữa chúng 
ta đã có một cái chung và những cái riêng.
a) Cái chung đó cùa chúng ta bao gổm các âm, các từ, các bộ 
phận cấu tạo từ, các mô hình cấu tạo nhóm từ, mô hình cấu tạo 
câu, các thành phẫn câu... cùng với các quy tác hoạt động, quy 
tác biến đổi của chúng... vốn đã và đang được sử dụng trong không 
biết bao nhiêu lấn khác nhau giữa những người đang cùng nói  một ngôn ngữ,
Cái chung đó, trong ngôn ngữ học được gọi là ngôn ngữ,
Đó là một hệ thống những đơn vị vật chất, và những quy tấc 
hoạt động cùa chúng, dùng làm công cụ giao tiếp của con người, 
được phàn ánh trong ý thức của cộng đổng và trừu tượng hóa khỏi 
bất ki một tư tưởng, cảm xúc và ước muốn cụ th ể nào,
Như vậy, ngôn ngữ không chi tổn tại riêng cho tôi hay riêng 
cho anh, mà tổn tại cho tất cà chúng ta. Nó được nhận thức và 
tương ứng với ý thức của cả cộng đổng chứ khống phải chỉ tương 
ứng với ý thức của riêng anh hoặc riêng tôi. Nó, tự bản chăt vốn 
là hiện tượng m ang tính xã hội
b) Là công cụ để giao tiếp giữa người với người, ngồn ngữ chứng 
tỏ các khả năng của m inh trong các lời nói ra (kể cả dạng nói lẫn 
dạng viết). Cái lời nói ra đó, trong ngôn ngữ học được gọi là lài 
nói -  kết quả của sự nói năng.
Lòi nói là chuỗi liên tục các tin hiệu ngôn ngữ được xây dựng 
nên theo các quy luật và chát liệu cùa ngôn ngữ, ứng với nhu cẩu 
biểu hiện những nội dung (tư tưdng, tinh cảm, cảm xúc, ý chí...) 
cụ thể. Với cách hiểu như vậy, nếu không đòi hỏi thật nghiêm 
ngặt vé m ật tên gọi th uật ngữ, ta có thê’ coi lài nói như là những 
vàn bản, những diễn từ (discourse). Lời nói phân biệt với ngôn 
ngữ ở chỗ nó m ang những màu sác cá nhân của chù thề nói 
năng (người nói cụ th ể trong một tỉnh huống cụ thể).
c) Có thể nói : giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa người với người  thực chát là sự truyén 
nhận thông tin thông qua sự trao dối 
văn bản (B.v. Kasevich). Nếu không tính đến sự giao tiếp bàng 
1-ách viết, th ì giao tiếp bàng cách nói nàng sẽ bao gổm : _ 17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn Chương II
HỆ THỐNG TÍN HIỆU NGÔN NGỨ
I. BẤN CHẤT TÍN HIỆU CỦA NGÔN NGỮ 1. 
Trong đời sống cùa mình, loài người phát hiện, làm quen, 
xây dựng và sử dụng nhiểu kiểu loại tín hiệu khác nhau. Việc 
nghiên cứu toàn diện các loại tín hiệu đó, là nhiệm vụ trung tâm 
của khoa tín hiệu học (semiology).
Đã có nhiéu quan niệm khác nhau và nhiều cách phân loại khác 
nhau đối với tín hiệu. Để cho vấn đễ à đây trở nên giàn tiện, đỡ 
phúc tạp, chúng ta quan niệm vé tín hiệu như sau
T ín hiệu là một sự vật (hoậc một thuộc tính vật chát, một hiện 
tượng) kích thích vào giác quan cùa COĨ1 người, làm cho người ta 
tri giác được và lí giải, suy diễn tới một cái gì đó ngoài sự vật áy.
Ví dụ Cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường 
bộ là một tín hiệu ; bởi vì khi nó hoạt động (sáng lên) ta nhìn 
thấy nó và suy diễn tới sự cấm đoán, không được đi qua chỗ nào đó.
Vậy một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thỏa mãn các yêu  cáu sau đây
a) Phải là một sụ vật hoặc thuộc tính vật chất được cám nhận 
qua giác quan của con ngưòi ; chảng hạn âm thanh, màu sác, 
ánh sáng, hình vẽ, vật thể... Nói cách khác, tín hiệu phải là vật 
chát, kích thích đẾn giác quan của con người và con người cảm  nhận được.
b) Phải đại diện cho một cái gi đó, gợi ra cái gì đó không phải 
là chính nó. Tức là cái mà nó đại diện cho, không trùng với chính 
nó. Ví dụ : Tín hiệu đèn đỏ báo hiệu nội dung cám đi Nội dung 
này và bản th ể vật chất cùa cái đèn đỏ không hé trùng nhau. 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mạt khác nó cũng sẽ chi là tín hiệu khi mối liên hệ giữa nó 
với cài mà nó chi ra được người ta nhận thức, tức là người ta 
phái biết liên hội nó với cái gì. c) 
Sự vật đó phải nẳm trong một hệ thống tín hiệu nhãt định 
để được xác định tư cách tín hiệu cùa mình cùng với các tín hiệu 
khác Chảng hạn, cái đèn đỏ vừa nói trên là một tín hiệu ; thế 
nhưng nếu tách nó ra, đưa vào chùm đèn trang trí thi nó lại không 
phải là tín hiệu nữa. Sở dĩ nhu thế lả vì chí có nằm trong hệ thống 
tín hiệu đèn giao thông, nó mới có tư cách tín hiệu, được xác định 
cùng với đèn xanh, đèn vàng nhờ sự đối lập quy ước giữa chúng  với nhau. 2. 
Xuất phát từ bình diện tín hiệu học trong nghiên cứu ngồn 
ngữ, người ta bảo ràng ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, ràng 
nó có bản chất tín hiệu.
Theo quan niệm vừa trình bày bên trên, tín hiệu là cái phải có 
hai m ât m ật biểu hiện vật chát và m ặt được biểu hiện (cái mà 
m ặt biểu hiện chỉ ra, làm đại diện cho). Vậy thi trong ngôn ngữ, 
trước hết phải coi các hỉnh vị (những đơn vị nhỏ nhất mà có giá 
trị về m ặt ngữ pháp ví dụ như : work, er, ing, ed... trong các từ 
work, worker, working, worked... của tiếng Anh hoặc như . săn, 
máy, bay, quạt, cánh... trong các từ sán bay, máy bay, cánh 
quạt.,, của tiếng Việt) và các từ là những tín hiệu ; bởi vì chúng 
có m ặt biểu hiện là âm thanh, và m ặt được biểu hiện là những ý 
nghỉa, những nội dung nhát định nào đó.
ở đây cũng cẩn phải thấy rồng trong từ - đơn vị trung tâm 
của ngôn ngữ - có th ể có nhiễu quan hệ tín hiệu. Trước hết, âm 
thanh biểu hiện (làm tín hiệu cho) ý nghĩa. Tiếp theo, cà cái phức 
thể âm thanh - ý nghia đó lại biểu hiện, làm tẽn gọi, làm đại diện 
cho sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình... trong thế giới khách 
quan. Đến lượt mình, cả cái phức thể bộ ba này, trong những phát 
ngôn cụ thể, lại có thể làm tín hiệu, đại diện cho một sự vật khác. 
(Đó là những trường hợp chuyển nghỉa ẩn dụ, hoán dụ, trường 
hợp từ biểu thị nghĩa bóng... như ta vẫn thường gặp).
Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của ngôn ngữ học không phải là 
nghiên cứu các sự vật. hiện tượng. . được gọi tên ; mà là nghiên 21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn
cứu các phương thức phản ánh chúng trong ngôn ngữ nói chung 
và từng ngôn ngữ cụ thể. 3. 
Bàn chất tín hiệu và đặc trưng cùa tín hiệu ngổn ngữ thê’ 
hiện ở những điỂm sau đây :
3.a. Cũng như các tín hiệu nói chung, tín hiệu ngôn ngừ là sự 
hợp nhát của cái biểu hiện với cái được biểu hiện. Cái biểu hiện 
c ia tín hiệu ngôn ngữ là âm thanh, còn cái được biểu hiện của 
nd là ý nghĩa, là khái niệm vé sự vật được phản ánh được gọi tên 
(ở đây, như trên vừa nói, chúng ta đã gác sự vật được gọi tên 
sang một bên). Dưới dạng đơn giản hóa tới mức lí tưòng, ta có 
thể biểu diễn tín hiệu - từ CÂY trong tiếng Việt chảng hạn, bàng  lược đố như sau : ÂM CÂY
Từ : CÂY : --------------------- 
Loài thực vật cổ thân, lá Ý (Khái niệm) 
rõ rệt hoặc cổ hình thù giống 
những thực vật có thân, lá.
Cái biểu hiện (củng thưông gọi là m ặt biểu hiện) và cái đưọc 
biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ gán bó khăng k h ít vói nhau, và 
dã có cái này là có cái kia. Người ta có thể hình dung chúng như 
hai m ặt cùa một tò giáy vậy, đã có m ặt này, tấ t phải có m ặt kia.
3.b. Hai m ặt của tín hiệu ngôn ngữ không bao giờ tách rời 
nhau, nhưng lại có quan hệ võ đoán với nhau. Điêu này có nghĩa 
là chúng ta không tìm đuợc lí do cho việc giải thích vì sao âm này 
lại có ý này hoặc ý này vì sao lại được "chứa" trong âm này...
Trong ví dụ vừa nêu trên kia, bản thân âm CÂY không hé có 
mối liên hệ bên trong nào, cũng như không có sức m ạnh quy định, 
ràng buộc nào đối với cái ý m à nó biểu thị. Ngược lại, cái ý (khái 
niệm) loài thực vật có thân, lả, . . không hẽ tự mình quy định tên 
gọi cho mình, không hể có tác động quyết định nào đói với áo 
khoác vật chất âm thanh của mình.
Dùng âm này hay âm kia để biểu thị ý (nội dung) này hay ý 
khác... tấ t cả đễu do quy ước, do thói quen (hoặc suy đến cùng là 
đo thói quen) của tập thể cộng đồng. 22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN http://www.lrc-tnu.edu.vn