lOMoARcPSD| 61096931
GIÁO TRÌNH
LUẬT KINH TẾ
MỤC LỤC
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ 4
1. Khái niệm Luật kinh tế 4
2. Chủ thể của Luật Kinh tế 5
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường 13
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT
KINH TẾ 18
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế 18
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế 21
III. NGUỒN CỦA LUẬT KINH TẾ 22
1. Các văn bản quy phạm pháp luật 22
2. Các Điều ước quốc tế 23
3. Các tập quán 24
4. Áp dụng án lệ 25
CÂU HỎI ÔN TẬP 25
CHƯƠNG II. ĐỊA VỊ PHÁP CỦA DOANH NGHIỆP 26
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP 26
1. Lược sử pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam 26
2. Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp 29
3. Phân loại doanh nghiệp 32
4. Thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp và tạm ngừng kinh doanh 32
5. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp 44
II. CÁC LOẠI DOANH NGHIỆP 45
1. Công ty cổ phần 45
2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên 69
3. Công ty TNHH một thành viên. 80
4. Công ty hợp danh 87
5. Doanh nghiệp tư nhân 95
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 98
CHƯƠNG III. ĐỊA VỊ PHÁP CỦA HỢP TÁC 99
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC 99
1. Khái niệm hợp tác xã 99
2. Đặc điểm của hợp tác xã 100
II. THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ HỢP TÁC XÃ 102
1. Thành lập hợp tác xã 102
2. Tổ chức lại hợp tác xã 106
3. Giải thể hợp tác xã 107
III. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỢP TÁC XÃ 109
1. Quyền của hợp tác xã 109
2. Nghĩa vụ của hợp tác xã 109
lOMoARcPSD| 61096931
IV. TỔ CHỨC QUẢN LÝ HỢP TÁC XÃ 110
1. Đại hội thành viên 110
2. Hội đồng quản trị 112
3. Giám đốc/Tổng Giám đốc 113
4. Ban kiểm soát, kiểm soát viên 114
V. THÀNH VIÊN HỢP TÁC XÃ 115
1. Điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã 115
2. Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã 116
3. Chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã 117
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 119
CHƯƠNG IV: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘ KINH DOANH 120
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘ KINH DOANH 120
1. Lược sử phát triển hộ kinh doanh 120
2. Khái niệm, đặc điểm hộ kinh doanh 121
II. ĐĂNG KÝ KINH DOANH HỘ KINH DOANH 123
1. Điều kiện đăng ký kinh doanh 123
2. Tạm ngừng hoạt động kinh doanh hộ kinh doanh 130
3. Chấm dứt hoạt động kinh doanh hộ kinh doanh 130
IV. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘ KINH DOANH 133
1. Quyền của hộ kinh doanh 133
2. Nghĩa vụ của hộ kinh doanh 134
CHƯƠNG V. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 136
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI 136
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI 136
1. Khái niệm 136
2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại 136
II. CÁC HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 136
1. Trọng tài thương mại 136
2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân 156
CHƯƠNG VI. PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN 180
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 180
1. Khái niệm phá sản và pháp luật về phá sản 180
2. Phân loại phá sản 181
3. Đối tượng áp dụng của Luật Phá sản 182
4. So sánh phá sản với giải thể 183
5. Tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản 184
II. THỦ TỤC PHÁ SẢN 186
1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 187
2. Mở thủ tục phá sản 195
3. Phục hồi kinh doanh 205
4. Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản 210
5. Thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản 212
lOMoARcPSD| 61096931
CÂU HỎI ÔN TẬP 213
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
2. TCKDTM: Tranh chấp kinh doanh thương mại
3. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
4. TAND: Tòa án nhân dân
5. UBND: Ủy ban nhân dân
6. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
lOMoARcPSD| 61096931
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LUẬT KINH TẾ
Mục tiêu của Chương I
Mục tiêu của Chương I yêu cầu người học phải nắm được khái quát chung về Luật
Kinh tế như khái niệm, chủ thể, vai trò của Luật Kinh tế trong nền kinh tế thị trường; nắm
được đối tượng, phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế cũng
như nguồn của Luật Kinh tế . Vận dụng được các quy định của pháp luật để giải quyết
các tình huống phát sinh trên thực tế.
Những nội dung chính của Chương I
- Khái quát chung về Luật Kinh tế
- Đối tượng, phạm vi điều chỉnh phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh
tế- Nguồn của Luật Kinh tế
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ
1. Khái niệm Luật kinh tế
Hiện nay, Nhà nước Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường, định ớng hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo
[1]
. Như vậy, chủ thể kinh doanh không chỉ là các tổ chức kinh tế mà chủ sở
hữu là Nhà nước mà còn có nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác cùng tham gia
kinh doanh bình đẳng. Các chủ thể kinh doanh được tự do chọn lựa ngành nghề pháp
luật không cấm để tiến hành kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Do đó, vai trò điều chỉnh của pháp luật nói chung lĩnh vực pháp luật kinh tế nói
riêng đối với các hoạt động kinh tế hiện nay bao gồm nhiều nội dung nhấn mạnh đến các
quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh khác nhau trong nền kinh tế thị trường.
Nếu nhấn mạnh vào khía cạnh điều chỉnh này, trong hoạt động nghiên cứu xuất hiện quan
điểm gọi Luật kinh tế là Luật kinh doanh và cho rằng Luật kinh doanh là ngành luật trong
hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
các quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trong quá trình tổ chức
và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, còn nhiều cách tiếp cận
đối với vấn đề pháp luật kinh tế. Ngoài khái niệm về Luật kinh doanh trên, có một số
chuyên gia còn gọi Luật thương mại. Khái niệm này xuất phát từ một khía cạnh nhất
định của nền kinh tế thị trường, đó là tập trung vào tiếp cận đến các hành vi thương mại cụ
thể như mua bán, trao đổi hàng hóa, đại lý, gửi... Với cách tiếp cận này, ưu điểm quan
trọng nhất liệt kê chi tiết các hoạt động thương mại để các chủ thể kinh doanh lựa chọn
khi tiến hành kinh doanh. Nhưng cùng với đó, cách tiếp cận này sẽ làm hạn chế những ý
tưởng kinh doanh mới, đặc biệt là hạn chế sự hình thành những hoạt động kinh doanh vừa
không trái pháp luật vừa đem lại lợi ích cho nhân toàn hội hoặc không bao quát
hết các hoạt động kinh doanh mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Quy luật khách
quan tất yếu khi hội phát triển đến một trình độ nhất định sẽ kéo theo các hoạt
động kinh doanh mới, khi đó pháp luật sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời hoặc không theo
kịp để điều chỉnh phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Tóm lại, thể hiện với các tên gọi khác nhau thì ngành luật này cũng đều hướng
đến điều chỉnh các quan hệ hội phát sinh trong quá trình kinh doanh của các chủ thể
lOMoARcPSD| 61096931
kinh doanh quan hệ hội phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh đó với các quan
quản lý nhà nước. Vì vậy, với cách tiếp cận từ đối tượng điều chỉnh các quan hệ xã hội của
ngành luật này nên đặt tên gọi ngành Luật kinh tế được coi đầy đủ phù hợp. Phương
pháp tiếp cận này vừa đảm bảo bao quát hết các hoạt động của các chủ thể kinh doanh với
nhau trong toàn bộ quá trình kinh doanh, vừa chỉ ra các quyền và nghĩa vụ mà các chủ thể
này trong mối quan hệ với chủ thể đặc biệt là nhà nước. Trên cơ sở khung lý luận đó, giáo
trình này đưa ra khái niệm: Luật kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức, quản lý và chấm dứt các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Theo đó, nội dung của Luật kinh tế
trong giáo trình này tập trung nghiên cứu các chế định pháp lý về kinh doanh như sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc
hình thành và xác lập địa vị pháp lý nói chung của các chủ thể kinh doanh đó là:
- Doanh nghiệp gồm: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH),công ty TNHH 1 thành viên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
- Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã
- Hộ kinh doanh
Thứ hai, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc
giải quyết tranh chấp trong kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh như: Quy định về việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh tại trọng tài thương mại hay quy định về việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh tại tòa án nhân dân.
Thứ ba, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hội diễn ra trong quá
trình phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
2. Chủ thể của Luật Kinh tế
2.1. Chủ thể kinh doanh
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chủ thể kinh doanh
Để hiểu thế nào chủ thể kinh doanh, chúng ta cần tìm hiểu kinh doanh gì?
Theo từ điển tiếng Việt thì “kinh doanh” được hiểu “tổ chức việc sản xuất, buôn bán,
dịch vụ nhằm mục đích sinh lời”
[2]
. Dưới góc độ pháp lý thì “Kinh doanh là việc thực hiện
liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích m kiếm lợi nhuận.”
[3]
. Tuy
nhiên, thực tế còn có những chủ thể chỉ thực hiện các hoạt đông kinh doanh đơn lẻ, không
thường xuyên như môi giới bất động sản, chứng khoán, vấn... nên dưới góc độ pháp
cần được tham chiếu đến pháp luật chuyên ngành khác.
Với khái niệm “kinh doanh” rộng như vậy ta có thể hiểu chủ thể kinh doanh là bất
kỳ nhân, tổ chức, đơn vị nào theo quy định của pháp luật thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực
hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Chủ thể kinh doanh được phân biệt với các tổ chức, cá nhân khác bởi các đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh phải được thành lập hợp pháp hoặc được công nhận.
lOMoARcPSD| 61096931
Điều đó có nghĩa là chủ thể kinh doanh phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ra quyết định thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. Với đặc điểm này, chúng ta
khẳng định đây là những chủ thể kinh doanh hợp pháp, chủ thể này được kinh doanh tất cả
những ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì những chủ thể kinh doanh phải đăng
thành lập như: Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hkinh doanh nhưng
cũng những chủ thể kinh doanh thể đăng hoặc không phải đăng kinh doanh
như hộ kinh doanh hoặc nhân kinh doanh những ngành nghề pháp luật quy định
không phải đăng ký. Các chủ thể không phải đăng kinh doanh chyếu thực hiện hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực nông, m, thủy sản làm muối theo quy định của pháp
luật đối với các hộ kinh doanh “tự sản tự tiêuhộ kinh doanh thu nhập thấp, căn cứ
quy định tại từng địa phương. Đối với cá nhân hoạt động thương mại mà không phải đăng
kinh doanh được quy định tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
16/3/2007 về nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải
đăng kinh doanh. Theo đó, nhân hoạt động thương mại phải tuân thủ pháp luật về
thuế, giá, phí và lệ phí liên quan đến hàng hóa, dịch vụ kinh doanh. Trường hợp kinh doanh
thực phẩm dịch vụ ăn uống, nhân hoạt động thương mại phải bảo đảm đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với việc kinh doanh loại
hàng hóa, dịch vụ này. Nghiêm cấm nhân hoạt động thương mại gian lận trong cân,
đong, đo đếm và cung cấp các thông tin sai lệch, dối trá hoặc thông tin dễ gây hiểu lầm về
chất lượng của hàng hóa, dịch vụ hoặc bản chất của hoạt động thương mại mình thực
hiện...
Những chủ thể là cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực
hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc
đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và
không gọi “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại. Cụ thể bao gồm những
cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây:
a) Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa điểm
cốđịnh (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách
báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các sản phẩm này
theo quy định của pháp luật để bán rong;
b) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không
địa điểm cố định;
c) Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có
hoặc
không có địa điểm cố định;
d) Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến
để
bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ;
lOMoARcPSD| 61096931
đ) Thực hiện c dịch vụ: đánh giày, bán số, chữa khóa, sửa chữa xe, trông giữ
xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh các dịch vụ khác hoặc không địa điểm cố
định;
e) Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng
kinh doanh khác.
[4]
Thứ hai, chủ thể kinh doanh phải có tài sản đưa vào kinh doanh.
Đây sở vật chất không thể thiếu để chủ thể này tiến hành hoạt động kinh doanh
theo quan điểm truyền thống. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ giá quyền tài sản
[5]
được ghi nhận bởi pháp luật dân sự, luật kế toán và các luật khác có liên quan.
Nhà nước bảo vệ quyền của chủ thể kinh doanh về tài sản của mình. Nhà nước công
nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, quyền và lợi ích hợp pháp khác
của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp
[6]
.
Tài sản vốn đầu hợp pháp của doanh nghiệp chủ sở hữu doanh nghiệp không
bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trường hợp thật cần thiết,
Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của doanh nghiệp thì được thanh toán, bồi
thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản. Việc thanh toán, bồi
thường phải bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp không phân biệt đối xử giữa các loại hình
doanh nghiệp.
[7]
Thứ ba, chủ thể kinh doanh phải có thẩm quyền kinh tế.
Thẩm quyền kinh tế tổng thể các quyền nghĩa vụ của một chủ thể được nhà
nước xác nhận trên cơ sở pháp luật trên thực tế. Thẩm quyền kinh tế của một chủ thể
luật kinh tế luôn phải tương ứng với chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của nó.
Như vậy, có thể thấy thẩm quyền kinh tế là giới hạn pháp trong đó các chủ thể
của Luật kinh tế được hành động hoặc phải hành động hoặc không được phép hành động.
Thẩm quyền kinh tế trở thành cơ sở pháp lý để các chủ thể này thực hiện các hành vi pháp
nhằm tạo ra các quyền nghĩa vcụ thể cho mình. Mỗi chủ thể kinh doanh có thẩm
quyền rộng, hẹp khác nhau tương ứng với những chức năng, nhiệm vụ phạm vi hoạt
động của mỗi chủ thể kinh doanh. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định mọi cá nhân
quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm
[8]
là điều kiện cần,
tuy nhiên để thực hiện các quyền này trên thực tế, các chủ thể kinh doanh đủ năng lực
chủ thể n phải thực hiện những nh vi nhất định như đăng kinh doanh để tiến hành
một hoạt động kinh doanh cụ thể nào đó để xác lập thẩm quyền về kinh tế. Một khi đã
thẩm quyền về kinh tế, các chủ thể đều có quyền bình đẳng với nhau trong hoạt động kinh
doanh, tố tụng, hành chính và được pháp luật bảo hộ.
Như vậy, đặc điểm chính của thẩm quyền kinh tế là mang tính pháp lý. Để từ đó các
chủ thể kinh doanh thực hiện các hành vi pháp nhằm tạo ra cho mình các quyền và nghĩa
vụ, đồng thời định rõ giới hạn trong đó các chủ thể kinh doanh được thực hiện. Thẩm
quyền kinh tế của các chủ thể kinh doanh được quy định trong văn bản pháp luật hiện hành
phát sinh trong khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua quyết định
cá nhân trên cơ sở các quy phạm pháp luật.
lOMoARcPSD| 61096931
Thứ tư, chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh.
Hành vi kinh doanh dưới góc độ pháp lý là c hành vi do chủ thể kinh doanh thực
hiện không trái với pháp luật hiện hành, hay nói cách khác các hành vi kinh doanh
pháp luật không cấm hoặc bị hạn chế (kinh doanh có điều kiện). Pháp luật hiện hành không
liệt những hàng vi kinh doanh nào được phép chỉ quy định những hành vi kinh
doanh nào bị cấm hoặc kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật.
Để đủ điều kiện thực hiện các hành vi kinh doanh được liệt trong danh mục ngành
nghề kinh doanh điều kiện, các chủ thể buộc phải đáp ứng các điều kiện đã được công
bố trước trong các quy định của pháp luật đầu . Khi thực hiện hành vi kinh doanh, c
chủ thể kinh doanh thực hiện một cách độc lập, nhân danh mình, vì lợi ích của chính mình
tự chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh đó. Khi thực hiện hành vi kinh doanh, chủ
thể kinh doanh không bị chi phối bởi ý chí của các chủ thể khác mà được quyết định bởi ý
chí của chính chủ thể kinh doanh.
Đặc điểm quan trọng khi các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh
mang tính chuyên nghiệp, liên tục nhằm tạo ra thu nhập. Ngoài ra, hành vi kinh doanh
của chủ thể này phổ biến được diễn ra trên thị trường nhất định. Một số nh vi sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ sẽ không được coi là hành vi kinh doanh nếu chúng không diễn
ra trên thị trường hợp pháp.
Mục tiêu trực tiếp chủ yếu của chủ thể kinh doanh khi thực hiện các hoạt động
kinh doanh là để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, ở một giai đoạn
hay thời điểm nhất định, một số chủ thể có thể thực hiện các hoạt động nhằm các mục tiêu
hội, xây dựng thương hiệu... chưa mục đích lợi nhuận nhưng nếu hành vi đó không
phải mục tiêu bản thì các chủ thể này vẫn được coi chủ thể của hoạt động kinh
doanh.
Với các đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy kinh doanh hiểu theo nghĩa chung nhất
là hoạt động mang tính nghề nghiệp, chủ thể kinh doanh đã tham gia vào sự phân công lao
động hội; các chủ thể này tiến hành hoạt động kinh doanh mang tính liên tục mang
lại thu nhập cho chính chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh.
2.1.2. Phân loại chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, chủ thể kinh doanh rất phong phú đa dạng. Việc
phân loại chúng cần thiết để xác lập chế điều chỉnh pháp luật phù hợp. Các tiêu chí
phân loại chủ thể kinh doanh được nhìn nhận nhiều phương diện góc độ khác nhau.
Các tiêu chí khác nhau có thể được tiếp cận từ mỗi ngành nghiên cứu khoa học khác nhau.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, các tiêu chí để phân loại gồm:
Thứ nhất, dựa vào nhóm nguồn luật điều chỉnh hình thức pháp lý của chủ thể
kinh doanh, chủ thể kinh doanh được phân loại thành:
Các chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp bao gồm các loại hình
sau đây
[9]
: Công ty cổ phần; công ty TNHH (Công ty TNHH hai thành viên trở lên Công
ty TNHH 1 thành viên); công ty hợp danh doanh nghiệp nhân; nhóm công ty. Bên
cạnh đó, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng những quy định cụ thvề Doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp xã hội.
lOMoARcPSD| 61096931
Chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Hợp tác xã bao gồm: Hợp tác xã và liên
hiệp hợp tác xã.
Hộ kinh doanh đăng kinh doanh Hộ kinh doanh, nhân hoạt động kinh
doanh một cách độc lập, liên tục, không phải đăng kinh doanh (gọi chung Hộ kinh
doanh).
Thứ hai, dựa vào cách pháp nhân của chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh
được chia thành pháp nhân và không có tư cách pháp nhân
Cơ sở quan trọng để xác định một tổ chức có được coi là pháp nhân hay không hiện
nay theo khái niệm được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015
[10]
. Theo đó, một tổ chức
được công nhận pháp nhân khi đủ các điều kiện sau: (1) Được thành lập hợp pháp;
(2) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (3) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản đó; (4) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách
độc lập. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, các chủ thể kinh doanh tư cách
pháp nhân gồm: Công ty cổ phần, Công ty TNHH hai thành viên trở lên, Công ty TNHH 1
thành viên, Công ty hợp danh. Theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012 thì cả Hợp tác xã
và liên hiệp Hợp tác xã đều có tư cách pháp nhân.
Các chủ thể không cách pháp nhân như: Hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhân.
Ngoài việc không thỏa mãn bốn điều kiện trên được pháp luật chuyên ngành quy định
không cách pháp nhân, các chủ thể thuộc nhóm này đặc điểm tương đối giống
nhau tchức đơn giản, quy nhỏ chịu trách nhiệm hạn vcác hoạt động kinh
doanh. Các chủ thể hộ kinh doanh doanh nghiệp nhân phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ tài sản của hộ kinh doanh, doanh nghiệp
nhân, kể cả tài sản không đưa vào kinh doanh.
Thứ ba, dựa vào phạm vi trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, chủ thể kinh doanh
được chia thành chủ thể kinh doanh có trách nhiệm vô hạn và chủ thể kinh doanh có
TNHH.
Trách nhiệm vô hạn hay TNHH là tính chất của chế độ bảo đảm tài sản của các chủ
thể kinh doanh khi các chủ thể này tham gia các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, trách nhiệm
này chỉ đặt ra khi các chủ thể kinh doanh khi làm thủ tục phá sản hoặc trong một số trường
hợp nhất định đối với thành viên tham gia với tư cách là chủ thể độc lập.
Trách nhiệm hạn được hiểu sự chịu trách nhiệm đến cùng về tài sản của chủ
thể kinh doanh khi chủ thể này phá sản. Điều đó nghĩa là, khi tài sản đưa vào kinh doanh
của chủ thể kinh doanh không đủ để thanh toán hết các khoản nợ nghĩa vụ tài sản của
chủ thể kinh doanh thì tài sản không đưa vào kinh doanh của riêng họ cũng được đưa ra
thanh toán cho các chủ nợ. TNHH được hiểu là sự giới hạn trả nợ của một số chủ thể kinh
doanh (cũng như giới hạn sự trả nợ của nhà đầu tư). Điều đó có thể hiểu rằng, chủ thể kinh
doanh chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của mình tương
ứng với số tài sản được đưa vào kinh doanh chủ thể còn lại trong trường hợp bị tuyên
bố phá sản. Điều này cũng đồng nghĩa với quan điểm trong quá trình kinh doanh các chủ
thể phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
Nội dung này còn liên quan đến mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với thành viên
của nó. Theo đó, nếu chủ thể kinh doanh pháp nhân, thì pháp nhân sẽ không chịu trách
lOMoARcPSD| 61096931
nhiệm thay cho thành viên đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện không
nhân danh pháp nhân, còn thành viên tkhông chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện
[11]
. Mối quan hệ về chế độ
trách nhiệm còn được thể hiện rõcác quy định đối với các loại hình doanh nghiệp trong
hoạt động kinh doanh Luật Doanh nghiệp năm 2020. Cụ thể, thành viên công ty TNHH
hay cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong vi số vốn cam kết góp hoặc đã góp vào doanh nghiệp. Như
vậy, thành viên của hai chủ thể kinh doanh trên (gọi chung là doanh nghiệp) đương nhiên
được giải phóng khỏi trách nhiệm tài sản vô hạn khi hoàn thành nghĩa vụ góp vốn. TNHH
hay trách nhiệm vô hạn một khi được đề cập phải xem xét đến không chỉ là phạm vi trách
nhiệm của chủ thể kinh doanh mà còn chỉ rõ phạm vi trách nhiệm của các thành viên hình
thành nên chủ thể kinh doanh đó.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối với hợp tác xã, công ty cổ phần và công
ty TNHH, thành viên chịu TNHH trong phạm vi phần vốn góp của mình, doanh nghiệp
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản đang sở hữu trong quá trình kinh doanh hoặc còn lại
của mình khi phá sản. dụ, công ty TNHH một thành viên thì chủ sở hữu công ty chịu
trách nhiệm về các khoản nợ nghĩa vụ tài sản khác của ng ty trong phạm vi số vốn
điều lệ của công ty. Các chủ thể kinh doanh còn lại công ty hợp danh, doanh nghiệp
nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và cá nhân là thành viên hợp
danh hoặc chủ doanh nghiệp nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, cả
tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản không đưa vào kinh doanh; Thành viên hợp danh của
công ty hợp danh chủ doanh nghiệp nhân, chủ hộ kinh doanh cũng chế độ trách
nhiệm vô hạn chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của hộ kinh
doanh mà nó tham gia hoặc thành lập.
2.2. Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
Quản nhà nước về kinh tế một trong các hoạt động quản nhà nước. Do đó,
các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cũng chính là hệ thống cơ quan quản lý nhà nước.
Theo quy định tại Điều 215 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì: Chính phủ thống nhất quản
nhà nước đối với doanh nghiệp; Bộ, quan ngang Bộ chịu trách nhiệm trước Chính
phủ về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công trong quản nhà nước đối với doanh
nghiệp; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản nhà nước đối với doanh nghiệp trong
phạm vi địa phương.
[12]
Căn cứ vào đó việc phân loại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế chủ yếu dựa
trên các tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thẩm quyền hành chính - kinh tế, thể chia thành: quan
quản nhà nước về kinh tế thẩm quyền chung (Chính phủ, UBND các cấp); quan
quản lý nhà nước thẩm quyền riêng đối với các ngành kinh tế (Các Bộ, quan ngang
Bộ quản lý chuyên ngành,...) quan quản nhà nước tổng hợp theo từng lĩnh vực (Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,...).
Thứ hai, căn cứ vào vị trí trong bộ máy quản nhà nước, thể chia thành: Cơ
quan hành chính - kinh tế ở Trung ương và cơ quan hành chính - kinh tế ở địa phương.
lOMoARcPSD| 61096931
Đặc biệt, trong lĩnh vực quản về kinh tế, cơ quan chuyên trách quản về đăng
ký kinh doanh gọi là cơ quan đăng ký kinh doanh. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng
kinh doanh được quy định tại Khoản 1, Điều 216, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bao
gồm:
- Giải quyết việc đăng doanh nghiệp cấp Giấy chứng nhận đăng
doanhnghiệp theo quy định của pháp luật;
- Phối hợp xây dựng, quản Hệ thống thông tin quốc gia về đăng
doanhnghiệp; công khai, cung cấp thông tin cho quan nhà ớc, tchức cá nhân
yêu cầu theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu doanh nghiệp báo o về việc tuân thủ quy định của Luật này khi
xétthấy cần thiết; đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp;
- Trực tiếp hoặc đề nghị quan nhà nước thẩm quyền kiểm tra, giám
sátdoanh nghiệp theo nội dung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp;
- Chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ đăng doanh nghiệp, không
chịutrách nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước sau khi đăng doanh
nghiệp;
- Xử vi phạm quy định của pháp luật về đăng doanh nghiệp; thu hồi
Giấychứng nhận đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo
quy định của Luật này;
- Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này quy định khác
củapháp luật có liên quan.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính Phủ thì quan
đăng kinh doanh được tổ chức tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh) và ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), bao gồm: cấp tỉnh: Phòng Đăng kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch Đầu
(sau đây gọi chung Phòng Đăng kinh doanh); Phòng Đăng kinh doanh thể tổ
chức các điểm để tiếp nhận hồ sơ trả kết quả thuộc Phòng Đăng kinh doanh tại các
địa điểm khác nhau trên địa bàn cấp tỉnh; Ở cấp huyện: Phòng Tài chính - Kế hoạch thuộc
Ủy ban nhân n cấp huyện (sau đây gọi chung quan đăng kinh doanh cấp huyện).
Cũng theo quy định tài Điều này, Cơ quan đăng ký kinh doanh cói khoản con
dấu riêng.
[13]
Bên cạnh đó, Chương II, Nghị định này cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền
hạn của quan đăng ký kinh doanh quản lý nhà nước về đăng ký doanh nghiệp, đăng
ký hộ kinh doanh.
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
3.1. Luật kinh tế cụ thể hoá đường lối của Đảng
Kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới,
tuy nhiên, thời điểm này Đảng chưa đề cập tới phát triển nền kinh tế thị trường. Về
cấu kinh tế, đã bắt đầu chú ý tới việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho
phép khuyến khích phát triển thành phần kinh tế nhân, thể đối với những ngành
nghề, lĩnh vực nhất định. Về cơ chế quản lý kinh tế, Đảng chỉ rõ, việc bố trí lại cơ cấu kinh
lOMoARcPSD| 61096931
tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp
[14]
. Để cụ thể hóa đường lối chính sách của của Đảng, đến năm
1990, Luật Doanh nghiệp nhân được ban hành. Ngay phần đầu của đạo luật này đã tuyên
bố một các ràng rằng “Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, khuyến khích việc đầu tư kinh doanh, bảo hộ lợi ích hợp pháp của chủ doanh
nghiệp nhân; tăng cường hiệu lực quản Nhà nước đối với các hoạt động kinh
doanh”
[15]
. Luật này quy định công dân Việt Nam đủ 18 tuổi quyền thành lập doanh
nghiệp tư nhân và Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư
nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp nhân với các doanh
nghiệp khác tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh. Như vậy, trong khuôn khổ pháp
luật, chủ doanh nghiệp nhân quyền tự do kinh doanh chđộng trong mọi hoạt
động kinh doanh.
Đến Đại hội Đảng IX năm 2001, Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
hội
[16]
. Theo đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo chế thị trường, sự quản của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn được hiểu có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà ớc giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Các thành phần kinh
tế nói trên thực hiện kinh doanh theo pháp luật đều được khuyến khích phát triển trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh pháp luật không cấm. Đồng thời, Nhà ớc
quản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương
pháp quản của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát
huy mặt ch cực, hạn chế khắc phục mặt tiêu cực của chế thị trường, bảo vệ lợi ích
của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Để cụ thể đường lối đổi mới trên, ở thời kỳ
này đã có những đạo luật quan trọng tác động và làm cơ sở cho các chủ thể kinh doanh tạo
lập, xác định hàng lang pháp lý cho mình phải kể đến như: Luật Doanh nghiệp 1999, Luật
Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu2005, Luật Đầu2014, Luật
Thương mại 2005; Luật Cạnh tranh 2004, Luật Phá sản 2004, Luật Phá sản 2014, Luật Hợp
tác m 2012…. Các đạo luật trên đã góp phần quan trọng trong quản nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh.
Đại hội Đảng XII năm 2016 của Đảng tiếp tục thống nhất nhận thức hơn về nội
hàm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
[17]
. Luật kinh tế tiếp tục là công cụ quản lý kinh
tế quan trọng của Nớc, thực hiện chính sách, chủ trương cải cách chủ trương đổi
mới kinh tế của Đảng. Pháp luật về kinh tế đã ghi nhận và thể chế hóa các chính sách, chủ
lOMoARcPSD| 61096931
trương của Đảng thành các quy định pháp luật, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho
các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường như
mong muốn của ĐảngNhà nước. 3.2. Luật kinh tế tạo hành lang pháp lý cho các chủ
thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, để các chủ thể yên tâm đầu tư
sản xuất kinh doanh lâu dài, một yêu cầu cơ bản là các hoạt động kinh doanh đó phải được
đảm bảo về mặt pháp lý. Xuất phát từ chức năng quản kinh tế của nhà nước, pháp luật
kinh tế đã tạo ra hành lang pháp bằng các quy định trong các văn bản pháp luật đã xác
lập tính hợp pháp của các hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, điều này đã khuyến khích các
chủ thể mạnh dạn tham gia đầu tư kinh doanh. Cụ thể:
Một là, Luật kinh tế môi trường pháp thuận lợi ổn định cho sự phát triển
kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự chủ quyết định hoạt động,
nhưng quyền tự chủ được thể chế hoá thành pháp luật mọi hành vi đều phải tuân theo
pháp luật. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, hiệu lực cao sự ổn định chính trị, hội
là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, Luật kinh tế p phần tạo i trường kinh tế ổn định cho phát triển
kinh tế. Nhà nước ban hành các quy định pháp lý khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực
để dẫn dắt nền kinh tế - hội phát triển theo mục tiêu xác định. Nhà nước thông qua những
quy định ưu đãi, hỗ trnày sử dụng như những đòn bẩy kinh tế để hướng các doanh
nghiệp vào các ngành, các lĩnh vực nhà nước muốn ưu tiên phát triển. Ngoài ra, pháp
luật về tài chính, tín dụng, thuế… cũng phối hợp tạo điều kiện thuận lợi cho c chủ thể
kinh tế yên tâm hoạt động.
Ba là, Luật kinh tế đảm bảo các chthể kinh doanh hoạt động hiệu quả lành
mạnh thông qua việc quy định thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác
động từ bên ngoài ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh trong Luật Cạnh
tranh. vậy, những quy định trong Luật kinh tế về điều kiện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh, giá cả thị trường phản ánh đúng
chi phí sản xuất, làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả.
Bốn là, Luật kinh tế p phần thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ
công bằng xã hội, bảo đảm định hướng XHCN. Bởi thực tế cơ chế thị trường có nhiều tác
động ch cực đối với sphát triển kinh tế ng động hiệu quả, nhưng cũng những
hạn chế như: Phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội... Vì vậy, Luật kinh
tế sẽ quy định những ưu đãi đặc biệt hoặc hạn chế các chủ thể kinh doanh thông qua các
biện pháp kỹ thuật nhằm khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, thực
hiện công bằng hội, tạo động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế. Như vậy, ngành Luật
kinh tế là công cụ quan trọng để Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường nói chung
các chủ thể kinh doanh nói riêng nhằm làm cho mọi người cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, xây dựng hội công bằng, dân chủ văn minh. 3.3. Luật kinh tế xác
định địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh
Hiến pháp m 2013 quy định mọi người quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề pháp luật không cấm
[18]
. Căn cứ vào đó Luật kinh tế xác lập bảo đảm
quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh nhằm đảm bảo tính chủ động trong
lOMoARcPSD| 61096931
kinh doanh của các chủ thể kinh doanh phù hợp với quy định pháp luật, ghi nhận vai trò,
nhiệm vụ của từng loại chủ thể trong hệ thống quan, tổ chức kinh tế, đồng thời ng
giúp các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động của các chủ thể kinh doanh hiệu quả hơn. Sự
ghi nhận quyền tự do kinh doanh cũng như việc quy định bảo đảm trên thực tế hoạt động
đầu tư, kinh doanh của các tổ chức, nhân là động lực cơ bản cho sự ổn định và phát triển
nền kinh tế. Quyền tự do kinh doanh về bản được cụ thể hóa thông qua các đạo luật
chuyên ngành đặc biệt Luật Doanh nghiệp năm 2014 một số quyền như quyền tự
do thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quyền tiếp cận thị trường,
quyền bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh, quyền được đảm bảo sở hữu tài sản của
doanh nghiệp. Thông qua các quy định pháp luật hiện nh thể khái quát về quyền tự
do kinh doanh trên mấy nội dung chính như sau:
Ghi nhận quyền tự do và sự bình đẳng của mọi chủ thể trong các hoạt động đầu tư,
kinh doanh.
Bảo đảm an toàn tài sản cho các nhà đầu tư, kinh doanh như quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt tài sản của mình.
Bảo đảm sự vận động nhanh chóng của các nguồn vốn đầu bằng việc quy định
chủ thể kinh doanh quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ sử
dụng vốn của mình.
Ngoài ra, chủ thể kinh doanh quyền lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh, lựa
chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh chủ động điều chỉnh quy ngành,
nghề kinh doanh theo nhu cầu năng lực của mình. Ngược lại, các chủ thể kinh doanh
ng quyền từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy định của pháp luật hoặc
tiến hành khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và tham gia tố
tụng bình đẳng theo quy định của pháp luật
[19]
.
3.4. Luật kinh tế điều chỉnh và giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh
Hoạt động kinh doanh trên thực tế rất đa dạng, phong phú và thường có nhiều quan
hệ đan xen với nhau. Luật kinh tế ghi nhận quá trình xác lập, thực hiện, chấm dứt cùng
những hệ quả phải giải quyết đối với các hành vi kinh doanh. Tranh chấp phát sinh trong
kinh doanh vấn đề tất yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, do đó Luật kinh tế đã
dự liệu các hình thức giải quyết tranh chấp để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong quá trình kinh doanh bằng c chế định về cách thức tổ chức, thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của các cơ quan tài phán kinh tế.
Việc sử dụng pháp luật kinh tế để giải quyết các tranh chấp giữa các bên trước hết
đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh doanh muốn giải quyết vụ việc của mình một cách
thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả. Từ khi đàm phán kết hợp đồng hoặc các giao kết
kinh tế khác, các chủ thể có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất.
Ngay cả trong trường hợp không thỏa thuận này pháp luật kinh tế cũng thừa nhận một
số hình thức cơ bản như hòa giải hoặc ttụng tại tòa án thẩm quyền và quyết định của
tòa án có giá trị buộc các bên tham gia phải thực hiện. Không chỉ cóquan tòa án, pháp
luật kinh tế cũng thừa nhận quy định chặt chẽ hình thức giải quyết tranh chấp giữa các
bên trong hoạt động kinh doanh thông qua hình thức tố tụng tại các trung tâm trọng tài
lOMoARcPSD| 61096931
thương mại quyết định hợp pháp của trọng tài thương mại cũng giá trị chung thẩm
và đảm bảo thi hành như các quyết định của tòa án. Kể cả trong trường hợp không có thỏa
thuận trọng tài từ trước, các bên tranh chấp có thể thiết lập thỏa thuận trọng tài thương mại
sau khi xảy ra tranh chấp kinh doanh. Bên cạnh đó, luật kinh tế chỉ ra thẩm quyền giữa các
quan tố tụng hoặc giải quyết tranh chấp một cách ràng để đảm bảo quyền tự quyết,
bình đẳng giữa các bên trong hoạt động kinh doanh.
3.5. Luật kinh tế quy định về các biện pháp giải quyết việc giải thể, phá sản chủ thể
kinh doanh
Khi chủ thể kinh doanh mong muốn hoặc không đủ điều kiện, khả năng hoạt động
kinh doanh có thể lựa chọn các hình thức hoặc trình tự nhất định để chấm dứt. Đối với mỗi
trình tự nhất định, các chủ thể kinh doanh đều phải tuân theo các quy định của pháp luật
chuyên ngành để đảm bảo quyền lợi lợi ích hợp pháp của các bên liên quan được
pháp luật bảo về những quyền lợi của chính mình.
Ví dụ, khi chủ thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh hoặc hết thời hạn đã
đăng thì quyền thực hiện các thủ tục để giải thể hoặc tuyên bố chấm dứt hoạt động
kinh doanh theo trình tự, thủ tục hành chính và xóa tên trên cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng
kinh doanh (Cổng thông tin đăng doanh nghiệp Quốc gia). Tuy nhiên, khi một chủ
thể kinh doanh không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong một thời hạn nhất
định thì có thể phải áp dụng thủ tục phá sản để tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản.
Luật Phá sản năm 2014 ra đời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế đất nước
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo đảm cụ thể hkhông sự xung đột
giữa các quy định của Luật Phá sản với các quy định của các điều ước quốc tế nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam thành viên. Luật Phá sản bảo đảm trình tự thủ tục giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản dân chủ, công khai, nhanh gọn, công bằng, thuận lợi; đề
cao vai trò, trách nhiệm của nhân, quan, tổ chức trong quá trình giải quyết yêu cầu
mở thủ tục phá sản nhưng quan trọng hơn cả là Luật kinh tế nói chung và Luật Phá sản nói
riêng đã tạo ra cơ chế đảm bảo cho chủ thể kinh doanh bị lâm vào tình trạng phá sản có
hội phục hồi theo chủ trương tái cấu kinh tế gắn với chuyển đổi hình tăng trưởng.
Đặc biệt, đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có khả năng phục hồi
hoạt động sản xuất kinh doanh, thoát khỏi tình trạng thua lỗ, phá sản; bảo đảm tối đa quyền
lợi của người lao động.
Việc Luật kinh tế quy định các trình tự, thủ tục về phá sản góp phần tăng cường
pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp,
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác được thành lập hoạt động theo quy định của pháp luật
các nhân, quan, tổ chức liên quan. Không những thế, với các quy định liên
quan, pháp luật kinh tế về phá sản giải thể các chủ thể kinh doanh đã đề cao vai trò,
trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động giải
quyết yêu cầu giải thể và tuyên bố phá sản. Pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ
thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh do nào đó hoặc trong tình trạng sản
xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự.
lOMoARcPSD| 61096931
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP
ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT KINH TẾ
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế
Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật m công cụ điều tiết hoạt động của các tổ
chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế hoàn chỉnh đối với nước ta một quá
trình lâu dài và liên tục thị trường luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải được
bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với nh hình thực tế. Mỗi ngành luật đối tượng
điều chỉnh riêng, theo giáo trình này, Luật kinh tế điều chỉnh ba nhóm quan hệ xã hội sau:
1.1. Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản
lý về kinh tế với các chủ thể kinh doanh
Nhóm quan hệ hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh xác lập
địa vị pháp đáp ứng các nghĩa vụ của nh đối với nhà nước. Các quan hệ này phát
sinh chủ yếu trong quá trình thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ về đăng
kinh doanh (nếu có), đăng thay đổi nội dung đăng kinh doanh, công khai thông tin
về thành lập và hoạt động, báo cáo và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật kinh
tế có liên quan.
Thứ hai, chủ thể kinh doanh thực hiện các công việc nhằm đáp ng đủ điều kiện
kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu kinh doanh có điều kiện theo quy định của
pháp luật có liên quan.
Thứ ba, chủ thể kinh doanh tổ chức công tác kế toán, lập nộp báo cáo tài chính,
thống kê, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Đặc điểm của nhóm quan hệ hội này các quan hệ quản lý kinh tế phát sinh và
tồn tại giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể kinh doanh khi các cơ quan quản
lý thực hiện chức năng quản lý của mình. Các chủ thể tham gia quan hệ này ở vào vị trí bất
bình đẳng, quan hệ này hình thành được thực hiện dựa trên nguyên tắc quyền uy, phục
tùng với một bên luôn quan Nhà ớc. Các chủ thể kinh doanh phải thực hiện theo
quy định của pháp luật về hồ báo cáo, đăng kinh doanh, thủ tục tổ chức lại, khiếu
nại, tố cáo… theo đúng trình tự pháp luật, đồng thời phải tuân thủ các quyết định, xử lý vi
phạm của quan thẩm quyền. sở pháp để quan quản nhà nước hoặc
quan tố tụng thực hiện chức năng của mình thông qua các văn bản pháp lý do các cơ quan
quản lý có thẩm quyền ban hành.
Tóm lại, nhóm quan hệ này thể hiện sự quản lý kinh tế của Nhà nước và diễn ra khi
các quan quản nhà nước thực hiện chức năng quản của nh. Các chủ thể trong
mối quan hệ này không bình đẳng về mặt pháp lý, các chủ thể bị quản phải phục tùng
mệnh lệnh, ý chí của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
1.2. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể
kinh doanh với nhau
lOMoARcPSD| 61096931
Nhóm quan hệ hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh thực hiện
các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chủ thể của nhóm quan hệ
này chủ yếu c chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia
trên nguyên tắc nh đẳng cùng lợi, tự nguyên không bị áp đặt. Đây nhóm quan hệ
chủ yếu và phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh
doanh nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, trên cơ sở thống
nhất ý chí của các bên thông qua hình thức pháp chủ yếu là hợp đồng kinh tế hoặc những
thoả thuận hợp tác kinh doanh. Chủ thể của nhóm quan hệ này chủ yếu là các chủ thể kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ này trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng và các bên cùng có lợi. Đặc trưng đặc biệt của nhóm quan hệ này là nhóm quan
hệ tài sản và quan hệ hàng hoá- tiền tệ.
1.3. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ các chủ thể kinh doanh
Các chủ thể kinh doanh khi tham gia kinh doanh hình thành nên các đơn vị kinh
doanh độc lập tương đối với nhau. Các hình thức kinh doanh các chủ thể thể chọn
như các loại hình doanh nghiệp, hợp c xã và hộ kinh doanh. Nhóm quan hệ kinh tế phát
sinh trong nội bộ của các chủ thể kinh doanh bao gồm các quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình hoạt động kinh doanh giữa tổng công ty, tập đoàn kinh tế các đơn vị thành viên
cũng như giữa các nhân thành viên của của chủ thể kinh doanh đó với nhau. dụ,
trong quá trình hoạt động kinh doanh các nhân, tổ chức tham gia góp vốn thành lập
doanh nghiệp, bản thân các thành viên trong doanh nghiệp thể mâu thuẫn quyền lợi,
nghĩa vụ với nhau hoặc mâu thuẩn giữa thành viên với doanh nghiệp dẫn đến tranh chấp
cần sự điều chỉnh của luật.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này là trực tiếp phát sinh trong nội bộ nên sở pháp
lý điều chỉnh các mối quan hệ trên gồm các quyết định thành lập, nội quy, quy chế, điều lệ,
cam kết. Đây không phải là nguồn luật và không phải là căn cứ pháp lý áp dụng chung cho
tất các các chủ thể kinh doanh, mà chúng chỉ có hiệu lực, giá trị pháp lý ràng buộc giữa các
thành viên, đơn vị trong tổ chức kinh doanh nhất định.
Điều lệ của doanh nghiệp, hợp tác xã: bản cam kết giữa c chủ sở hữu doanh
nghiệp nhằm xác lập các nội dung về danh tính công ty, cách thức thành lập, góp vốn, bộ
máy tổ chức, quản lý, hoạt động của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại v.v…. để
hoạt động suôn sẻ tránh những rắc rối, tranh chấp trong nội bộ ng ty. Như vậy, điều
lệ doanh nghiệp không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà có thể hiểu đây là một cam
kết được đồng ý bởi các chủ sở hữu doanh nghiệp, giữa những người sáng lập với nhau
cũng như giữa những người sáng lập với những người góp vốn (thành viên hợp danh, thành
viên góp vốn vào công ty hợp danh, thành viên công ty TNHH, cổ đông) nhằm xác lập các
nội dung vdanh tính doanh nghiệp, cách thức thành lập, góp vốn, bộ máy tổ chức, quản
lý, hoạt động của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại và những nội dung khác. Điều
lệ doanh nghiệp trước hết có thể xem là một bản hợp đồng được đồng ý bởi các bên trong
công ty mang tính chất quy định. được xây dựng dựa trên các khuôn khổ, hành lang
pháp lý mà pháp luật đề ra mặt khác, doanh nghiệp lại được phép tự do chỉnh sửa, miễn là
không trái pháp luật. Xét về mặt điều hành, điều lệ doanh nghiệp được hiểu như “luật
lOMoARcPSD| 61096931
của doanh nghiệp” trong đó doanh nghiệp thể tự điều chỉnh hoạt động của mình một
cách ý chí riêng lại không trái pháp luật. Xét về mặt kinh doanh, điều lệ đóng một
vai trò quan trọng không kém vì nó cho biết cấu, nội dung doanh nghiệp, cách thức kinh
doanh, hoạt động mà doanh nghiệp đề ra cho người mong muốn góp vốn hay giao dịch với
công ty. Cũng bởi lẽ đó những đối tác đầu tư, những khách hàng luôn quan tâm, tìm
hiểu kỹ về điều lệ trước khi cam kết điều gì. Bên cạnh đó, khách hàng cũng cần biết ai s
là người ký kết hợp đồng với họ, bởi thông qua điều lệ công ty, pháp luật có quy định ai là
người đại diện. Để hoạt động suôn sẻ, tránh được những tranh chấp phát sinh và rắc rối với
pháp luật, doanh nghiệp cần quan tâm một số điểm bản trong cách soạn thảo thành lập
điều lệ công ty như sau: Điều lệ không được trái với các quy định của pháp luật và không
xâm phạm quyền lợi của bên thứ ba; điều lệ công ty một hợp đồng nhiều bên dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận để quy định quyền và nghĩa vụ của các bên, tổ chức quản
lý, hoạt động của công ty; điều lệ phải đủ các nội dung chủ yếu quy định tại Luật Doanh
nghiệp 2020.
Theo quy định của pháp luật về kinh tế, điều lệ doanh nghiệp, hợp tác đều phải được
lưu giữ tại doanh nghiệp, đồng thời nộp một bản cho quan đăng ký kinh doanh khi thành
lập hoặc khi có sửa đổi các nội dung trong điều lệ doanh nghiệp.
Nghị quyết, quyết định... trong nội bộ doanh nghiệp. Đây là các văn bản trong quản
lý và điều hành doanh nghiệp. Nó không phải là văn bản quy phạm pháp luật, nhưng lại là
nguồn luật quan trọng để tham chiếu hoặc căn cứ vào đó các thành viên, chủ sở hữu doanh
nghiệp tiến hành các thủ tục hành chính, tư pháp hợp pháp. quan quản nhà nước hoặc
cơ quan tố tụng cũng có thể căn cứ vào loại văn bản này để giám sát, quản lý hoặc đưa ra
những phán quyết hoặc quyết định theo thẩm quyền của mình.
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế
Luật kinh tế sử dụng hai phương pháp điều chỉnh cơ bản là phương pháp bình đẳng,
thỏa thuận và phương pháp mệnh lệnh, quyền uy. Đây là những phương pháp mà nhà nước
tác động lên các quan hệ kinh tế làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt
theo ý chí của nhà nước.
Phương pháp nh đẳng, thỏa thuận thể hiện quyền tự do lựa chọn cũng như thể hiện
sự ưng thuận của các chủ thể kinh doanh trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh của
mình như tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, hình kinh doanh,
tự do lựa chọn đối tác kinh doanh...
Phương pháp mệnh lệnh thể hiện quyền của chủ thể quản nhà nước đối với các
chủ thể kinh doanh. Theo đó, các chthể kinh doanh phải tuân thủ các quy định về điều
kiện, trình tự, thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức quản lý... do luật định.
Tuy nhiên do Luật kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ quản kinh tế giữa chủ thể không
bình đẳng (khi có sự tham gia của Nhà nước) vừa điều chỉnh quan hệ bình đẳng về tài sản
giữa các chủ thể với nhau phát sinh trong quá trình kinh doanh cho nên ngành luật y sử
dụng phối hợp cả hai phương pháp tác động trên nhưng mức độ linh hoạt tuỳ theo
từng quan hệ kinh tế cụ thể. Đặc biệt, với sự hội nhập kinh tế quốc tế và các quy định mới
rất tiến bộ trong Hiến Pháp năm 2013, phương pháp điều chỉnh của ngành luật này cũng
được bổ sung và thay đổi phù hợp. Theo đó, phương pháp mệnh lệnh trong điều chỉnh pháp
lOMoARcPSD| 61096931
các hoạt động kinh doanh hầu như không còn được áp dụng rộng rãi. Các quan hệ i
sản với mục đích kinh doanh được trả lại cho chúng nguyên tắc tự do ý chí, tự do giao kết
của tất cả các bên. Các mệnh lệnh hành chính trái với quy luật thị trường được dần bãi bỏ,
thay vào đó các chủ thể kinh doanh được tự do kinh doanh tất cả các ngành nghề, lĩnh vực
pháp luật không cấm
[20]
. Hay nói một cách khác, quan Nhà nước muốn cấm hoặc
hạn chế các chủ thể kinh doanh bất kỳ ngành nghề nào phải được ghi nhận hoặc tuyên bố
trước trong các đạo luật do Quốc hội ban hành.
Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh mối quan hệ giữa các
quan Nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể kinh doanh. Trong mối quan hệ này
quan Nhà nước có quyền đưa ra các quy định buộc các chủ thể kinh doanh phải tuân theo.
Với cách thức tác động đó cho thấy vị trí bất bình đẳng giữa bên quản lý và bên bị quản lý,
bên bị quản buộc phải thực hiện ý chí của quan quản đã thể hiện tính chất phục
tùng mệnh lệnh. điều chỉnh các qua hệ kinh tế bằng cách quy định cho các cơ quan quản
nhà nước về kinh tế trong phạm vi chức năng của mình quyền ra quyết định chỉ thị
bắt buộc đối với các chủ thể kinh doanh (bên bị quản lý), còn bên bị quản nghĩa vụ
thực hiện quyết định đó
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận được sử dụng điều chỉnh các nhóm quan hệ kinh
tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh hoặc nhóm quan hệ phát sinh trong nội bộ đơn vị
kinh doanh. Trong các quan hệ này, c chủ thể khi tham gia vào quá trình kinh doanh có
quyền bình đẳng, thỏa thuận với đối tác những vấn đề mà các chủ thể hướng tới để bảo vệ
quyền lợi ích của mình. Pháp luật đồng thời cũng phải thể hiện sự tôn trọng quyền tự
quyết của các chủ thể kinh doanh trong các hoạt động kinh doanh.
Như vậy, phương pháp bình đẳng, thỏa thuận được sử dụng chủ yếu điều chỉnh các
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh để đảm bảo giữa các chủ thể sự
bình đẳng về địa vị pháp lý với nhau đảm bảo quyền tài sản của các bên. Bản chất của
phương pháp y thể hiện chỗ Luật kinh tế quy định cho các bên tham quan hệ kinh tế
có quyền bình đẳng với nhau, thoả thuận những vấn đề mà các bên quan tâm khi thiết lập
hoặc chấm dứt quan hkinh tế không bị phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ tổ chức,
nhân nào. Điều này còn nghĩa rằng pháp luật chỉ điều chỉnh khi chỉ khi các quan hệ
kinh tế được hình thành trên sở sự thống nhất ý chí của các bên không trái với các
quy định của nhà nước.
III. NGUỒN CỦA LUẬT KINH TẾ
Nguồn của Luật kinh tế tổng hợp tất cả các văn bản pháp luật các hình thức
khác chứa đựng những quy phạm liên quan đến kinh doanh.
1. Các văn bản quy phạm pháp luật
Hiến pháp: Hiến pháp 2013 thể hiện đạo luật bản, còn c vấn đề cụ thể sẽ
được xác định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước.
Các văn bản luật như: Luật Doanh nghiệp 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
tác động tích cực để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy huy động
vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp; góp phần duy trì tăng trưởng
và giải quyết các vấn đề hội. Luật Hợp tác 2012 và các văn bảnớng dẫn thi hành
lOMoARcPSD| 61096931
ra đời nhằm tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức kinh tế tập thể phát triển, góp phần vào việc
hoàn thiện quan hệ sản xuất và vào sự nghiệp phát triển kinh tế - hội của Việt Nam. Luật
Cạnh tranh 2018 c văn bản hướng dẫn thi hành bao gồm ccác chế tài nghiêm khắc
đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hành vi hạn chế cạnh tranh làm ảnh
hưởng xấu đến môi trường kinh doanh bình đẳng. Luật Trọng tài Thương mại 2010 và các
văn bản hướng dẫn thi hành quy định về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở
thành Trọng tài viên, quy định về trọng tài vụ việc, thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi
nhận mối quan hệ giữa Trọng tài Tán bằng một loạt các quy định cụ thể như hỗ trợ
thi hành thỏa thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, giải quyết khiếu nại về thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu huỷ quyết
định trọng tài, lưu trữ hồ trọng tài v.v… Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 các văn bản
hướng dẫn thi hành nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của
quan, tổ chức, nhân; bảo đảm trình tự thtục ttụng dân chủ, công khai, đơn giản,
thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai
trò, trách nhiệm của nhân, quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng dân sự. Luật Phá
sản 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác đang trong tình trạng sản xuất kinh doanh khó
khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự.
Nghị quyết của Quốc hội về kinh tế như: Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội hàng năm.
Nghị quyết, nghị định của Chính phủ về kinh tế.
Nghị quyết của Chính phủ dùng để ban hành các chủ trương, chính sách lớn quy
định nhiệm vụ, kế hoạch, ngân sách nhà nước c công tác khác trong quá trình thực
hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân.
Nghị định là chính phủ ban hành dùng để hướng dẫn luật hoặc quy định những việc
phát sinh chưa luật hoặc pháp lệnh nào điều chỉnh. Mặt khác, nghị định do Chính
phủ ban hành để quy định những quyền lợi nghĩa vụ của người n theo Hiến pháp
Luật do Quốc hội ban hành.
Quyết định, chỉ thị của Thủ ớng Chính phủ; Thông tư, chỉ thị của Bộ trưởng về
kinh tế nhằm hướng dẫn các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật như; Luật,
Nghị quyết, Nghị định….
2. Các Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt
Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định,
định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện tên
gọi khác
[21]
.
Nói chung, các điều ước quốc tế do Việt Nam ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập thực
tế vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật nước ta. Khi các điều ước

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61096931 GIÁO TRÌNH LUẬT KINH TẾ MỤC LỤC
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ 4
1. Khái niệm Luật kinh tế 4
2. Chủ thể của Luật Kinh tế 5
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường 13
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT
KINH TẾ 18
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế 18
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế 21
III. NGUỒN CỦA LUẬT KINH TẾ 22
1. Các văn bản quy phạm pháp luật 22
2. Các Điều ước quốc tế 23
3. Các tập quán 24
4. Áp dụng án lệ 25
CÂU HỎI ÔN TẬP 25
CHƯƠNG II. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP 26
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP 26
1. Lược sử pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam 26
2. Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp 29
3. Phân loại doanh nghiệp 32
4. Thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp và tạm ngừng kinh doanh 32
5. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp 44
II. CÁC LOẠI DOANH NGHIỆP 45
1. Công ty cổ phần 45
2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên 69
3. Công ty TNHH một thành viên. 80
4. Công ty hợp danh 87
5. Doanh nghiệp tư nhân 95
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 98
CHƯƠNG III. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC XÃ 99
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ 99
1. Khái niệm hợp tác xã 99
2. Đặc điểm của hợp tác xã 100
II. THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ HỢP TÁC XÃ 102
1. Thành lập hợp tác xã 102
2. Tổ chức lại hợp tác xã 106
3. Giải thể hợp tác xã 107
III. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỢP TÁC XÃ 109
1. Quyền của hợp tác xã 109
2. Nghĩa vụ của hợp tác xã 109 lOMoAR cPSD| 61096931
IV. TỔ CHỨC QUẢN LÝ HỢP TÁC XÃ 110
1. Đại hội thành viên 110
2. Hội đồng quản trị 112
3. Giám đốc/Tổng Giám đốc 113
4. Ban kiểm soát, kiểm soát viên 114
V. THÀNH VIÊN HỢP TÁC XÃ 115
1. Điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã 115
2. Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã 116
3. Chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã 117
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 119
CHƯƠNG IV: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘ KINH DOANH 120
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘ KINH DOANH 120
1. Lược sử phát triển hộ kinh doanh 120
2. Khái niệm, đặc điểm hộ kinh doanh 121
II. ĐĂNG KÝ KINH DOANH HỘ KINH DOANH 123 1.
Điều kiện đăng ký kinh doanh 123 2.
Tạm ngừng hoạt động kinh doanh hộ kinh doanh 130 3.
Chấm dứt hoạt động kinh doanh hộ kinh doanh 130
IV. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘ KINH DOANH 133
1. Quyền của hộ kinh doanh 133
2. Nghĩa vụ của hộ kinh doanh 134
CHƯƠNG V. PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 136
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI 136
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI 136
1. Khái niệm 136
2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại 136
II. CÁC HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 136
1. Trọng tài thương mại 136
2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân 156
CHƯƠNG VI. PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN 180
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 180
1. Khái niệm phá sản và pháp luật về phá sản 180
2. Phân loại phá sản 181
3. Đối tượng áp dụng của Luật Phá sản 182
4. So sánh phá sản với giải thể 183
5. Tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản 184
II. THỦ TỤC PHÁ SẢN 186
1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 187
2. Mở thủ tục phá sản 195
3. Phục hồi kinh doanh 205
4. Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản 210
5. Thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản 212 lOMoAR cPSD| 61096931
CÂU HỎI ÔN TẬP 213
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
2. TCKDTM: Tranh chấp kinh doanh thương mại
3. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn 4. TAND: Tòa án nhân dân 5. UBND: Ủy ban nhân dân
6. XHCN: Xã hội chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 61096931
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LUẬT KINH TẾ
Mục tiêu của Chương I
Mục tiêu của Chương I yêu cầu người học phải nắm được khái quát chung về Luật
Kinh tế như khái niệm, chủ thể, vai trò của Luật Kinh tế trong nền kinh tế thị trường; nắm
được đối tượng, phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế cũng
như nguồn của Luật Kinh tế . Vận dụng được các quy định của pháp luật để giải quyết
các tình huống phát sinh trên thực tế.
Những nội dung chính của Chương I -
Khái quát chung về Luật Kinh tế -
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh
tế- Nguồn của Luật Kinh tế
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ
1. Khái niệm Luật kinh tế
Hiện nay, Nhà nước Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo[1]. Như vậy, chủ thể kinh doanh không chỉ là các tổ chức kinh tế mà chủ sở
hữu là Nhà nước mà còn có nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác cùng tham gia
kinh doanh bình đẳng. Các chủ thể kinh doanh được tự do chọn lựa ngành nghề mà pháp
luật không cấm để tiến hành kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Do đó, vai trò điều chỉnh của pháp luật nói chung và lĩnh vực pháp luật kinh tế nói
riêng đối với các hoạt động kinh tế hiện nay bao gồm nhiều nội dung nhấn mạnh đến các
quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh khác nhau trong nền kinh tế thị trường.
Nếu nhấn mạnh vào khía cạnh điều chỉnh này, trong hoạt động nghiên cứu xuất hiện quan
điểm gọi Luật kinh tế là Luật kinh doanh và cho rằng Luật kinh doanh là ngành luật trong
hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
các quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trong quá trình tổ chức
và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, còn có nhiều cách tiếp cận
đối với vấn đề pháp luật kinh tế. Ngoài khái niệm về Luật kinh doanh ở trên, có một số
chuyên gia còn gọi là Luật thương mại. Khái niệm này xuất phát từ một khía cạnh nhất
định của nền kinh tế thị trường, đó là tập trung vào tiếp cận đến các hành vi thương mại cụ
thể như mua bán, trao đổi hàng hóa, đại lý, ký gửi... Với cách tiếp cận này, ưu điểm quan
trọng nhất là liệt kê chi tiết các hoạt động thương mại để các chủ thể kinh doanh lựa chọn
khi tiến hành kinh doanh. Nhưng cùng với đó, cách tiếp cận này sẽ làm hạn chế những ý
tưởng kinh doanh mới, đặc biệt là hạn chế sự hình thành những hoạt động kinh doanh vừa
không trái pháp luật vừa đem lại lợi ích cho cá nhân và toàn xã hội hoặc không bao quát
hết các hoạt động kinh doanh mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Quy luật khách
quan và tất yếu là khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định sẽ kéo theo các hoạt
động kinh doanh mới, khi đó pháp luật sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời hoặc không theo
kịp để điều chỉnh phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Tóm lại, dù có thể hiện với các tên gọi khác nhau thì ngành luật này cũng đều hướng
đến điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình kinh doanh của các chủ thể lOMoAR cPSD| 61096931
kinh doanh và quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh đó với các cơ quan
quản lý nhà nước. Vì vậy, với cách tiếp cận từ đối tượng điều chỉnh các quan hệ xã hội của
ngành luật này nên đặt tên gọi là ngành Luật kinh tế được coi là đầy đủ và phù hợp. Phương
pháp tiếp cận này vừa đảm bảo bao quát hết các hoạt động của các chủ thể kinh doanh với
nhau trong toàn bộ quá trình kinh doanh, vừa chỉ ra các quyền và nghĩa vụ mà các chủ thể
này trong mối quan hệ với chủ thể đặc biệt là nhà nước. Trên cơ sở khung lý luận đó, giáo
trình này đưa ra khái niệm: Luật kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức, quản lý và chấm dứt các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
Theo đó, nội dung của Luật kinh tế
trong giáo trình này tập trung nghiên cứu các chế định pháp lý về kinh doanh như sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc
hình thành và xác lập địa vị pháp lý nói chung của các chủ thể kinh doanh đó là: -
Doanh nghiệp gồm: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH),công ty TNHH 1 thành viên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. -
Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã - Hộ kinh doanh
Thứ hai, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc
giải quyết tranh chấp trong kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh như: Quy định về việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh tại trọng tài thương mại hay quy định về việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh tại tòa án nhân dân.
Thứ ba, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra trong quá
trình phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
2. Chủ thể của Luật Kinh tế
2.1. Chủ thể kinh doanh

2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chủ thể kinh doanh
Để hiểu rõ thế nào là chủ thể kinh doanh, chúng ta cần tìm hiểu kinh doanh là gì?
Theo từ điển tiếng Việt thì “kinh doanh” được hiểu là “tổ chức việc sản xuất, buôn bán,
dịch vụ nhằm mục đích sinh lời”[2]. Dưới góc độ pháp lý thì “Kinh doanh là việc thực hiện
liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.”[3]. Tuy
nhiên, thực tế còn có những chủ thể chỉ thực hiện các hoạt đông kinh doanh đơn lẻ, không
thường xuyên như môi giới bất động sản, chứng khoán, tư vấn... nên dưới góc độ pháp lý
cần được tham chiếu đến pháp luật chuyên ngành khác.
Với khái niệm “kinh doanh” rộng như vậy ta có thể hiểu chủ thể kinh doanh là bất
kỳ cá nhân, tổ chức, đơn vị nào theo quy định của pháp luật thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực
hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

Chủ thể kinh doanh được phân biệt với các tổ chức, cá nhân khác bởi các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh phải được thành lập hợp pháp hoặc được công nhận. lOMoAR cPSD| 61096931
Điều đó có nghĩa là chủ thể kinh doanh phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ra quyết định thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. Với đặc điểm này, chúng ta
khẳng định đây là những chủ thể kinh doanh hợp pháp, chủ thể này được kinh doanh tất cả
những ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì có những chủ thể kinh doanh phải đăng
ký thành lập như: Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh nhưng
cũng có những chủ thể kinh doanh có thể đăng ký hoặc không phải đăng ký kinh doanh
như hộ kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật quy định
không phải đăng ký. Các chủ thể không phải đăng ký kinh doanh chủ yếu thực hiện hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và làm muối theo quy định của pháp
luật đối với các hộ kinh doanh “tự sản tự tiêu” và hộ kinh doanh có thu nhập thấp, căn cứ
quy định tại từng địa phương. Đối với cá nhân hoạt động thương mại mà không phải đăng
ký kinh doanh được quy định tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
16/3/2007 về cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải
đăng ký kinh doanh. Theo đó, cá nhân hoạt động thương mại phải tuân thủ pháp luật về
thuế, giá, phí và lệ phí liên quan đến hàng hóa, dịch vụ kinh doanh. Trường hợp kinh doanh
thực phẩm và dịch vụ ăn uống, cá nhân hoạt động thương mại phải bảo đảm đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với việc kinh doanh loại
hàng hóa, dịch vụ này. Nghiêm cấm cá nhân hoạt động thương mại gian lận trong cân,
đong, đo đếm và cung cấp các thông tin sai lệch, dối trá hoặc thông tin dễ gây hiểu lầm về
chất lượng của hàng hóa, dịch vụ hoặc bản chất của hoạt động thương mại mà mình thực hiện...
Những chủ thể là cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực
hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc
đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và
không gọi là “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại. Cụ thể bao gồm những
cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây: a)
Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa điểm
cốđịnh (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách
báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các sản phẩm này
theo quy định của pháp luật để bán rong; b)
Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định; c)
Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc
không có địa điểm cố định; d)
Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để
bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ; lOMoAR cPSD| 61096931
đ) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe, trông giữ
xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không có địa điểm cố định; e)
Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác.[4]
Thứ hai, chủ thể kinh doanh phải có tài sản đưa vào kinh doanh.
Đây là cơ sở vật chất không thể thiếu để chủ thể này tiến hành hoạt động kinh doanh
theo quan điểm truyền thống. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản[5]
được ghi nhận bởi pháp luật dân sự, luật kế toán và các luật khác có liên quan.
Nhà nước bảo vệ quyền của chủ thể kinh doanh về tài sản của mình. Nhà nước công
nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, quyền và lợi ích hợp pháp khác
của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp[6].
Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không
bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trường hợp thật cần thiết,
Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của doanh nghiệp thì được thanh toán, bồi
thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản. Việc thanh toán, bồi
thường phải bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp và không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp.[7]
Thứ ba, chủ thể kinh doanh phải có thẩm quyền kinh tế.
Thẩm quyền kinh tế là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của một chủ thể được nhà
nước xác nhận trên cơ sở pháp luật và trên thực tế. Thẩm quyền kinh tế của một chủ thể
luật kinh tế luôn phải tương ứng với chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của nó.
Như vậy, có thể thấy thẩm quyền kinh tế là giới hạn pháp lý mà trong đó các chủ thể
của Luật kinh tế được hành động hoặc phải hành động hoặc không được phép hành động.
Thẩm quyền kinh tế trở thành cơ sở pháp lý để các chủ thể này thực hiện các hành vi pháp
lý nhằm tạo ra các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho mình. Mỗi chủ thể kinh doanh có thẩm
quyền rộng, hẹp khác nhau tương ứng với những chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt
động của mỗi chủ thể kinh doanh. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định mọi cá nhân
có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm[8] là điều kiện cần,
tuy nhiên để thực hiện các quyền này trên thực tế, các chủ thể kinh doanh có đủ năng lực
chủ thể còn phải thực hiện những hành vi nhất định như đăng ký kinh doanh để tiến hành
một hoạt động kinh doanh cụ thể nào đó để xác lập thẩm quyền về kinh tế. Một khi đã có
thẩm quyền về kinh tế, các chủ thể đều có quyền bình đẳng với nhau trong hoạt động kinh
doanh, tố tụng, hành chính và được pháp luật bảo hộ.
Như vậy, đặc điểm chính của thẩm quyền kinh tế là mang tính pháp lý. Để từ đó các
chủ thể kinh doanh thực hiện các hành vi pháp lý nhằm tạo ra cho mình các quyền và nghĩa
vụ, đồng thời nó định rõ giới hạn mà trong đó các chủ thể kinh doanh được thực hiện. Thẩm
quyền kinh tế của các chủ thể kinh doanh được quy định trong văn bản pháp luật hiện hành
và phát sinh trong khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua quyết định
cá nhân trên cơ sở các quy phạm pháp luật. lOMoAR cPSD| 61096931
Thứ tư, chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh.
Hành vi kinh doanh dưới góc độ pháp lý là các hành vi do chủ thể kinh doanh thực
hiện không trái với pháp luật hiện hành, hay nói cách khác là các hành vi kinh doanh mà
pháp luật không cấm hoặc bị hạn chế (kinh doanh có điều kiện). Pháp luật hiện hành không
liệt kê những hàng vi kinh doanh nào là được phép mà chỉ quy định những hành vi kinh
doanh nào bị cấm hoặc kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật.
Để đủ điều kiện thực hiện các hành vi kinh doanh được liệt kê trong danh mục ngành
nghề kinh doanh có điều kiện, các chủ thể buộc phải đáp ứng các điều kiện đã được công
bố trước trong các quy định của pháp luật đầu tư. Khi thực hiện hành vi kinh doanh, các
chủ thể kinh doanh thực hiện một cách độc lập, nhân danh mình, vì lợi ích của chính mình
và tự chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh đó. Khi thực hiện hành vi kinh doanh, chủ
thể kinh doanh không bị chi phối bởi ý chí của các chủ thể khác mà được quyết định bởi ý
chí của chính chủ thể kinh doanh.
Đặc điểm quan trọng khi các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh là
mang tính chuyên nghiệp, liên tục và nhằm tạo ra thu nhập. Ngoài ra, hành vi kinh doanh
của chủ thể này phổ biến được diễn ra trên thị trường nhất định. Một số hành vi sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ sẽ không được coi là hành vi kinh doanh nếu chúng không diễn
ra trên thị trường hợp pháp.
Mục tiêu trực tiếp và chủ yếu của chủ thể kinh doanh khi thực hiện các hoạt động
kinh doanh là để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, ở một giai đoạn
hay thời điểm nhất định, một số chủ thể có thể thực hiện các hoạt động nhằm các mục tiêu
xã hội, xây dựng thương hiệu... chưa vì mục đích lợi nhuận nhưng nếu hành vi đó không
phải là mục tiêu cơ bản thì các chủ thể này vẫn được coi là chủ thể của hoạt động kinh doanh.
Với các đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy kinh doanh hiểu theo nghĩa chung nhất
là hoạt động mang tính nghề nghiệp, chủ thể kinh doanh đã tham gia vào sự phân công lao
động xã hội; các chủ thể này tiến hành hoạt động kinh doanh mang tính liên tục và mang
lại thu nhập cho chính chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh.
2.1.2. Phân loại chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, chủ thể kinh doanh rất phong phú và đa dạng. Việc
phân loại chúng là cần thiết để xác lập cơ chế điều chỉnh pháp luật phù hợp. Các tiêu chí
phân loại chủ thể kinh doanh được nhìn nhận ở nhiều phương diện và góc độ khác nhau.
Các tiêu chí khác nhau có thể được tiếp cận từ mỗi ngành nghiên cứu khoa học khác nhau.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, các tiêu chí để phân loại gồm:
Thứ nhất, dựa vào nhóm nguồn luật điều chỉnh và hình thức pháp lý của chủ thể
kinh doanh, chủ thể kinh doanh được phân loại thành:
Các chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp bao gồm các loại hình
sau đây[9]: Công ty cổ phần; công ty TNHH (Công ty TNHH hai thành viên trở lên và Công
ty TNHH 1 thành viên); công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; nhóm công ty. Bên
cạnh đó, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng có những quy định cụ thể về Doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp xã hội. lOMoAR cPSD| 61096931
Chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Hợp tác xã bao gồm: Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã.
Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh và Hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động kinh
doanh một cách độc lập, liên tục, không phải đăng ký kinh doanh (gọi chung là Hộ kinh doanh).
Thứ hai, dựa vào tư cách pháp nhân của chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh
được chia thành pháp nhân và không có tư cách pháp nhân
Cơ sở quan trọng để xác định một tổ chức có được coi là pháp nhân hay không hiện
nay theo khái niệm được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015[10]. Theo đó, một tổ chức
được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: (1) Được thành lập hợp pháp;
(2) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (3) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản đó; (4) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách
độc lập. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, các chủ thể kinh doanh có tư cách
pháp nhân gồm: Công ty cổ phần, Công ty TNHH hai thành viên trở lên, Công ty TNHH 1
thành viên, Công ty hợp danh. Theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012 thì cả Hợp tác xã
và liên hiệp Hợp tác xã đều có tư cách pháp nhân.
Các chủ thể không có tư cách pháp nhân như: Hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài việc không thỏa mãn bốn điều kiện trên và được pháp luật chuyên ngành quy định
không có tư cách pháp nhân, các chủ thể thuộc nhóm này có đặc điểm tương đối giống
nhau là tổ chức đơn giản, quy mô nhỏ và chịu trách nhiệm vô hạn về các hoạt động kinh
doanh. Các chủ thể hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ tài sản của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư
nhân, kể cả tài sản không đưa vào kinh doanh.
Thứ ba, dựa vào phạm vi trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, chủ thể kinh doanh
được chia thành chủ thể kinh doanh có trách nhiệm vô hạn và chủ thể kinh doanh có TNHH.
Trách nhiệm vô hạn hay TNHH là tính chất của chế độ bảo đảm tài sản của các chủ
thể kinh doanh khi các chủ thể này tham gia các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, trách nhiệm
này chỉ đặt ra khi các chủ thể kinh doanh khi làm thủ tục phá sản hoặc trong một số trường
hợp nhất định đối với thành viên tham gia với tư cách là chủ thể độc lập.
Trách nhiệm vô hạn được hiểu là sự chịu trách nhiệm đến cùng về tài sản của chủ
thể kinh doanh khi chủ thể này phá sản. Điều đó có nghĩa là, khi tài sản đưa vào kinh doanh
của chủ thể kinh doanh không đủ để thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của
chủ thể kinh doanh thì tài sản không đưa vào kinh doanh của riêng họ cũng được đưa ra
thanh toán cho các chủ nợ. TNHH được hiểu là sự giới hạn trả nợ của một số chủ thể kinh
doanh (cũng như giới hạn sự trả nợ của nhà đầu tư). Điều đó có thể hiểu rằng, chủ thể kinh
doanh chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của mình tương
ứng với số tài sản được đưa vào kinh doanh mà chủ thể còn lại trong trường hợp bị tuyên
bố phá sản. Điều này cũng đồng nghĩa với quan điểm trong quá trình kinh doanh các chủ
thể phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
Nội dung này còn liên quan đến mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với thành viên
của nó. Theo đó, nếu chủ thể kinh doanh là pháp nhân, thì pháp nhân sẽ không chịu trách lOMoAR cPSD| 61096931
nhiệm thay cho thành viên đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện không
nhân danh pháp nhân, còn thành viên thì không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện[11]. Mối quan hệ về chế độ
trách nhiệm còn được thể hiện rõ ở các quy định đối với các loại hình doanh nghiệp trong
hoạt động kinh doanh ở Luật Doanh nghiệp năm 2020. Cụ thể, thành viên công ty TNHH
hay cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong vi số vốn cam kết góp hoặc đã góp vào doanh nghiệp. Như
vậy, thành viên của hai chủ thể kinh doanh trên (gọi chung là doanh nghiệp) đương nhiên
được giải phóng khỏi trách nhiệm tài sản vô hạn khi hoàn thành nghĩa vụ góp vốn. TNHH
hay trách nhiệm vô hạn một khi được đề cập phải xem xét đến không chỉ là phạm vi trách
nhiệm của chủ thể kinh doanh mà còn chỉ rõ phạm vi trách nhiệm của các thành viên hình
thành nên chủ thể kinh doanh đó.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối với hợp tác xã, công ty cổ phần và công
ty TNHH, thành viên chịu TNHH trong phạm vi phần vốn góp của mình, doanh nghiệp
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản đang sở hữu trong quá trình kinh doanh hoặc còn lại
của mình khi phá sản. Ví dụ, công ty TNHH một thành viên thì chủ sở hữu công ty chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn
điều lệ của công ty. Các chủ thể kinh doanh còn lại là công ty hợp danh, doanh nghiệp tư
nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và cá nhân là thành viên hợp
danh hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, cả
tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản không đưa vào kinh doanh; Thành viên hợp danh của
công ty hợp danh và chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ kinh doanh cũng có chế độ trách
nhiệm vô hạn chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của hộ kinh
doanh mà nó tham gia hoặc thành lập.
2.2. Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là một trong các hoạt động quản lý nhà nước. Do đó,
các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cũng chính là hệ thống cơ quan quản lý nhà nước.
Theo quy định tại Điều 215 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì: Chính phủ thống nhất quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp; Bộ, cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm trước Chính
phủ về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công trong quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong
phạm vi địa phương.[12]
Căn cứ vào đó việc phân loại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế chủ yếu dựa
trên các tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thẩm quyền hành chính - kinh tế, có thể chia thành: Cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế có thẩm quyền chung (Chính phủ, UBND các cấp); cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền riêng đối với các ngành kinh tế (Các Bộ, cơ quan ngang
Bộ quản lý chuyên ngành,...) và cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp theo từng lĩnh vực (Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,...).
Thứ hai, căn cứ vào vị trí trong bộ máy quản lý nhà nước, có thể chia thành: Cơ
quan hành chính - kinh tế ở Trung ương và cơ quan hành chính - kinh tế ở địa phương. lOMoAR cPSD| 61096931
Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý về kinh tế, có cơ quan chuyên trách quản lý về đăng
ký kinh doanh gọi là cơ quan đăng ký kinh doanh. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng
ký kinh doanh được quy định tại Khoản 1, Điều 216, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bao gồm: -
Giải quyết việc đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanhnghiệp theo quy định của pháp luật; -
Phối hợp xây dựng, quản lý Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký
doanhnghiệp; công khai, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có
yêu cầu theo quy định của pháp luật; -
Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ quy định của Luật này khi
xétthấy cần thiết; đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp; -
Trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, giám
sátdoanh nghiệp theo nội dung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp; -
Chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, không
chịutrách nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước và sau khi đăng ký doanh nghiệp; -
Xử lý vi phạm quy định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp; thu hồi
Giấychứng nhận đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo
quy định của Luật này; -
Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và quy định khác
củapháp luật có liên quan.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính Phủ thì cơ quan
đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh) và ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), bao gồm: Ở cấp tỉnh: Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư
(sau đây gọi chung là Phòng Đăng ký kinh doanh); Phòng Đăng ký kinh doanh có thể tổ
chức các điểm để tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thuộc Phòng Đăng ký kinh doanh tại các
địa điểm khác nhau trên địa bàn cấp tỉnh; Ở cấp huyện: Phòng Tài chính - Kế hoạch thuộc
Ủy ban nhân dân cấp huyện (sau đây gọi chung là Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện).
Cũng theo quy định tài Điều này, Cơ quan đăng ký kinh doanh có tài khoản và con dấu riêng.[13]
Bên cạnh đó, Chương II, Nghị định này cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan đăng ký kinh doanh và quản lý nhà nước về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh.
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
3.1. Luật kinh tế cụ thể hoá đường lối của Đảng

Kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới,
tuy nhiên, ở thời điểm này Đảng chưa đề cập tới phát triển nền kinh tế thị trường. Về cơ
cấu kinh tế, đã bắt đầu chú ý tới việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho
phép và khuyến khích phát triển thành phần kinh tế tư nhân, cá thể đối với những ngành
nghề, lĩnh vực nhất định. Về cơ chế quản lý kinh tế, Đảng chỉ rõ, việc bố trí lại cơ cấu kinh lOMoAR cPSD| 61096931
tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp[14]. Để cụ thể hóa đường lối chính sách của của Đảng, đến năm
1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân được ban hành. Ngay phần đầu của đạo luật này đã tuyên
bố một các rõ ràng rằng “Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, khuyến khích việc đầu tư kinh doanh, bảo hộ lợi ích hợp pháp của chủ doanh
nghiệp tư nhân; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh
doanh”[15]. Luật này quy định công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành lập doanh
nghiệp tư nhân và Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư
nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh
nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh. Như vậy, trong khuôn khổ pháp
luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh.
Đến Đại hội Đảng IX năm 2001, Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội[16]. Theo đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn được hiểu có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Các thành phần kinh
tế nói trên thực hiện kinh doanh theo pháp luật đều được khuyến khích phát triển trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Đồng thời, Nhà nước
quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương
pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát
huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích
của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Để cụ thể đường lối đổi mới trên, ở thời kỳ
này đã có những đạo luật quan trọng tác động và làm cơ sở cho các chủ thể kinh doanh tạo
lập, xác định hàng lang pháp lý cho mình phải kể đến như: Luật Doanh nghiệp 1999, Luật
Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2005, Luật Đầu tư 2014, Luật
Thương mại 2005; Luật Cạnh tranh 2004, Luật Phá sản 2004, Luật Phá sản 2014, Luật Hợp
tác xã năm 2012…. Các đạo luật trên đã góp phần quan trọng trong quản lý nhà nước và
đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh.
Đại hội Đảng XII năm 2016 của Đảng tiếp tục thống nhất nhận thức rõ hơn về nội
hàm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"[17]. Luật kinh tế tiếp tục là công cụ quản lý kinh
tế quan trọng của Nhà nước, thực hiện chính sách, chủ trương cải cách và chủ trương đổi
mới kinh tế của Đảng. Pháp luật về kinh tế đã ghi nhận và thể chế hóa các chính sách, chủ lOMoAR cPSD| 61096931
trương của Đảng thành các quy định pháp luật, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho
các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường như
mong muốn của Đảng và Nhà nước. 3.2. Luật kinh tế tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, để các chủ thể yên tâm đầu tư
sản xuất kinh doanh lâu dài, một yêu cầu cơ bản là các hoạt động kinh doanh đó phải được
đảm bảo về mặt pháp lý. Xuất phát từ chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, pháp luật
kinh tế đã tạo ra hành lang pháp lý bằng các quy định trong các văn bản pháp luật đã xác
lập tính hợp pháp của các hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, điều này đã khuyến khích các
chủ thể mạnh dạn tham gia đầu tư kinh doanh. Cụ thể:
Một là, Luật kinh tế là môi trường pháp lý thuận lợi và ổn định cho sự phát triển
kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự chủ quyết định hoạt động,
nhưng quyền tự chủ được thể chế hoá thành pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo
pháp luật. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, có hiệu lực cao và sự ổn định chính trị, xã hội
là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, Luật kinh tế góp phần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho phát triển
kinh tế. Nhà nước ban hành các quy định pháp lý khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực
để dẫn dắt nền kinh tế - xã hội phát triển theo mục tiêu xác định. Nhà nước thông qua những
quy định ưu đãi, hỗ trợ này và sử dụng như những đòn bẩy kinh tế để hướng các doanh
nghiệp vào các ngành, các lĩnh vực mà nhà nước muốn ưu tiên phát triển. Ngoài ra, pháp
luật về tài chính, tín dụng, thuế… cũng phối hợp tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
kinh tế yên tâm hoạt động.
Ba là, Luật kinh tế đảm bảo các chủ thể kinh doanh hoạt động có hiệu quả và lành
mạnh thông qua việc quy định và thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác
động từ bên ngoài có ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh trong Luật Cạnh
tranh. Vì vậy, những quy định trong Luật kinh tế về điều kiện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh, giá cả thị trường phản ánh đúng
chi phí sản xuất, làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả.
Bốn là, Luật kinh tế góp phần thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm định hướng XHCN. Bởi thực tế cơ chế thị trường có nhiều tác
động tích cực đối với sự phát triển kinh tế năng động và hiệu quả, nhưng cũng có những
hạn chế như: Phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội... Vì vậy, Luật kinh
tế sẽ quy định những ưu đãi đặc biệt hoặc hạn chế các chủ thể kinh doanh thông qua các
biện pháp kỹ thuật nhằm khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường, thực
hiện công bằng xã hội, tạo động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế. Như vậy, ngành Luật
kinh tế là công cụ quan trọng để Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường nói chung
và các chủ thể kinh doanh nói riêng là nhằm làm cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 3.3. Luật kinh tế xác
định địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh

Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm[18]. Căn cứ vào đó Luật kinh tế xác lập và bảo đảm
quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh nhằm đảm bảo tính chủ động trong lOMoAR cPSD| 61096931
kinh doanh của các chủ thể kinh doanh phù hợp với quy định pháp luật, ghi nhận vai trò,
nhiệm vụ của từng loại chủ thể trong hệ thống cơ quan, tổ chức kinh tế, đồng thời cũng
giúp các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động của các chủ thể kinh doanh hiệu quả hơn. Sự
ghi nhận quyền tự do kinh doanh cũng như việc quy định và bảo đảm trên thực tế hoạt động
đầu tư, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân là động lực cơ bản cho sự ổn định và phát triển
nền kinh tế. Quyền tự do kinh doanh về cơ bản được cụ thể hóa thông qua các đạo luật
chuyên ngành và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 2014 ở một số quyền như quyền tự
do thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quyền tiếp cận thị trường,
quyền bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh, quyền được đảm bảo sở hữu tài sản của
doanh nghiệp. Thông qua các quy định pháp luật hiện hành có thể khái quát về quyền tự
do kinh doanh trên mấy nội dung chính như sau:
Ghi nhận quyền tự do và sự bình đẳng của mọi chủ thể trong các hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Bảo đảm an toàn tài sản cho các nhà đầu tư, kinh doanh như quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt tài sản của mình.
Bảo đảm sự vận động nhanh chóng của các nguồn vốn đầu tư bằng việc quy định
chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn của mình.
Ngoài ra, chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh, lựa
chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh và chủ động điều chỉnh quy mô và ngành,
nghề kinh doanh theo nhu cầu và năng lực của mình. Ngược lại, các chủ thể kinh doanh
cũng có quyền từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy định của pháp luật hoặc
tiến hành khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và tham gia tố
tụng bình đẳng theo quy định của pháp luật[19].
3.4. Luật kinh tế điều chỉnh và giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh
Hoạt động kinh doanh trên thực tế rất đa dạng, phong phú và thường có nhiều quan
hệ đan xen với nhau. Luật kinh tế ghi nhận quá trình xác lập, thực hiện, chấm dứt cùng
những hệ quả phải giải quyết đối với các hành vi kinh doanh. Tranh chấp phát sinh trong
kinh doanh là vấn đề tất yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, do đó Luật kinh tế đã
dự liệu các hình thức giải quyết tranh chấp để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong quá trình kinh doanh bằng các chế định về cách thức tổ chức, thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của các cơ quan tài phán kinh tế.
Việc sử dụng pháp luật kinh tế để giải quyết các tranh chấp giữa các bên trước hết
đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh doanh muốn giải quyết vụ việc của mình một cách
thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả. Từ khi đàm phán ký kết hợp đồng hoặc các giao kết
kinh tế khác, các chủ thể có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất.
Ngay cả trong trường hợp không có thỏa thuận này pháp luật kinh tế cũng thừa nhận một
số hình thức cơ bản như hòa giải hoặc tố tụng tại tòa án có thẩm quyền và quyết định của
tòa án có giá trị buộc các bên tham gia phải thực hiện. Không chỉ có cơ quan tòa án, pháp
luật kinh tế cũng thừa nhận và quy định chặt chẽ hình thức giải quyết tranh chấp giữa các
bên trong hoạt động kinh doanh thông qua hình thức tố tụng tại các trung tâm trọng tài lOMoAR cPSD| 61096931
thương mại và quyết định hợp pháp của trọng tài thương mại cũng có giá trị chung thẩm
và đảm bảo thi hành như các quyết định của tòa án. Kể cả trong trường hợp không có thỏa
thuận trọng tài từ trước, các bên tranh chấp có thể thiết lập thỏa thuận trọng tài thương mại
sau khi xảy ra tranh chấp kinh doanh. Bên cạnh đó, luật kinh tế chỉ ra thẩm quyền giữa các
cơ quan tố tụng hoặc giải quyết tranh chấp một cách rõ ràng để đảm bảo quyền tự quyết,
bình đẳng giữa các bên trong hoạt động kinh doanh.
3.5. Luật kinh tế quy định về các biện pháp giải quyết việc giải thể, phá sản chủ thể kinh doanh
Khi chủ thể kinh doanh mong muốn hoặc không đủ điều kiện, khả năng hoạt động
kinh doanh có thể lựa chọn các hình thức hoặc trình tự nhất định để chấm dứt. Đối với mỗi
trình tự nhất định, các chủ thể kinh doanh đều phải tuân theo các quy định của pháp luật
chuyên ngành để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan và được
pháp luật bảo về những quyền lợi của chính mình.
Ví dụ, khi chủ thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh hoặc hết thời hạn đã
đăng ký thì có quyền thực hiện các thủ tục để giải thể hoặc tuyên bố chấm dứt hoạt động
kinh doanh theo trình tự, thủ tục hành chính và xóa tên trên cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng
ký kinh doanh (Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp Quốc gia). Tuy nhiên, khi một chủ
thể kinh doanh không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong một thời hạn nhất
định thì có thể phải áp dụng thủ tục phá sản để tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản.
Luật Phá sản năm 2014 ra đời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế đất nước
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo đảm cụ thể hoá và không có sự xung đột
giữa các quy định của Luật Phá sản với các quy định của các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên. Luật Phá sản bảo đảm trình tự và thủ tục giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản dân chủ, công khai, nhanh gọn, công bằng, thuận lợi; đề
cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình giải quyết yêu cầu
mở thủ tục phá sản nhưng quan trọng hơn cả là Luật kinh tế nói chung và Luật Phá sản nói
riêng đã tạo ra cơ chế đảm bảo cho chủ thể kinh doanh bị lâm vào tình trạng phá sản có cơ
hội phục hồi theo chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Đặc biệt, đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có khả năng phục hồi
hoạt động sản xuất kinh doanh, thoát khỏi tình trạng thua lỗ, phá sản; bảo đảm tối đa quyền
lợi của người lao động.
Việc Luật kinh tế quy định các trình tự, thủ tục về phá sản là góp phần tăng cường
pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp,
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật
và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Không những thế, với các quy định liên
quan, pháp luật kinh tế về phá sản và giải thể các chủ thể kinh doanh đã đề cao vai trò,
trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động giải
quyết yêu cầu giải thể và tuyên bố phá sản. Pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ
thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh vì lý do nào đó hoặc trong tình trạng sản
xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự. lOMoAR cPSD| 61096931
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP
ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT KINH TẾ
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế
Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của các tổ
chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá
trình lâu dài và liên tục vì thị trường luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải được
bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Mỗi ngành luật có đối tượng
điều chỉnh riêng, theo giáo trình này, Luật kinh tế điều chỉnh ba nhóm quan hệ xã hội sau:
1.1. Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản
lý về kinh tế với các chủ thể kinh doanh
Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh xác lập
địa vị pháp lý và đáp ứng các nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Các quan hệ này phát
sinh chủ yếu trong quá trình thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ về đăng ký
kinh doanh (nếu có), đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, công khai thông tin
về thành lập và hoạt động, báo cáo và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật kinh tế có liên quan.
Thứ hai, chủ thể kinh doanh thực hiện các công việc nhằm đáp ứng đủ điều kiện
kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Thứ ba, chủ thể kinh doanh tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính,
thống kê, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đặc điểm của nhóm quan hệ xã hội này là các quan hệ quản lý kinh tế phát sinh và
tồn tại giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể kinh doanh khi các cơ quan quản
lý thực hiện chức năng quản lý của mình. Các chủ thể tham gia quan hệ này ở vào vị trí bất
bình đẳng, vì quan hệ này hình thành và được thực hiện dựa trên nguyên tắc quyền uy, phục
tùng với một bên luôn là cơ quan Nhà nước. Các chủ thể kinh doanh phải thực hiện theo
quy định của pháp luật về hồ sơ báo cáo, đăng ký kinh doanh, thủ tục tổ chức lại, khiếu
nại, tố cáo… theo đúng trình tự pháp luật, đồng thời phải tuân thủ các quyết định, xử lý vi
phạm của cơ quan có thẩm quyền. Cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ
quan tố tụng thực hiện chức năng của mình thông qua các văn bản pháp lý do các cơ quan
quản lý có thẩm quyền ban hành.
Tóm lại, nhóm quan hệ này thể hiện sự quản lý kinh tế của Nhà nước và diễn ra khi
các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình. Các chủ thể trong
mối quan hệ này không bình đẳng về mặt pháp lý, các chủ thể bị quản lý phải phục tùng
mệnh lệnh, ý chí của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
1.2. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau lOMoAR cPSD| 61096931
Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh thực hiện
các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chủ thể của nhóm quan hệ
này chủ yếu là các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia
trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tự nguyên không bị áp đặt. Đây là nhóm quan hệ
chủ yếu và phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này là chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh
doanh nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, trên cơ sở thống
nhất ý chí của các bên thông qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng kinh tế hoặc những
thoả thuận hợp tác kinh doanh. Chủ thể của nhóm quan hệ này chủ yếu là các chủ thể kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ này trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng và các bên cùng có lợi. Đặc trưng đặc biệt của nhóm quan hệ này là nhóm quan
hệ tài sản và quan hệ hàng hoá- tiền tệ.
1.3. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ các chủ thể kinh doanh
Các chủ thể kinh doanh khi tham gia kinh doanh hình thành nên các đơn vị kinh
doanh độc lập tương đối với nhau. Các hình thức kinh doanh mà các chủ thể có thể chọn
như các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh. Nhóm quan hệ kinh tế phát
sinh trong nội bộ của các chủ thể kinh doanh bao gồm các quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình hoạt động kinh doanh giữa tổng công ty, tập đoàn kinh tế và các đơn vị thành viên
cũng như giữa các cá nhân là thành viên của của chủ thể kinh doanh đó với nhau. Ví dụ,
trong quá trình hoạt động kinh doanh các cá nhân, tổ chức tham gia góp vốn thành lập
doanh nghiệp, bản thân các thành viên trong doanh nghiệp có thể mâu thuẫn quyền lợi,
nghĩa vụ với nhau hoặc mâu thuẩn giữa thành viên với doanh nghiệp dẫn đến tranh chấp
cần sự điều chỉnh của luật.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này là trực tiếp phát sinh trong nội bộ nên cơ sở pháp
lý điều chỉnh các mối quan hệ trên gồm các quyết định thành lập, nội quy, quy chế, điều lệ,
cam kết. Đây không phải là nguồn luật và không phải là căn cứ pháp lý áp dụng chung cho
tất các các chủ thể kinh doanh, mà chúng chỉ có hiệu lực, giá trị pháp lý ràng buộc giữa các
thành viên, đơn vị trong tổ chức kinh doanh nhất định.
Điều lệ của doanh nghiệp, hợp tác xã: Là bản cam kết giữa các chủ sở hữu doanh
nghiệp nhằm xác lập các nội dung về danh tính công ty, cách thức thành lập, góp vốn, bộ
máy tổ chức, quản lý, hoạt động của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại v.v…. để
hoạt động suôn sẻ và tránh những rắc rối, tranh chấp trong nội bộ công ty. Như vậy, điều
lệ doanh nghiệp không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà có thể hiểu đây là một cam
kết được đồng ý bởi các chủ sở hữu doanh nghiệp, giữa những người sáng lập với nhau
cũng như giữa những người sáng lập với những người góp vốn (thành viên hợp danh, thành
viên góp vốn vào công ty hợp danh, thành viên công ty TNHH, cổ đông) nhằm xác lập các
nội dung về danh tính doanh nghiệp, cách thức thành lập, góp vốn, bộ máy tổ chức, quản
lý, hoạt động của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại và những nội dung khác. Điều
lệ doanh nghiệp trước hết có thể xem là một bản hợp đồng được đồng ý bởi các bên trong
công ty mang tính chất quy định. Nó được xây dựng dựa trên các khuôn khổ, hành lang
pháp lý mà pháp luật đề ra mặt khác, doanh nghiệp lại được phép tự do chỉnh sửa, miễn là
không trái pháp luật. Xét về mặt điều hành, điều lệ doanh nghiệp được hiểu như là “luật lOMoAR cPSD| 61096931
của doanh nghiệp” trong đó doanh nghiệp có thể tự điều chỉnh hoạt động của mình một
cách có ý chí riêng mà lại không trái pháp luật. Xét về mặt kinh doanh, điều lệ đóng một
vai trò quan trọng không kém vì nó cho biết cơ cấu, nội dung doanh nghiệp, cách thức kinh
doanh, hoạt động mà doanh nghiệp đề ra cho người mong muốn góp vốn hay giao dịch với
công ty. Cũng bởi lẽ đó mà những đối tác đầu tư, những khách hàng luôn quan tâm, tìm
hiểu kỹ về điều lệ trước khi cam kết điều gì. Bên cạnh đó, khách hàng cũng cần biết ai sẽ
là người ký kết hợp đồng với họ, bởi thông qua điều lệ công ty, pháp luật có quy định ai là
người đại diện. Để hoạt động suôn sẻ, tránh được những tranh chấp phát sinh và rắc rối với
pháp luật, doanh nghiệp cần quan tâm một số điểm cơ bản trong cách soạn thảo thành lập
điều lệ công ty như sau: Điều lệ không được trái với các quy định của pháp luật và không
xâm phạm quyền lợi của bên thứ ba; điều lệ công ty là một hợp đồng nhiều bên dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận để quy định quyền và nghĩa vụ của các bên, tổ chức quản
lý, hoạt động của công ty; điều lệ phải có đủ các nội dung chủ yếu quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020.
Theo quy định của pháp luật về kinh tế, điều lệ doanh nghiệp, hợp tác xã đều phải được
lưu giữ tại doanh nghiệp, đồng thời nộp một bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi thành
lập hoặc khi có sửa đổi các nội dung trong điều lệ doanh nghiệp.
Nghị quyết, quyết định... trong nội bộ doanh nghiệp. Đây là các văn bản trong quản
lý và điều hành doanh nghiệp. Nó không phải là văn bản quy phạm pháp luật, nhưng lại là
nguồn luật quan trọng để tham chiếu hoặc căn cứ vào đó các thành viên, chủ sở hữu doanh
nghiệp tiến hành các thủ tục hành chính, tư pháp hợp pháp. Cơ quan quản lý nhà nước hoặc
cơ quan tố tụng cũng có thể căn cứ vào loại văn bản này để giám sát, quản lý hoặc đưa ra
những phán quyết hoặc quyết định theo thẩm quyền của mình.
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế
Luật kinh tế sử dụng hai phương pháp điều chỉnh cơ bản là phương pháp bình đẳng,
thỏa thuận và phương pháp mệnh lệnh, quyền uy. Đây là những phương pháp mà nhà nước
tác động lên các quan hệ kinh tế làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt
theo ý chí của nhà nước.
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận thể hiện quyền tự do lựa chọn cũng như thể hiện
sự ưng thuận của các chủ thể kinh doanh trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh của
mình như tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, mô hình kinh doanh,
tự do lựa chọn đối tác kinh doanh...
Phương pháp mệnh lệnh thể hiện quyền của chủ thể quản lý nhà nước đối với các
chủ thể kinh doanh. Theo đó, các chủ thể kinh doanh phải tuân thủ các quy định về điều
kiện, trình tự, thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức quản lý... do luật định.
Tuy nhiên do Luật kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ quản lý kinh tế giữa chủ thể không
bình đẳng (khi có sự tham gia của Nhà nước) vừa điều chỉnh quan hệ bình đẳng về tài sản
giữa các chủ thể với nhau phát sinh trong quá trình kinh doanh cho nên ngành luật này sử
dụng và phối hợp cả hai phương pháp tác động trên nhưng ở mức độ linh hoạt tuỳ theo
từng quan hệ kinh tế cụ thể. Đặc biệt, với sự hội nhập kinh tế quốc tế và các quy định mới
rất tiến bộ trong Hiến Pháp năm 2013, phương pháp điều chỉnh của ngành luật này cũng
được bổ sung và thay đổi phù hợp. Theo đó, phương pháp mệnh lệnh trong điều chỉnh pháp lOMoAR cPSD| 61096931
lý các hoạt động kinh doanh hầu như không còn được áp dụng rộng rãi. Các quan hệ tài
sản với mục đích kinh doanh được trả lại cho chúng nguyên tắc tự do ý chí, tự do giao kết
của tất cả các bên. Các mệnh lệnh hành chính trái với quy luật thị trường được dần bãi bỏ,
thay vào đó các chủ thể kinh doanh được tự do kinh doanh tất cả các ngành nghề, lĩnh vực
mà pháp luật không cấm[20]. Hay nói một cách khác, cơ quan Nhà nước muốn cấm hoặc
hạn chế các chủ thể kinh doanh bất kỳ ngành nghề nào phải được ghi nhận hoặc tuyên bố
trước trong các đạo luật do Quốc hội ban hành.
Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh mối quan hệ giữa các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể kinh doanh. Trong mối quan hệ này cơ
quan Nhà nước có quyền đưa ra các quy định buộc các chủ thể kinh doanh phải tuân theo.
Với cách thức tác động đó cho thấy vị trí bất bình đẳng giữa bên quản lý và bên bị quản lý,
bên bị quản lý buộc phải thực hiện ý chí của cơ quan quản lý đã thể hiện tính chất phục
tùng mệnh lệnh. là điều chỉnh các qua hệ kinh tế bằng cách quy định cho các cơ quan quản
lý nhà nước về kinh tế trong phạm vi chức năng của mình có quyền ra quyết định chỉ thị
bắt buộc đối với các chủ thể kinh doanh (bên bị quản lý), còn bên bị quản lý có nghĩa vụ
thực hiện quyết định đó
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận được sử dụng điều chỉnh các nhóm quan hệ kinh
tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh hoặc nhóm quan hệ phát sinh trong nội bộ đơn vị
kinh doanh. Trong các quan hệ này, các chủ thể khi tham gia vào quá trình kinh doanh có
quyền bình đẳng, thỏa thuận với đối tác những vấn đề mà các chủ thể hướng tới để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Pháp luật đồng thời cũng phải thể hiện sự tôn trọng quyền tự
quyết của các chủ thể kinh doanh trong các hoạt động kinh doanh.
Như vậy, phương pháp bình đẳng, thỏa thuận được sử dụng chủ yếu điều chỉnh các
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh để đảm bảo giữa các chủ thể có sự
bình đẳng về địa vị pháp lý với nhau và đảm bảo quyền tài sản của các bên. Bản chất của
phương pháp này thể hiện ở chỗ Luật kinh tế quy định cho các bên tham quan hệ kinh tế
có quyền bình đẳng với nhau, thoả thuận những vấn đề mà các bên quan tâm khi thiết lập
hoặc chấm dứt quan hệ kinh tế mà không bị phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào. Điều này còn có nghĩa rằng pháp luật chỉ điều chỉnh khi và chỉ khi các quan hệ
kinh tế được hình thành trên cơ sở sự thống nhất ý chí của các bên và không trái với các
quy định của nhà nước.
III. NGUỒN CỦA LUẬT KINH TẾ
Nguồn của Luật kinh tế là tổng hợp tất cả các văn bản pháp luật và các hình thức
khác chứa đựng những quy phạm liên quan đến kinh doanh.
1. Các văn bản quy phạm pháp luật
Hiến pháp: Hiến pháp 2013 thể hiện là đạo luật cơ bản, còn các vấn đề cụ thể sẽ
được xác định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước.
Các văn bản luật như: Luật Doanh nghiệp 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
tác động tích cực để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy huy động
vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp; góp phần duy trì tăng trưởng
và giải quyết các vấn đề xã hội. Luật Hợp tác xã 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành lOMoAR cPSD| 61096931
ra đời nhằm tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức kinh tế tập thể phát triển, góp phần vào việc
hoàn thiện quan hệ sản xuất và vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Luật
Cạnh tranh 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành bao gồm cả các chế tài nghiêm khắc
đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh làm ảnh
hưởng xấu đến môi trường kinh doanh bình đẳng. Luật Trọng tài Thương mại 2010 và các
văn bản hướng dẫn thi hành quy định về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở
thành Trọng tài viên, quy định về trọng tài vụ việc, thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi
nhận mối quan hệ giữa Trọng tài và Toà án bằng một loạt các quy định cụ thể như hỗ trợ
thi hành thỏa thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, giải quyết khiếu nại về thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu huỷ quyết
định trọng tài, lưu trữ hồ sơ trọng tài v.v… Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và các văn bản
hướng dẫn thi hành nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng dân chủ, công khai, đơn giản,
thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai
trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng dân sự. Luật Phá
sản 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong tình trạng sản xuất kinh doanh khó
khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự.
Nghị quyết của Quốc hội về kinh tế như: Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm.
Nghị quyết, nghị định của Chính phủ về kinh tế.
Nghị quyết của Chính phủ dùng để ban hành các chủ trương, chính sách lớn quy
định nhiệm vụ, kế hoạch, ngân sách nhà nước và các công tác khác trong quá trình thực
hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân.
Nghị định là chính phủ ban hành dùng để hướng dẫn luật hoặc quy định những việc
phát sinh mà chưa có luật hoặc pháp lệnh nào điều chỉnh. Mặt khác, nghị định do Chính
phủ ban hành để quy định những quyền lợi và nghĩa vụ của người dân theo Hiến pháp và
Luật do Quốc hội ban hành.
Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư, chỉ thị của Bộ trưởng về
kinh tế nhằm hướng dẫn các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật như; Luật,
Nghị quyết, Nghị định….
2. Các Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định,
định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác[21].
Nói chung, các điều ước quốc tế do Việt Nam ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập thực
tế vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật nước ta. Khi các điều ước