



















Preview text:
 
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN 
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG VÀ NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM  ----- ! & # -----     
TS. LÝ THỊ MINH HẰNG         
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI 
(Giáo trình lưu hành n i b ộ )  ộ                       Hà Nội - 2015  Chương 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI   
Bất kỳ hiện tượng nào nảy sinh trong đời sống xã hội hoặc liên quan 
đến đời sống xã hội đều được gọi là hiện tượng xã hội. Các hiện tượng xã hội 
chính là nguồn gốc tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội. Chiến tranh, khủng 
bố…là những hiện tượng xã hội tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội nhất định 
như tâm trạng lo lắng của xã hội, thái độ phản đối chiến tranh…Như vậy, tâm 
lý xã hội là sự phản ánh các hiện tượng xã hội. Các hiện tượng xã hội diễn ra 
theo quy luật xã hội nhưng bất kỳ một hiện tượng xã hội nào cũng có mặt tâm 
lý xã hội của nó, bởi lẽ chủ thể của các hiện tượng xã hội chính là con người 
với tinh thần, ý thức của mình. 
1.1. Khái niệm tâm lý xã hội 
1.1.1. Định nghĩa tâm lý xã hội 
Trong đời sống tâm lý của con người, có những hiện tượng tâm lý cá 
nhân thuộc về từng người, mang sắc thái riêng phản ánh nội dung đời sống xã 
hội. Tuy nhiên, con người liên tục tham gia vào các nhóm xã hội, có sự tác 
động qua lại với những cá nhân khác biểu lộ thái độ đánh giá, mong muốn 
của bản thân và của người khác, nhận biết người khác, ảnh hưởng và bị ảnh 
hưởng của người khác. Vì thế, tâm lý cá nhân một mặt chịu sự quy định của 
nhóm xã hội và tương tác xã hội, mặt khác điều chỉnh hành vi của bản thân 
cho phù hợp với yêu cầu và tình huống tương tác. Tất yếu làm nảy sinh các 
hiện tượng tâm lý chung ở nhiều cá nhân trong một nhóm, một cộng đồng, 
một dân tộc. Đó là các hiện tượng tâm lý xã hội. 
Tâm lý xã hội là những hiện tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội 
cụ thể nảy sinh trong quá trình tác động qua lại, giao tiếp và hoạt động cùng 
nhau của các cá nhân trong nhóm. Các hiện tượng tâm lý xã hội điều khiển, 
điều chỉnh hoạt động cùng nhau của các thành viên và của nhóm xã hội.   1
Tâm lý xã hội cần được phân biệt với hệ tư tưởng. Mặc dù đều là 
những yếu tố cấu thành ý thức xã hội nhưng chúng phản ánh tồn tại xã hội ở 
những trình độ khác nhau và có mối quan hệ tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn 
nhau. Tâm lý xã hội thuộc trình độ ý thức xã hội thông thường còn hệ tư 
tưởng ở trình độ ý thức lý luận. Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi 
hoặc gây khó khăn cho việc hình thành, phát triển, xâm nhập và phát huy ảnh 
hưởng của hệ tư tưởng trong đời sống xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng khoa học 
là kết quả của quá trình tư duy tự giác, có khả năng phản ánh được chính xác 
bản chất của hiện thực nên nó có thể tác động, thúc đẩy sự phát triển của 
những yếu tố tích cực của tâm lý xã hội, giúp định hướng, hình thành tâm lý 
xã hội lành mạnh. Trong khi đó, hệ tư tưởng phản khoa học sẽ kích thích 
những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển. Mặc dù giữa hệ tư tưởng 
và tâm lý xã hội có mối quan hệ biện chứng nhưng tâm lý xã hội không làm 
nảy sinh ra hệ tư tưởng và hệ tư tưởng cũng không phải là sự biểu hiện trực 
tiếp của tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng đóng vai trò quan trọng trong việc cung 
cấp các khung lý thuyết cho tâm lý học xã hội. Nhiều nghiên cứu lớn trong 
tâm lý học xã hội có liên quan đến các sự kiện quan trọng trong xã hội như 
phong trào bình đẳng cho phụ nữ và các nghiên cứu liên quan đến vấn đề giới. 
1.1.2. Phân loại các hiện tượng tâm lý xã hội 
*Các hệ thống động cơ tạo thành xu hướng vận động của xã hội: Nhu 
cầu xã hội, lợi ích xã hội, tâm thế xã hội… 
Nhu cầu xã hội: Là những đòi hỏi tất yếu, hợp quy luật, đảm bảo cho sự 
tồn tại và phát triển của một nhóm xã hội, một cộng đồng. Nhu cầu là nguồn 
gốc nội tại căn bản thúc đẩy hoạt động của các nhóm xã hội, là sự đòi hỏi của 
nhóm về những điều kiện sống và phát triển nhất định. Nó quy định xu hướng 
lựa chọn các ý nghĩ, rung cảm, ý chí hoạt động của các nhóm xã hội. Khác 
với nhu cầu cá nhân, nhu cầu xã hội là trạng thái tâm lý tồn tại ở những con 
người cụ thể đã đồng nhất mình với nhóm mà anh ta là thành viên. Trạng thái 
tâm lý này xuất hiện khi các thành viên trong nhóm cảm thấy cần phải có   2
những điều kiện vật chất hay tinh thần nào đó để nhóm có thể tồn tại và phát 
triển. Như vậy, nhu cầu xã hội chỉ xuất hiện khi nhóm đã hình thành.   
Lợi ích xã hội: Xuất phát từ nhu cầu của các nhóm xã hội, mọi người 
cùng nhau hoạt động để thỏa mãn nhu cầu. Những hoạt động nào thực sự đem 
lại sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà nhóm xã hội nhận thức được đầy 
đủ về giá trị đích thực của nó cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân và cộng 
đồng thì được gọi là lợi ích xã hội. 
*Các quá trình tâm lý xã hội: Dư luận xã hội, tâm trạng xã hội… 
Dư luận xã hội là những phán đoán, đánh giá và thái độ biểu cảm của 
nhóm xã hội đối với một sự kiện, hiện tượng nào đó có ảnh hưởng đến sự tồn 
tại và phát triển của nhóm. Dư luận xã hội là biểu hiện của lý trí nhưng quá 
trình hình thành nên dư luận xã hội bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cảm xúc. 
Tâm trạng xã hội là trạng thái cảm xúc chiếm ưu thế của các nhóm xã 
hội tồn tại trong một khoảng thời gian xác định. 
*Các hiện tượng tâm lý xã hội thực hiện chức năng duy trì sự tồn tại xã 
hội: Truyền thống, phong tục … 
Truyền thống là những giá trị tinh thần, tư tưởng thể hiện trong kết quả 
quá trình hoạt động của các nhóm xã hội được ghi lại dưới hình thức các khái 
niệm, nghi lễ, cách thức hành vi ứng xử của các thành viên trong nhóm xã hội 
đối với các quan hệ xã hội. Truyền thống mang tính độc đáo riêng của mỗi 
cộng đồng, mỗi nhóm xã hội nó phản ánh quan hệ đa dạng và xảy ra trong các 
quan hệ người- người khi cùng nhau hoạt động. Truyền thống lưu giữ những 
kinh nghiệm lịch sử phát triển của xã hội, truyền lại cho thế hệ sau qua những 
lễ nghi, thể thức hành vi và biểu lộ cẩm xúc của con người trong các quan hệ 
xã hội- là một trong nhiều hình thức xây dựng ý thức nhóm, ý thức xã hội. 
Phong tục: Là tổng hợp những hành vi ứng xử tương đối ổn định trong 
các quan hệ xã hội theo một thể thức sinh hoạt bền vững của các nhóm xã hội. 
Phong tục có tính chuẩn mực, mọi người cứ thế noi theo, làm theo không cần   3
bàn cãi, tranh luận. Phong tục có tính bền vững, ổn định nên cần thay đổi thì 
rất chậm chạp, có phong tục trở thành hủ tục. 
1.2. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển Tâm lý học xã hội 
Việc chỉ ra những dấu mốc cơ bản trong lịch sử của Tâm lý học xã hội 
nhằm tới hai mục đích. Thứ nhất, có được bức tranh chung về tiến trình ra đời 
và phát triển của Tâm lý học xã hội với tư cách là một ngành khoa học. Thứ 
hai, giúp chỉ ra được bản chất của Tâm lý học xã hội, về các vấn đề Tâm lý 
học xã hội giải quyết, về sự phát triển trong các quan niệm về đối tượng của  Tâm lý học xã hội.   
1.2.1. Những tiền đề làm nảy sinh Tâm lý học xã hội   
Giống nhiều bộ môn khoa học khác, các tư tưởng riêng lẻ đề cập 
đến các hiện tượng tâm lý xã hội đã xuất hiện từ thời Cổ đại dưới hình thức 
chung nhất là các tư tưởng và học thuyết Triết học. 
* Quan điểm của một số nhà triết học Hy lạp cổ đại 
Tư tưởng Tâm lý học xã hội có từ thời Cổ đại. Tiêu biểu là các nhà 
Triết học như Platon, Aristotle…đã tìm hiểu sâu sắc mối quan hệ giữa cá 
nhân và xã hội, tìm hiểu phong tục, quy ước, vai trò của giới và cuộc sống gia 
đình, cá nhân và quan hệ chính trị … 
Platon (427-374 TCN) trong luận thuyết về đạo đức xã hội và trong tác 
phác thảo về một xã hội lý tưởng của mình đã rất chú ý đến các quan hệ liên 
nhân cách. Ông cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của cá nhân đến sự ổn định của nhà 
nước. Trong tư tưởng của mình, ông đã quan tâm đến các kiểu loại nhân cách 
xã hội sau: 1) Những người luôn cố gắng làm vừa lòng người khác (người 
hướng tới xúc cảm); 2) Những người say sưa theo đuổi quyền lực và sự nổi 
danh (người hướng đến quyền lực); 3) Những người luôn có khao khát hiểu 
biết (người hướng đến tri thức). Ba kiểu nhân cách trên phản ánh ba yếu tố 
tâm lý của con người là tình cảm, ý chí và trí tuệ. 
Nhà triết học Aristotle (354-322 TCN) là một người mở đường vĩ đại 
của khoa học xã hội. Theo ông có ba động lực của sự liên kết con người: tình   4
bạn, sở thích và đồng nhất. Trong đó, tình bạn là động cơ của đa số các nhóm 
xã hội. Aristotle đánh giá cao vai trò của các nhóm xã hội đối với con người. 
Ông cho rằng, con người cần phải sống trong các nhóm xã hội như gia đình 
và nhà nước trong đó gia đình là nhóm xã hội cơ bản nhất đối với con người. 
Quan điểm của ông vẫn còn rất phù hợp với xã hội hiện đại. Các tư tưởng về 
“Tâm lý dân tộc”- sự khác biệt trong tâm lý của dân tộc này với dân tộc khác, 
các “bản năng đám đông” có thể tìm thấy trong công trình của Aristotle. 
G.Allport cho rằng người đặt nền móng cho các vấn đề của Tâm lý học 
xã hội là Platon. Nói cách khác, các mầm mống Tâm lý học xã hội đã được 
gieo từ thời cổ đại, chính trên mảnh đất là cuộc sống xã hội của con người. 
Mặc dù những quan điểm của họ còn khá xa với tri thức của Tâm lý học xã 
hội hiện đại nhưng chủ nghĩa nhân văn của họ đã ảnh hưởng quan trọng đến 
những tư tưởng của nhiều nhà nghiên cứu ở Châu Âu sau này. 
* Một số quan điểm về xã hội và cá nhân của các nhà tư tưởng La Mã 
Một trong những đại biểu tiêu biểu của các nhà tư tưởng La Mã là 
M.T.Cicero, ông nghiên cứu con người và xã hội. Trong các nghiên cứu của 
mình ông rất quan tâm đến vấn đề pháp luật và cho rằng con người phải hành 
động như thế nào trong khuôn khổ của luật pháp xã hội. 
St. Augustine (354-430) là đại biểu xuất sắc về tư tưởng xã hội trong 
thời đại này. Những quan điểm về sự liên kết con người, vai trò của nhóm xã 
hội đối với việc hình thành quan điểm, thái độ của cá nhân được Tâm lý học 
xã hội hiện đại đánh giá cao và kế thừa. Tuy nhiên, quan điểm của ông bị ảnh 
hưởng lớn của tư tưởng duy tâm khách quan. Ông đánh giá cao vai trò của 
Chúa trời và các lực lượng thần thánh đối với cuộc sống thực tại của con 
người. Ông cho rằng cá nhân không chỉ có quan hệ tương tác với các cá nhân 
khác mà còn có quan hệ với Chúa. 
*Những học thuyết về khế ước xã hội 
Những người mở đường cho Tâm lý học xã hội hiện đại (theo chủ 
nghĩa nhân văn) là Thomas Hobber (1588-1679), Jonh Locke (1632- 1704) và   5
Jean Jacques Rousseau (1712-1778). Các học thuyết về khế ước xã hội của ba 
tác giả trên đã chỉ ra những ảnh hưởng giữa các cá nhân trong các mối tương  tác liên nhân cách. 
Học thuyết khế ước của T.Hobber được phát triển dựa trên ba yếu tố: 1) 
Định đề: Bản năng con người bị hạn chế và cô lập từ những người cùng tầng 
lớp hoặc từ tầng lớp đối lập của xã hội; 2) Nguyên nhân hoặc thiết lập các 
nguyên nhân: tại sao con người tự đặt mình vào các mối liên kết với ngươì 
khác; 3) Thiết lập các quy tắc đạo đức từ hai lý do trên. 
J.Locke không tin rằng tồn tại một nhà nước thời kỳ tiền xã hội. Ông 
cho rằng con người luôn sống trong xã hội, nhà nước trở thành phương tiện để 
chấn chỉnh sai trái, bất công và bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người về 
cuộc sống, tự do và sở hữu. 
J.J. Rousseau cho rằng xã hội không phải là tập hợp những con người 
khác nhau, bao gồm những lợi ích khác nhau mà phải là một cơ thể thống 
nhất trong đó mỗi thành viên là một phần không thể tách rời. 
So với học thuyết về khế ước xã hội của T.Hobber và J.Locke, thì học 
thuyết của J.J. Rousseau được đánh giá cao hơn. 
1.2.2. Những trường phái đầu tiên trong Xã hội học và Tâm lý học 
Sự hình thành Tâm l  ý h c ọ xã h i ộ d a ự trên c  ơ s  ở c a ủ nhi u ề ngành khoa h c ọ  nhân v n ă . Trong ó đ Xã h i ộ h c ọ và Tâm l  ý h c ọ ó đ ng vai trò đ c ặ bi t ệ quan trọng. 
Ở một khía cạnh nào đó có thể nói trường phái Xã hội học là nguồn gốc 
đích thực của Tâm lý học xã hội. Chức năng chính của trường phái Xã hội 
học đối với Tâm lý học là thúc đẩy sự tìm hiểu có tính bản chất vai trò của tổ 
chức xã hội đối với nhân cách con người. Đồng thời, nó cũng nghiên cứu bản 
chất động cơ của hành vi có tổ chức và động cơ của hành vi lệch chuẩn. Khi 
nói đến trường phái Xã hội học với tư cách là nguồn gốc của Tâm lý học xã 
hội, chúng ta phải nói đến một số đại diện tiêu biểu như: Comte, Tarde, 
Durkheim đã có những đóng góp có giá trị đối với Tâm lý học xã hội hiện đại. 
Comte đã giải thích hành vi của nhóm từ học thuyết về những phản ứng có   6
tính bản năng của cá nhân. Tarde lý giải hành vi của nhóm từ học thuyết 
tương tác các cá nhân. Durkheim lại quan tâm đến các kiểu loại hành vi của 
nhóm hơn là hành vi của các cá nhân. Đóng góp đặc biệt của ông đối với Tâm 
lý học xã hội là học thuyết về “ý thức tập thể”. Ngoài ra, còn một số đại biểu 
khác như: G.Lebon, E.A.Ross, I.Thomas… 
Sự đóng góp của Tâm lý học đối với Tâm lý học xã hội nhiều hơn so 
với các ngành khoa học khác, kể cả Xã hội học. Các nhà Tâm lý học đã đem 
đến cho Tâm lý học xã hội những thực nghiệm truyền thống, làm cơ sở quan 
trọng để xây dựng các thực nghiệm về các vấn đề Tâm lý học xã hội. Những 
đóng góp quan trọng này của một số trường phái tâm lý xuất hiện cuối thế kỷ 
XIX, đầu thế kỷ XX. Cột mốc có ý nghĩa đặc biệt đối với sự hình thành và 
phát triển Tâm lý học nói chung và Tâm lý học xã hội là việc Wundt thành lập 
phòng thực nghiệm Tâm lý học đầu tiên tại trường Đại học Leipzig (Đức) 
năm 1879. Đóng góp to lớn của thuyết hành vi do Watson (Mỹ) đã giúp nhiều 
nhà Tâm lý học phương Tây, đặc biệt là các nhà Tâm lý học Mỹ xác định đối 
tượng của Tâm lý học xã hội là hành vi xã hội của con người. Khi nói đến 
Tâm lý học Ghestal, chúng ta không thể không nhắc đến một đại biểu xuất sắc 
là K.Lewin. Ông là người tìm hiểu sâu sắc vấn đề nhóm, đặc biệt là nhóm 
nhỏ. Đồng thời, ông cũng là người sáng lập ra phương pháp nghiên cứu mới 
trong Tâm lý học xã hội “T group” (phương pháp nhóm T). 
1.2.3. Tâm lý học xã hội trở thành khoa học độc lập 
Tâm lý học xã hội với tư cách là một lĩnh vực chuyên biệt được bắt đầu 
bằng việc ra đời của 2 công trình nghiên cứu đầu thế kỷ XX. William 
McDougal là tác giả cuốn “Nhập môn Tâm lý học xã hội” (1908) và cùng 
năm, Edward A.Ross xuất bản cuốn Tâm lý học xã hội: Một phác thảo và 
sách nguồn. Mc.Dougal là một nhà Tâm lý học còn E.A.Ross là một nhà Xã 
hội học. Bởi vậy, sẽ là hợp lý khi nói rằng Tâm lý học xã hội ra đời từ 2 
ngành Tâm lý học và Xã hội học.  
 Suốt thời gian qua, Tâm lý học xã hội chia thành 2 xu hướng lớn:   7
Các nhà Tâm lý học xã hội Xô viết chú ý nhiều đến nghiên cứu đặc 
điểm tâm lý nhóm (giai cấp, tập thể), chú trọng nhiều việc nghiên cứu lý luận  hơn là tính thực tiễn. 
Các nhà Tâm lý học xã hội phương Tây quan tâm nhiều hơn đến nghiên 
cứu kinh nghiệm và hành vi xã hội của con người, chú ý nhiều đến nghiên 
cứu những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống: xung đột sắc tộc, tôn 
giáo, bạo lực…Tính thực tiễn, ứng dụng trong các nghiên cứu của Tâm lý học 
phương Tây được thể hiện rất rõ rệt. 
Lịch sử hình thành và phát triển của Tâm lý học xã hội thể hiện không 
chỉ qua việc giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản của ngành khoa học này 
mà còn thể hiện qua việc hình thành các lý thuyết của Tâm lý học xã hội cũng 
như việc vận dụng các lý thuyết này vào nghiên cứu ứng dụng. Dưới đây là 
những tư tưởng, nội dung cơ bản nhất của những lý thuyết được đánh giá là 
phản ánh nhiều hơn những vấn đề tâm lý xã hội của con người. Nó có ảnh 
hưởng to lớn, sâu sắc hơn đến việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực 
tiễn của Tâm lý học xã hội. 
- Các lý thuyết về học tập 
Trong số các lý thuyết về học tập, phải kể đến lý thuyết của Paplov, 
điều kiện tạo tác, học tập qua quan sát. Lý thuyết có sức mạnh lớn nhất đối 
với Tâm lý học xã hội là học tập hay tập quen qua quan sát. Các nhà nghiên 
cứu tiên phong về tập quen qua quan sát (Bandura, 1979) đã đưa ra các bằng 
chứng thuyết phục rằng chỉ cần quan sát các hình mẫu về xâm kích cũng đủ 
tạo ra sự xâm kích nhiều hơn ở trẻ em và sự xâm kích này tồn tại lâu dài. 
Chẳng hạn chúng ta học cách đánh nhau, học cách làm tổn thương người khác 
bằng cách quan sát những người có ảnh hưởng làm theo cách thức như vậy. 
Nói cách khác, con người phát triển những thái độ, xúc cảm về xâm kích và 
các hành vi xã hội khác thông qua quan sát những người khác: cha mẹ, thầy 
cô, bạn bè...Trong những năm gần đây ảnh hưởng của truyền hình đối với   8
hành vi con người cũng được nghiên cứu nhiều. Tuy nhiên, trải nghiệm của 
con người phức tạp hơn so với việc chỉ quan sát người khác.  - 
Lý thuyết nhận thức xã hội 
Thuyết nhận thức là một xu hướng tiêu biểu trong Tâm lý học hiện đại 
xuất hiện vào những năm 50-60 của thế kỷ XX. Nhiệm vụ chính của lý thuyết 
này là chứng minh vai trò quyết định của tri thức trong hành vi con người. 
Con người sử dụng thông tin trong quá trình ra quyết định như thế nào? Nói 
cách khác đây là sự diễn giải, tổ chức các phản ứng trước tác nhân của môi 
trường. Quan điểm cơ bản của các tác giả theo thuyết này cho rằng khi con 
người ý thức được các giá trị và thái độ của mình không nhất quán, họ sẽ trải 
nghiệm một cảm xúc khó chịu. Đến lượt mình, trạng thái này sẽ kích thích 
thay đổi hành vi hoặc tổ chức lại niềm tin và thái độ. Nguyên tắc cơ bản ở đây 
là con người luôn bị thúc đẩy phải tìm kiếm sự cân bằng và bình an bên trong  tâm hồn. 
Thông tin con người có được thông qua những trải nghiệm được lưu 
giữa trong trí nhớ hoặc từ những người khác, từ truyền thông. Theo cách đó, 
chúng ta thường ghi nhớ những điều thuận lợi với mong muốn và những điều 
ghi nhớ này có thể thay đổi theo thời gian. Còn những gì người khác hoặc 
truyền thông mang lại cho con người thường là có chủ ý thuyết phục công 
chúng theo một hướng nhất định. Bên cạnh đó, con người thường tin vào 
thông tin phù hợp với cách nhìn nhận của bản thân (theo động cơ, tâm trạng). 
Bởi những lý do đó mà thông tin cũng có những sự thiên lệch. 
-  Lý thuyết xử lý thông tin 
Thực tế cho thấy, những trải nghiệm của con người thường sâu sắc hơn 
những gì đơn giản mà con người quan sát được. Tại sao chúng ta lại chú tâm 
đến một số thông tin mà lại hoàn toàn bỏ qua một số thông tin khác? Lý 
thuyết xử lý thông tin cố gắng tìm ra nguyên nhân dẫn đến hành vi của con 
người trong quá trình xử lý thông tin để hiểu được bản thân chúng ta và người 
khác. Chúng ta luôn quan sát, cố gắng đánh giá, mã hóa thông tin và lưu giữ 
nó trong trí nhớ, phục hồi lại được những thông tin này. Lý thuyết xử lý thông   9
tin cho thấy tư duy của con người phần nhiều diễn ra một cách máy móc hoặc 
vô thức và con người không có khả năng mô tả quá trình tư duy của mình. 
- Lý thuyết về sự hợp lý và trao đổi xã hội 
Điều cơ bản của các lý thuyết này là tìm kiếm sự giải thích hành vi xã 
hội của con người theo khái niệm như tưởng thưởng, chi phí và lợi nhuận. Lý 
thuyết này chỉ ra rằng toàn bộ các mối quan hệ đều chứa đựng ba yếu tố cơ 
bản này. Phần thưởng ở đây có thể bao gồm sự vui sướng, thỏa mãn về mặt 
vật chất hoặc tinh thần. Chi phí có thể bao gồm sự chi tiêu tốn kém về kinh tế 
hoặc chi phí về mặt tâm lý. Ở mức độ nào đó, con người cân nhắc, tính toán 
lấy cái được trừ đi cái mất để xem có được lợi ích gì không. Lý thuyết này 
cho rằng trong các mối quan hệ bền lâu luôn luôn có yếu tố có lợi (cái được 
về kinh tế, xã hội hay tâm lý), trừ những hành động vị tha. Chúng ta cũng cần 
xem xét các chuẩn mực xã hội dựa trên nguyên tắc hợp lý (công bằng) đã 
được đề cập trong tư tưởng Khổng giáo thời Cổ đại. Có nghĩa là sự trao đổi 
công bằng, hợp lý có xu hướng cơ bản và phổ quát trong tâm lý con người.  Trên â đ y là m t ộ s  ố lý thuy t ế Tâm l  ý h c ọ xã hội. Nó đ n ơ gi n ả ch ỉlà các  công c  ụ giúp ta mô t 
ả và phân tích các hành vi xã h i ộ . M t ộ l  ý thuy t ế t t ố s  ẽ cung  cấp cho chúng ta s  ự hi u ể bi t ế sâu s c ắ đ  ể có cái nhìn v  ề th c ự t  ế xã h i ộ t t ố h n ơ .  Các l  ý thuy t ế khác nhau thư n ờ g chú ý đ n ế các hi n ệ tư n ợ g khác nhau c a ủ cùng  một v n ấ đ . ề M i ỗ l  ý thuy t ế đ u ề cung c p ấ m t ộ i đ ều h u ữ ích nh n ư g đ  ể hi u ể được  đầy đủ ơ h n ề v t ự h c t ễ i n xã ộ h i thì ầ c n có ấ t t ả c các ý l thu ế y t đó c ứ h không p ả h i  chỉ m t ộ l  ý thuy t ế đ n ơ l . ẻ 
1.3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học xã hội 
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội 
Xuất phát từ phương pháp luận và cách tiếp cận khác nhau, các nhà 
Tâm lý học đã xác định đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội như sau: 
Các nhà Tâm lý học Xô viết cho rằng đối tượng nghiên cứu của Tâm lý 
học xã hội là các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm hoặc của nhân cách (với 
tư cách là thực thể xã hội hay là kết quả quá trình xã hội hóa). Cách tiếp cận  1 0
này mang tính khái quát vì vậy đối tượng nghiên cứu được xác định ở phạm  vi rộng lớn.  Ở V ệ i t Nam, nh ề i u nhà nghiên c u ứ có quan đi m ể đ n ồ g nh t ấ v i ớ quan  đ ể i m ủ c a các nhà Tâm ý l ọ h c Xô v ế i t, cho ằ r ng đối ư t ợng nghiên ứ c u là các h ệ i n  tượng tâm l  ý xã h i ộ c a ủ nhóm. B i ở h  ọ đang ti p ế c n ậ v n ấ đ  ề trên c  ơ s  ở của thuy t ế  Tâm l  ý h c ọ v  ề ho t ạ đ n ộ g và tính quy đ n ị h c a ủ xã h i ộ đ i ố v i ớ tâm lý. 
Các nhà Tâm lý học phương Tây cho rằng đối tượng của Tâm lý học xã 
hội là hành vi mang tính xã h i ộ c a ủ cá nhân. Cách ti p ế c n ậ này ch ỉra đ i ố tư n ợ g  nghiên c u ứ c a ủ Tâm l  ý h c ọ xã h i ộ c  ụ th , ể rõ ràng h n ơ . Hành vi xã h i ộ đư c ợ hi u ể  là k t ế qu  ả c a ủ quá trình phát tri n ể tâm l  ý con ngư i ờ (Nhận th c ứ -Thái độ- Hành 
vi). Qua hành vi mà cá nhân th  ể hi n ệ trong các m i ố tư n ơ g tác xã h i ộ , chúng ta  hiểu đư c ợ nh n ậ th c ứ , tình c m ả , thái đ  ộ và các y u ế t  ố tâm l  ý khác c a ủ h . ọ Vì v y ậ ,  việc nghiên c u ứ hành vi xã hội c a ủ cá nhân là ph i ả tìm hi u ể m t ộ v n ấ đ  ề trong  quá trình phát tri n ể tâm l  ý h t ế s c ứ ph c ứ t p ạ c a ủ con ngư i ờ trong môi trư n ờ g xã  h i ộ - một s  ự phát tri n ể trong các m i ố tư n ơ g tác đa diện. 
Allport (1985) cho rằng: Tâm lý học xã hội là một “cố gắng tìm hiểu và 
lý giải xem suy nghĩ, tình cảm và hành vi của cá nhân bị ảnh hưởng bởi sự có 
mặt của những người khác như thế nào?”. Nói cách khác, Tâm lý học xã hội 
là một chuyên ngành nghiên cứu về nhận thức/tư duy xã hội, ảnh hưởng xã 
hội và quan hệ xã hội [10]. Phân tích các xu hướng nghiên cứu trên cho thấy 
Tâm lý học xã hội là lĩnh vực Tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng sau: a) 
Các hiện tượng tâm lý mang tính phổ biến, tiêu biểu của cộng đồng, tồn tại 
trong cá nhân sống và hoạt động trong một xã hội nhất định; b) Các hiện 
tượng tâm lý của cộng đồng xã hội được hình thành và phát triển trong quá 
trình hình thành và phát triển của cộng đồng đó. 
Tóm lại, Tâm lý học xã hội là một ngành khoa học tâm lý có đối tượng 
là các hiện tượng tâm lý xã hội được hình thành và phát triển gắn liền với sự  1 1
tồn tại và phát triển của xã hội và được thể hiện trong đời sống tâm lý của cá 
nhân ở các cấp độ khác nhau. Tâm lý học xã hội nghiên cứu bản chất, quy 
luật phát sinh, phát triển, diệt vong của các hiện tượng tâm lý xã hội; nghiên 
cứu cách thức, con đường để điều chỉnh và vận dụng các hiện tượng tâm lý 
đó vào các lĩnh vực hoạt động thực tiễn của con người. 
1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học xã hội 
Tâm lý học xã hội có nhiệm vụ phát hiện các đặc điểm, cơ chế, quy luật 
tâm lý xã hội và chỉ ra cách sử dụng chúng vào việc phát huy nhân tố con 
người trong các điều kiện hoạt động khác nhau. Bởi vậy, Tâm lý học xã hội là 
một khoa học bao gồm các tri thức lý luận và ứng dụng. 
 Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận: a) Xây dựng một hệ thống những phạm 
trù, khái niệm khoa học của Tâm lý học xã hội; b) Phát hiện những quy luật 
hình thành, phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội: Những quy luật của 
sự tác động qua lại giữa người với người trong nhóm, vai trò của cá nhân đối 
với nhóm và ngược lại; Những điều kiện chủ quan và khách quan của sự hình 
thành nên những hiện tượng tâm lý xã hội ; Những hình thái biến động của 
Tâm lý học xã hội trong những điều kiện khác nhau; c) Xây dựng những 
phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tâm lý học xã hội; d) Nghiên cứu hành 
vi của cá nhân trong mối liên hệ xã hội chung với những cá nhân khác và 
trong bối cảnh xã hội cụ thể. 
Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng: Tâm lý học xã hội quan tâm đến các 
vấn đề xã hội. Ngày nay, có nhiều ngành ứng dụng khác nhau của Tâm lý học  xã hội. Cụ thể là: 
a) Tâm lý học dân tộc: Đây là một chuyên ngành quan trọng của Tâm 
lý học xã hội, nghiên cứu tâm lý dân tộc và những biến đổi của tâm lý dân tộc 
gắn liền với những chuyển biến lịch sử diễn ra trong đời sống các dân tộc. 
Nhận thức được tính phong phú, đa dạng hay độc đáo của một dân tộc là yêu 
cầu cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và con người của một 
đất nước. Việc nghiên cứu tâm lý dân tộc còn góp một phần quan trọng trong  1 2
sự hiểu biết giữa các dân tộc, là cơ sở của các mối quan hệ hợp tác và liên kết 
giữa các nước với nhau. 
b) Tâm lý học xã hội trong công tác lãnh đạo, quản lý: Đây là một 
chuyên ngành mới của Tâm lý học xã hội, đi sâu nghiên cứu các hiện tượng 
tâm lý trong hệ thống quản lý, chỉ ra các đặc điểm, cơ chế và quy luật tâm lý 
đang có ảnh hưởng đến hoạt động này. Trên cơ sở đó nêu ra các yêu cầu về 
những phẩm chất tâm lý cần thiết của người lãnh đạo, quản lý và đối tượng 
quản lý, những biện pháp tâm lý để nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý. 
c) Tâm lý học xã hội trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh: Nghiên cứu 
nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, nghệ thuật bán hàng, thông tin quảng 
cáo…Trên cơ sở đó nêu ra những yêu cầu đối với cơ sở sản xuất về số lượng, 
chất lượng, hình thức các loại hàng hóa. Ngoài ra, nhiều hiện tượng xã hội 
phức tạp hơn như tâm lý tiêu dùng, sự chuyển đổi định hướng giá trị…cũng  được nghiên cứu. 
d) Tâm lý học xã hội trong công tác tư tưởng: Nghiên cứu dư luận xã 
hội, nguyện vọng, ý chí của quần chúng nhân dân trước đường lối, chủ 
trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, góp phần đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã 
hội dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. 
e) Tâm lý học kinh doanh: Nghiên cứu tâm lý người tiêu dùng, hành vi 
mua hàng của người tiêu dùng, khía cạnh tâm lý xã hội của hoạt động quảng 
cáo, marketing và các dịch vụ khác. 
Bên cạnh đó, còn có các hướng ứng dụng khác như Tâm lý học xã hội 
trong tín ngưỡng tôn giáo, trong giáo dục, y tế, trong hoạt động truyền thông 
đại chúng, trong giáo dục gia đình…Phạm vi ứng dụng của Tâm lý học xã hội 
rất rộng. Nó sẽ càng được mở rộng theo sự đòi hỏi của thực tiễn cũng như khả 
năng đáp ứng quá trình phát triển của nó. Trên đây chỉ là một số lĩnh vực ứng 
dụng của Tâm lý học xã hội vào cuộc sống và đã có những thành tựu trong  thực tiễn.  1 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu trong Tâm lý học xã hội 
1.4.1. Nguyên tắc phương pháp luận 
- Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng 
Nguyên tắc này nhấn mạnh vai trò quyết định của các điều kiện vật 
chất, điều kiện thực tiễn đối với các hiện tượng tâm lý xã hội. Mọi hiện tượng 
tâm lý xã hội đều có nguồn gốc từ tồn tại xã hội có thực. Do vậy, lý giải các 
hiện tượng tâm lý xã hội phải xuất phát từ các hiện tượng cụ thể trong đời 
sống xã hội, tìm tòi các nguyên nhân làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã 
hội trong đời sống xã hội hiện thực của con người. Đó chính là nguyên tắc 
duy vật trong nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. Ngược lại, các hiện 
tượng tâm lý xã hội khi đã hình thành nó có được sự độc lập tương đối với sự 
tồn tại xã hội và có sức mạnh riêng của nó. Nó có thể chi phối ngược lại đến 
các điều kiện xã hội tạo ra những thay đổi, những vận động nhất định. Chẳng 
hạn những hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận xã hội, truyền thống xã 
hội…có sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con người, của 
cộng đồng và thậm chí có thể tạo ra những sức mạnh làm thay đổi tiến trình 
lịch sử trong những thời điểm nhất định. Đó chính là lập trường biện chứng 
khi nhìn nhận, đánh giá, nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. Tâm lý học 
xã hội phải luôn lấy cơ sở mối quan hệ giữa tồn tại và ý thức xã hội làm nền 
tảng để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. 
- Nguyên tắc khách quan 
 Nguyên tắc này đòi hỏi khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội 
cần xem xét các sự vật, hiện tượng như vốn có trong hiện thực, không áp đặt 
ý muốn chủ quan của mình hoặc suy luận một cách thiếu căn cứ khoa học. Để 
thực hiện được điều đó, đòi hỏi người nghiên cứu phải có khả năng phát hiện 
các hiện tượng tâm lý xã hội, có khả năng lựa chọn, sử dụng các phương 
pháp, công cụ thu thập dữ liệu phù hợp, có độ tin cậy và độ hiệu lực cao. 
Đồng thời, người nghiên cứu phải có thái độ trung thực, khoa học trong thu 
thập và xử lý dữ liệu. Đảm bảo nguyên tắc khách quan sẽ cho những kết quả  1 4
nghiên cứu có giá trị thực sự, đúng với bản chất của các hiện tượng tâm lý xã  hội cần nghiên cứu. 
- Nguyên tắc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội trong mối quan 
hệ với các hiện tượng xã hội khác và các hiện tượng tâm lý xã hội khác 
Mọi hiện tượng tâm lý xã hội đều nảy sinh trong điều kiện sống nhất 
định. Vì vậy, để chỉ ra nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội thì người 
nghiên cứu phải tìm hiểu các hiện tượng có liên quan (hiện tượng xã hội và 
hiện tượng tâm lý xã hội). Các hiện tượng tâm lý xã hội không tồn tại một 
cách biệt lập mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, đồng 
thời chúng còn chi phối và chịu sự chi phối của các hiện tượng khác. Đặt các 
hiện tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu trong mối liên hệ với các hiện tượng 
xã hội cho phép chúng ta thấy rõ hơn nội dung, các mức độ, diễn biến của các 
hiện tượng tâm lý xã hội. Cũng chính vì thế, các hiện tượng tâm lý xã hội 
khác nhau có mối quan hệ tác động lẫn nhau như bản thân các điều kiện xã 
hội mà nó phản ánh. Mỗi hiện tượng tâm lý xã hội có vai trò, vị trí nhất định 
trong đời sống xã hội nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. 
- Nguyên tắc phát triển 
 Nguyên tắc này nhấn mạnh tiếp cận nghiên cứu các hiện tượng tâm lý 
xã hội trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó. Theo quan điểm biện 
chứng, sự vật, hiện tượng luôn vận động và biến đổi. Xã hội vì thế cũng vận 
động, biến đổi và phát triển theo các quy luật nhất định. Với tư cách là sự 
phản ánh đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh, hình thành 
và phát triển theo những quy định, chiều hướng nhất định. Với sự độc lập 
tương đối của chúng, các hiện tượng tâm lý xã hội có thể chuyển hóa lẫn 
nhau, tác động qua lại làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội mới. Vì thế, 
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội phải có cách tiếp cận đúng đắn là  tiếp cận phát triển. 
Những nguyên tắc nghiên cứu trên đây đã chỉ đạo việc tiếp cận, thu 
thập, phân tích và khái quát kết quả nghiên cứu. Để tiến hành nghiên cứu cần  1 5
lựa chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với mục 
đích và đối tượng nghiên cứu. 
1.4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể 
Tâm lý học xã hội là một khoa học được xây dựng trên hai dạng nghiên 
cứu cơ bản. Thứ nhất, nghiên cứu tương quan (kiểm tra cường độ và phương 
hướng của các mối quan hệ giữa các biến số mà ta đang quan tâm). Thứ hai, 
nghiên cứu thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, dựa vào việc điều khiển các 
biến số độc lập rồi quan sát tác động đối với các biến số phụ thuộc. Một số 
phương pháp thường được sử dụng sau đây. 
- Phương pháp quan sát 
Trong Tâm lý học xã hội, quan sát là tri giác các hiện tượng tâm lý xã 
hội cần nghiên cứu một cách có chủ định, có kế hoạch nhằm phát hiện các dữ 
kiện cần thiết cho các nghiên cứu. Đây là phương pháp được sử dụng phổ 
biến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Phương pháp này có thể 
được sử dụng độc lập hoặc cũng có thể được sử dụng như là một phương 
pháp bổ sung cho phương pháp khác. Có nhiều loại quan sát khác nhau: Quan 
sát tự nhiên hay quan sát trong phòng thí nghiệm, quan sát phát hiện hay quan 
sát kiểm định, quan sát ngắn hạn hay quan sát dài hạn. Tâm lý học xã hội hiện 
đại có mối quan tâm đặc biệt với một dạng của quan sát là quan sát tham gia, 
khi nhà nghiên cứu trở thành một thành viên của nhóm đang được nghiên 
cứu. Việc lựa chọn các hình thức quan sát phụ thuộc vào ý đồ, mục đích và 
điều kiện cụ thể của người nghiên cứu. Hiện nay, có thể sử dụng nhiều thiết bị 
hiện đại để hỗ trợ và lưu giữ các biểu hiện của hiện tượng cần nghiên cứu: các 
phương tiện ghi âm, ghi hình… 
Ưu điểm của phương pháp này là dễ tiến hành, chi phí thấp, linh hoạt. 
Đặc biệt, việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội thường diễn ra nhanh 
chóng, không lặp lại, việc sử dụng phương pháp này có lợi thế lớn vì tính linh 
hoạt của nó. Tuy vậy, hạn chế lớn nhất là nó phụ thuộc nhiều vào kinh 
nghiệm và tính chủ quan của nhà quan sát. Một người nghiên cứu ít kinh  1 6
nghiệm có thể bỏ qua những biểu hiện có vẻ không quan trọng nhưng lại là 
dấu hiệu bản chất của hiện tượng, hay người nghiên cứu có thể bỏ qua những 
dấu hiệu ít liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này đòi hỏi sự 
chú ý liên tục và lâu dài của người nghiên cứu bởi vì các hiện tượng cần 
nghiên cứu có thể diễn ra bất kỳ lúc nào có thể làm người nghiên cứu bị động. 
Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý là phương pháp này chủ yếu cung cấp các 
dữ liệu trực quan, cảm tính. Nó cung cấp các dữ liệu chủ yếu về các hành vi 
bên ngoài. Do đó, để sử dụng các dữ liệu này một cách hiệu quả cần kết hợp 
các dữ liệu thu được từ các phương pháp khác. 
- Phương pháp điều tra 
Đây là phương pháp được nghiên cứu phổ biến trong Tâm lý học xã 
hội. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng đặc biệt trong nghiên 
cứu tâm lý xã hội của nhóm lớn. Phương pháp này cho phép nghiên cứu trên 
lượng khách thể lớn với thời gian ngắn và có khả năng khái quát kết quả cao. 
Để thực hiện tốt phương pháp này, điều quan trọng nhất là xây dựng, thiết kế 
các câu hỏi. Vấn đề chính đối với khảo sát (bằng phiếu điều tra) đó là tính 
hiệu lực của các câu hỏi (nghĩa là khách thể nghiên cứu có cung cấp các câu 
trả lời trung thực hay không?). Người nghiên cứu phải xem xét kết quả thu 
được một cách cẩn trọng và cố gắng xếp sắp, dùng ngôn từ phù hợp hay sử 
dụng phương pháp thay thế. Các câu hỏi phải là câu đơn giản, chỉ chứa đựng 
một ý, được nhóm đối tượng đích hiểu rõ. Bên cạnh việc chuẩn bị cẩn thận 
các câu hỏi khảo sát, cần xem xét quá trình chọn mẫu để đảm bảo tính đại 
diện. Đây là phương pháp vẫn được xem là dụng cụ quan trọng cho Tâm lý 
học xã hội với những lĩnh vực liên quan đến thái độ. 
- Phương pháp thực nghiệm 
Phương pháp này nhằm tìm kiếm nguyên nhân và kết quả vẫn thu hút 
được sự chú ý của đa số các nhà Tâm lý học xã hội. Dạng nghiên cứu này 
thường được tiến hành trong môi trường có kiểm soát như trong phòng thực 
nghiệm. Một thực nghiệm phải có sự tham gia của các tác nhân kích thích  1 7
được mô phỏng từ cuộc sống thực tế. Tác nhân này lại phải được thể hiện sao 
cho nghiệm thể có thể tin được. Các nhà Tâm lý học xã hội điều khiển một 
vài yếu tố nào đó của tình huống (được gọi là biếu số độc lập) để quan sát tác 
động của nó tới các biến số khác (được gọi là biến số phụ thuộc). Để có các 
câu trả lời hay phản ứng trung thực, điều quan trọng là phải tạo cảm giác an 
toàn cho nghiệm thể, bảo đảm thông tin sẽ không được sử dụng với mục đích 
chống lại người trả lời. 
- Phương pháp trắc đạc xã hội 
 Là phương pháp nghiên cứu gắn với tên tuổi của J.Moreno. Ông cho 
rằng trong nhóm nhỏ tồn tại hai cấu trúc các mối quan hệ: cấu trúc vĩ mô và 
cấu trúc vi mô. Cấu trúc vĩ mô là các mối quan hệ về mặt công việc, hoạt 
động sống và chức năng của các cá nhân. Cấu trúc vi mô là cấu trúc quan hệ 
tâm lý của cá nhân với những người xung quanh thể hiện chủ yếu ở sự thiện 
cảm, ác cảm hay thờ ơ giữa các thành viên. Nguyên nhân của sự không trùng 
khớp là ở chỗ: Những người cùng hoạt động trong một không gian có thể là 
những người không có được sự thân thiện về mặt tâm lý. Do vậy, sử dụng 
phương pháp này có thể làm bộc lộ các cấu trúc ẩn dấu, những vị trí các nhân 
trong nhóm, chỉ ra các tiếp xúc xúc cảm, vị thế của cá nhân trong các quan hệ 
xúc cảm, ảnh hưởng của các mức độ quan hệ xúc cảm đến tính hiệu quả hay 
đến sự hình thành các chuẩn mực nhóm, đến hiện tượng áp lực nhóm…Để 
nghiên cứu các vấn đề đó, ông đưa ra phương pháp trắc đạc xã hội. Phương 
pháp này được sử dụng phổ biến để xác định các mối quan hệ liên nhân cách 
trong nhóm dựa trên sự lựa chọn, khước từ hoặc bỏ mặc của các thành viên 
trong nhóm với các thành viên khác của nhóm trong hoạt động chung. Nó còn 
được dùng để nghiên cứu các cấu trúc không chính thức của nhóm, đo lường 
vị thế của các cá nhân trong nhóm, khả năng hòa nhập của các cá nhân trong 
nhóm. Phương pháp này cho phép xác định các quan hệ xúc cảm qua lại giữa 
các thành viên trong nhóm, từ đó có thể xây dựng được một sơ đồ về cấu trúc 
vi mô, đồng thời xác định cách phân nhóm tối ưu làm cho cấu trúc vĩ mô phù  1 8
hợp với cấu trúc vi mô góp phần làm cho các nhóm gắn kết, hiệu quả hơn. 
Trắc đạc xã hội được thực hiện dưới dạng điều tra. Nhà nghiên cứu lựa chọn 
các tiêu chí trắc đạc cần quan tâm, sau đó điều tra sự lựa chọn của các cá nhân 
theo các tiêu chí trắc đạc đó. 
1.5. Tâm lý học xã hội trong mối quan hệ với các khoa học khác 
1.5.1. Tâm lý học xã hội với Triết học   
Với tư cách là khoa học chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy 
con người, Triết học cung cấp các cơ sở phương pháp luận cho Tâm lý học xã 
hội. Bất kỳ một hiện tượng tâm lý xã hội nào đều xuất phát từ các quan hệ xã 
hội sinh thành ra nó, tính lịch sử xã hội là bản chất của các hiện tượng tâm lý 
xã hội. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, quan hệ xã hội như thế nào 
thì sẽ sinh ra ý thức xã hội đó. Từ việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu, cách 
tiếp cận đối tượng nghiên cứu đến việc phân tích, giải thích, khái quát kết quả 
nghiên cứu, các nhà Tâm lý học xã hội đều dựa trên lập trường Triết học nhất 
định. Không thể có một nhà Tâm lý học xã hội nào mà không đứng trên một 
lập trường Triết học nhất định để giải quyết vấn đề tâm lý xã hội. 
1.5.2. Tâm lý học xã hội với Xã hội học   
Cấu trúc của Xã hội học gồm ba mức độ: Các lý thuyết xã hội học 
nói chung; Các lý thuyết xã hội học chuyên biệt; Các nghiên cứu xã hội học  cụ thể.   
Ở mức độ các lý thuyết Xã hội học nói chung, các vấn đề được 
quan tâm nghiên cứu như: Mối tương quan giữa tồn tại xã hội và ý thức xã 
hội, cấu trúc của ý thức xã hội và các hình thức của nó. Một trong những khía 
cạnh của vấn đề này là các trình độ phát triển của ý thức xã hội song song với 
việc phân tích trình độ cao nhất của ý thức xã hội là hệ tư tưởng thì trình độ 
thấp nhất của ý thức xã hội là tâm lý xã hội cũng nghiên cứu. Trong khi đó, 
tâm lý xã hội cũng là đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.   
Ở mức độ các lý thuyết xã hội học chuyên biệt, ta thấy có một vài 
cach tiếp cận giống như ở Tâm lý học xã hội: Dư luận xã hội, xã hội học  1 9