-
Thông tin
-
Quiz
Giáo trình cử nhân môn lịch sửu Đảng công sản Việt Nam | Học viện Hành chính Quốc gia
Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954) Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Thống kê lao động (HRF2006) 121 tài liệu
Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu
Giáo trình cử nhân môn lịch sửu Đảng công sản Việt Nam | Học viện Hành chính Quốc gia
Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954) Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Thống kê lao động (HRF2006) 121 tài liệu
Trường: Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Hành chính Quốc gia
Preview text:
lOMoARcPSD|50730876 1
Bài 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP VÀ CAN THIÊP MY (1945-1954)̣ A. MỤC TIÊU 1.
Về kiến thức Cung cấp cho học viên những nội dung lịch sử khách
quan về quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) dưới sự lãnh đạo
của Đảng; từ đó, giúp học viên hiểu rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình
hoạch định và chỉ đạo thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng. 2.
Về kỹ năng: Giúp học viên nâng cao hiểu biết về các vấn đề, sự kiện
lịch sử Đảng trên cơ sở được trang bị kỹ năng phân tích, nắm bắt vấn đề, rút ra các
kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng. 3.
Về thái đô, trách nhiệ m nghề nghiệ p:̣ Học viên nhận thức đúng đắn
thực tiễn lịch sử và những kinh nghiệm, bài học được rút ra từ quá trình Đảng lãnh
đạo kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954); khẳng định lòng tin vào sự lãnh
đạo của Đảng và sức mạnh đoàn kết của toàn dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. B. NÔI DUNG̣
1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN
CÁCH MẠNG (9/1945 – 12/1946)
1.1. Tình hình Viêt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945̣
1.1.1. Thuận lợi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử dân tộc. Từ thân phận nô
lệ nhân dân đã trở thành người làm chủ đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng Cộng sản Đông Dương
chuyển từ hoạt động bí mật ra hoạt động công khai và lãnh đạo chính quyền. 1 lOMoARcPSD|50730876 2
1.1.2. Khó khăn, thách thức
Bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước Việt Nam trẻ tuổi và cả dân tộc phải đương
đầu với muôn vàn khó khăn, thách thức.
Theo thỏa thuận tại Hội nghị Pốtxđam (Posdam) (diễn ra từ ngày 17-7 đến ngày
2-8-1945) giữa các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới II, quân đội Trung
Hoa dân quốc và quân đội Anh vào Đông Dương thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân
đội Nhật. Theo đó, cuối tháng 8 đầu tháng 9-1945, quân đội Trung Hoa Dân quốc,
quân đội Anh và quân đội Pháp (núp bóng quân đội Anh) đã tràn vào nước ta. Ở Bắc
vĩ tuyến 16, quân đội Trung Hoa dân quốc đã chiếm đóng các địa bàn có tầm quan
trọng về chính trị, quân sự, kinh tế, đặc biệt là thủ đô Hà Nội. Theo sau quân đội
nước ngoài, các thế lực phản động người Việt cũng kéo về trong nước, hoạt động
chống phá cách mạng. Ở Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh đã kéo vào thực hiện nhiệm
vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng nguy hiểm hơn chúng đã tiếp tay cho quân Pháp
quay trở lại xâm chiếm Đông Dương.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các thế lực phản động trong nước nổi
lên chống phá cách mạng rất quyết liệt. Hàng chục đảng phái chính trị đã và đang xuất hiện1.
Đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Kinh tế đình đốn, nạn đói từ cuối năm
1944 đến đầu năm 1945 làm chết gần 2 triệu người và tiếp tục đe dọa sinh mạng
hàng triệu người khác. Hàng chục vạn hécta ruộng đồng bị bỏ hoang. Hầu hết các
cơ sở sản xuất đều đình đốn, hàng vạn công nhân không có việc làm. Ngoại thương
bế tắc, đình trệ. Tài chính quốc gia bị khánh kiệt, kho bạc trống rỗng.
Hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ, các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu của chế
độ cũ để lại rất trầm trọng, thực sự là gánh nặng cho chính quyền cách mạng mới
1 như: Đảng Nam Kỳ của Nguyễn Tấn Cường, Đảng Đông Dương tự trị của Nguyễn Văn Tỵ, Đại Việt cách mạng
Đảng, Việt Nam phục quốc, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng... lOMoARcPSD|50730876 3
thành lập. Các lực lượng vũ trang bảo vệ chính quyền cách mạng còn nhỏ bé, kinh
nghiệm chỉ huy, tác chiến còn ít, vũ khí, trang bị thiếu nghiêm trọng. 2
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhưng vẫn chưa có một quốc gia
nào, một tổ chức quốc tế nào công nhận và giúp đỡ. Trong khi đó, Quốc tế Cộng sản
đã tuyên bố tự giải tán từ năm 1943, quan hệ quốc tế của Đảng gặp rất nhiều khó
khăn, hầu như không nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nào từ các đảng cộng sản khác trên thế giới.
Những khó khăn, thách thức về mọi mặt nêu trên đe doạ nghiêm trọng nền độc
lập vừa mới giành được, đặt vận mệnh dân tộc Việt Nam vào tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”.
1.2. Đảng lãnh đạo bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng
1.2.1. Chủ trương của Đảng
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành trung ương Đảng ban hành Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc làm cương lĩnh hành động trước mắt của cách mạng. Trên cơ sở
phân tích tình hình thế giới và trong nước, Chỉ thị đề ra những vấn đề cơ bản về chủ
trương, đường lối và phương pháp cách mạng. Chỉ thị nhất mạnh: “Cuộc cách mạng
Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”2 và tiếp tục đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết. Tổ quốc
trên hết”3. Chỉ thị chỉ rõ: “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”4; đồng thời, Đảng chủ trương mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường đoàn kết nhân dân Việt-MiênLào chống
thực dân Pháp xâm lược. Chỉ thị cũng đề ra những nhiệm vụ chủ yếu về đối ngoại là
ủng hộ Liên Xô, xây dựng hoà bình thế giới, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CHTG, H, 2000, T. 8, tr. 26
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CHTG, H, 2000, T. 8, tr. 26
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CHTG, H, 2000, T. 8, tr. 26 lOMoARcPSD|50730876 4
dân tộc và phong trào đấu tranh vì dân chủ của nhân dân tiến bộ; về đối nội là củng
cố chính quyền, bài trừ nội phản, chống thực dân Pháp xâm lược, cải thiện đời sống
nhân dân. Chỉ thị nêu rõ phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ to lớn là kháng chiến và kiến quốc.
1.2.2. Bước đầu xây dựng và bảo vê chính quyền cách mạng ̣ 3
1.2.2.1. Về chính tri
Khẩn trương thành lập Chính phủ lâm thời bằng việc cải tổ
Ủy ban dân tộc giải phóng, ra mắt Chính phủ vào ngày
2-9-1945. Ngày 6-1-1946, tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội trong cả nước. Xây
dựng chính quyền nhân dân từ Trung ương đến cơ sở. Ngày 2-3-1946, Chính phủ
liên hiệp kháng chiến được thành lập. Ngày 9-11-1946, kỳ họp thứ hai của Quốc hội
khóa I đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
xác định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong quá trình phá thế bao vây, chống phá của
các thế lực thù trong, giặc ngoài. Chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc bằng
những hình thức tập hợp đa dạng, mà tập trung là Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp
Quốc dân Việt Nam, các đảng phái, đoàn thể quần chúng cách mạng, đã tạo thành
sức mạnh to lớn làm hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng.
1.2.2.2. Về kinh tế – tài chính
Trong điều kiện nền kinh tế khó khăn và tài chính kiệt quệ, Đảng và Chính phủ
dựa vào dân để tăng cường thực lực. Khắc phục khó khăn về tài chính, Chính phủ
phát động Tuần lễ vàng (từ ngày 17 đến ngày 24-9-1945), xây dựng Quỹ Độc lập và
quỹ Đảm phụ quốc phòng.
Phát động các phong trào diệt “giặc đói”, tăng gia sản xuất, lập “hũ gạo tiết
kiệm”... đã đem lại những kết quả to lớn. lOMoARcPSD|50730876 5
1.2.2.3. Về văn hóa – giáo dục
Ngày 8-9-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ để chăm
lo việc học chữ cho dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh” “Muốn giữ vững nền
độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu… phải có kiến thức mới để có thể tham
gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”4. 4
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước dấy lên phong trào
học chữ quốc ngữ sôi nổi từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược,
lôi cuốn mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi tham gia.
1.2.2.4. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược Nam Bộ
Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, được sự yểm trợ của quân Anh, thực dân Pháp
đã nổ súng ở Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, trực tiếp là Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ, cuộc kháng chiến của nhân dân
Nam Bộ đã diễn ra quyết liệt, tuy không đánh bại được kế hoạch mở rộng đánh
chiếm của địch nhưng đã làm thất bại một bước âm mưu đánh nhanh thắng nhanh
của thực dân Pháp, để lại kinh nghiệm đánh địch trong thành phố, phát động chiến
tranh nhân dân rộng khắp, xây dựng tổ chức lực lượng vũ trang, kinh nghiệm vừa
đánh vừa đàm, kết hợp quân sự và ngoại giao.
1.2.2.5. Thực hiện sách lược hoà hoãn và nhân nhượng với kẻ thù
Để tập trung lực lượng chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và giữ vững chính
quyền nhà nước, Đảng chủ trương thực hiện sách lược “giao thiệp thân thiện, nhân
nhượng, tránh xung đột” với đội quân Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 25-
111945 nêu rõ: “Đối với Tàu, vẫn chủ trương Hoa - Việt thân thiện, coi Hoa kiều
như dân tối huệ quốc”. Những biện pháp về kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CHTG, H, 2000, T. 4, tr.37-38 lOMoARcPSD|50730876 6
đã góp phần giữ vững chính quyền, vô hiệu hóa sự chống phá của một kẻ thù hết sức
nguy hiểm, tạo tiền đề vững chắc cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sau này.
Mặc dù cuộc xung đột Việt - Pháp đã diễn ra ở miền Nam, nhưng chủ trương
của Đảng đối với Pháp là: độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế, thực hiện
khẩu hiệu “Pháp - Việt thân thiện”.
Sau Hiệp ước Hoa - Pháp ngày 28-2-1946, các hoạt động ngoại giao Pháp -
Việt diễn ra rất khẩn trương. Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra 5
Chỉ thị Tình hình và chủ trương, xác định rõ chủ trương đối phó với việc quân Pháp
đổ bộ ra miền Bắc thay chân quân Trung Hoa Dân quốc giải giáp và hồi hương quân Nhật.
Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp là
Xanhtơny bản Hiệp đinh sơ bộ. Theo đó, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có ngoại giao, quân đội, tài chính và nghị
viện riêng... nằm trong Liên bang Đông Dương và Khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý để 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân
Trung Hoa Dân quốc làm tiếp nhiệm vụ tước vũ khí và hồi hương quân Nhật; hai
bên đình chỉ xung đột, mở tiếp các cuộc điều đình để tìm một giải pháp hòa bình cho
cuộc xung đột Pháp - Việt.
Sau Hiệp định sơ bộ 6-3, ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương tiếp tục
ra Chỉ thị Hòa để tiến, giải thích việc ký Hiệp định sơ bộ và xác định chủ trương hòa
hoãn với Pháp để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt. Các hoạt động
ngoại giao liên tiếp diễn ra. Hội nghị trù bị ở Đà Lạt (từ ngày 19-4 đến ngày 11-5-
1946); Hội nghị đàm phán chính thức giữa Việt Nam và Pháp tại Phôngtennơblô (từ
ngày 6-7 đến ngày 10-9-1946) nhưng đều không có kết quả. Các nỗ lực ngoại giao
sau khi Việt Nam và Pháp ký bản Tạm ước 14-9-1946 đều bị tư tưởng và hành động
hiếu chiến của các thế lực thực dân phá hoại. lOMoARcPSD|50730876 7
Ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở
rộng ở làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay là Hà Nội), quyết định phát động cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. 20h ngày 19-12, Đài Tiếng nói
Việt Nam phát tín hiệu tổng tiến công. Ngay trong đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân cả nước nhất tề đứng lên
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP VÀ CAN THIÊP MY (12/1946-7/1954)̣ 6
2.1. Đảng lãnh đạo toàn quốc kháng chiến tiến tới giành thế chủ động
chiến lược (1946 – 1950)
2.1.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng được đề ra
ngay từ đầu cuộc kháng chiến và không ngừng được bổ sung hoàn chỉnh trong quá
trình tiến hành lãnh đạo kháng chiến, thể hiện qua các văn kiện của Đảng: Chị thị:
“Kháng chiến kiến quốc” (25-11-1945), “Công việc khẩn cấp bây giờ” (10-1946),
Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946) và tác phẩm “Kháng chiến nhất đinh thắng
lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh. Nội dung cốt lõi của đường lối và tư tưởng chỉ
đạo kháng chiến là “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính”.
Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Tính chất của kháng chiến lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng, “cuộc
cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập”5.
Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến được xác định ngay từ đầu: “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. lOMoARcPSD|50730876 8
Kháng chiến toàn dân: Huy động toàn thể dân tộc và các tầng lớp nhân dân
tham gia kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất
kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc, nhằm xây dựng một
thế trận chiến tranh nhân dân sao cho mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi đường phố
là một mặt trận, mỗi quốc dân là một chiến sĩ, đánh địch mọi lúc, mọi nơi, làm cho
địch bị động, lúng túng, cuối cùng phải chịu thất bại.
Kháng chiến toàn diện: Đánh địch bằng cả quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa,
tư tưởng, ngoại giao, coi quân sự là mặt trận đấu tranh chủ yếu, đấu tranh vũ 7
trang đóng vai trò quyết định... nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn địch để chiến thắng kẻ thù.
Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta
yếu, nên Đảng chủ trương đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng, phát triển lực lượng,
đồng thời tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch để so sánh lực lượng dần dần có lợi cho ta
và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh thắng kẻ thù. Đảng khẳng định đánh
lâu dài về chiến lược nhưng phải tạo thế chủ động để phát triển thế và lực, tạo thời
cơ giành thắng lợi nhanh chóng trong từng giai đoạn kháng chiến, tiến lên giành
thắng lợi quyết định.
Dựa vào sức mình là chính: Là dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường lối
đúng đắn, độc lập, tự chủ của Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa
của đất nước, đồng thời ra sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế
để chiến thắng kẻ thù.
2.1.2. Tích cực chuẩn bị cho cuôc kháng chiến lâu dài (1946-1947)̣
2.1.2.1. Cuộc chiến đấu ở các đô thi
Mở đầu là cuộc kháng chiến toàn quốc, các lực lượng vũ trang giam chân địch
trong các thành phố lớn. Xây dựng căn cứ kháng chiến. Công tác xây dựng đảng,
phát triển đảng viên. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, từ Bắc chí Nam, nhân dân đã nhất tề đứng lên kháng chiến chống thực lOMoARcPSD|50730876 9
dân Pháp xâm lược. Cuộc chiến đấu diễn ra ở các đô thị lớn rất quyết liệt, kéo dài
trong nhiều tháng, làm thất bại thêm một bước chủ trương chiến lược đánh nhanh,
thắng nhanh của thực dân Pháp, tạo thêm thời gian để hậu phương chuẩn bị chiến
đấu lâu dài. Trung ương Đảng quyết định chọn Việt Bắc làm Thủ đô kháng chiến.
2.1.2.2. Quân dân ta chiến đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của đich (1947)
Ý đồ đánh nhanh, xâm lược Việt Nam trong vài tuần thất bại, của thực dân
Pháp chuyển hướng tấn công lên Việt Bắc. Chiến dịch phản công Việt Bắc - Thu
Đông 1947 của quân và dân ta đã làm phá sản hoàn toàn chủ trương chiến lược 8
đánh nhanh thắng nhanh của kẻ thù, đưa cuộc kháng chiến chuyển sang một giai
đoạn mới. Thắng lợi trong chiến dịch Việt Bắc là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược
căn bản, cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến được bảo vệ, bộ đội chủ lực được
bảo toàn, tiềm lực kháng chiến được giữ vững và phát huy, đã khẳng định sự lãnh
đạo và đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn.
2.1.3. Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diên (1948-1950)̣
Sau thất bại tại chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947, cùng với những khó khăn
về kinh tế và chính của nước Pháp, thực dân Pháp buộc chuyển từ chiến lược đánh
nhanh, thắng nhanh sang chiến lược đánh lâu dài “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh,
dùng người Việt đánh người Việt”.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương mở rộng (họp từ ngày 15 đến ngày
17-1-1948) đề ra những nhiệm vụ lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong năm
1948 cũng như những phương hướng, biện pháp chủ yếu đẩy mạnh cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới.
Tiếp đó, ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Cán bộ Trung
ương lần thứ tư (5-1948) và Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ năm (8-1948) nhằm
quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương, bổ sung và cụ thể hoá chủ trương của
Đảng và bàn những biện pháp thực hiện.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương mở rộng và Hội nghị Cán bộ Trung
ương lần thứ tư, lần thứ năm, các Đảng bộ địa phương đã đề ra chủ trương và giải lOMoARcPSD|50730876 10
pháp đẩy mạnh phong trào du kích phát triển mạnh mẽ khắp trong cả nước. Hàng
nghìn cán bộ, chiến sỹ, đảng viên được điều động bổ sung cho các vùng địch hậu,
giáp ranh, thực hiện bám đất, bám dân, bám địch mà đánh. Nhiều trận đánh ở cấp
đại đội đến tiểu đoàn đã mang lại chiến thắng lớn, như: Tu Vũ (3-1948), Phủ Thông
(7-1948), Sen Bàng, Hải Vân (Bình Trị Thiên)… Các hoạt động phá tề, trừ gian, lật
đổ chính quyền cơ sở của địch ở nông thôn cũng được đẩy mạnh trên cả nước, làm
phá tan hệ thống kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ, làm thất bại 9
chính sách “dùng người Việt trị người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của
địch. Phong trào phá tề diễn ra rầm rộ vào cuối năm 1948, trong đó nổi bật là các
huyện phía Bắc Hưng Yên; Nam Sách, Chí Linh, Kinh Môn (Hải Dương).
Thực hiện phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc, ngay từ đầu năm 1948, Trung ương Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ phá
hoại kinh tế địch, thi hành chính sách ruộng đất, nhất là tạm cấp ruộng đất của thực
dân Pháp và việt gian cho dân cày; giảm địa tô, gây phong trào hiến ruộng, phát triển
mạnh các tổ đổi công chuẩn bị tiến lên hợp tác xã nông nghiệp. Ban hành chế độ
thuế khoá, cấm lưu hành các loại tiền của địch, triệt để thi hành chính sách tiết kiệm,
đẩy mạnh tăng gia sản xuất, bảo đảm tự cung tự cấp trong toàn quốc, chú trọng phục
hồi và phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại.
Nhằm đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá mới, tháng
71948, Đại hội Văn hoá toàn quốc lần thứ hai được triệu tập tại Việt Bắc. Tại Đại
hội, đồng chí Trường Chinh đọc bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam,
nêu rõ lập trường, tính chất, nhiệm vụ của văn hoá kháng chiến. Hội nghị Văn hoá
Việt Nam được thành lập, các hoạt động văn hoá, văn nghệ trong vùng tự do được
đẩy mạnh. Đời sống văn hoá kháng chiến được nâng cao, phát triển với phương
châm “kháng chiến hoá văn hoá”, “văn hoá hoá kháng chiến”.
Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến lên một bước mới, Trung ương Đảng chủ trương
phát động chiến tranh du kích rộng khắp nhằm chống lại các cuộc hành quân càn
quét, bình định của thực dân Pháp; xây dựng từng bước lực lượng vũ trang ba thứ lOMoARcPSD|50730876 11
quân gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, trong đó, lấy bộ
đội chủ lực làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc; tập dượt cho bộ đội
đánh vận động theo phương châm từ du kích chiến tiến lên vận động chiến, từ tác
chiến du kích tiến lên tác chiến tập trung; tích cực thực hiện kháng chiến toàn diện;
phát động phong trào thi đua ái quốc, kết hợp chặt chẽ giữa kháng chiến với kiến
quốc; đẩy mạnh hoạt động ngoại giao, vận động các nước 10
Trung Quốc, Liên Xô và một số nước dân chủ nhân dân ở Đông Nam Âu công nhận
và giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến của Việt Nam.
Chiến dich Biên giới Thu – Đông năm 1950
Trước yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến, tháng 6-1950, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới. Sau gần 1 tháng chiến đấu ở
vùng biên giới (từ ngày 16-9 đến ngày 14-10), Chiến dịch tiến công Biên giới Thu
Đông đã giành thắng lợi, căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố, nối liền với
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Chiến thắng Biên Giới Thu -Đông đã tạo ra
một bước ngoặt cơ bản cho cuộc kháng chiến, quyền chủ động chiến lược của quân
và dân ta trên chiến trường chính Bắc Bộ được khẳng định, cuộc kháng chiến chuyển
sang giai đoạn mới, giai đoạn phản công và tiến công, tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.
2.2. Đảng lãnh đạo đẩy mạnh kháng chiến về mọi mặt, tiến công chiến
lược kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1951 - 1954)
2.2.1. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng
Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản
Đông Dương họp tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, tiếp tục khẳng định và
phát triển hoàn thiện đường lối kháng chiến phù hợp với tình hình mới sau chiến
thắng Biên giới Thu - Đông năm 1950. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53
đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên.
Đại hội thông qua hai bản báo cáo quan trọng: lOMoARcPSD|50730876 12
“Báo cáo chính trị” do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiệm
của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh oanh liệt từ ngày ra đời, khẳng định
đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
Tổng Bí thương Trường Chinh trình bày bản báo cáo “Bàn về cách mạng Việt
Nam”, nêu rõ các nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích
phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế 11
độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo cáo Bàn về
cách mạng Việt Nam là một văn kiện quan trọng, bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển
lý luận của Đảng về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh
đạo, tiến hành trong điều kiện một nước thuộc địa - phong kiến. Đây là kim chỉ nam
cho những chủ trương, chính sách cụ thể, là phương hướng phấn đấu cho toàn Đảng, toàn dân.
Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở Việt Nam,
Lào, Campuchia mỗi nước một Đảng Mác – Lênin riêng, có cương lĩnh phù hợp với
đặc điểm phát triển của từng dân tộc. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định thành lập Đảng
Lao động Việt Nam và Đảng ra hoạt động công khai, đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo cuộc kháng chiến của Việt Nam.
Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới; quyết định xuất bản
báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, đòng chí Hồ Chí
Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội đải biểu lần thứ II là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình
lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta, là “Đại hội kháng chiến thắng lợi”. lOMoARcPSD|50730876 13
2.2.2. Tiếp tục phát triển thực lực kháng chiến, đẩy mạnh tiến công địch
2.2.2.1. Thực dân Pháp tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương
* Kế hoạch Đờ lát đơ Tátxinhi
Ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đờ lát đơ Tátxinhi là Tổng
Chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Dựa vào viện trợ
của Mỹ, Đờ lát đơ Tátxinhi đề ra kế hoạch mới nhằm kết thúc nhanh chiến tranh,
gồm 4 điểm chính: 1) Gấp rút tập trung binh lực xây dựng lực lượng cơ động chiến
lược và ra sức phát triển quân đội quốc gia của chính quyền Bảo Đại; (2) Xây dựng
tuyến phòng thủ boong ke bằng xi măng cốt sắt bao quanh đồng bằng Bắc Bộ để 12
đối phó với chủ lực của lực lượng kháng chiến; đánh vào đồng bằng và ngăn chặn
nguồn nhân lực, vật lực từ đồng bằng đưa lên vùng căn cứ; (3) Tập trung lực lượng
bình định vùng chiếm đóng, chủ yếu là khu vực đồng bằng Bắc Bộ, phá hoại vùng
tự do của cách mạng; (4) Tăng cường xin viện trợ của Mỹ để chuẩn bị mở cuộc tiến
công quy mô lớn, giành lại quyền chủ động chiến trường.
Kế hoạch Đờ lát đơ Tátxinhi đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở
Đông Dương lên quy mô lớn, làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, nhất là
vùng sau lưng địch trở nên khó khăn, phức tạp.
* Mỹ can thiêp vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương ̣
Từ tháng 5-1949, Mỹ từng bước can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược
Đông Dương. Ngày 23-12-1950, Mỹ kí với Pháp Hiệp đinh phòng thủ chung Đông
Dương. Đây là hiệp định viện trợ quân sự, kinh tế - tài chính của Mỹ cho
Pháp và tay sai, qua đó Mỹ từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương. Tháng 91951,
Mỹ kí với Bảo Đại Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt – Mỹ nhằm trực tiếp ràng buộc
Chính phủ Bảo Đại vào Mỹ.
Sau những hiệp định này, viện trợ của Mỹ chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong
ngân sách chiến tranh của Pháp ử Đông Dương: năm 1950: 52 tỷ phrăng, chiếm
19%; năm 1954: 555 tỷ phrăng, chiếm 78%. lOMoARcPSD|50730876 14
2.2.2.2. Kháng chiến phát triển về mọi măṭ * Về chính trị
Thực hiên Nghị quyết của Đại hộ i, từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951, Đại hộ
ị toàn quốc thống nhất măt trậ n Việ t Minh và Hộ i Liên Việ t thành mộ t mặ t trậ n
duỵ nhất, lấy tên là Măt trậ n Liên hiệ p quốc dân Việ t Naṃ (Măt trậ n Liên Việ t).
Đảng ̣ Lao đông Việ t Nam chính thức ra mắt trước đại biểu nhân dân tham dự Đại hộ
i.̣ Khối đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường thêm môt bước, làm
chỗ dựạ vững chắc cho chính quyền dân chủ nhân dân; trên cơ sở đó chính quyền
dân chủ nhân dân các cấp được kiên toàn, trở thành công cụ sắc bén và trung tâm
đoàn kếṭ toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc. 13
Ngày 11-3-1951, Măt trậ n Liên Việ t, Mặ t trậ n Khơme Ítxarắc, Mặ t trậ n
Làọ Itsxala họp Hôi nghị đại biểu để thành lậ p Liên minh nhân dân Việ t - Miên -
Làọ trên cơ sở tự nguyên, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau.
Liêṇ minh thành lâp đã tăng cường khối đoàn kết ba nước trong đấu tranh chống kẻ
thù ̣ chung, giáng đòn năng nề vào âm mưu “chia để trị” của kẻ thù và đặ t cơ
sở cho sự liên minh lâu dài giữa ba nước trong những giai đoạn về sau.
Để đông viên toàn dân kháng chiến, phong trào thi đua yêu nước ngày càng ̣
thấm sâu, lan rông trong các ngành, các giới, làm nảy nở nhiều đơn vị, cá nhân ưụ
tú. Ngày 1-5-1952, Đại hôi Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lầṇ thứ
nhất đã tổng kết, biểu dương thành tích của phong trào thi đua ái quốc5. * Về kinh tế
Với khẩu hiêu “Toàn dân canh tác”, “Toàn dân sản xuất lậ p công, đề
caọ chiến sĩ” được các tầng lớp nhân dân trong cả nước hăng hái thực hiên. Năm
1952,̣ Đảng, Chính phủ đề ra cuôc vậ n độ ng lao độ ng sản xuất và thực hành tiết
kiệ m.̣ Với tinh thần thi đua yêu nước, cuôc vậ n độ ng đã lôi cuốn mọi ngành, mọi
5 Đại hội bầu chọn 7 anh hùng: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm,
Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh. lOMoARcPSD|50730876 15
giớị tham gia. Đến năm 1953, vùng tự do và vùng căn cứ du kích từ Liên khu IV trở
ra sản xuất được 2.757.000 tấn thóc và 650.850 tấn hoa màu6.
Sản xuất thủ công nghiêp và công nghiệ p về cơ bản đáp ứng được những ̣ yêu
cầu về công cụ sản xuất và những măt hàng thiết yếu của đời sống. Từ năṃ 1951
đến năm 1953, sản xuất được 1.310 tấn vũ khí, đạn dược7, cung cấp tạm đủ cho bô
độ i về thuốc men, quân trang, quân dụng.̣
Đi đôi với viêc đẩy mạnh sản xuất, Đảng, Chính phủ đề ra những chính sácḥ
nhằm chấn chỉnh chế đô thuế khóa, xây dựng nền tài chính, ngân hàng, thương ̣
nghiêp. Trong năm 1951, Liên khu IV, chủ yếu là Thanh – Nghệ – Tĩnh thu được ̣ 14
161.714 tấn thóc thuế nông nghiêp ̣ 8. Ba tỉnh trở thành những địa phương đóng góp
chủ yếu về lương thực, đáp ứng yêu cầu của kháng chiến ở miền Bắc. Năm 1952,
thuế nông nghiêp thu được tại liên khu Việ t Bắc là 26.573 tấṇ 9. Kết quả sản xuất và
thu thuế đã giữ cho giá cả ở Viêt Nam thường xuyên ổn định. NHờ thực hiệ ṇ
chính sác thuế nông nghiêp, Nhà nước ta đã tậ p trung được mộ t khối lượng lớṇ
lương thực phục vụ kháng chiến, bảo đảm nuôi quân đánh giăc.̣
Trước năm 1950, chúng ta thu bảo đảm cho chi chỉ đạt trên 20%, thì đến năm
1951, thu chi đã thăng bằng, từ năm 1952, thu đã vượt trôi chị 10. Tháng 61951,
6 Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuôc Bộ Chính trị, ̣
Tổng kết cuôc kháng chiến chống thực dân
Pháp, thắng ̣ lợi và bài học, Nxb CTGQ, H, 1996,, tr.455
7 Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuôc Bộ Chính trị, ̣
Tổng kết cuôc kháng chiến chống thực dân
Pháp, thắng ̣ lợi và bài học, Nxb CTGQ, H, 1996,, tr.453 – vú khí, đạn dược do các xưởng quân giới từ Liên khu IV trở ra sản xuất. 8 Bô Quốc phòng, Việ n Lịch sử quân sự, ̣
Hâu phương chiến tranh nhân dân Việ t Nam (1945-
1975)̣ , NXb Quân đôi ̣ nhân dân, H, 1997, tr57. 9 Bô Quốc phòng, Việ n Lịch sử quân sự, ̣
Hâu phương chiến tranh nhân dân Việ t Nam (1945-
1975)̣ , NXb Quân đôị nhân dân, H, 1997, tr58.
10 Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuôc Bộ Chính trị, ̣
Tổng kết cuôc kháng chiến chống thực dân
Pháp, ̣ thắng lợi và bài học, Nxb CTGQ, H, 1996,, tr.457 lOMoARcPSD|50730876 16
Chính phủ ban hành Sắc lênh thành lậ p Ngân hàng quốc gia Việ t Nam đệ̉ phát hành
đồng bạc Viêt Nam mới. Ngành tài chính, ngân hàng cũng đã cố gắng ̣ đáp ứng được
nhu cầu của cuôc kháng chiến và đời sống nhân dân ở hậ u phương,̣ có tác dụng kích
thích sản xuất và góp phần đấu tranh với địch trên lĩnh vực mâụ dịch.
Để bồi dưỡng sức dân, nhất là nông dân, đầu năm 1953, Đảng và Chính phủ
quyết định phát đông quần chúng triệ t để giảm tô và cải cách ruộ ng đất ngay trong ̣
kháng chiến. Từ tháng 4 đến tháng 7-1954, ta đã thực hiên được 5 đợt giảm tô và 1̣
đợt cải cách ruông đất tại 53 xã thuộ c vùng tự do ở Thái Nguyên, Thanh Hóạ
11. Đến cuối năm 1953, tính từ Liên khu IV trở ra, cách mạng đã tạm cấp cho nông
dân hơn 184.343 ha ruông đất của thực dân và địa chủ, ruộ ng đất vắng chủ, ruộ ng ̣
đất bỏ hoang. Tính chung từ năm 1945 đến năm 1953, trên địa bàn các tỉnh từ Liên
khu IV trở ra đã có 302.840 ha ruông đất từ các nguồn khác nhau được tạm cấp,̣ tạm
giao cho nông dân. Như vây, đã giải quyết tới 58,3% trong tổng số 518.710 hạ ruông
đất thuộ c loại nàỵ 13. Ở Liên khu Viêt Bắc, Liên khu III, IV có 397.604 mẫụ 15
ruông được giảm tô 25%. Ở miền Tây Nam Bộ
, nhân dân đấu tranh với địa chủ ̣
buôc phải giảm tô 50-60%. Thắng lợi của việ
c thực hiệ n chính sách giảm tô,
chiạ cấp ruông đất đã góp phần cải thiệ n đáng kể đời sống của nông dân, tạo ra bước ̣
chuyển biến căn bản quan hê kinh tế ở nông thôn, độ ng viên nông dân hăng háị
tham gia kháng chiến, phát triển nông hôi và các đoàn thể quần chúng.̣
* Về văn hóa, giáo dục, y tế
11 Trước đó, ta đã tiến hành thí điểm ở 6 xã thuôc Đại Từ – Thái Nguyên (từ ngày 25/11/1953 đến ngày 30/3/1954).̣
13 Nguyễn Ngọc Minh (chủ biên), Kinh tế Viêt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi 1945-̣
1954, Nxb Khoa học xã hôi, H, tr 140 ̣
– Xem Học viên Chính tri quốc gia Hồ Chí Minh, Việ n Lich sử Đảng:
Lich sử ̣ Đảng Công sản Việ t Nam, tậ
p 1, quyền 2 (1945-1954̣ ), Nxb CTQG, H, 2018, tr 400. lOMoARcPSD|50730876 17
Tiếp tục công cuôc cải cách giáo dục (từ năm 1950), thực hiệ n theo
phương ̣ châm “phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất”, nhà trường
gắn với đời sống xã hôi. Đến năm 1952, phong trào bình dân học vụ đã giúp khoảng
14̣ triêu người thoát nạn mù chữ và đến tháng 9/1953, công tác bổ túc văn hóa đã có ̣
10.450 lớp học với 335.946 học viên. Từ năm 1951 đến năm 1953, ta đào tạo được
7.000 cán bô kĩ thuậ t. Riêng năm 1954, số học sinh cấp I có 1.068.260 em; cấp IỊ
có 57.500 em; cấp III có 4.482 em. Số sinh viên đại học và trung học chuyên nghiêp
là 4247 người; có 3.400 học sinh được gửi đi học ở nước ngoàị 12.
Văn nghê sĩ hăng hái thâm nhậ p mọi mặ t của cuộ c sống, chiến đấu và sảṇ
xuất, thực hiên lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Kháng chiến hóa văn hóa, văṇ
hóa hóa kháng chiến”. Xây dựng các phong trào văn nghê quần chúng, khai thác ̣ vốn
văn hóa, văn nghê dân tộ c… Từ năm 1953, cùng với ngành điệ n ảnh là các độ ị
chiếu bóng được thành lâp để phục vụ kháng chiến. Mộ t số bộ phim tài liệ u nhự
“Viêt Nam kháng chiến”, “Việ t Nam trên đường thắng lợi”, “Điệ n Biên Phủ”…̣
được xây dựng toàn bô hoặ c mộ t phần trong kháng chiến. Các tác phẩm văn hóa,̣
văn nghê phản ánh sinh độ ng cuộ c kháng chiến và con người kháng chiến, và lã vũ ̣
khí sắc bến trên măt trậ n tư tưởng, chính trị, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranḥ anh
dũng của nhân dân và bô độ i. Độ i ngũ cán bộ văn, nghệ sĩ được rèn luyệ ṇ trong
thực tiễn và được Đảng dùi dắt,giáo dục đã trưởng thành nhanh chóng và 16
tuyêt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phầṇ
vào thắng lợi chung của cuôc kháng chiến trường kỳ của dân tộ c.̣
Công tác vân độ ng vệ sinh phòng bệ nh, thực hiệ n đời sống mới, bài trừ mệ
tín dị đoan càng có tính chất quần chúng rông rãi. Cán bộ y tế và sinh viên được ̣ đào
12 Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuôc Bộ Chính trị, ̣
Tổng kết cuôc kháng chiến chống thực dân
Pháp, ̣ thắng lợi và bài học, Nxb CTGQ, H, 1996,, tr.459 lOMoARcPSD|50730876 18
tạo trong kháng chiến là nòng cốt trong các phong trào “ba sạch” và “bốn diêt”. Công
tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được coi trọng. Bệ nh việ n, bệ nḥ xá, trạm y
tế, cứu thương được xây dựng phục vụ nhân dân chiến đấu và sản xuất. * Về quân sự
Để giữ vững quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ và
đẩy địch lùi sâu vào thế bị động đối phó, trong thời gian từ cuối năm 1950 đến giữa
năm 1951, quân ta liên tục mở 3 chiến dịch: chiến dịch Trần Hưng Đạo (chiến dịch
Trung du), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (chiến dịch đường số 18); chiến dịch Quang
Trung (chiến dịch Hà Nam Ninh). Đây là các chiến dịch tiến công có quy mô lớn,
đánh vào vùng trung du và đồng bằng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Nhưng kết quả
hạn chế vì địa bàn không thuận lợi cho lực lượng kháng chiến về triển khai lực lượng,
về cách đánh và bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, có lợi cho địch trong việc phát huy ưu
thế về binh khí và kỹ thuật.
Rút kinh nghiêm sau 3 trậ n đánh ở trung du và đồng bằng, từ cuối năṃ 1951,
với phương châm chiến lược “đánh chắc thắng” và phương hướng chiến lược “tránh
chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”, ta chủ trương mở những chiến dịch tiếp theo ở địa bàn lợi
thế của ta là rừng núi.
Nhằm tiêu diêt sinh lực địch, phá tan kế hoạch bình định của chúng ở đồng ̣
bằng Bắc Bô và đẩy mạnh chiến tranh du kích, ta mở chiến dịch phản công và tiếṇ
công địch ở Hòa Bình, Tây Bắc và giành thắng lợi (cuối năm 1951 đến cuối năm
1952); đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta cùng Chính phủ kháng
chiến Lào và Măt trậ n Ítxala quyết định phối hợp mở chiến dịch ̣ Thượng Lào
nhằm tiêu hao sinh lực địch, giải phóng đất đai, đẩy mạnh cuôc kháng chiến của nhâṇ 17
dân Lào. Kết quả, liên quân Lào – Viêt đã giải phóng được toàn bộ tỉnh Sầm Nưa,̣
môt phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxali với trên 30 vạn dân.̣ lOMoARcPSD|50730876 19
Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bô, từ năm 1951 đến năm 1953, ở các ̣
chiến trường Trung Bô và Nam Bộ , quân dân ta đã tậ n dụng các hình thức chiếṇ
tranh du kích tiêu diêt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều tổ chức tề ngụy,̣
cùng nhiều cơ sở kinh tế của địch.
2.2.3. Cuôc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 và chiến dịcḥ
Điên Biên Phủ năm 1954̣
2.2.3.1. Âm mưu mới của Pháp và Mỹ ở Đông Dương: kế hoạch Nava
Trước tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mỹ càng can thiệp sâu vào cuộc
chiến tranh ở Đông Dương, ép Pháp kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn
bị thay thế Pháp chiếm Đông Dương khi có điều kiện.
Để cứu vãn tình thế, tháng 5-1953, Chính phủ Pháp được sự thỏa thuận của Mỹ,
cử tướng Ăngri Nava, Tham mưu trưởng lục quân của khối Bắc Đại Tây Dương, làm
Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương.
Nava đề ra kế hoạch quân sự với hy vọng trong 18 tháng giành lấy một thắng
lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
Kế hoạch Nava được chia thành 2 bước:
Bước 1: từ Thu Đông năm 1953 - Xuân năm 1954, giữ thế phòng ngự chiến
lược, tránh quyết chiến ở phía bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở phía nam nhằm
chiếm đóng vùng tự do của lực lượng kháng chiến ở Khu 5 (Nam Trung Bộ) và ở Hậu Giang (Nam Bộ).
Bước 2: từ thu- đông năm 1954, tập trung toàn bộ lực lượng tác chiến trên chiến
trường phía bắc, giành thắng lợi quân sự quyết định để buộc lực lượng kháng chiến
phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho Pháp, nhằm kết thúc chiến tranh. 18 lOMoARcPSD|50730876 20
Thực hiện kế hoạch trên, tướng Nava và Bộ Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp tập trung một lực lượng cơ động gồm 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ13, mở
những cuộc càn quét dữ dội ở vùng chiếm đóng; tiến công ra Ninh Bình, Nho Quan,
uy hiếp Thanh Hóa; nhảy dù xuống Lạng Sơn, uy hiếp Phú Thọ; đồng thời, chúng
cho thổ phỉ quấy rối Tây Bắc. Sau đó, cho quân nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ
nhằm ngăn chặn quân chủ lực kháng chiến tiến lên giải phóng thị xã Lai Châu và
chặn đường quân kháng chiến tiến sang giải phóng Thượng Lào; xây dựng Điện Biên
Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh thu hút chủ lực của lực lượng kháng chiến
lên giao chiến để tiêu diệt, giành một thắng lợi quân sự quyết định để đàm phán trên
thế mạnh kết thúc chiến tranh có lợi cho Pháp
2.2.3.2. Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953-1954
Cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp mở rộng để bàn và
triển khai kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953-1954.
Bộ Chính trị quyết định những vấn đề chủ yếu:
Về phương hướng chiến lược: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công
lớn vào những hướng quan trọng mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận
sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải bị động phân tán lực lượng để đối
phó với lực lượng kháng chiến trên những điểm xung yếu mà chúng không bỏ, tạo
điều kiện thuận lợi nhất tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch.
Về phương châm tác chiến chiến lược: “tích cực, chủ động, cơ đông, linḥ hoạt”,
“đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thì kiên quyết không đánh”.
Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, trong Đông - Xuân 1953-1954, lực
lượng kháng chiến mở một loạt chiến dịch tiến công ở hầu khắp chiến trường Đông Dương:
13 Trong tổng số 84 tiểu đoàn toàn Đông Dương