-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Giáo trình Văn hiến Việt Nam
Giáo trình Văn hiến Việt Nam
Văn hiến Việt Nam 9 tài liệu
Đại học Văn Hiến 63 tài liệu
Giáo trình Văn hiến Việt Nam
Giáo trình Văn hiến Việt Nam
Môn: Văn hiến Việt Nam 9 tài liệu
Trường: Đại học Văn Hiến 63 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Văn Hiến
Preview text:
VĂN HIẾN VIỆT NAM
Bài 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM
1.1. Định nghĩa về văn hóa
Nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ học vấn)
Nghĩa chuyên môn chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn lịch sử nhất định
Nghĩa rộng là bao hàm tất cả về phong tục tập quán, lối sống…
Cho đến nay, trên thế giới đã có hơn 400 định nghĩa về văn hóa và sau đây là một
số định nghĩa mang tính tiêu biểu:
- Unesco (2002): “Văn hóa nên được xem là tập hợp các đặc trưng tâm linh, vật
chất, trí tuệ và cảm xúc riêng biệt của một xã hội hay một nhóm người trong xã
hội, và ngoài văn học và nghệ thuật, nó bao gồm lối sống, cách chung sống, hệ
giá trị, truyền thống và đức tin”
- Federico Mayor (Nguyên Tổng giám đốc UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại.Qua các thế kỷ
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống
và các thị hiếu-những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”
- Edward Tylor (nhà nhân học học xã hội-Anh): “Văn hóa hay văn minh,hiểu
theo nghĩa rộng trong dân tộc học, là một tổng thể phức hợp bao gồm kiến
thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ khả năng và
tập quán nào mà con người nhận được với tư cách là một thành viên xã hội”
- Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi hình thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
- Và GS.Trần Ngọc Thêm đã vận dụng khéo léo về định nghĩa như sau: “ Văn
hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”
1.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
1.2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội
Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Với tư cách là một đối tượng bao trùm
mọi hoạt động của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện để đối phó với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội của mình
1.2.2. Tính giá trị và chức năng điều chỉnh xã hội
Bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần, nhờ các giá trị này mà văn hóa thực
hiện được chức năng điều chỉnh xã hội, định hướng được các chuẩn mực, duy trì được
trạng thái cân bằng động, không ngừng hoàn thiện, thích ứng với những biến đổi của môi
trường không ngoài mục đích tự bảo vệ để tồn tại và cũng là động lực cho sự phát triển.
1.2.3. Tính nhân sinh và chức năng giao tiếp
Văn hóa là một hiện tượng xã hội, hoạt động thực tiễn của con người. Văn hóa là
cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người.Do gắn liền với con người và
hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa có chức năng giao tiếp và văn hóa là nội
dung của việc giao tiếp.
1.2.4. Tính lịch sử và chức năng giáo dục
Văn hóa bao giờ cũng hình thành và được tích lũy qua nhiều thế hệ chính vì thế
văn hóa đã có một bề dày lịch sử mang tính truyền thống, truyền thống văn hóa được tồn
tại nhờ giáo dục và văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở
con người (dưỡng dục nhân cách)
Văn hóa mang tính kế tục của lịch sử
1.3. Văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật
1.3.1. Văn hóa và văn minh
Văn hóa và văn minh là những khái niệm gần gũi nhưng không đồng nhất
a/ Văn hóa giàu tính nhân văn, hướng tới giá trị vĩnh cửu, bao gồm giá trị tinh thần
và giá trị vật chất. Văn minh chỉ sự phát triển của KHKT, tính logic và thiên về các giá trị vật chất
b/ Văn hóa và văn minh còn khác nhau về tính lịch sử. Văn hóa luôn có bề dày của
quá khứ (tính lịch sử). Văn minh đại diện cho trình độ phát triển của văn hóa (trình độ
phát triển của một thời đại)
c/ Văn hóa mang tính dân tộc (tinh thần và tính lịch sử là của riêng); Văn minh có
tính quốc tế cho một khu vực rộng lớn hoặc cho cả nhân loại (chứa giá trị vật chất, dễ phổ biến)
d/ Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp (các nền văn hóa cổ
đại hình thành từ trên hai ngàn năm TCN đều là sản phẩm của phương Đông); Văn minh
gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị
1.3.2. Văn hiến và văn vật VĂN HÓA VĂN HIẾN VĂN VẬT VĂN MINH
Bao gồm các giá trị Thiên về giá trị tinh Thiên về giá trị vật Thiên về giá trị vật vật chất và giá trị thần chất chất-kỹ thuật tinh thần Có bề dày Chỉ trình độ phát lịch sử triển Có tính dân tộc Tính quốc tế Gắn bó nhiều hơn Gắn bó nhiều hơn với phương Đông với phương Tây đô nông nghiệp thị
1.3.3. Tìm hiểu về khái niệm Văn hiến
Cách hiểu về văn hiến sau khi Nho học bị bãi bỏ: Nguyên gốc của từ văn hiến là
từ vựng gốc Hán. Vào năm 1919, sau khi Nho học bị bãi bỏ ở Việt Nam, và nhất là kể từ
sau khi chữ Hán chữ Nôm bị thay thế hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ bắt đầu từ năm 1945,
thì văn hiến cùng những từ gốc Hán khác đã cũng đã mất dần đi. Chính từ đó gây khó
khăn cho chúng ta rất nhiểu trong việc tìm hiểu khái niệm này sao cho sát nghĩa nhất. Tại
mục này, chúng tôi sẽ lần lượt tiến hành khảo lại các định nghĩa của một số từ điển tiếng
Việt được biên soạn trong thế kỷ XX, để hiểu thêm về lịch sử các cách định nghĩa cho khái niệm này.
Trong Hán Việt từ điển giản yếu (1932), của Đào Duy Anh ghi: “văn hiến: sách vở
và nhân vật tốt trong một đời” [tr.537]. Tự điển Việt- Hoa- Pháp (1937) của Gustave Hue
ghi nhận văn hiến = văn minh [tr.1113]. Việt Nam tân từ điển (1951) của Thanh Nghị
ghi: “văn hiến. Sách vở hay và nhân vật tốt, nghĩa rộng như tiếng văn minh: nghìn năm
văn hiến” [tr.1428]. Từ điển Việt Nam phổ thông (1951) của Đào Văn Tập, sau ghi giải
thích đúng từ nguyên chữ văn hiến, lại phân suất nghĩa thành: “chỉ những cái hay trong
một đời, đáng làm gương mẫu”[tr.689].Tự điển Việt Nam của Ban Thu thư Khai trí
(1971) ghi văn hiến cũng như văn minh [tr.911]. Từ điển tiếng Việt (tb lần 2, 1977) do
Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý bổ sung ghi: “văn hiến văn vật. Yêu chuộng văn
học, văn hóa: Việt Nam là nước văn hiến” [tr.846]. Từ điển Hán Việt từ nguyên (1999)
của Bửu Cầm ghi: “văn hiến. Văn: sách sử. Hiến: kẻ hiền tài...Một nước có nhiều hiền tài
có sử sách thì gọi là nước văn hiến” [tr. 2309]. Từ điển tiếng Việt (2000) của Viện Ngôn
ngữ học ghi: “văn hiến. Truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp” (tr.1100). Từ điển bách
khoa Việt Nam (2003) ghi: “văn hiến. truyền thống văn hoá tốt đẹp và lâu đời. Chu Hy
đời Tống chú thích một câu trong sách "Luận ngữ" như sau: "Văn là điển tịch; hiến là tốt
đẹp, tài giỏi". Như vậy, "văn hiến" nguyên nghĩa là văn chương, sách vở hay, bảo tồn
truyền thống văn hoá lâu đời. Từ điển từ Hán Việt (2007) của Lại Cao Nguyện và Phan
Văn Các [tr.534] và Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển [tr.1697] ghi: “văn hiến.
Truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp”. Đại từ điển tiếng Việt kế thừa và bổ sung “văn
hiến. Truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều nhân tài” [tr.1744].
Thông qua những từ điển nêu trên, có thể cho ta thấy rằng các từ điển tiếng Việt
hiện đại chỉ nêu khái niệm này với một nét nghĩa tương đối chung chung chưa rõ ràng,
đặc biệt là sự chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa khái niệm văn hóa và văn hiến, coi văn
hiến là nền văn hóa tốt đẹp được kéo dài.Vậy nên thực tế, thuật ngữ cơ bản trên là xuất
phát từ kinh điển Nho giáo như Nguyễn Vinh Phúc nói “Phương Tây không có khái
niệm văn hiến. Chỉ ở Việt Nam, Trung Quốc và những nước chịu ảnh hưởng của Nho
giáo mới có khái niệm này” là một thực tế đúng.
Khái niệm văn hiến trong lịch sử tiếng Hán: Sách Luận ngữ thiên Bát dật có
đoạn: Tử viết: Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã; Ân lễ, ngô năng ngôn chi,
Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc cố dã” nghĩa là “Lễ nhà Hạ thì ta có thể bàn
được, nhưng nước Kỷ (dòng dõi nhà Hạ) chẳng đủ để làm chứng; lễ của nhà Ân, thì ta
cũng bàn được, nhưng nước Tống (dòng dõi nhà Ân) chẳng đủ để làm chứng. Ấy là vì
văn hiến hai nước ấy không đủ”. Chu Hy chú: Văn, điển tịch dã; hiến, hiền
dã (văn là điển tịch; hiến là người hiền vậy).
Đoạn này đã cho thấy ý rất quan trọng về văn hiến. Trong đó, ta nên chú ý đến mối
quan hệ giữa văn hiến và lễ. Đây có thể coi là nghĩa nguyên bản nhất của từ văn hiến từ
bối cảnh tri thức của Nho học Trung Quốc và cũng có thể coi đây là khái niệm trùng
khớp giữa Nho học Tiên Tần và Tân Nho học.
Từ điển Từ nguyên - cuốn từ điển phổ dụng được soạn vào đầu thế kỷ XX, đã giải
thích trên cơ sở định nghĩa của Chu Hy, nên đã viết: “văn trỏ những tư liệu văn tự liên
quan đến điển chương chế độ, hiến trỏ những người nghe rộng biết nhiều”[16].
Cách định nghĩa trên đây của từ điển Từ nguyên là tiếp thu tinh thần của Chu Hy.
Tuy nhiên, định nghĩa hiến (trỏ những người nghe rộng biết nhiều) lại mang nét nghĩa hơi
hẹp hơn so với thực tế. Bậc hiền đương nhiên là “bác lãm quần thư”, tri thức hoàn bị;
song tri thức chỉ là một yếu tố, ngoài ra người hiền còn phải đáp ứng nhiều tiêu chí khác
như đức độ, khí tiết, phải có chính tích, có trứ thư lập ngôn.
Từ điển Từ hải sau khi giải thích về từ nguyên, đã ghi nhận nghĩa của chữ văn
hiến trong tiếng Hoa hiện nay chỉ còn một nghĩa mở rộng là “những tư liệu văn vật có giá
trị lịch sử như: lịch sử văn hiến, đồng thời cũng chỉ những tư liệu sách vở quan trọng liên
quan đến một ngành khoa học cụ thể, ví dụ: y học văn hiến. Nay (văn hiến) còn là tên gọi
chung cho bất cứ một dạng vật chất nào sử dụng văn tự, tranh ảnh, phù hiệu, để kí tải tri
thức, thông tin như: ấn phẩm, băng từ, đĩa CD, băng hình, bản in ốp sét”. [15].
Từ văn hiến trong tiếng Việt lịch sử: Theo tài liệu của Viện Hán nôm trong
cuốn Thiên Nam ngữ lục khi viết về Sĩ Nhiếp. Tác phẩm này đã ca ngợi “Nam Giao học tổ” như sau:
Quan quân mà lại thầy ta,
Phủ quân tôn vị hiệu là Sĩ vương
Nước nên “văn hiến chi bang”
Đức giáo chẳng nhường Đậu thị Hà Tây (câu 1930-1933)
Ca ngợi Sĩ Nhiếp ở các mặt:
tuần này ắt chẳng lo chi
mối giềng đã tỏ, luật lề đã phân
Đồng niên quý thuế có ngần
Quan quân rõ phép, binh dân rõ đường
Điều hòa chế độ kỷ cương
Mở kho giáo hóa, rỡ ràng nhân luân” (câu 1924-1928)
Đoạn thơ trên ca ngợi Sĩ Nhiếp là bậc vương, bởi ông đã có công giáo hóa biến Giao
Chỉ trở thành “văn hiến chi bang”. Về hình thức, ông là “quan quân”, nhưng thực tế ông
lại là bậc sư biểu (thầy ta). Bậc sư biểu ấy đã dùng đức giáo để cho dân ta hiểu rõ “mối
giềng”, “luật lệ”. Chữ mối giềng dịch từ chữ cương thường. Như thế, văn hiến ở đây tạm
có thể hiểu được những nét nghĩa sau: 1) Cương thường (nhân luân); 2) Luật lệ (cho binh
và dân); 3) Giáo hóa. Trong đó, cương thường là những thiết chế về mặt huyết tộc và đạo
đức xã hội. Luật lệ là những quy phạm mang tính pháp chế và quản lý hành chính nhà nước.
Sử cũ đều ca tụng Sĩ Nhiếp là vị quan tốt, rất có uy tín trong dân. Ngô Sĩ Liên viết
trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Vương (Sĩ Nhiếp)độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính
trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn
sang nương tựa có hàng trăm người"... Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước
văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn
truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Đoạn trên cho ta hai nét nghĩa nữa của khái niệm
văn hiến: 1) Thông thi thư (thông: hiểu; thi: Kinh thi; thư: Kinh thư); 2) Học Lễ và Nhạc.
Khái niệm văn hiến qua bối cảnh tri thức Nho gia Việt Nam: Cũng theo tài liệu
của Viện Hán nôm trong sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi do Lý Tử Tấn viết thông
luận, có đoạn: “từ khi người Nguyên vào Trung Quốc, về sau thiên hạ biến thành nói
tiếng Hồ, mặc áo Hồ. Không thay đổi thì chỉ có nước ta cùng họ Chu ở Kim Lăng, họ
triệu ở Kim Sơn mà thôi. Đến khi thái tổ nhà Minh lên làm vua, sai Dịch Tế Dân sang
thông hiếu, vua Dụ Tông sai Doãn Thuấn Thần sang cống nhà Minh. Vua Minh úy lại,
hỏi quốc sứ, khen phong tục, y phục vẫn giống như văn minh Trung Hoa, ban cho bài thơ ngự chế rằng”:
An Nam tế hữu Trần/ Phong tục bất Nguyên nhân
Y quan Chu chế độ/ Lễ nhạc Tống quân thần. Nghĩa là:
(Đất An Nam có họ Trần/ Phong tục không theo người Nguyên
Áo mũ vẫn theo chế độ nhà Chu/ Lễ nhạc vẫn hệt như vua tôi nhà Tống)
Rồi cho bốn chữ “Văn Hiến Chi Bang” và thăng địa vị cho sứ thần của Đại Việt lên
trên sứ thần Triều Tiên ba cấp”. Đây là đoạn thông luận mà Lý Tử Tấn chua cho phần
chính văn của Nguyễn Trãi đang gián tiếp bàn về văn hiến, đoạn ấy cụ thể như sau:
“Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm,
Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước” [15].
Qua đoạn văn trên cho chúng ta biết một số dữ kiện như sau: 1) Chữ văn hiến được
dùng cho Đại Việt vào cuối đời Trần; 2) Nho sĩ đời Trần mạt ít nhiều tạo dựng được bối
cảnh tri thức cũng như bối cảnh văn hóa Nho giáo ở một mức độ nhất định, đến mức vua
Minh Thái Tổ làm thơ ngự chế và ban tặng đích danh bốn chữ “văn hiến chi bang vào
năm Đại Trị thứ nhất (1368); 3). Như vậy, đây có thể coi là tư liệu thành văn sớm nhất
(khác với quan niệm phổ biến trước đây, coi chữ văn hiến lần đầu xuất hiện đầu tiên
trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi).Từ đoạn văn trên cũng cho biết một số
thông tin cụ thể về nội hàm của khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho giáo. Đó
là bốn yếu tố: 1) Phong tục; 2) Chế độ y quan; 3) Chế độ lễ nhạc; 4) Ngôn ngữ.
Chữ văn hiến được đưa vào văn chương trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428):
Duy ngã Đại Việt chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang Nghĩa là:
Như nước Đại Việt ta/ Thực là nước văn hiến.
Thế kỷ XV trên bia tiến sĩ ở Văn Miếu Hà Nội khoa Quang Thuận thứ 4 (1463) có
ghi đoạn văn sau: “Học trò may được khắc trên bia đá này, phải theo danh nghĩa sửa đức
hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến”.
Tuy nhiên, với hai ngữ cảnh trên đều không cho biết nội hàm của khái niệm văn
hiến. Bình Ngô đại cáo cung cấp một thông tin lịch sử đáng chú ý, đó là sự ghi nhận Đại
Việt “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Phải chăng đây chính là cứ liệu quan trọng (duy
nhất!) để các nhà làm từ điển hiện đại đã căn cứ nghĩa của từ văn hiến thành “truyền
thống văn hóa lâu đời” như đã nói đến ở trên?
Bài ký văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 5 (1667)
do Nguyễn Kiều soạn và khắc năm Vĩnh Thịnh 13 (1717) có đoạn như sau: “kính nghĩ
quốc triều nhân nghĩa dựng nước, văn hiến nức danh. Khoa thi Tiến sĩ đặt ra từ lâu, khắc
đá đề tên quy mô to lớn...Thực nhớ một lòng sửa đức, trăm việc mở mang, chính sự tốt
đẹp của nước nhà đổi thay rạng rỡ, hiền tài trong thiên hạ nượp nượp kéo về... Đến nay,
hoàng thượng vẻ vang kế thừa ngôi báu, hết sức xây đắp cơ đồ, nắm giữ quyền bàn bạc
nghi lễ, theo thể thức tôn quý người hiền...Như vậy đủ biết sự chế tác của thánh triều có
quan hệ đến phong hóa”. Đoạn văn trên cho biết một số dữ kiện về khái niệm văn hiến
như sau: 1.Khoa cử; 2. Văn vật (khắc đá); 3. Hiền tài; 4. Nghi lễ. và 5.Phong hóa (phong tục giáo hóa).
Thế kỷ XIX, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã viết: “Khi
nhà Lê dựng nước, văn hóa lại thịnh dần, hơn 300 năm chế tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến
đứng đầu trung châu, điển chương rạng cả triều đại” (Văn tịch chí, bản dịch, Q4, tr. 41).
Tại điện Thái Hòa (Huế) đời Nguyễn còn khắc một bài thơ phiên âm như sau:
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng Bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu Nghĩa là:
Nước nghìn năm văn hiến Cơ đồ muôn dặm xa thư
Kể từ sau khi Hồng Bàng mở nước
Nước Nam lại là một Đường Ngu
Đây cũng có thể coi là một định nghĩa nữa về văn hiến, trong đó, khái niệm quan
trọng nhất là Xa thư. Xa là xe, thư là sách. Xa thư nguyên dẫn từ thiên Trung dung sách
Lễ ký: kim thiên hạ xa đồng quỹ thư đồng văn nghĩa là “nay thiên hạ: xe cùng cỡ trục,
sách chung văn tự”, sau xa thư trỏ thể chế pháp độ của nhà nước theo mô hình Nho giáo.
Xét về từ nguyên thì thể chế pháp độ ấy bao gồm văn tự- thư tịch và quy tắc xã hội. Sách
Đại Nam quốc sử diễn ca của Phạm Đình Toái có câu: dõi truyền một mối xa thư, cũng là
nói về văn hiến nước Đại Nam vậy.
Tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội có đôi câu đối:
Nam bang văn hiến thiên niên quốc
Đông Lỗ nho tông vạn thế sư Nghĩa là:
Nam bang là nước ngàn năm văn hiến
Ngài sáng lập đạo Nho ở đất Đông Lỗ là bậc thầy của muôn đời.
Qua nội dung câu đối và bài thơ trên, có thể thấy văn hiến Đại Việt luôn được so
sánh, đối chiếu với thời đại thịnh trị viễn cổ là Đường Ngu (nhà Chu) với các nhân vật lý
tưởng, các thánh nhân của Nho gia như Chu Công, Khổng Tử. Rõ ràng, văn hiến là một
khái niệm của Nho giáo, và được dùng bởi các nhà Nho thuần thành. Văn hiến được dùng
để ngợi ca một cảnh tượng thái hòa về chính trị, bình ổn về xã hội và nhân tâm. Đặt
trong, bối cảnh như vậy, những biểu tượng và ý nghĩa của khái niệm này đã dần rõ nét.
Đến đây, chúng ta thấy, sách vở thư tịch cũ đã ghi chép những đoạn khen ngợi , xác
nhận nước ta là “văn hiến chi bang” từ thời Sĩ Nhiếp cho đến Lý, Trần, Lê, Nguyễn.
Bài văn sách đình đối của đệ nhị giáp tiến sĩ Nguyễn Đình Dương khoa Canh thìn
niên hiệu Tự Đức thứ ba mươi ba (1880): Ngã quốc tố xưng văn hiến, nhi nhân gian thư
tịch chi truyền, thực giác quả lậu. Bất duy ngoại quốc chư thư, nhân sở hãn kiến, nhi
kinh, sử, tử, điển, diệc sở hãn kiến. Nghĩa là: Nước ta vốn xưng là văn hiến mà việc lưu
truyền sách vở trong dân gian thực là ít ỏi. Không chỉ có các sách nước ngoài người ta ít
được thấy, mà các sách kinh, sử, chư tử, điển chế cũng ít được coi .
Với những cứ liệu nêu trên, chúng ta có thể hiểu cấu trúc của khái niệm Văn hiến
được hiểu gồm cách lĩnh vực sau. 1. Ngôn ngữ 2. Văn tự 3. Sách vở, điển tịch 4. Văn chương
5. Các yếu tố văn hóa- chính trị thuộc điển chương, chế độ của Nho giáo, như: chế độ y
quan, chế độ lễ nhạc, pháp độ tiên vương, hiến pháp hoàng triều. Điển chương là “các
khuôn phép lễ chế từ vua trước đặt ra, chế độ là “những phép tắc định lập rõ ràng”, pháp
độ là những quy định tiêu chuẩn (pháp) về hành vi để đánh giá (độ) phẩm hạnh, đức độ,
học vấn của một người.
6. Phong tục (phong giáo): những ảnh hưởng của chế độ lễ nhạc quan phương đối với cộng đồng xã hội.
7. Giáo dục và chế độ khoa cử.
8. Người hiền tài (chủ yếu hiểu là Nho sĩ, nhưng bản thân mỗi Nho sĩ lại là một phức thể
dung hội Tam giáo và có thể còn hơn thế nữa, nên đối tượng ngoại diên thuộc loại hình
nhân vật lịch sử này cũng khá là phong phú).[15]
Bài 2: KHÁI QUÁT VỀ NỀN TẢNG VĂN HIẾN VIỆT NAM
2.1. Bối cảnh không gian
Việt Nam với diện tích không rộng những ở nhưng ở vị trí đại lý quan trọng trên
bán đảo Đông Dương và khu vực Đông Nam Á, Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm; với
Mianma, Thái Lan, Lào và Campuchia ở phía tây; Malaixia, Inđônêxia và Philipin ở phía
nam và phía đông. Với vị trí như vậy trở thành cầu nối liền giữa Đông Nam Á lục địa và
Đông Nam Á hải đảo, trong vị trí này Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, nắng lắm
mưa nhiều, có hai đồng bằng lớn với nhiều sông ngòi kênh rạch, cực kỳ thuận lợi cho sự
hình thành và phát triển nghề trồng lúa nước.
Với sự tồn tại mang tính áp đảo của nghề trồng lúa nước, không gian của Việt
Nam là không gian nông thôn – nông nghiệp trong suốt chiều dài lịch sử.
Nằm ở vị trí giao điểm của hai khu vực Đông Nam Á và Đông bắc Á, giáp ranh
với Trung Quốc là một quốc gia lớn, có nền văn hóa lâu đời.
Việt Nam là mặt tiền hướng ra biển của bán đảo Đông Dương, cũng là vị trí giao
điểm của các luồng giao thông thủy bộ theo bốn hướng bắc – nam, đông – tây.
Nhìn vào bản đồ Việt Nam ta sẽ thấy đất nước với hình thể kéo dài theo chiều bắc
– nam, địa hình phức tạp với nhiều loại hình sinh thái đồi núi, đồng bằng ven biển, không
gian văn hóa Việt Nam đã bị phân hóa mạnh theo chiều Bắc – Nam.
Theo nghĩa rộng, Việt Nam chia thành hai miền: từ đèo Hải Vân trở ra Bắc là nơi
có khí hậu bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và từ đèo Hải Vân trở vào phía Nam là sứ xở
nắng nóng quanh năm với hai mùa mưa và khô.
Theo nghĩa hẹp, Việt Nam chia làm ba miền văn hóa Bắc – Trung – Nam cũng rất
rõ rệt. Trong đó hai miền là miền Bắc và miền Trung mỗi miền đều chia làm ba vùng.
Riêng với Nam Bộ theo GS Trần Ngọc Thêm thì chia làm 2 vùng là Đông Nam Bộ và
Tây Nam Bộ, như vậy không gian văn hóa Việt Nam tổng cộng chia làm ba miền với 8 vùng văn hóa. MIỀN VÙNG I. Miền văn
1. Vùng văn hóa Việt Bắc hóa Bắc Bộ 2. Vùng văn hóa Tây Bắc 3. Vùng văn hóa Bắc Bộ II. Miền Văn
4. Vùng văn hóa Bắc Trung Bộ hóa Trung
5. Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ Bộ
6. Vùng văn hóa duyên hải Nam Trung Bộ III. Miền Văn
7. Vùng văn hóa Đông Nam Bộ hóa Nam Bộ
8. Vùng văn hóa Tây Nam Bộ
2.2. Bối cảnh chủ thể.
Cư dân Việt Nam truyền thống chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước. Theo
thống kê vào năm 1945, tỉ lệ người sống ở nông thôn chiếm khoảng trên 90% dân số Việt
Nam;[8] trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây chắc chán tỉ lệ này còn cao hơn
nhiều. Trong đời sống chất nông dân - nông nghiệp – nông thôn giữ vai trò chủ đạo trong
việc chi phối tính cách dân tộc và hệ giá trị văn hóa của người Việt Nam.
Do điều kiện địa hình phức tạp, lại ít di chuyển, nên sự phân hóa tộc người ở Việt
Nam và Đông Nam Á diễn ra rất mạnh và rất nhanh tạo nên tính đa dân tộc. Trên một
diện tích không phải là rộng như Việt Nam đã có tới 54 tộc người. Tuy đa tộc người,
nhưng tuyệt đại bộ phận có cùng nguồn gốc và trong đó có một tộc người có số dân vượt
trội là người Việt (người Kinh chiếm 85% dân số) nắm vai trò chủ đạo, nên văn hóa và
hệ giá trị của dân tộc có tính thống nhất cao.
Sống bằng nghề trồng trọt trong điều kiện địa hình rất phức tạp nên người nông
dân Việt Nam suốt đời gần như rất ít khi di chuyển ra khỏi nơi cư trú.
Về tầm vóc của người Việt Nam là vóc dáng nhỏ, sức yếu, không chỉ so với người
phương Tây, mà cả với người Đông Bắc Á.
2.3. Bối cảnh thời gian.
Lịch sử hình thành và phát triển của những giá trị nền tảng văn hiến Việt Nam qua
bốn thời kỳ biến động cơ bản.
Lần biến động thứ nhất là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa bản địa Đông Nam
Á sang hệ giá trị chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Sự biến động này từ những thế
kỷ đầu công nguyên và chủ yếu diễn ra trong giai đoạn thế kỳ XI là khi nhà Lý tiếp nhận
Nho giáo đến thế kỷ XV khi Nho Giáo đạt đến đỉnh điểm dưới thời nhà Lê. Những giá trị
có nguồn gốc Nho giáo thâm nhập và phát triển trong giai đoạn sau này.
Lần biến động thứ hai, là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống theo
phong cách phương Đông sang giá trị chịu ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây. Sự biến
động này diễn ra từ thế kỷ XVII là khi Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với phương Tây và đạt
đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu của thế kỷ XX là khi Pháp tiến
hành xâm lược, cai trị trên toàn cõi Đông Dương. Sự giao lưu tiếp thu các giá trị phương
Tây về sau tiếp tục diễn ra ở miền Nam thông qua đại diện văn hóa Mỹ cho đến năm
1975. Những giá trị văn hóa dương tính hơn, những giá trị tương đối hiện đại, có nguồn
gốc phương Tây thâm nhập và phát triển trong giai đoạn này.
Lần biến động thứ ba, là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống dưới
ách thực dân sang hệ giá trị chịu ảnh hưởng của văn hóa xã hội chủ nghĩa. Sự biến động
này bắt đầu diễn ra từ khi Việt Nam tiếp xúc với văn hóa xã hội chủ nghĩa thông qua đại
diện là Liên Xô thời I.V.Stalin mà người tiếp thu trực tiếp là những nhà cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945, rồi sau đó thông qua đại diện là Trung Quốc thời Mao Trạch
Đông, đỉnh điểm là thập niên 50 – 70 của thế kỷ XX. Những giá trị và phi giá trị có
nguồn gốc xã hội chủ nghãi và xâm nhập, phát triển trong giai đoạn này.
Những giá trị nội sinh như làm chủ tập thể, năm điều bác Hồ dạy…cũng hình
thành trong giai đoạn này.
Lần biến động thứ tư, là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống đang
trong quá trình xã hội chủ nghĩa hóa sang hệ giá trị trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Sự biến động này bắt đầu diễn ra từ giữa cuối những năm 80,
khi công cuộc đổi mới của Việt Nam bắt đầu, cũng là lúc quá trình toàn cầu hóa đi vào
giai đoạn phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới có những thành tựu vượt bậc về viễn
thông và công nghệ thông tin, mạng thông tin toàn cầu www hình thành. Sang những
năm 90 và sau đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam thu được nhiều kết quả, đồng thời cũng là lúc hệ giá trị Việt Nam đi vào giai đoạn
biến động giữ dội nhất.
Bài 3: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
3.1. Vấn đề tổ quốc Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng người Việt Nam là con người của tổ quốc luận, điều đó có
nghĩa là đối với người dân Việt Nam, tổ quốc lớn hơn tất cả. Nếu như gia đình có cơ sở
tự nhiên là do hôn nhân tạo nên thì tổ quốc lại là một tổ chức hình thành khá muộn và
thay đổi theo những nước khác nhau. Điều đó được minh chứng như sau.
Ở Trung Quốc trong tâm thức của người dân, nước gắn liền với dòng họ cai trị,
khi bàn đến vấn đề đất nước là nói đến dòng họ và đất nước, đến mức như Hàn Tín nói
“Người ta nói nước Tề mất không phải là nói đất đai thành quách nó mất mà nói họ Lữ
không cầm quyền mà họ Điền được dùng” [6]. Hay như thời Tam Quốc chiến tranh diễn
ra khốc liệt, họ chém giết nhau không phải vì Trung Quốc mà vì để cho họ Tào, họ Tôn,
họ Lưu cai trị thiên hạ, tất cả những người hy sinh cho những trận chiến đó được người
Trung Quốc cho là trung thần. Trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn về sau cũng
khẳng định “Cái mà người Trung Quốc sùng bái nhất là chủ nghĩa gia tộc và chủ nghĩa
tông tộc…Còn đối với quốc gia, trước nay người ta chưa một lần hy sinh cực lớn, do đó
sức đoàn kết của người Trung Quốc chỉ có thể đạt đến tông tộc, chưa mở rộng đến quốc
gia”. [6] Lịch sử Trung Quốc đã trải qua nhiều lần phân chia rồi bị dị tộc cai trị một phần
hoặc cả nước thì các cuộc chiến tranh cũng là vì dòng họ và tông tộc.
Ở các nước Châu Âu, khi xã hội phong kiến được hình thành, các lãnh địa ra đời,
toàn bộ ruộng đất được các lãnh chúa chiếm đoạt. Trong lãnh địa là một mô hình xã hội
khép kín, người nông dân chỉ biết có lãnh chúa, không biết có quốc gia, họ chỉ biết nộp tô
cho lãnh chúa và khi lãnh chúa bán đất thì bán luôn cả nông nô trên mảnh đất đó. Các
cuộc chiến tranh liên miên sảy ra giữa các lãnh chúa không phải là do chiến tranh giữa
các nước với nhau, mà là các cuộc chiến tranh diễn ra với nhiều nguyên nhân khác nhau
của các lãnh chúa và nước được hình thành cũng do sự lớn lên của các vùng đất của các lãnh địa mà ra.
Ở Việt Nam vấn đề về tổ quốc có sự khác biệt rõ ràng, đó là từ việc hình thành các
nhà nước đầu tiên cho đến các nhà nước tiếp theo sau này và lòng yêu nước cũng vậỵ.
Trước khi đất nước ta rơi vào cảnh hơn nghìn năm Bắc thuộc thì cũng giống như các
nước ở Đông nam Á khác người cai trị là các phía, tạo chiếm giữ một vùng, khi có xâm
lăng các người đứng đầu của các vùng tập hợp lại đánh đuổi xâm lăng, nhưng khi xong
thì ai trở về nhà người ấy. Người thủ lĩnh được tôn làm vua nhưng chỉ về danh nghĩa,
không có quyền cai trị vùng đất ngoài vùng của mình. Đó là nguyên nhân khiến cho các
cuộc khởi nghĩa thất bại khi giặc phương Bắc kéo sang mà các thủ lĩnh chưa kịp đoàn kết
với nhau, các trường hợp như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế…là minh chứng.
Để tạo nên tinh thần dân tộc có nhiều yếu tố hợp thành. Trước hết phải có một sự
thống nhất về ý thức hệ. Nếu như ở châu Âu là thị trường nội địa tạo nên ý thức dân tộc,
phá vỡ các hang rào thuế khóa của các lãnh chúa. Còn ở Đông Nam Á là tôn giáo đảm
nhiệm vai trò thống nhất ý thức hệ, Việt Nam cũng không nằm trong trường hợp ngoại lệ.
Ở Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ II Luy Lâu cũng đã trở thành trung tâm Phật giáo của cả
nước, hay như sử gia Lê Văn Hưu thời Trần cũng đã nhận thấy là đa số các thanh niên
vào chùa tu một thời gian và các nhà sư nhan nhản khắp nước. Tiếp theo đó là xây dựng
huyền thoại để chứng minh cho sự thống nhất về nguồn gốc sự tích cha Rồng mẹ Tiên
cho cả dân tộc là vậy. Tuy nhiên ý thức hệ bền vững để tạo nên tổ quốc luận của người
Việt Nam đó là yếu tố xuất phát từ thực tế cuộc sống của chính bản thân họ. Người Việt
sinh sống và phát triển gắn liền với nghề trồng lúa nước, mà vấn đề trị thủy là yếu tố vô
cùng quan trọng trong nghề nông của người Việt, họ phải đào kênh, sông dẫn nước, đắp
đê phòng úng, phòng lũ lụt, lúc đầu là những vùng đất hẹp rồi sau là cả đồng bằng.
Những việc làm đó yêu cầu phải có một tập thể chứ không thể cá nhân nào có thể làm
được, từ thực tế cuộc sống như vậy đã tạo nên một tinh thần tập thể và nó phát triển dần
thành một tinh thần chung cho người Việt. Tiếp theo một nước phải có hệ thống chính
quyền tiêu biểu cho chế độ chính trị của mình , muốn thế phải đập tan chế độ phì tạo ở
đồng bằng, thống nhất đồng bào vào một chính quyền thống nhất, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn
12 sứ quân cũng chính là việc thống nhất mang ý nghĩa như trên. Bên cạnh đó phải có
chữ viết để thống nhất việc cai trị từ trung ương đến địa phương cần có ba yếu tố để cai
trị, thứ nhất là quyền đúc tiền, điều này được Lý Bôn thực hiện vào thế ký VII; thứ hai
quyền duy nhất tuyển mộ quân đội; thứ ba là quyền duy nhất thu thuế.
Sự thống nhất quốc gia cũng không chỉ dựa vào lưỡi kiếm ngọn giáo như ở Trung
Hoa, cũng không phải như các vua thần ở Đông Nam Á mà phải là người lãnh đạo dân
đánh bại được xâm lăng, làm được công tác đê điều. Do đó mỗi lần cố nguy có bị xâm
lược thì thường ở Việt Nam lại diễn ra sự thay đổi về triều đại và sự hy sinh trong các
cuộc chiến như vậy là sự hy sinh cho tổ quốc đánh ngoại xâm chứ không như ở Trung
Hoa đó là sự hy sinh cho các dòng họ. Trung Quốc tự gọi nước mình là Tần, Hán,
Đường, Tống, Nguyên , Minh Thanh…theo tên của các dòng họ. Còn người Việt Nam
tên nước, tên quốc gia là độc lập với các triều đại, các triều đại Lý, Trần, Lê …vẫn lấy
tên quốc gia là Đại Việt.
Vấn đề chủ quyền dân tộc không thể có ngay được trong một sớm một chiều mà
nó phải có thời gian nhất đinh, nó được hình thành dần dần qua các thời kỳ, qua các cuộc
khởi nghĩa. Đinh Bộ Lĩnh là vị vua đầu tiên mà Trung Quốc phải thừa nhận, bài thơ của
Lý Thường Kiệt khẳng định “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, “Hịch Tướng sĩ” của Trần
Quốc Tuấn, đặc biệt là “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (1427) được coi là tuyên
ngôn đầu tiên về quyền tự quyết dân tộc và định nghĩa đầu tiên trên thế giới về nhà nước
dân tộc. Có thể nói Nguyễn Trãi đã đi trước UNESCO gần 600 năm đã lấy văn hóa làm
nền tảng cho chủ quyền dân tộc (Nhớ nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến
đã lâu), trước Stalin 465 năm đã thấy dân tộc là một thể thống nhất gồm 4 yếu tố cơ
bản:(Núi sông bờ cõi đã chia), phong tục (phong tục Bắc Nam cũng khác), lịch sử (Từ
Triệu, Đinh, lê, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập), chính quyền thống nhất (cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương), cao hơn nữa Nguyễn Trãi nêu lên
được thực chất của chế độ chính trị mà Việt Nam theo là con đường “Chí nhân, Đại
nghĩa”, sức mạnh của đất nước là những người “manh lệ bốn phương”và chính trách
nhiệm của một chính quyền thực sự dân tộc là “duy tân từ đấy”.[6] Bản tuyên ngôn độc
lập dân tộc đầu tiên đấy có giá trị cho đến ngày nay, cho nên có thể nói văn hóa Việt Nam
trước hết là văn hóa vì tổ quốc.
Để luận giải cho vấn đề văn hiến này chúng ta cần phải xem xét ở những hiện tượng sau:
1. Người Việt Nam khi tiếp thu văn hóa Trung Hoa, người Việt chỉ tiếp thu các cái
phần cần thiết của văn hóa Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền dân tộc mà thôi, chứ không
phải bắt chước một cách hoàn toàn nguyên bản. Sự tiếp thu này thể hiện trong cách thức
tổ chức chính quyền nhà nước bằng con đường dân sự không có sự can thiệp của tôn
giáo, chế độ thi cử, đào tạo ra những người cai trị đất nước, văn tự chữ Hán, chế độ cha
truyền con nối…là các yếu tố để đảm bảo cho việc tiếp thu văn hóa để giữ độc lập dân tộc của người Việt.
2. Các khái niệm đạo đức của Nho giáo của người Trung Quốc được họ nâng lên
thành chuẩn mực của người quân tử: nhân, trí, dũng, hiếu, nghĩa, anh hùng được du nhập
vào Việt Nam thì nó cũng không còn hiểu giống như ở Trung Quốc nữa. Ở Trung Quốc
nó là cá nhân quân tử, là những khái niệm tách rời nhau còn sang Việt Nam nó được quy
vào đối tượng chung là dân và nước Việt Nam.
3. Trong tín ngưỡng dân gian từ Bắc chí Nam, tín ngưỡng thành hoàng là phổ biến
nó biểu hiện cho việc ghi nhớ công ơn. Nhìn qua tổng quan chúng ta có thể nhận thấy
việc tôn thờ các vị đầu tiên là các anh hùng cứu nước cứu dân như Hai bà Trưng và các
tướng lĩnh của bà, những người cầm đầu các cuộc khởi nghĩa chống ngoài xâm, sau đó là
đến các vị quan có tài có đức, những người là tổ sư các ngành nghề…như vậy tín ngưỡng
dân gian quy chiếu là trách nhiệm với đồng bào.
4. Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam có vị trí quan trọng trong lòng người dân thì
tôn giáo nào khi vào Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng. Phật giáo vào Việt
Nam nó cũng là Phật giáo tổ quốc luận. Dưới thời Bắc thuộc nó là nơi bảo vệ ý thức dân
tộc, chống lại sự đồng hóa không phải ngẫu nhiên mà có những vị vua tự xưng là Lý Phật
Tử. dưới các thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần phật giáo trở nên phát triển mạnh mẽ, Phật
giáo cũng trở thành cái lò để đào tạo các anh hùng, các nhà sư trở thành những sứ giả,
những vị quan bảo vệ đất nước.
Có một số tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam nhưng không phát triển được như
Đạo lão của Trung Quốc, đạo Lão với quan điểm chống lại chính trị. Ở một nước tổ quốc
luận, những con người được sinh ra là con của làng của một đất nước thống nhất, tổ quốc
là số một thì đạo Lão không có chỗ đứng mà phải nhường chỗ cho một đạo riêng thuần
túy của người Việt Nam với các Thánh Mẫu, những con người quan tâm đến cuộc sống
của người dân, tới vận mệnh của quốc gia dân tộc, đó là thứ đạo có thể tồn tại bền vững ở Việt Nam.
5. Đạo Nho ở Việt Nam được du nhập và trở nên thịnh đạt, thậm chí có thể coi là
chính quyền chủ động tiếp nhận và được xác lập thành ý thức hệ của xã hội phong kiến
và xây dựng đất nước thành một quốc gia hùng mạnh dưới thời Lê sơ. Người Việt học
chữ, đọc sách Trung Hoa để thi cử những văn học bằng chữ Hán lại là văn học yêu nước,
không một chúng ta chưa thấy một nhà Nho nào coi nhẹ văn hóa dân gian, chính tầng lớp
Nho sĩ lại là tầng lớp yêu nước, điều đó ta có thể thấy ở phong trào Cần Vương khi Thực
dân pháp xâm lược, đó là những sĩ phu yêu nước chân chính.
6. Đạo Thiên Chúa khi du nhập vào Việt Nam, châu Á, hay châu Mĩ nó không còn
là tôn giáo của những người bị áp bức dưới thời đế chế La Mã nữa, mà nó trở thành vũ
khí tinh thần của chế độ thực dân châu âu, chế độ thực dân lợi dụng vào tôn giáo để tìm
hiểu các nước phương đông, còn công giáo muốn lợi dụng thực dân để phát triển thế lực.
Các cố đạo người Pháp đã tích cực nhất trong cái gọi là “khai hóa văn minh”. Công giáo
có điểm mạnh là năm được cái khoa học kĩ thuật mới của phương tây, có tinh thần hy
sinh vì chúa, một giáo lý chặt chẽ và một tổ chức thống nhất kỷ luật không gì sánh nổi.
Tuy nhiên nhược điểm là coi thường văn hóa Phương Đông, tự mãn về tinh thần phương
tây. Từ thế kỷ XVI đến XVIII, đạo thiên chúa phát triển thuận lợi do chiến tranh Trịnh -
Nguyễn gây nên sự bất ổn trong tâm lý nhân dân . Nhân dân lưu tán, cuộc sống bếp bênh,
trong một cuộc nội chiến không liên quan gì đến vận mệnh đất nước nên tìm một chỗ dựa
tinh thần mà các vua chúa không đem lại được cho nhân dân là điều dễ hiểu. Họ hy vọng
60 vạn người sẽ đứng về phía Pháp khi đánh chiếm Đà Nẵng, nhưng họ đã tính sai, không
có người công giáo bỏ nước theo họ, Thực dân Pháp hiếm Việt Nam và ra sức ủng hộ đạo
Thiên chúa nhưng dù thực dân và thiên chúa có câu kết đến đâu thì số người cũng theo
không nhiều, đặc biệt nó trái ngược với tâm thức thờ cúng tổ tiên, quan hệ làng xã và gia
đình Việt Nam. Nhìn chung đây chỉ là một mặt bị lợi dụng nhưng Công giáo Việt Nam
thì vẫn là Việt Nam, trước khi là Công giáo, tức là yêu nước đi đôi với kính chúa. Đa số
vẫn tham gia tích cực vào phong trào cách mạng chiến đấu không kém gì ngoại đạo.
Thực tế xã hội Việt Nam không thể giống các quốc gia khác mà Việt Nam có sắc thái văn
hóa riêng để tồn tại và phát triển thì Thiên chúa giáo bắt buộc phải kính chúa trong yêu
nước, tức bị khúc xạ qua văn hóa dân tộc.
7. Với tình hình trên đạo Cao Đài cũng có nhiều điểm tương tự. Những người sáng
lập ra như Ngô Minh Chiêu, Phạm Công Tắc, họ sử dụng biện pháp cầu cơ của phương
Tây để tiếp xúc với thần linh và lập ra một tôn giáo kết hợp Phật giáo, Thiên chúa giáo,
tín ngưỡng dân gian và cả thong thiên học phương Tây. Trong hoàn cảnh đất các phong
trào yêu nước bị đàn áp khốc liệt, trong tâm tưởng của người dân Nam Bộ có tình trạng
hoang mang thì đạo này có điều kiện để phát triển. Cho dù một số người chống lại cách
mạng nhưng theo Ban tôn giáo khẳng định “tuyệt đại bộ phận tín đồ và số đông chức sắc
Cao Đài…đã có những đóng góp xứng đáng cho dân tộc trong hai cuộc kháng chiến”[6].
Với những luận cứ như đã nói ở trên chứng minnh một điều rằng muốn tranh thủ
thiện cảm, sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam đều phải phù hợp với tinh thần yêu nước
của người dân Việt Nam và như sự khẳng của GS Phan Ngọc “người Việt Nam theo nhân
cách luận chứ không theo kinh tế luận”.
3.2. Vấn đề gia đình Việt Nam.
Gia đình là một tổ chức ra đời cùng với xã hội loài người, gia đình ra đời bắt
nguồn từ quan hệ nam nữ và việc sinh để duy trì nòi giống và nuôi dưỡng con cái. Điều
đầu tiên phải khẳng định gia đình là một cộng đồng gồm những người có cùng quan hệ
huyết thống gắn bó mật thiết với nhau. Việc tồn tại được bền vững của tổ chức gia đình
hay không là tùy thuộc vào mối quan hệ này. Tính chất của mỗi gia đình trong lịch sử lại
khác nhau tùy theo phương thức sản xuất, có chế chính trị - xã hội và các nền văn hóa khác nhau.
Trong xã hội Việt Nam thời Đại Việt là một xã hội nông nghiệp trồng lúa nước tổ
chức sản xuất theo kiểu một nền kinh tế tiểu nông. Đơn vị kinh tế nền tảng của nhà nước
là làng xã. Làng là đơn vị quản lý, quân cấp ruộng đất công và thu tô thuế nộp cho nhà
nước. Người dân theo hộ gia đình mà nhận ruộng đất công để cày cấy. Nhà nước coi từng
cá nhân không phải là độc lập mà là người của từng làng, gánh vác các việc chung theo
làng vì vậy việc quản lý chặt hộ khẩu không cho dân ly tán là một vấn đề rất quan trọng của làng.
Về mắt kinh tế, có thể thấy gia đình nông dân thuộc tầng lớp trung lưu là phổ biến
vì nó tiêu biểu cho cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp nhằm tự túc và đóng góp cho
làng nước. Gia đình trung nông là gia đình có đủ ruộng cày, có đủ sức lao động và sắp
xếp công việc làm ăn quy củ, có sản nghiệp để tạo nên một hình ảnh phồn vinh ở thôn
quê. Có đời sông khá giả hơn là những gia đình địa chủ, phú nông có dư thừa ruộng đất
nên có thể thuê người làm học cho người làm rồi nộp tô. Do vậy, các gia đình này có sự
khác với các gia đình trung nông về quan hệ lao động phương diện và phương diện bóc
lột. Phần lớn còn lại trong làng xã Việt Nam thời kỳ đó là gia đình các hộ nông dân
nghèo không đủ hoặc không có ruộng đất, phải làm thuê hoặc làm nhiều các việc khác
nhau ngoài đồng rộng. Nhìn chung hầu như toàn bộ người Việt trong xã hội truyền thống
của Đại Việt xưa sống bằng nghề trồng lúa nước nên cư dân ở nông thôn chưa hình thành
một giai cấp thợ thủ công như ở các nước khác trên thế giới.
Về quan hệ giữa các thành viên, gia đình truyền thống của người Việt là gia đình
hạt nhân. Gia đình hạt nhân gồm một cặp vợ chồng và các con chưa vợ chưa chồng của
họ. Trong gia đình hạt nhân có ba mối quan hệ: quan hệ vợ - chồng, quan hệ bố mẹ - con
cái và hệ anh – chị - em. Gia đình hạt nhân của người Việt truyền theo tộc bố, mang
danh tộc về phía bố (mang họ cha). Người con trai cả đã có vợ có con sẽ vẫn ở lại với bố
mẹ. Khi bố mất anh ta được thừa hưởng ngôi nhà và phần tài sản lớn nhất, còn các con
trai thứ khi lấy vợ thì sẽ rời khỏi nhà bố mẹ để sống với vợ con trong một ngôi nhà riêng,
có kinh tế riêng. Vì là bố mẹ già vẫn giữ con trai cả ở lại trong nhà khi đã có vợ con nên
có thể coi đây là dạng gia đình hạt nhân mở rộng hay gia đình; trong gia đình này ngoài
bố mẹ già ra còn có một số em trai hoặc em gái còn bé.
Trật tự mối qua hệ giữa các thành viên trong gia đình truyền thống theo dòng bố
và mang tộc danh bố dựa trên nguyên tắc phân biệt thế hệ, trưởng – thứ theo lối hàng dọc
bậc: ở bậc trên là cha mẹ, anh chị, ở bậc dưới là con, em. Trật tự trên dưới còn được xác
định theo nguyên tắc phân biệt giới tính: vị trí của nam giới cao hơn nữ, nghĩa là của
chồng cao hơn của vợ, bố cao hơn mẹ, anh cao hơn chị. Những đặc điểm đó là gia đình
truyền thống Việt Nam là gia đình phụ quyền. Tính chất phụ quyền ấy biểu hiện khá
thống nhất trên các phương diện kinh tế, xã hội, tín ngưỡng, giáo dục …về kinh tế là ví
dụ, bất động sản của gia đình do đàn ông nắm và chỉ truyền cho con trai. Việc giáo dục
con cái cũng chủ yếu là thuộc về người cha. Con gái là thuộc về nhà chồng nên sẽ không
tham gia vào các công việc trong nhà. Con dâu nhất là con dâu trưởng tuy không sinh ra
trong gia đình nhưng vì sẽ sinh cháu nối dõi tông đường nên có vị trí cao hơn con gái
(dâu là con, rể là khách).
Về mặt tín ngưỡng, để thực hiện việc thờ cúng tổ tiên người Việt dựa trên nguyên
tắc quyền con trưởng của các thành viên nam trong gia đình. Mỗi một hộ con trai đều có
một bàn thờ tổ tiên trong nhà, nhưng các tổ tiên được tờ cúng chỉ là các tổ tiên trực tiếp
về phía bố, tức là chỉ thờ bố mẹ, ông bà nội, ông bà cụ nội, ông bà kỵ nội anh ta thôi. Các
em trai của anh ta không có bàn thờ trong nhà, đến ngày giỗ thì cùng gia đình đến nhà anh trai cả dự lễ.
Tính chất phụ quyền của gia đình truyền thống Việt trước hết là sản phẩm của lịch
sử nền kinh tế tiểu nông và của tổ chức xã hội phong kiến trong đó người đàn ông có vai
trò quan trọng trong lao động và tổ chức sản xuất trong đời sống gia đình cũng như trong
đời sống xã hội, tính chất phụ quyền ấy có phần ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo đem
lại. Nho giáo chủ trương trao quyền lực nhà nước, trong xã hội, trong gia đình cho nhà
vua, thầy giáo và người bố trong gia đình (quân, sư, phụ). Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nho
giáo chỉ biểu hiện rõ rệt trong các gia đình nhà nho. Gia đình nhà Nho là gia đình của
tầng lớp không chọn con đường sản xuất làm ăn như gia đình nông dân, mà con đường
học hành, thi cử để đạt tới công danh (làm quan, làm thầy), Đối với các gia đình này là
cái làm nên giá trị và xác định vị trí xã hội, do đó được quan tâm tới nhất là gia thanh, gia
phong, gia thế. Các gia đình ấy lấy lễ nghĩa của Nho giáo để củng cố những giá trị đó,
nên nhiều khi đã trở nên nghèo khó mà vẫn cố làm ra vẻ phong lưu để giữ “thể thống gia đình”.
Nho giáo cũng ảnh hưởng đến gia đình truyền thống của nông dân nhưng nhiều
khi chỉ mang tính chất hình thức. Trong gia đình nông dân, thực chất vị trí của người phụ
nữ không như lễ nghĩa của Nho giáo quy định. Về lao động sản xuất những công việc
người phụ nữ đảm nhiệm trên đồng ruộng, công việc nặng nhọc cũng không kém gì đàn
ông (Thân em vất vả trăm bề, Sớm ra ruộng lúa, tối về ruộng dâu, Lúa tốt thì bởi tại
phân, Vì tay em lấm vì chân em mòn…). Họ không phải chỉ là kẻ phụ việc, mà là người
bạn lao động của người đàn ông, bình đẳng với đàn ông (Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa). Ngoài ra những hoạt động tiểu thương nghiệp, phụ
nữ có vai trò chính. Trong gia đình phụ nữ nắm “tay hòm chìa khóa”, vai trò của người
phụ nữ quyết định các khoản chi tiêu trong gia đình.
Gia đình hạt nhân, gia đình nhỏ của người Việt là đơn vị kinh tế độc lập. Các gia
đình ấy truyền theo dòng bố, mang tộc danh về phía bố, cùng nhận tổ tiên chung về phía
bố, nên khi tập hợp lại thì sẽ tạo thành một thực thể rộng lớn hơn. Thực thể đó là tổ chức
họ của người Việt, liên kết các gia đình với nhau theo họ nội như vậy rất coi trọng việc
thờ cúng tổ tiên, hầu hết các dòng họ đều có các nhà thờ họ, có tộc phả. Gia tộc không
phải là một đơn vị kinh tế như gia đình, nhưng là chỗ dựa tin cậy, vững chắc cho gia
đình, việc gia đình mà không giải quyết được thì đem ra họ giải quyết trước, nếu vẫn
không giải quyết được thì mới đem ra tổ chức cao hơn là làng xã và nhà nước. Người
trong một họ tộc có trách nhiệm cưu mang, hỗ trợ, dìu dắt cả về vật chất lẫn tình thần
(Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì; Một người làm quan cả họ được nhờ; Giọt máu đào hơn ao nước lã…)
Do mối quan hệ giữa gia tộc (họ) với gia đình (nhà) và giữa gia tộc với làng xã
như vậy, nên mô hình thiết chế xã hội cơ bản ba yếu tố nói trên có thể bổ sung thành mô
hình nhà – họ - làng – nước.[2]
3.3. Vấn đề thân phận
Ở các nước phương Tây, trước khi phong trào dân tộc thắng lợi, người nô lệ,
người nông dân không có thân phận, người dân trong các công quốc không có thân phận
vì họ thuộc công quốc nào thì tùy theo sở thích của ông chủ: một công chúa lấy lấy một
ông chồng là gộp luôn công quốc của mình vào công quốc của chồng. Trong tình trạng
mọi nước đều bị chia cắt, người dân chỉ biết đến vị lãnh chúa của mình không qua tâm
mấy đến thân phận của riêng mình với tính cách của một người dân.
Ở Trung Hoa dưới thời quân chủ, người dân cũng không có thân phận. Dưới bộ
máy quan liêu, do sức mạnh của bạo lực quân sự người ta có thể làm cỏ một vùng, giết
hết già trẻ, lớn bé không chút thương xót ta có thể thấy các hành động của Hạng Võ trong
“Sử ký của” Tư Mã Thiên hay Tào Tháo trong “Tam Quốc chí”. Có những hình phạt cực
kỳ nặng của Trung Quốc như tru di tam tộc, tru di cửu tộc.
1. Ở Việt Nam người Việt có ý thức về thân phận mình, người đầu tiên đưa ra
được vấn đề này với thế giới là Nguyễn Ái Quốc. Trong lời kêu gọi “Hội Quốc Liên”,
năm 1926 về “Quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam”, Nguyễn Ái Quốc viết: “Mặt
khác các bạn hãy xem nước Việt Nam trước khi bị Pháp xâm lược là như thế nào, đó là
một nước độc lập biết khiến các nước láng giềng phải kính trọng, trong khi vẫn coi khinh
chiến tranh và nghĩa vụ quân sự, trong khi để bảo vệ quốc phòng chỉ dùng đến dân binh
của nó mà thôi. Đó là một nền dân chủ dưới cái vẻ là quân chủ….”
Con người Việt Nam trước khi bị Pháp xâm lược có một thân phận riêng, không
phải ai muốn làm gì với anh ta cũng được, anh ta không hoàn toàn lệ thuộc vào kinh tế
chính trị của kẻ mạnh, anh ta được hưởng một sự che chở đặc biệt, đảm bảo cho cho anh
ta có thể sống yên ổn, nếu như anh ta sống lương thiện có đạo đức. [6]
2. Xã hội Việt Nam có một truyền thống văn hóa hai mặt do đất nước thống nhất
về chính trị không phải được xây dựng trên một bộ máy quan liêu có sức mạnh to lớn, mà
trên một biển công xã tự quản. một xã hội như vậy phải lo cho dân mình trong hai quan
hệ: Một là, phải chấp hành yêu cầu của chính quyền trung ương chủ yếu là về tô thuế, sưu
dịch, đắp đê, tuyển binh lính cung cấp những sản vật cho triều đình cần đến. Nhưng trong
khi làm phải tính đến quyền lợi của làng xã mình, không thể để cho làng xã mình thiệt
thòi, bởi vì những người đại diện cho làng xã là do dân bầu lên, sống dựa vào dân, không
phải lương của nhà nước chi trả. Hai là, phải đảm bảo một trình độ công bằng nhất định
cho dân vui vẻ sống lao động vì làng xã Việt Nam là một chế độ tự quản nhất định.
Trong xã hội cũ không làng nào là không có hương ước, hương ước như một thứ
hiến pháp được thành lập qua thời gian của một nhân dân quen với tục lệ và sống theo lệ
làng. Hương ước là một thứ giao kèo không chỉ giữa nhân dân một làng mà chủ yếu là
những người được nhân dân cử ra điều khiển làng với toàn dân. Với những điều như đã
nói đó là thân phận riêng của người Việt mà không phải chỗ nào cũng có.
3. Người nông thôn Việt Nam trọng tuổi hơn trọng chức vụ, tiền bạc. Tuổi là cái
mọi người đều có, từ vua cho đến dân. Điều đó khẳng định tình trạng quý trọng kinh
nghiệm, quá trình sinh sống và là cách phân chia quen thuộc của các làng xã cổ xưa chưa biết đến cá nhân.
Con người Việt Nam trước hết được làng xã che chở, đùm bọc. Về kinh tế họ được
chia một phần ruộng công của làng, cứ khoảng 3 năm chia lại một lần cho các năm giới
từ 18 tuổi trở lên chiếu theo sổ đinh của làng, cho dù có ruộng tư nó phát triển chậm nên
làng nào cũng có ruộng công. Trong số các ruộng công này, ruộng tốt cấp cho binh lính
vì công lao của họ, có các loại trợ sưu điền để giúp đỡ nhân dân khi không đủ tiền nộp
sưu, có bút điền để trợ cấp cho chi phí giấy bút trong công việc của làng, có học điền để
trợ cấp cho việc học, có cô nhi điền và quả phụ điền để trợ cấp cho cô nhi quả phụ…chế
độ tự quản của làng xã cấp cho người dân làng xã có một thân phận riêng che chở cho
người dân khiến không một vua chúa của Việt Nam nào dám nghĩ đến chuyện “làm cỏ
một làng”, dù trong thời đại nào cũng có những cuộc nổi dậy của các làng chống lại
những chính sách chưa phù hợp với lòng dân.
4. Một điểm nữa để đánh giá thân phận của côn người ta hãy thông qua thân phận
người phụ nữ Việt trong lịch sử. Người phụ nữ Việt Nam trong làng xã có thân phận rõ
ràng, không ai bó chân họ, bắt họ suốt đời trong “xó bếp”. Lý thuyết nam nữ thụ thụ bất
thân là chuyện của Trung Quốc, chỉ nhìn các hội hè đình đám ở nông thôn cũng thấy
không ai theo chuyện đấy. Phụ nữ Việt Nam đi chợ, tham gia giao tiếp xã hội, có vai trò
quan trọng hơn nam giới trong kinh tế, giáo dục gia đình, họ nắm tay hòm chìa khóa, dân
gian có câu “giàu vì bạn sang vì vợ”. Quan hệ xã hội trong một gia đình nhất là quan hệ
với làng xã, họ hàng do phụ nữ tạo nên còn nam giới chỉ là đại diện ở bên ngoài mà thôi.
Người Việt với tâm thức là lấy phải người vợ lăng loàn, làm mất quan hệ với họ hàng,
một người phụ nữ khi lấy chồng là gánh cả giang sơn nhà chồng, gia đình nhà chồng có
được mọi người kính nể hay không là là do vợ quyết định.
Tín ngưỡng Việt Nam cũng là một biểu hiện. Nếu như chỉ có nam giới là người
tham gia bàn công việc làng ở Đình thì những người đến chùa, các đạo quán gần như là
toàn nữ giới. không những thế thiên đình đạo ở Việt Nam lại do nữ giới làm chủ chứ
không phải nam, người ta gọi những cái tên như Mẫu, các bà mẹ… Mẫu thượng thiên,
Mẫu thoải, Mẫu thượng ngàn..cùng với các cô, các bà chúa…và thế giới tâm linh của
người Việt là do phụ nữ cai quản.
Một văn hóa coi khinh phụ nữ không thể gọi là nhân đạo được, chính những nét
đẹp truyền thống tôn trọng phụ nữ, dành cho nữ giới một địa vị chủ động trong những
phạm vi nhất định mới tạo được một truyền thống nữ giới anh hùng trong những cuộc kháng chiến đã qua.
3.4. Vấn đề diệm mạo
- Thân phận và diệm mạo của một con người có được là do sự cố gắng của bản
thân mỗi con người và đã được xã hội cấp cho. Trong xã hội xưa con người đã có thân
phận nhưng họ phần lớn là không có ý thức về diệm mạo của mình. Điều này chúng ta cố
thể thấy như: Trong xã hội cổ xưa của người Ê đê và người Giarai ở Tây Nguyên, hình
phạt nặng nhất đối với con người để trừng trị không phải là cái chết. Vì anh ta tin rằng
nếu chết đi anh ta sẽ đầu thai lại ngay trong thị tộc của mình. Hình phạt nặng nhất đối với
anh ta là bị đuổi ra khỏi cộng đồng, bởi vì lúc đó anh ta sẽ bị mất đi thân phận mà anh ta
được hưởng trong cộng đồng của mình. Xã hội Trung Quốc xưa có phân ra hai hạng
người là tiểu nhân và quân tử, đây là sự phân chia theo thân phận không theo diệm mạo.
Người có ý thức về diện mạo nhất có lẽ là các ẩn sĩ, các hòa thượng, họ tìm thấy giá trị cá
nhân của họ trong sự đối lập với tập tục và chấp nhận những thiệt thòi về phía mình để có
được một sung sướng mới: ý thức về diện mạo. Phải có ý thức này mạnh mẽ ở một số
người đến mức hộ vượt lên mọi khổ cực, sống thản nhiên trước những ham muốn lôi cuốn.[6]
- Trong xã hội xưa, trong xã hội Việt Nam được xây dựng trên cơ sở làng xã làm
tế bào, trong làng xã có chính quyền, trong chính quyền có nhiều vị trí đảm nhiệm như
hội đồng hào mục, có nhiều tổ chức như: giáp, tư văn, tư võ nghệ, rồi nghề đan, mộc,
thêu…đặc biệt có những người được triều đình phong cấp cho các học vị như Cử nhân,
Tiến Sĩ…. Vì là do triều đình phong tặng nên uy tín củ họ vượt ra ngoài một làng, một
xã. Tất cả những cương vị trên, thì diệm mạo được hình thành trong cương vị đảm nhiệm
của từng vị trí trong chính quyền và từng tổ chức một. Ngoài ra về mặt tín gưỡng, chế độ
thờ cúng thì các tộc trưởng, các trưởng chi lại có một diệm mạo riêng.
- Về trật tự cao thấp, thứ hạng trong diệm mạo ở xã hội Việt xưa cũng thể hiện ở
việc trật tự cao thấp, kẻ trên, người dưới, người làm việc này, người làm việc khác và mỗi
người có bổn phận khác nhau. Dĩ nhiên diệm mạo của mỗi người có thay đổi và chính sự
phấn đấu để thay đổi diệm mạo là một động lục rất mạnh để xã hội thay đổi. Tuy nhiên
trong xx hội quân chủ việc thay đổi diệm mạo tương đối chậm, bởi nó bị quy định bởi gia
thế, tài sản, chức vụ.
- Về mặt diệm mạo truyền thống của gia đình Việt Nam xưa. Một gia đình dạy con
biết hiếu, đễ, liêm sỉ không phải để nhờ con cái là gì mà để giữ lấy đạo đức cho gia đình,
cái đó xưa gọi là gia phong. Nó quý hơn ruộng đất, tài sản. Cái gì mất đi cũng có thể lấy
lại được nhưng gia phong mất đi, con người mất đi diệm mạo thì rất dễ làm điều trái với
đạo nghĩa. Khi gia đình là yếu tố tạo nên nhân cách con người Việt Nam, thì truyền thống
gia đình đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng nhân cách từng người.
Đối với người Việt Nam, điều quan trọng nhất là để lại tiếng thơm cho con cháu
sau khi chết. Một vị vua khi sống thì gọi bằng niên hiệu, ví dụ vua Hồng Đức, vua Chiêu
Thống. Nhưng khi chết , triều đình căn cứ vào cách cai trị của ông mà gọi bằng một cái
tên khác, lịch sử sau này sẽ gọi bằng cái tên ấy. Thí dụ vua Hồng Đức sẽ được gọi là Lê
Thánh Tông, vua Chiêu Thống sẽ được gọi là Lê Mẫn Đế (vua tội nghiệp). Người dân
bình thường khi chết đi cũng có môt cái tên như vậy gọi là hiệu bụt và được ghi vào bài
vị, các tên hiệu bụt là có sẵn được làng tặng, cấp và được ghi vào gia phả.
- Để xây dựng ý thức thường trực về gia phong, có một tín ngưỡng đặc biệt của
người Việt Nam đó là tục thờ cúng gia tiên. Về cơ bản đây là một tín ngưỡng chung của
cư dân Đông Nam Á , kể cả Hoa Nam Trung Quốc trước kia cũng thuộc phạm vi vùng
văn hóa Đông Nam Á. Tín ngưỡng này đối với người Việt Nam khi tiếp nhận tôn giáo
khác thì luôn luôn lấy nó làm gốc, làm nền tảng. Không những Nho giáo, Phật giáo, Đạo
giáo, cả những đạo mới lập như Cao Đài, Hoài Hảo đề lấy nó làm nền tảng, ngay cả Đạo
Thiên chúa theo nguyên lý chỉ thờ Chúa, các gia đình Thiên Chúa vẫn tổ chức những
ngày giỗ tổ tiên, vẫn mời những người thân đến dự, như vậy xét đến cùng rõ ràng đây vẫn
là sự khúc xạ văn hóa nói chung.
3.5. Những chuyển biến tương lai
Văn hóa Việt Nam đang có những chuyển biến hết sức to lớn.
Thứ nhất với những biến đổi hằng ngày, hằng giờ của các thành tựu khoa học kĩ
thuật ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại, con người tiếp xúc với thế
giới là vô cùng sâu rộng, không còn biên giới trong lĩnh vực thông tin. Sự tiếp xúc này có
nghĩa là sự thỏa hiệp từ hai phía. Do đó sớm hay muộn văn hóa Việt Nam cũng sẽ mang
sắc thái mới, sắc thái có tính chất thế giới. Trong điều kiện mới này một điều chắc chắn
rằng văn hóa Việt Nam có điều kiện pát huy ra ngoài nước cùng với đó là tiếp thu các yếu tố mới.
Thứ hai, cùng với các nước ở Đông Nam Á Việt Nam có thể nói là một nước có
truyền thống văn hóa bề dày hơn, đa dạng hơn, trội hơn nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bất
cập, chưa tạo ra được thế mạng riêng cho mình, chưa phát huy được hết tiềm năng của
mình. Sẽ có những có những yếu tố mới, cách lý giải mới trong tương lai về vấn đề Tổ
quốc, Gia đình, Thân phận và Diệm mạo, nhưng cái đích sẽ không thay đổi đó là quyền
đời vật chất tinh thần của người dân phải được nâng cao không ngừng.
Bài 4: GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA VĂN HIẾN QUA CON MẮT NGƯỜI NƯỚC
NGOÀI VÀ NGƯỜI VIỆT NAM ĐẾN GIỮA TK XX
Để có cái nhìn khách quan, khoa học khi xem xét một sự vật hiện tượng chúng ta
phải tìm hiểu một cách cụ thể, rõ ràng trước khi đưa ra kết luận cuối cùng, vấn đề giá trị
truyền thống của văn hiến Việt Nam cũng vậy. Ngày nay chúng ta đều biết rằng những
giá trị truyền thống đó được hình thành trên cơ sở nền tảng của ba phương diện cơ bản là
bối cảnh không gian, bối cảnh chủ thể và bối cảnh thời gian. Từ những luận cứ đó chúng
ta mới có thể đưa ra được một hệ thống các giá trị truyền thống của người Việt. Tuy
nhiên để có cái nhìn khách quan hơn, chúng ta sẽ tìm hiểu những nghiên cứu của các tác
giả người nước ngoài và cả người Việt Nam cho đến giữa thế kỷ XX.
4.1. Giá trị truyền thống qua con mắt người nước ngoài
Trong số các tác phẩm của người phương Tây có bàn về các giá trị văn hóa tinh
thần của người Việt Nam truyền thống thì đáng chú ý nhất là cuốn “Đế quốc An Nam”
(L’empire d’Annam) của Charles Gosselin, nhà xuất bản Pari năm 1904. Cuốn sách trình
bày một cách trung thực, khách quan bức tranh về xã hội Việt Nam truyền thống. Sách
được Trần Trọng Kim đánh giá cao và chọn làm một trong những tài liệu thham khảo
chính khi viết cuốn “Việt Nam sử lược”. Chương 1 cuốn sách bàn về “Đời sống trong xã
hội An Nam xưa” đã được Nguyễn Thừa Hỷ dịch và in làm phụ lục trong cuốn “Văn hóa
Việt Nam truyền thống: một góc nhìn” xuất bản năm 2012.
- Theo Charles Gosselin “có điều đặc biệt đáng chú ý là, trong số những dân tộc
chấp nhận nền văn minh Trung Quốc, chỉ riêng nhánh Giao Chỉ, tức chỉ người An Nam
hiện nay, đã biết cách không để mình bị Trung Hoa thôn tính, sáp nhập…sự ngưỡng mộ
mà tất cả mọi người, từ vua chúa đến dân chúng biểu hiện một cách thông minh đối với
những nền văn minh đến từ nước Trung Hoa không bao giờ kèm theo phía những người
An Nam một sự sao chép nô lệ những phong tục…vì những lẽ đó, chúng ta có quyền nghĩ
rằng dân tộc An Nam trong hình thức hiện nay…đã bảo lưu được những dấu vết của một
trạng thái cổ xưa đã mất đi từ lâu và đã bị nước Trung Hoa ngày nay quên lãng” [Charles Gosselin. 1904: 524-525].[9]
- Một cuốn sách đáng chú ý khác xuất bản cùng năm 1904 ở Pari chuyên bàn về
các giá trị văn hóa tinh thần của người Việt Nam truyền thống là cuốn “Tâm lý dân tộc
An Nam” của Paul Giran, một viên chức người Pháp làm tham biện Đông Dương. Sách
dày 200 trang, chia làm hai phần. Phần đầu bàn về các vấn đề chủng tộc, môi trường
sống, tinh thần của người An Nam dưới tiêu đề chung là “Đặc điểm xã hội” (Từ trang 21
đến 94). Phần 2 bàn về quá trình phát triển lịch sử, sự phát triển trí tuệ, sự phát triển
chính trị và xã hội dưới tiêu đề chung là “Quá trình phát triển của dân tộc An Nam”(từ trang 95 đến 194).
Trải qua 200 trang sách, tác giả nêu lên nhiều đặc điểm tâm lý và tính cách của
người An Nam, cả ưu điểm lẫn hạn chế: hiền lành, chăm chỉ, cần mẫn, thích đạm bạc,
hiếu học, thông minh, cẩn trọng, rất can đảm, điềm tĩnh, muốn mọi thứ đồng đều, có đầu
óc bầy đàn, kiểu suy nghĩ “tập quần”; hay bắt chước, bảo thủ, thiếu tầm nhìn xa, thiếu
quyết đoán, thích chức quyền…
Thông qua đó tác giả cho rằng nguồn gốc và môi trường là hai yếu tố chủ yếu gây
nên những yêu điểm và hạn chế này. Trong phần kết luận tác giả viết: “Ta [người Pháp]
cần tôn trọng sự toàn vẹn về tổ chức xã hội của họ [người An Nam], đồng thời ta cũng
không động chạm đến tín ngưỡng, hệ thống pháp luật, tổ chức hành chính, cũng như tập
tục của họ đã quen với hệ thống ấy, thậm chí là quen với những chỗ chưa hoàn hảo của
nó nữa” [Paul Giran 1904: 195-196]. [9]
- Năm 1912, là một sĩ quan cao cấp, trung úy quân đội Pháp xuất bản ở Hà Nội
cuốn “Chân dung và tính cách người An Nam” (Portrats & Ceratères Annamites). Tuy
chỉ có 59 trang và là tác phẩm của một sĩ quan quân đội, nhưng đây là một cuốn sách thú vị.
Sách chia làm ba phần, phần I trình bày những có sở lý luận, phần II giới thiệu
chân dung và tính cách, (theo kiểu nghiên cứu trường hợp) của một người lính khố đỏ,
một thầy thông (ngôn), một đứa trẻ và sau này thành viên quan lại, một người nông
dân…bốn chân dung này phản ánh một số nét tính cách của người An Nam, trong đó
chân dung người lính khố đỏ và chân dung đứa trẻ - viên quan là hai chân dung rất ấn tượng.
Phần III của cuốn sách trình bày sự phân tích kinh nghiệm cùng những tư tưởng
khái quát trong đó chứa đựng nhiều nhận xét và phân tích sắc sảo về tính cách người An
Nam, về những sai lầm chủ quan và thiếu hiểu biết về phong tục tập quán của người Pháp
trong ứng xử với người An Nam [Ch. Martin Saint Leon 1912].
– Năm 1954, hai tác giả Pierr Huarad và Maurise Durand ở trường Viễn Đông bác
cổ xuất bản tại Hà Nội cuốn “Hiểu biết về Việt Nam” (Connaissance du Việt Nam).
Tronng đó ở chương VIII mục II (Cấu trúc tư duy của người Việt cổ truyền – Một khía
cạnh cấu trúc tinh thần), các tác giả nêu lên một số điểm khác biệt giữa tư duy người Việt
cổ truyền và tư duy phương Tây.
Chẳng hạn, trong khi người Việt Nam cũng như toàn bộ vùng đông Á sống trong
bầu không khí tuân phục thiên nhiên, thì ở phương Tây con người “đạt đến một tính độc
lập có khả năng hiểu biết khoa học, có sức mạnh kỹ thuật và có những quan niệm chính
trị tự do”. Trong khi người phương Tây sống trong một thế giới mọi thứ đều diễn ra chính
xác thì người Việt Nam thiếu mọi công cụ chính xác lẫn lộn lịch sử với huyền thoại.
[Pierr Huarad và Maurise Durand 1954, 133-136]
- Vào năm 1981, Claude Gérald Palazzoli, một luật gia người Italya, đã xuất bản
cuốn “Việt Nam giữa huyền thoại” (le Vietnam entre deux mythes) dày 190 trang, trong
đó ghi lại những cảm tưởng nhận xét của mình về đất nước, con người Việt Nam sau hai năm làm việc tại đây.
Claude Palazzoli miêu tả tình thế của Việt Nam vào thời điểm lúc bấy giờ bằng
hình ảnh “Việt Nam giữa hai huyền thoại”: Một mặt, đó là “huyền thoại về dân tộc nhỏ
bé, dũng cảm và đầy tự hào, một dân tộc khôn ngoan, hiệu quả, cần cù, một dân tộc mà
sự bền bỉ kiên cường của nó cùng với sự không cân xứng về mặt phương tiện sử dụng so
với phía bên kia làm cho cuộc chiến càng được ủng hộ”. Mặt khác, ba chiến dịch truyền
thông về việc Việt Nam giam giữ người, gây ra nạn di tản và đưa quân vào Campuchia đã
tạo nên một “phản huyền thoại”, “một sự đảo lộn phũ phàng” trong con mắt của thế giới.
Trong bối cảnh đó, chủ định của tác giả là đưa ra hình ảnh chân thật về Việt Nam
như nó có, “một đất nước Việt Nam dễ mến và tuyệt vọng, hay nổi cáu và ngoan cố về
một số niềm tin không thể phá vỡ, nhưng cũng là một đất nước Việt Nam, quanh co, tinh
tế, cởi mở với đối thoại và đang mời gọi những nền văn hóa khác, những chọn lựa khác
mặc dù bị cấm vận dữ dội. Tóm lại, một đất nước Việt Nam nhân văn vô tận, hấp dẫn và
nhạy cảm” [Claude Palazzoli 1981: IV-VII] [9]
4.2. Giá trị truyền thống qua con mắt người VN đến giữa TK XX.
Với điều kiện lịch sử xã hội khi mà các ngành khoa học chưa có điều kiện phát
triển đặc biệt là các ngành khoa học nghiên cứu về xã hội, tính các dân tộc như xã hội
Việt Nam cho đến trước thế kỷ XIX thì lại càng hiếm hoi hơn.
- Lật tìm các trang tài liệu ta sẽ thấy trong cuốn “An Nam chí lược” của Lê Tắc,
trong phần “Phong tục, quyển đệ nhất” có ghi: “đàn ông lo làm ruộng, đi buôn, đàn bà lo
nuôi tằm dệt vải, cách nói phô, hiền hòa, ít lòng ham muốn. Người ở xứ xa xôi trôi nổi tới
nước họ, họ hay hỏi thăm, ấy là tình thường của họ. Người sinh ra ở Ái Châu và Giao
Châu thì rộng rãi, có mưu trí; người ở Châu Hoan, Châu Diễn thì thuần tú, ham học. Dư
nữa thì khờ dại thiệt thà”[1335/1962:15]
- Các đánh giá, các ý kiến của người Việt Nam khi bàn về tính cách dân tộc, bản
sắc dân tộc của người Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trở lại đây.
Đầu năm 1924, Hội Việt Nam thanh niên xuất bản tại Hà Nội tập sách song ngữ
Pháp – Việt của Vũ Tam Tập nhan đề “De la sincerite chez las Anamites. Tính thành thực
của người dân An nam”. Đây là một tập sách chuyên đề dày 32 trang với nội dung xoay
quanh tật nói dối của người An Nam mà các nhà nghiên cứu Việt Nam thường nói đến
trên cơ sở bài thuyết trình của tác giả và kết quả các cuộc thảo luận tại Hội Việt Nam thanh niên. [1942] [9]
Cuốn sách đầu tiên viết bằng tiếng Việt theo phong cách khoa học về văn hóa Việt
Nam, đây thể nói là cuốn sách mang tính nền tảng đầu tiên là cuốn “Việt Nam văn hóa sử
cương” xuất bản năm 1938 của học giả Đào Duy Anh.
Trong mục IV nhan đề “Người Việt Nam”, sau khi nói về nguồn gốc và đặc điểm
nhân chủng, tác giả đã bàn những tính chất tinh thần phổ thông nhất của người Việt Nam.
Theo tác giả, những phẩm chất tinh thần này “cũng có tinh nguyên lai từ thượng cổ mà có
thay đổi chút ít, cũng có tính do lịch sử và trang thái xã hội hun đúc dần thành, cho nên ta
đừng xem những tính chất ấy là bất di, bất dịch” [9]
- Học giả Nguyễn Văn Huyên trong cuốn “Văn minnh An Nam”, xuất bản bằng
tiếng Pháp năm 1944 (La Civilisation Annamite), ở mục “loại hình tinh thần” đã giới
thiệu một số phẩm chất tinh thần trái ngược nhau của người Việt Nam như lười biếng và
cần cù, phóng túng và thực tế, thất thường và kiên định, hay trộm cắp và hào hiệp, chất phác và khôn ngoan. [9]
Các công trình trên tuy chưa phải là các công trình chuyên sâu về tính cách dân
tộc, đặc trưng văn hóa dân tộc theo đúng nghĩa, nhưng những đánh giá và nhận xét về
tính cách của người Việt, có tốt, có xấu, có những nguyên do…thì đây là một cách nhìn
nhận, một cách đánh giá mới và tương đối khách quan trong thời điểm lúc bấy giờ. Điều
đó làm cơ sở nền tảng rất lớn cho chúng ta tìm hiểu và nghiên cứu về văn hóa dân tộc và
những nét đẹp của văn hiến Việt Nam
4.3. Giá trị truyền thống qua con mắt người VN đến nửa sau TK XX.
- Sau năm 1954, công trình công trình sớm nhất của Việt Nam bàn chuyên về tính
cách của con người Việt là cuốn “ Tìm hiểu tính cách dân tộc” của Nguyễn Hồng Phong
xuát bản năm 1963. Sách có 454 trang, có phụ đề là “Nghiên cứu tính cách dân tộc cổ
truyền biểu hiện trong văn học nghệ thuật và đời sống”
Sách chia làm ba phần, trong đó phần II có nhan đề “nội dung tính cách dân tộc”,
chia làm năm chương đi vào năm đặc tính cách, cũng là năm giá trị của người Việt Nam
là: (1) Tập thể - cộng đồng; (2) Trọng đạo đức; (3) Cần kiệm – giản dị, thực tiễn; (4) Tinh
thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo; (5) Lạc quan. Phần III,
“Truyền thống cũ và yêu cầu đổi mới” thảo luận nhu cầu chuyển đổi tính cách dân tộc để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng giống như bây giờ ta nói xây dựng hệ giá trị mới. Ở đây
Nguyễn Hồng Phong nêu lên 4 giá trị cần điều chỉnh và phát huy, được nhóm thành hai
cặp là “Tinh thần cộng đồng công xã và tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa”, và “Trọng
đạo đức, trọng thực tiễn”. [9]
- Công trình thứ hai dành chuyên cho việc nghiên cứu các giá trị tinh thần của dân
tộc là cuốn “Giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam”, của học giả Trần Văn Giàu, xuất
bản năm 1980. Sách dày 314 trang.
Phần nội dung chia làm 11 chương: Chương I nói đến khái niệm giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc. Chương II bàn về điều kiện lịch sử quyết định sự hình thành và
phát triển của các giá trị đạo đức truyền thống của Việt Nam và sự tiếp thu ảnh hưởng
bên ngoài từ nhiều phía. Từ chương IV đến chương X đi sâu vào 7 giá trị đặc thù của văn
hóa Việt Nam là (1) Yêu nước; (2) Cần cù; (3) Anh hùng; (4) Sáng tạo; (5) Lạc quan; (6)
Thương người; (7) Vì nghĩa. Chương XI dành cho chủ đề “Hồ chủ tịch kết tinh của các
giá trị truyền thống và đạo đức cách mạng Việt Nam”
Năm 1983, lần đầu tiên có hội thảo khoa học chủ đề “Giá trị văn hóa tinh thần của
người Việt Nam” do viện Mác – Lê nin và tạp chí cộng sản phối hợp tổ chức tại Hà Nội.
Tại hội thảo, Trương Chính nói đến giá trị tinh thần của Việt Nam là: (1) Tinh
thần yêu nước; (2) Tinh thần dân tộc; (3)Cần cù thông minh; (4) Trọng đạo lý tình người;
(5) Lạc quan yêu đời. [9]
Lê Anh Trà nêu lên 4 giá trị: (1) Yêu nước bất khuất chống ngoại xâm; (2) Lao
động cần cù xây dựng đất nước; (3) Lòng nhân ái và ý thức về lẽ phải; (4) Lối sống giản
dị không ưa thái quá. [9]
Bàn về việc “Xây dựng một bảng giá trị mới xã hội chủ nghĩa” Đức Uy khẳng
định rằng “Hệ thống giá trị cổ truyền có nhiều điểm không cồn thích hợp nữa vì nó gắn
liền với nền sản xuất nhỏ”. Tác giả cho rằng trong hệ thống giá trị mới xã hội chủ nghĩa
cần đặc biệt chú ý đến hai giá trị cốt lõi cơ bản nhất là “con người tập thể xã hội chủ
nghĩa” và “lao động”. [9]
- Sang năm 1990, Trần Đình Hựu trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống”, nói
đến tinh thần cung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa. Không có
những khát vọng lớn mà nhạy cảm, tinh nhanh, khôn khéo gỡ các khó khăn tìm được sự bình ổn. HGT
Phan Ngọc trong cuốn “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới”, nhấn mạnh đến
tinh thần trách nhiệm: “Nhân cách Việt Nam trước hết tiêu biểu ở tinh thần trách nhiệm”.
Còn trong bài viết “Khổng học, quan hệ của nó với thời đại” thì nói đến các phẩm chất:
Ham học, thông minh và tháo vát, nhạy bén với thay đổi; Cần cù chịu khó thích nghi với
hoàn cảnh; Gắn bó với tổ quốc, họ hàng, bà con; Thích sống một cuộc sống giản dị,
không bị những đòi hỏi vật chất giày vò; Lo cho con cháu còn hơn lo cho chính mình.
Trong những năm 1990 có hai chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước về
con người Việt Nam, có liên quan đến các giá trị. Chương trình thứ nhất có tên là “Con
người là mục tiêu động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” thực hiện trong các năm
1991-1995. Chương trình thứ hai có tên là “Phát triển văn hóa, xây dựng con người trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, được thực hiện trong các năm 1996-
2000. Cả hai chương trình đều do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm. Giới thiệu tổng quan
về hai chương trình này có thể tìm thấy trong cuốn “Nghiên cứu con người và nguồn
nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Phạm Minh Hạc dày 338 ttrang xuất bản năm 2001.[9]
- Tại đề tài “Những giá trị truyền thống dân tộc và con người Việt Nam” do Phan
Huy Lê làm chủ biên lại theo một hướng khác. Hai tập sách nhan đề “Các giá trị truyền
thống của con người Việt Nam hiện nay” [Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang CB,
1994;1996], do đề tài công bố cùng một số bài viết về các giá trị truyền thống, về văn hóa
làng xã vùng đồng bằng và vùng núi, về tư liệu địa bạ và hương ước liên quan đến cơ sở
hình thành các giá trị truyền thống.
Trong hai tập sách này, đáng chú ý nhất là bài viết “Nội dung của truyền thống
Việt Nam” của Vũ Minh Giang (1996). Các nội dung của truyền thống Việt Nam được
tác giả trình bày theo bốn nhân tố chi phối sự hình thành của chúng; I - Liên quan đến
môi trường, tự nhiên và điều kiện địa lý, sứ xở sông nước tạo nên “văn hóa sông nước”
và “khả năng đối phó linh hoạt”; Xứ sở thuận lợi làm nông nghiệp tạo nên “Căn tính
nông dân”; Xứ sở nhiều thiên tai tạo nên “Truyền thống không chùn bước trước khó khăn
và biết cố kết cộng đồng”; Vị trị ngã tư đường tạo nên “Tính cách dễ thích ứng và nhạy
cảm” và “Truyền thống đa dạng…nhưng hướng tâm vào văn hóa Việt”. II – Tác động của
quá trình lao động sản xuất lao động nên truyền thống “Cộng đồng”; “Dân chủ làng xã”;
“Giản dị chất phác”; “Cần cù chịu khó”; “Trọng tuổi tác”; “Tâm lý cầu an, cầu may”;
“Tác phong tùy tiện”, “Tâm lý bình quân chủ nghĩa”. III – Tác động của hoàn cảnh lịch
sử dẫn đến các truyền thống “Anh dũng quật cường” và “lòng yêu nước”, “Sùng bái thờ
cúng anh hùng”; “Thượng võ”. IV – Dưới tác động của văn hóa khu vực, ảnh hưởng
Đông Nam Á tạo nên một “Dân tộc dễ thích nghi và hội nhập”; Ảnh hưởng Khổng Giáo
tạo nên truyền thống “hiếu học”, “đạo hiếu” và “thích làm quan”; ảnh hưởng của Phật
giáo tạo nên truyền thống “nhân ái, vị tha, rộng lượng”. [9]
- Hội nghị trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) về xây dựng và phát triển văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc nêu ra “những giá trị bền vững, những tinh
hoa coongj đồng của các dân tộc Việt Nam” là “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ
quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo đức; đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…”[9]
Trong công trình “Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa: một góc
nhìn từ Việt Nam”, Phạm Xuân Nam đi đến kết luận rằng nền văn minh lúa nước sông
Hồng như một đỉnh cao của văn hóa Đông Sơn đã tạo nên cội nguồn của bản sắc văn hóa
dân tộc. “Trong đó hệ giá trị tinh thần cốt lõi(còn được vun đắp mãi về sau), là lòng yêu
nước nồng nàn , ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý, thương người như thể thương thân”,
đức tính, cần cù , linh hoạt, sáng tạo tronng lao động sản xuất, tổ chức cuộc sống, xây
dựng bảo vệ đất nước”. [9]
Tại hội thảo về xây dựng hệ giá trị Việt Nam tổ chức vào tháng 1/2015, lương
Đình Hải cho biết: “Trên cơ sở nghiên cứu và khảo sát riêng nêu lên bảng hệ giá trị việt
Nam trong giai đoạn hiện nay đó là (1) Tinh thần yêu nước; (2) Tinh thần nhân ái; (3)
Anh hùng dũng cảm; (4) Biết chấp nhận (nhẫn), tiếp thu; (5) Hiếu học; (6) Sáng tạo; (7)
Cần cù; (8) lạc quan, (9) Trọng đạo lý; (10) Ưa ổn định” [9]
Những nghiên cứu về hệ giá trị Việt Nam truyền thống qua con mắt người Việt
Nam trong nửa đầu thế kỷ XX trở lại đâycó thể chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn trước đổi mới các tác giả thường chỉ nói đến các giá trị. Xu hướng hay
“tô hồng”, chỉ nêu và đưa ra các yếu tố, các giá trị đẹp đẽ của dân tộc, cồn các yếu tố phi
giá trị thì ít hoặc không nhắc đên. Đây cũng là đặc điểm chung của các ngành khoa học
lúc bấy giờ do điều kiện xã hội nên không thể tránh khỏi những xu hướng mang tính chủ quan đó.
Ở giai đoạn sau các công trình công bố đã có những cách nhìn khác và có nhiều
thay đổi. Bên cạnh phần lớn truyền thống là các giá trị thì đã có một số nêu ra các yếu tố
phi giá trị. Trong bài “Con người Việt Nam hiện tại trong mối quan hệ với các giá trị và
phản giá trị của truyền thống”, của các tác giả Phùng Hữu Phú và Lâm Bá Nam do Phan
Huy Lê và Vũ Minh Giang CB và bài “Tìm hiểu những mặt hạn chế và tiêu cực trong di
sản truyền thống của dân tộc ta” của tác giả Trương Hữu Quýnh do Phan Huy Lê và Vũ
Minh Giang CB. Bài được viết theo tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Đây có thể khẳng
định là một bước tiến quan trọng đưa khoa học xã hội thoát khỏi giai đoạn minh họa, tô
hồng, từng bước trở về với khoa học đích thực.
Thông qua những nhận định, đánh giá của các tác giả cả trong và ngoài nước ở các
thời kỳ khi bàn về hệ giá trị của Việt Nam chúng ta có thể nhận xét như sau:
Thứ nhất, có một số giá trị và cả phi giá trị giống nhau của các tác giả như: Lòng
yêu nươc; Đức tính cần cù; lòng nhân ái; Tinh thần lạc quan; Sự tinh tế…những phi giá
trị như: gian dối, phù phiếm, không vặt, chuộng hư danh…sự trùng lặp này thể hiện sự
nhất trí trong cách đánh giá.
Thứ hai, các nhận định đánh giá này hầu hết là chưa có căn cứ khoa học cụ thể mà
chỉ là cảm tính, nếu có chăng thì cũng rất sơ sài, điển hình như Paul Giran cho rằng
nguyên nhân dẫn đến tất cả những ưu điểm hạn chế là nguồn gốc của chủng tộc và môi
trường. Tác giả Đào Duy Anh thì cho rằng “tính nguyên lai từ thượng cổ mà có thay đổi
chút ít, cũng có tính do lịch sử và trạng thái xã hội hun đúc dần thành”, Palazzoli thì nói
đến giống nòi, khí hậu và lịch sử một cách chung chung…
Chỉ riêng tác giả Trần Văn Giàu đã dành riêng chương II để bàn về những điều
kiện lịch sử quyết định hình thành và phát triển của các giá trị đạo đức truyền thống Việt
Nam. Theo ông các giá trị có được là do tác dụng tổng hợp của năm điều cơ bản gồm: (1)
Hoàn cảnh địa lý thiên nhiên tuy phì nhiêu nhưng cũng lắm thiên tai, nghiệt ngã; (2) Lịch
sử chiến đấu chống ngoại xâm bền bỉ; (3) Vị trí ngã tư đường giao lưu của nhân loại; (4)
Giai đoạn thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX đầy sôi động và sáo trộn; (5)Chủ nghĩa Mác –
Lê nin sớm du nhập, cá cuộc kháng chiến chống ngoại bang thành công rực rỡ đã khiến
các giá trị truyền thống quện lại với nhau”. Từ những cách giải thích trên chúng ta thấy
tác giả Trần Văn Giàu đã tiệm cận với cách giải thích khoa học ngày nay.
Bài 5: CỐT LÕI CỦA HỆ GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DƯỚI CÁCH NHÌN HIỆN NAY
5.1. Tính cộng đồng làng xã
5.1.1. Nguồn gốc của tính cộng đồng làng xã
Tính công đồng làng xã là sự găn kết các thành viên trong một đơn vị cư trú cơ
bản ở nông thôn Việt Nam. Công việc tròng trọt là luôn mang tính thời vụ, nghĩa là tập
trung công việc vào một thời điểm nào đó trong năm. Chính trong thời vụ đó thường có
sự hỗ trọ lẫn nhau vì công việc thường rất bận rộn, bởi vậy cư dân nông nghiệp trồng trọt
thường có sự liên kết với nhau rất cao.
Tronng lịch sử ở các nước phương tây cư dân chủ yếu sồng bằng nghề du mục,
nông dân sống bằng nghề chăn nuôi gia súc và trồng lúa mỳ khoai tây theo kiểu trang trại
tự cấp tự túc nên chỉ cần sự tự lập của cá nhân cũng đủ. Chính vì vậy cá nhân taccsh khỏi
gia đình rất sớm, có mức độ độc lập gia đình rất cao. Làng ở phương tây gồm những hộ
gia đình tiểu nông và hầu như không có sự quan hệ mật thiết với nhau, điều đó được C.
Mác đã từng ví nó giống như tính chất của một bao tải khoai tây rởi rạc.
Cư dân ở vùng Đông Bắc Á làm nông nghiệp khô chủ yếu trồng các loại ngũ cốc
như kê, mạch, cao lương, ngô, đậu tương nên chỉ cần lieen kết ở quy mô gia đình, gia tộc
là đủ. Trong văn hóa Đông Bác Á gia đình là gốc của xã hội (quốc gia = nhà + Nước), tạo
nên chủ nghĩa tông tộc chủ nghĩa gia đình. Mặt khác người Đông Bắc Á cũng có nguồn
gốc du mục, nên xã hội Đông Bắc Á chiến tranh lắm, biến đông nhiều, bởi vậy mà sự liên
kết ở quy mô gia đình vừa đủ tạo điều kiện sức mạnh, nhưng cũng vừa đủ đảm bào chế
độ tự do cần thiết, không gây sự ràng buộc lớn, cản trở sự hoạt động bình thường của xã hội.
Trong các loại hình nông nghiệp thì trồng lúa nước là loại hình nghề có tính đặc
thù vào loại cao nhất. Cây lúa nước có hai đặc điểm rất cần là nhiều nắng và nước. Trên
thế giới gần như chỉ có khu vực Đông Nam Á là đáp ứng được cùng lúc hai yêu cầu này.
Nằm trong khu vực tận cùng của Đông Nam của lục địa châu Á, thuộc vùng nhiệt đới gió
mùa, nắng lắm mưa nhiều, có hai đồng bằng lớn với nhiều sông ngòi kênh rạch, cực kỳ
thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của nghề trồng lúa nước, đó chính là đặc điểm
nổi bật nhất về bối cảnh không gian của Việt Nam. Bởi vậy nghề trồng lúa nước bắt
nguồn từ Đông Nam Á và cũng chỉ phát triển mạnh được ở Đông Nam Á. Nghề trồng lúa
nước có hai đặc điểm chính là phụ thuộc vào thiên nhiên ở mức độ cao và có tính thời vụ cao.
Phụ thuộc vào thiên nhiên ở mức độ cao bởi vậy công tác thủy lợi để điều chỉnh
nước là một việc làm voo cùng quan trọng đối với nghề lúa nước. Một người nghiên cứu
của phương tây là Jean Chesneaux đã viết “Cuộc chiến chống lại hạn hán và lũ lụt không
thể hoàn toàn dựa vào sức lực của một cá nhân riêng biệt. Do đó, nhu cầu hình thành một
xã hội là điều tất yếu: một mạng lưới thủy lợi phải được tạo ra cho ruộng lúa: đê điều
phải được xây dựng trên các bờ sông. Ngay từ đầu đời sống của người Việt đã thấm đẫm
trong truyền thống tập thể ” [9]
Tập thể gần gũi nhất thiên nhiên là gia đình. Phần lớn người Pháp khi đến Việt
Nam vào đầu thế kỷ XX đều có nhận xét giống nhau như J. Bossière (1890) rằng “tinh
thần gia đình là đặc tinnhs cơ bản nhất của con người An Nam thuộc tất cả mọi tâng lớp.
Đối với người An Nam thì gia đình là tất cả”; học như J.L. Lanessan (1890) rằng “Gia
đình là cơ sở, là hạt nhân của xã hội An Nam đó là một trục trung tâm mà mọi lợi ích và
mọi ý nghĩ đều quay quanh nó”. So với phương Tây thiên về trọng cá nhân thì sự gắn bó
với gia đình của người Việt Nam đối với những người Pháp lần đầu tiên đến Việt Nam và
phương Đông quả là một cú sốc mạnh. Nhưng do những người Pháp này chỉ so sánh
người Việt Nam với người phương Tây mà không có được sự so sánh của người Việt
Nam với Đông Bắc Á nên họ không biết được rằng vai trò của gia đình ở Đông Bắc Á
cao hơn nhiều so với ở Việt Nam, còn vai trò của làng xã ở Việt Nam cao hơn rất nhiều
sơ với ở Đông Bắc Á. [9]
Vai trò của làng xã ở Việt Nam cao hơn rất nhiều bởi nhiệm vụ quan trọng của
việc phải điều tiết, ứng phó với môi trường tự nhiên như xả lũ, chống úng chống hạn,
cung cấp nước tưới tiêu…những điều đó thì gia đình không thể đảm đương được mà phải
có một tập thể người nhất định. “Lụt thì lút cả làng/Muốn cho khỏi lụt, thiếp chàng cùng lo”(Ca dao).
Nghề trồng lúa nước có tính thời vụ cao bởi phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên từ
đó dẫn đến tình trạng không làm thì thôi, đã làm thì phải cấp tập trong một số ngày cho
xong tạo nên tính thời vụ ở mức độ rất cao. Công việc của nghề trồng lúa nước cũng chưa
phải quá nặng nhọc (phụ nữ cũng có thể làm tốt). Với khối lượng công việc nhiều tuy
không quá nặng nhọc nhưng trong một khoảng thời gian ngắn nhất định nên một người,
một gia đình không thể nào làm được, bởi vậy mà cần số đông. Tục ngữ Việt Nam có câu
“Đông tay hay làm”- cần nhiều người cần làm hơn là cần những người làm giỏi (nhưng
số lượng ít). Chính vì lý do đó mà cư dân xưa rất cần sự đông con. Nhưng đông cũng
không tự lo hết được số lượng công việc nên vẫn cần phải nhờ vả, làm đổi công với hàng
xóm láng giềng “đổi công góp sức cùng làm/ Thi đua tiếng hát rộn ràng đồng quê”. Vo
trò của hàng xóm láng giềng trở nên rất quan trọng: “Bán anh em xa, mua láng giềng
gần” (“Bán” ở đây là dùng theo nghĩa biểu tượng “bán A mua B = A ưu tiên hơn B”). Từ
đó ta thấy vai trò quan trọng của Làng. Làng có thể coi là đơn vị sản xuất của nghề trồng
lúa nước “Làm ruộng theo làng/ bán hàng theo chợ”.
Khái niệm làng là khá phổ biến trong mọi sinh hoạt của người dân Việt, nó trở
thành máu thịt của người Việt, ca dao tục ngữ chất chứa đầy kahsi niệm làng: “Láy vợ thì
phải nọp cheo cho làng”; “Ăn thì cúi trốc, đẩy nốc thì van làng”; “Kẻ cướp la làng”;
“Không có khaoi lang thì bỏ làng mà đi”; “Làm thì chẳng bằng ai, ăn thì thứ nhất thứ
hai trong làng”; “Một miếng giữa làng hươn sàng xó bếp”; “Của làng bằng sàng của
nhà”…kho tàng tục ngữ Việt Nam là như vậy.
Sau làng thì đến nước. Jean Chesneaux một học giả Pháp đã nhận xét: “nhu cầu
hình thành một nhà nước trung ương đã được cảm nhận ngay từ rất sớm – một nhà nước
khả năng tổ chức các kênh rạch và bảo trì hệ thống đê điều”. Nước là mô hình mở rộng
hệ thống của làng. Trong tiếng Việt “làng nước” là từ gép có nguồn gốc thuần việt (khác
hẳn với từ “quốc gia” là từ mượn Hán-Việt). Và làng là gốc, nước là ngọn cho nên nhiều
trường hợp ngày cả nước, vua, thiên hạn cũng không bằng làng: “Lệnh làng hơn phép
nước”; “Phép vùa thua lệ làng”; “Nghèo khó giữa làng, còn hơn giàu sang thiên hạ”;
“Lấy chồng khó giữa làng, hơn lấy chồng sang thiên hạ”.
Không một nơi nào trên thế giới này có tình trạng nghề trồng lúa nước quan trọng
như ở Việt Nam và Đông Nam Á, cho nên cũng không ở đâu làng có vai trò to lớn, quan
trọng như ở Việt Nam và Đông Nan Á và không văn hóa nào có tính công đồng làng xã
như ở Việt Nam và Đông Nam Á. Có lẽ do chính vai trò tơ lớn của làng xã trong cuộc
sống của người dân mà tiếng Việt cách gọi “ông xã” vốn chỉ những người có chức vị cao
nhất định trong bộ máy làng xã thời xưa đã được xã hội hóa để gọi ông chồng quan trọng
và thân yêu của người vợ.
5.1.2. Các biểu hiện của tính cộng đồng làng xã (giá trị phái sinh)
- Tinh thần tập thể: Là biểu hiện đầu tiên của tính cộng đồng, là tinh thần tập thể,
làm gì cũng có nhau. Tinh thần tập thể thể hiện sự gắn kết ở mức độ cao giữa cá nhân này với cá nhân khác.
- Tình đoàn kết: Là phản ánh quan hệ yêu thương giúp đỡ lẫn nhau giữa cá nhân
với cá nhân sống trong tập thể.
- Lòng biết ơn: Biểu hiện cho lòng biết ơn của người việt ta có thể thấy một học
giả Pháp là E. Courtois ở thế kỷ XIX khi đến Việt Nam đã viết như sau: “Có thể người ta
sẽ không nhìn thấy ở bất cứ dân tộc nào trên trái đất này một sự gắn bó hoàn hảo trong
gia đình, một tình cảm hiểu thảo sâu sắc như ở dân tộc An Nam” (Tác phẩm Xứ Bắc kỳ
thuộc Pháp ngày nay: Những ấn tượng và kỷ niệm) hay như Martin Sant Léon đã viết
trong cuốn “Chân dung tính cách người An Nam” như sau: “Cuối cùng, chúng ta cần
phải kết luận một điều quan trọng nhất là: tôn trọng truyền thống thờ phụng ông bà tổ
tiên hay là văn hóa của người An Nam ”. Hay tình thần uống nước nhớ nguồn, ăn quả
nhớ kẻ trồng cây là tính cách đạc trưng của người Việt là những biểu hiện rõ ràng nhất mà chúng ta thấy.
- Tính dân chủ trong làng xã: Trong xã hội Việt Nam tính dân chủ mạnh hơn tính
tôn ti, lấn át và chi phối tôn ti một cách rõ rệt, người Việt đã dân chủ hóa mọi tôn ti trên
dưới. Biểu hiện có thể thấy như ở vai trò của người phụ nữ, mối qua hệ giữa vua và tôi…
- Tính trọng thể diện: Thể diện là giá trị, vị trí trong cộng đồng của mỗi cá nhân có
được. Người Việt từ xưa đã rất coi trọng thể diện (bộ mặt) và ngày nay vẫn ảnh hưởng một cách sâu sắc.
5.1.3. Yếu tố tự trị của làng xã
Các làng xã ở Việt Nam truyền thống tồn tại khá biệt lập với nhau và độc lập với
triều đình phong kiến. Chính vì sự biệt lập và độc lập là thông lệ nên ở thường một số
vùng mới nãy sinh hiện tượng kết nghĩa anh em giữa các làng gọi là “kết chạ”. Các làng
xã ít có liên hệ với bên ngoài, làng nào biết làng ấy, mỗi làng là một vương quốc khép
kín, mỗi làng hoạt động độc lập với làng khác và phải tự lo lấy mọi việc. Vì phải tự lo
liệu nên mỗi người Việt Nam có nếp sống tự cấp tự túc; mỗi nhà đều tự cố gắng đáp ứng
mọi nhu cầu của cuốc sống của làng mình, nhà mình.
Như thế tính tự trị cao độ của làng xã Việt Nam là một thực tế hiển nhiên và một
lần nữa củng cố tính dân chủ của văn hóa Việt Nam. Nếu tính cộng đồng tạo nên mối
quan hệ dân chủ giữa các thành viên trong làng thì tính tự trị tạo nên mối quan hệ dân chủ
giữa các làng trong nước và giữa làng với nước. Làng xã Việt Nam như một vương quốc
thu nhỏ với luật pháp riêng (mà các làng gọi là “hương ước”) và tiểu triều đình riêng.
Thành ngữ có câu “hương đảng tiểu triều đình” (làng xóm là một triều đình thu nhỏ)lại
có câu “phép vua thua lệ làng”. Hai câu thành gữ này đã khái quát hóa một cách đầy đủ
tính tự trị của làng xã Việt Nam và mối quan hệ dân chủ đặc biệt giữa nhà nước phong
kiến với làng xã điều mà các xã hội truyền thống tôn ti cào như ở Đông Bắc Á hay
phương Tây không hề có. 5.2. Tính trọng âm
5.2.1. Nguồn gốc của tính trọng âm
Tính trọng âm là một đặc trung của văn hóa thể hiện bản chất, trọng tĩnh ưa ổ định
của văn hóa. Là một nền văn hóa thuộc loại hình ưa âm tính điển hình bên cạnh tính cộng
đồng, tính trọng âm là đặc trung của bản sắc quan trọng thứ hai. Sự hình thành của tính
trọng âm bị chi phối bởi nhiều yếu tố.
Về quan hệ với tự nhiên, do sống ở khu vực nhiệt đới nắng nóng (dương) nên cón
người và văn hóa Việt Nam phải đối phó lại bằng cách áp dụng cách ứng xử thiên nhiên
về ấm tính: Về thực phẩm thì cơ cáu đồ ăn thiên về thực vật (như rau, trái cây) hơn là
động vật; thích ăn đồ chua, đắng (như canh khổ qua, canh chua/mướp đắng, rau đắng-
chua, đắng là những vị âm); trong bữa ăn không thể thiếu các món canh; trong ngày
thường uống nhiều nước…Về cư trú thích ở chỗ thấp, kín, rộng thoáng, được thiên nhiên
che chở. Về trang phục thì thích đồ thoáng mát, khi làm việc ngoài trời thì thích mặc các
đồ màu tối (đen, gụ, nâu, chàm…). Đây là cách ứng xử lấy âm để khắc dương, thích hợp
với Đông Nam Á là khu vực nhiệt đới tuy nắng nóng nhưng mưa nhiều và có gió mùa,
tạo nên khí hậu tương đối điều hòa. Trong khi đó ở những khu vực nhiệt đới nắng nóng,
khô hạn quá mức (Bắc phi, Tây Nam Á…) thì phải ứng xử theo cách ngược lại mặc
những mầu trắng và thật kín để ngăn có thể tiếp xúc với nắng nóng, tức theo nguyên tắc “dương cực sinh âm”.
Về hoạt động, do sống bằng nghề lúa nước phụ thuộc vaò thiên nhiên ở mức độ
cao trong điều kiện địa hình phức tạp, người nông dân Việt Nam suốt đời hầu như rất ít di
chuyển ra khỏi nơi cư trú. Ngại di chuyển, không thích phiêu liêu mạo hiểm, làm việc
đều với tốc độ chậm…những biểu hiện tâm lý và thói quen hành động đó đề vừa là
nguyên nhân, vừa là kết quả của đặc trưng tính trọng âm trong văn hóa Việt Nam. [9]
5.2.2. Các biểu hiện của tính trọng âm (giá trị phái sinh).
a. Tính ưa ổn đinh là giá trị nổi bật nhất của đặc trưng văn hóa trọng âm. Văn hóa
âm tính là sản phẩm của nghề nông trồng lúa nước mà cây lúa cũng có tính cách ưa ổn
định như những người phụ nữ, nó chỉ phát triển tốt trên vùng đất quen thuộc: “khoai đất lạ, mạ đất quen”.
Người nông dân Việt Nam nói riêng và người Việt Nam nói chung luôn ưa cuộc
sống thanh bình, tĩnh lặng và rất ngại sự thay đổi, họ chỉ muống sông “an cư lạc nghiệp”.
Mang nặng tâm lý cầu an, có người cả đời chỉ sống một nơi, một chốn, nếu có thu nhập
dư giả thì ki bo chắt bóp tết kiệm, để giành để lúc mùa màng thất bát hay lúc ốm đau, là
người già lo việc “hậu sự”.
Mỗi người Việt Nam ổ định trong cuộc sống cá nhân nhờ gắn bó với gia đình ,
được gia đình che chở. Đến lượt mình, mỗi gia đình truyền thống Việt Nam truyền thống
đều được đảm bảo bằng sự ổn định cuộc sống trong phạm vi làn xã. Để đảm sự oonnr
định làng xã khuyến khích các thành viên giới hạn mọi quan hệ trong phạm vi làng mình
ưu tiên số một trong việc lấy chồng vợ là trong cùng làng xã “Ruộng giữa đồng, chồng
giữa làng”, “Ruộng đầu chợ, vợ giữa làng”, “Lấy chồng khó giữa làng hơn lấy chồng
sang thiên hạ”, “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”…người cùng làng là
người biết rõ nên sẽ ít nguy cơ bất trắc, cuộc sống ít biến động, quan hệ giữa cha mẹ, con
cái gắn bó chặt chẽ hơn.
Thời xưa gần như không mấy ai ra khỏi làng nên làng xã không có sổ hộ tịch hộ
khẩu. Sau khi giành được độc lập, Việt Nam là một quốc gia có truyền thống ưa ổn định
nê đã sử dụng hình thức quản lý hết sức chặt chẽ là bằng sổ hộ khẩu cùng với nó là chúng
minh thư nhân dân. Theo đó mỗi cá nhân phải là nhân khẩu thường trú trong một hộ, nơi
cư trú thường xuyên của mình, trong sổ hộ khẩu ghi rõ ai là chủ hộ, địa chỉ thường trú
của hộ ở đâu, từng thành viên có quan hệ với chủ hộ thế nào.
Sổ hộ khẩu là cách quản lý con người cực kỳ hiệu quả trong một xã hội lấy ổ định
làm đầu. Mọi quyền lợi của người dân như nhà ở, lương thực, thực phẩm, giấy tờ, học
hành, đăng ký, xe cộ….đều được giải quyết căn cứ theo hộ khẩu.
b. Tính hòa hiếu, bao dung
Tính hòa hiếu của người Việt Nam trong đối phó với môi trường xã hội thể hiện ở
truyền thống thích yên ổn, yêu hòa bình, ghét chiến tranh. Mặc dù đất nước luôn bị ngoại
xâm nhòm ngó và roi vào hoàn cảnh chiến tranh liên miên, nhưng trong truyền thoongs
nghệ thuật hình khối Việt Nam, không có tác phẩm hội họa, điêu khắc chiến tranh đầu rơi
máu chảy rùng rợn. Trong truyền thống lịch sử văn chương Việt Nam, không có loại tác
phẩm anh hùng ca, ca ngợi chiến tranh, có nhắc đến chiến tranh chăng chỉ là nói về nỗi buồn của nó.
Trong truyền thuyết dân gian hòn vọng phu về người vợ bồng con chờ chồng đến
khi thành tảng đá có hai biến thể, trong đó chuyện người chồng đi đánh giặc bảo về quê
hương là biến thể được ưa chuộng hơn cả. Chính là do tính hiếu hòa và lòng thủy chung
trở thành tâm thức chung cho cả dân tộc cho nên trong điều kiện tự nhiên đặc thù là đất
nước Việt Nam nằm trong vòng cung đá vôi, bất cứ mỏm núi đá nào nhô cao có thể ít
nhiều nhắc đến hình ảnh người mẹ bồng con đều được trí tưởng tượng dân gian dù là
người Kinh hay các dân tộc ít người, đặt tên là hòn vọng phu (Lạng Sơn, Nghệ An,
Thanh Hóa, Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận…). Cùng với hòn vọng
phu tính hòa hiếu còn là cội nguồn tạo nên truyện thơ “Chinh phụ ngâm”- lời than của
người có chồng đi đánh giặc.
Người Việt Nam coi trọng học văn hơn học võ, nhà nước phong kiến Việt Nam
quan tâm đến việc thi võ không bằng thi văn. Tính hòa hiếu khiến người Việt Nam có
truyền thống cố gắng tránh đối đầu, tránh chiến tranh. Chỉ khi bất đắc dĩ thì họ phải tự
vệ. Người Việt Nam chỉ giành được quyền sống yên bình cho nên không hiếu thắng, kể
cả khi chiến thắng đang cầm chắc trong tay. Do hòa hiếu mà năm 1077, khi đánh cho
quân Tống đại bại trên phòng tuyến sông Cầu, Lý Thường Kiệt đã chủ động mở lối cho
địch rút về trong danh dự. Trong kháng chiến chông quân Minh, sau khi đánh tan 10 vạn
quân tại ải Chi Lăng năm 1427, nghĩa quân Lê Lợi chấp nhận cho Vương Thông “giảng
hòa” rút quân về nước, trong sự kiện vùa Quang Trung cho mang xác Sầm Nghi Đống về
nước và cho phép Hoa kiều xây dựng đền thờ Sầm Nghi Đống ở Thăng cũng là một cách
thể hiện tính hòa hiếu sau chiến thắng vang oanh liệt của nhân dân ta.
Trong 2 cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, người phương Tây nhận xét rằng ngoài
Việt Nam ra, không thấy nươc nào có chính sách tù binh mang tinnh thần độ lượng, bao
dung nhân nghĩa và độc đáo như vậy: ngay trong chiến jtranh, dám thả về đồn địch hằng
trăm tù binh Âu-Phi mạnh khỏe sau khi đã giải thích, giáo dục. Và nói không gặp sự phản
bội. Tù binh Âu-Phí sau khi được thả về, ít người cầm súng đánh lại Việt Nam, hơn nữa
nhiều người họ còn trở thành lực lượng tuyên truyền chống chiến tranh một cách tích cực[9].
Ch. Gosselin nhận xét rằng người An Nam dễ dàng và hòa hiếu, rất dễ dàng thuận
nghe theo lẽ phải, lên án những kích động sự nóng giận. Critopphoro Borri thì, một giáo
sĩ người Ý, kể lại chuyện mấy người nước ngoài bị đắm tàu dạt vào đất Việt, chỉ cần học
được một chữ “đói” thôi cũng đủ đánh động được lòng thương của người Việt Nam và
xin được nhiều đến mức khi được cấp tàu trở về quê quán thì quyến luyến chẳng muốn
về, thuyền trưởng phải vác gậy đánh, họ mới chịu xuống tàu. [9]
c. Tính trọng tình đa cảm
Tính âm là cội nguồn của tính trọng tình, đa cảm. Người phụ nữ trọng tình, đa cảm
thế nào thì văn hóa Việt Nam cũng trọng tình đa cảm y hệt như thế.
Lối ứng xử trọng tình kéo con người lại gần nhau với người Việt nó là nguyên lý
mẹ trong cách giải quyết xung đột cũng như mọi mối quan hệ trong xã hội. Nguyên lý
“tình là tất cả” này được bộc lộ một cách không úp mở qua các câu tục ngữ “Một bồ cái
lý không bằng một tí cái tình”; “Một trăm cái lý không bằng môt tí cái tình”. Tình được
coi trọng hơn trí tuệ “Biết nhiều không bằng biết điều”; Tình coi trọng hơn vật chất “Của
đầy mình không bằng tình ăn ở”…
Tình là “tình thương”, “tình yêu”. Khi thương yêu nhau người Việt có thể bỏ qua
mọi khuyết tật của nhau “Yêu nhau đắp điếm mọi bề (hoặc yêu nhau mọi việc chẳng nề)/
Một trăm cỗ lệch không kê cho bằng”. Trong tình yêu trai gái người Việt có thể yêu mà
làm mọi thứ “Yêu nhau sinh tử cũng liều/ Thương nhau lội suối qua đèo có nhau” kể cả
việc nói dối cha mẹ: “Yêu nhau cởi áo cho nhau/về nhà dối mẹ qua cầu gió bay”, “Yêu
nhau cởi nhẫn cho nhau về nhà mẹ hỏi qua cầu nó rơi”.
Cái tình gần gũi nhất là tình vợ chồng, anh chị em, cha mẹ, họ hàng “Một giọt
máu đào hơn ao nước lã”. Claude Palazzoli nhận xét “Tình thương mà người Việt Nam
giành cho con cái là một khía cạnh của lăng kính vạn hoa, ở đó phản ảnh tính đa cảm của
họ… không nơi đâu tôi thấy tình thương ấy thường được thể hiện liên tục và tỉ mỉ đến
như thế. Sự chăm chút của họ dành cho con cái khi đang chở trên xe đạp trước những đợt
không khí và tiết trời ập đến đặc biệt là vào mùa đông là một trong những hinnhf ảnh cảm
động nhât về tình yêu con cái”. “Tình làng nghĩa xóm” cũng không kém gì tình cảm gia
đình, có khi còn rất đậm đà “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; “bạn bè là nghĩa tương
tri/ Sao cho sau trước một bề mới nên” …. d. Tính trọng nữ.
Không giống như ở nhiều nước khác vai trò của người phụ nữ ở Việt Nam thật sự
khác hẳn. Xuất phát từ cái nghề trồng lúa nước với cấu trúc làng xã có độ ổn định cao thì
ngôi nhà là tài sản quan trọng nhất. Với người nông dân hầu như suốt đời không ra khỏi
lũy tre làng thì gia đình là giá trị quan trọng nhất. Mà quản lý nôi nhà và gia đình với biết
bao công việc lặt vặt thì người phụ nữ giỏi hơn người đàn ông rất nhiều. Người đàn oong
văng nhà bao lâu cũng không sao nhưng người phụ nữ văng mặt thì mọi thứ trở nên lộn
xọn ngay, người phụ nữ Việt thật sự là người tề gia nội trợ không ai bằng.
Trong việc quản lý gia đình và ngôi nhà thì quản lý kinh tế là công việc trọng tâm.
Một người phụ nữ đã nắm giữ “tay hòm chìa khóa” thì tiền nong và tài sản trong gia đình
thì không chỉ được bảo toàn một cách xuất sắc (người phụ nữ Việt được ví là cái hom,
“cái giỏ”) mà còn sinh sôi nảy nở. Do kinh tế là cái gốc, bởi vậy ai nắm kinh tế thì thực
chất người đó quản lý và điều khiển cả gia đình. Các công việc của trồng lúa nước thì rất
nhiều nhưng thực chất người phụ nữ có thể làm được hết, không đòi hỏi phải tiêu tốn
nhiều sức lực. Chinh bởi vậy mà trong những năm chống Mỹ, khi hầu hết nam giới tham
gia chiến trường, thì phụ nữ miền bắc vói phong trào “Ba đảm đang” đã đảm nhiệm một cách xuất sắc.
Trong việc sinh con thì người Việt thật sự thíc có cả nam và nữ, thích con gái đầu
lòng “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”, bở trên thực tế con gái khéo vun
vén cho gia đình hơn con trai, vậy nên có con giái đầu lòng khác gì trong nhà có thêm
một bà mẹ thứ hai. Và nếu gia đình có con một bề thì vẫn thích con giai “Tam nam bất
phú, tứ nữ bất bần”.
Quan niệm “Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” của Trung Hoa mới chỉ du nhập
vào Việt Nam vào thời Lý- Trần và trở nên phổ biến vào thời Lê sơ khi mà Nho giáo trở
thành quốc giáo. Phản ứng trước tư tưởng sa lạ này, khi mà nhà Lê đi vào giai đoạn suy
thoái thì trong dân gian lan truyền câu ca dao “Ba đồng một mớ đàn ông/ Đem bỏ vào
lồng cho kiến nó tha/ Ba trăm một mụ đàn bà/ Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Phản
ứng với câu tục ngữ mang hơi hướng Nho giáo trọng nam “Một trăm con giái không
bằng hòn dái con trai” thì lập tức xuất hiện với ba câu đáp lại “Một trăm con trai chẳng
bằng cái dái tai con gái”, “Một trăm ông chú chảng bằng cái hĩm bà cô” hay “Lệnh ông không bằng cồng bà”.
Trong việc giáo dục con cái thì người phụ nữ Việt Nam được xem là người có vai
trò quyết định “Con hư tại mẹ/ Cháu hư tại bà”, “Phúc đức tại mẫu”; “Con dại cái
mang”. Trong câu ca dao “Công cha như núi thái sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra”. Tuy công cha được đặt trước như là núi, nhưng núi vẫn giới hạn, còn nghĩa mẹ
tuy đặt sau nhưng như nước trong nguồn thì mới thấy sự vô tận. “Một lòng thờ mẹ kính
cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”, về thứ tự mẹ trước cha sau, về thái độ thì mẹ thờ, còn cha kính.
Trong triết lý dân gian thì “Nhất vợ nhì trời”, “Lệnh ông không bằng cồng bà” rất
phổ biến trong mọi tầng lớp nhân dân, các câu chuyện về “sợ vợ” cũng là cách phản ánh
hài hước thông qua lăng kính của các câu chuyện dân gian.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt từ “cái” là từ rất phổ biến, vốn có nghĩa là mẹ, từ nghĩa
gốc này chuyển nghĩa thành lớn và quan trọng như sông cái, đường cái, đũa cái….
Trong luật pháp “Quốc triều hình luật” (Luật Hồng Đức), “Hoàng triều luật lệ”
(Luật Gia Long của triều Nguyễn) mặc dừ ra đời vào thời kỳ Nho giáo nhưng trong đó
vẫn duy trì được truyền thống trọng nữ mà không thể chối bỏ (luật lệ là phản ánh thực tế
sát hợp nhất về thực tế của xã hội).
Luật Hồng Đức đảm bảo cho con gái được hưởng quyền thừa kế như con trai. Con
giái có quyền hương khói cha mẹ khi trong nhà không có con trai (điều 391, 395). Nếu
con trai còn nhỏ thì bà quả phụ có quyền thay con tế tự tổ tiên. Điều 322 dành cho người
phụ nữ có quyền từ hôn nếu vị hôn phu chẳng may bị ác tật, phạm tội hay phá sản. Điều
308 cho phép người vợ có quyền bỏ chồng nếu trong năm tháng liên tục chồng bỏ rơi vợ,
không đi lại. Khi ly hôn, tài sản của ai có trước khi kết hôn được trả về cho người đó,
còn tài sản chung thài chia đôi.
Luật Gia Long tuy theo luân lý Trung Hoa cho phép đàn ông có 7 cớ để bỏ vợ gọi
là “Thất xuất” nhưng vẫn bảo vệ người phụ nữ bằng cách đặt ra 3 trường hợp ngoại lệ gọi
là “tam bất khả xuất”. Luật Gia Long cũng tích cực ngăn chặn những ảnh hưởng khoong
tốt của văn hóa Trung Hoa bằng cách cấm chồng không được bán vợ, không được bắt vợ
làm thuê, không được hạn vợ chính xuống làm nàng hầu. Khoản 268 điều 7 còn cấm đàn
ông không được nói năng sàm sỡ, xúc phạm phụ nữ, nếu người phụ nữ vì thế mà tự vẫn
thì đàn ông sẽ bị xử giảo giam hậu (tội thắt cổ nhưng giam lại chờ xét sau).
Một học giả Hàn Quốc là Yu Insun nhận xét rằng trong vấn đề gia đình truyền
thống luật Việt Nam chú trọng nhiều tới phụ nữ và quan hệ vợ chồng, còn luật Trung Hoa
thì chú trọng nhiều tới cha con. Quan hệ vợ chồng là quan hệ dân chủ, bình đẳng, còn
quan hệ cha con là quan hệ đẳng cấp tôn ti. Việc coi trọng phụ nữ và chú trọng nhiều đến
quan hệ vợ chồng cũng đúng với luật tục của các tộc ít người. Điển hình như luật tục của
người Ê đê có 236 điều bàn về 11 vấn đề thì riêng vợ chồng đã giành tới 48 điều.
Trong những ghi chép của các học giả phương Tâyvào thế kỷ XIX đã nhận thấy
người phụ nữ Việt Nam có một vai trò địa vị rất đặc biệt. Vào năm 1911 Gabrielle Vassal
viết: “Theo bộ luật An Nam (Luật Hồng Đức), có trước luật của Pháp khá lâu, người vợ
được xem như bình đẳng vói người chồng”. Ông nhận định “địa vị trong xã hội của người
An Nam khá cao. Văn minh nhiều nước phương Tây ít có chỗ nào nhìn nhận quyền của
người phụ nữ rộng rãi như thế”. Dưới con mắt của Leopold “Người đàn bà An Nam được
tự do hơn bất cứ người đàn bà nào ở Á châu. Người ta kể rằng ảnh hưởng của họ rất lớn
nơi thôn quê làng mạc. Nếu có một người nông dân nào bị tù tội phi lý, vợ hắn bế con
trên tay mình tìm đến cổng quan mà kêu oan: không ai có thể cản nổi bà này”.
e. Thiên hướng thơ ca
Một khi con người sống ít di chuyển, ít những nhoạt động nặng thì đời sống sẽ
thiên về nội tâm, tình cảm thiên về tinh thần nghệ thuật thơ ca. Đây chính là thiên hướng
đặc điểm của phụ nữ sơ với nam giới; của loại hình văn hóa trọng âm, trọng tĩnh so với
văn hóa trọng dương, trọng động.
Trong lời tựa một tuyển tập văn học Việt Nam dịch ra tiếng Đức Kurt Stern đã có
nhận xét rằng “Việt Nam là đất nước của thơ ca và chiến tranh. Người Việt Nam, nữ và
nam, người trẻ, người già, người bình dân và người trí thức, các nhà khoa học trong lĩnh
vực tự nhiên và công nghệ, các kĩ sư, bác sĩ, các nhà quân sự, các nhà chnhs khác…hầu
như ai cung biết làm thơ”.
Suốt cả lịch sử mấy nghìn năm văn chương Việt Nam đều là lịch sử thơ ca. Thống
kê trên bộ Từ điển văn học tập hai (1983-1984) cho thấy trong số 95 mục từ tác phẩm văn
chương Việt Nam (không kể các chuyện cổ tích được nhắc đến riêng rẽ) thì có tới 69 tác
phẩm thơ, 26 tác phẩm văn xuôi, tức thơ chiếm 72,6%. Trong đó bức tranh về văn
chương phương Tây thì hoàn toàn trái ngược: trong 198 mục từ tác phẩm văn chương
phương Tây chỉ có 43 tác phẩm thơ và 155 tác phẩm văn xuôi, tức văn xuôi chiếm 78,3%.
Đây là sự khác biệt mang tính nguyên lý, nó bắt nguồn chính từ sự khác biệt gốc
rễ giữa hai loại hình văn hóa: Ở văn hóa trọng dương, trọng động con người luoon di
chuyển, cuộc sống có nhiều sự kiện. Để diễn tả được sự sôi động đó, chỉ có văn xuôi với
bút pháp tả thực và lối diến đạt tự do phóng khoáng mới có thể đáp ứng được. Ở văn hóa
trọng âm, cuộc sống tĩnh lặng, ít biến động, còn người ngồi nhiều hơn đi, suy nghĩ nhiều
hơn, cảm xúc nhiều hơn hành động. Để diễn tả được những rung động nội tâm, những
trạng thái tình cảm phong phú, những suy nghĩ trăn trở ấy chỉ có thơ ca, bút pháp biểu
trưng, ước lệ và lối diễn đạt cân xứng nhịp nhàng mới có thể đáp ứng được. Những câu
thơ như “Đôi ta cùng ở một làng/ Cùng chung một ngõ vội vàng chi anh/ Em nghe họ nói
mong manh/ Hình như họ biết chúng mình với nhau”(Nguyễn Bính, Chờ nhau). [9]
Ở Trung Hoa văn xuôi trường thiên có nguồn gốc từ lâu đời, tiểu thuyết chương
hồi cũng phát triển sớm, trong khi đó thì thơ ca chỉ nở rộ vào thời Đường và thơ ca thời
cổ thì cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ phương nam.
Ở Việt Nam thậm chí chửi nhau, người Việt cũng chửi một cách có bài bản, cân
đối, nhịp nhàng đầy chất thơ. Trong lối chửi của người Việt hiếm khi gặp những câu tục
tĩu ấy vậy mà mức độ thóa mạ đối phương thì hết sức sâu cay. Nói là sự phối hợp của đảo
lộn cách xung hô cộng với việc liên kết sắp xếp các ý với nhau một cách hợp lý, lặp và lối đi kèm với nhau.
Truyền thống thơ ca hầu như đã chiếm lĩnh toàn bộ kho tàng văn chương trong
suốt lịch sử, phải đến cuối thế kỷ XIX đàu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phương Tây tiểu
thuyết và thơ tự do mới bắt đầu xuất hiện. Nhưng ngày trong tiểu thuyết cũng bộc lộ rất
rõ nét dấu ấn của truyền thống thơ ca, là tính cân đối nhịp nhàng, biểu trưng ước lệ. Nhà
văn Tản Đà viết như sau: “Tiếng nói nhẹ bào nhiêu, dang người mềm bấy nhiêu; mềm
bao nhiêu, chín bấy nhiêu; chín bào nhiêu, tươi bấy nhiêu; tươi bao nhiêu, tình bấy
nhiêu. Như ghét, nhue yêu, như ngượng. lông mày ngài, đôi mắt phượng, co chờ ai? (Giấc mộng con)”.
g. Sức chịu đựng nhẫn nhịn.
Trong vũ trụ, vật nào có tính âm đều có sức chịu đụng cao hơn vật có tính dương
tương ứng. Người phụ nữ tuy là “phái yếu” nhưng rõ ràng có sức chịu đựng caohown nam giới.
So sánh như vậy ta có thể hiểu được sự ngạc nhiên của Paul Giran vào đầu thế kỷ
XX về việc người Việt Nam tuy thể lục yếu nhưng có sức chịu đựng cao hơn phương
Tây: “Dưới dáng vẻ bề ngoài yếu ớt, người An Nam có một sức chịu đựng đáng ngạc
nhiên …họ có thể cấy lúa nhiều ngày liền trên đồng ruộng, chan ngâm trong bùn đến tận
đầu gối, chịu đựng sức nóng khủng khiếp với cái mùi ghê gớm bốc lên từ bùn đất…Liệu
có bao nhiêu người châu Âu có thể làm được cái nghề nặng nhọc của những phu xe-
những con người không biết mệt là gì, chạy nhiều giờ liên tục với tốc độ 12 cây số trên
giờ, chỉ nghỉ vài phút để uống vội ly trà, hoặc ăn vội một bát cơm”.
Nhẫn nhịn là khái niệm gần với “nhẫn” nói chung: chịu đựng, nín nhịn, dằn lòng
xuống. Song, bên cạnh cái chung, điều làm nên nét đặc sắc của “nhẫn nhịn” như một
trong những tính cách đặc trưng của người Việt Nam là sau khi nín nhịn, chịu đựng thì
phải cho qua, xả bỏ coi như không có gì, chứ không tích tụ nỗi ấm ức trong lòng. Tiếng
việt còn một từ khác để chỉ điều này đó là “nhường nhịn” là nhấn mạnh vào nét nghĩa hy
sinh bản thân, nhường nhịn là từ bỏ một phần quyền lợi vật chất hoặc tinh thần của mình
mà chuyển nó qua cho người khác sử dụng. Trong khi đó lối sống của văn hóa phương
tây là dương tính, là xông lên phía trước giành lấy chiến thắng thì triết lý sống của văn
hóa Việt Nam âm tính lại lùi về phía sau mà nhường nhịn, bao dung tha thứ. Với người
Việt bực bội sẽ khiến con người tổn thọ (Cả giận mất khôn), ngược lại nhẫn nhịn sẽ giúp
con người sống lâu: “Chữ nhẫn quý như ngàn vàng/ Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu .
“Trăm điều nhẫn nhịn mới là Tiên”. Nhường nhịn luôn mang lại những điều tốt đẹp
“Một điều nhịn chín điều lành” h. Lòng hiếu khách
Người Việt Nam ưa ổn định, ít di chuyển, sông thiên về nội tâm, lúc nông nhà dư
dả thời gian thường thăm viếng nhau va rất hiếu khách. Thích thăm viếng ở đây không
phỉ là nhu cầu công việc mà là vì tình cảm, tình nghĩa có tác dụng thắt chặt mối quan hệ,
củng cố cộng đồn. Hiếu khách mlaf hoạt động nhìn từ phía đối tượng giao tiếp. Có khách
đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu, cũng cố gắng
tiếp đón một cách chu đáo, họ luôn giành những gì tốt nhất cho khách, những đồ ăn ngon
nhất, tiện nghi tốt nhất “Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi”, bởi lẽ “Đói năm không ai đói
bữa”, thậm chí “Nhịn miệng đãi khách” đó là tính cách của người Việt. Người phương
Tây không thích thăm thú nhau, chỉ khi có việc họ mới đến, họ thích thăm những nơi họ
chưa biết từ đó mà tạo nên thói quen du lịch. 5.3. Tính hài hòa
5.3.1. Nguồn gốc của tính ưa hài hòa.
Ưa hài hòa là xu thế hướng đến cái vừa phải, sự cân bằng giữa trong suy nghĩ và
hoạt động của chủ thể. Tính ưa hài hòa là đặc trưng nổi bật thứ ba trong hệ giá trị truyền
thống của người Việt. Sở dĩ có như vậy là vì nghề trồng lúa nước ở Đông Nam Á là
nguồn gốc sản sinh ra những tư tưởng nền tảng cho việc hình thành triết lý âm dương. Mà
Việt Nam là vừa thuộc Đông Nam Á là nơi hình thành của nền tảng triết lý âm dương vừa
là nước Đông Nam Á duy nhất tiếp nhận triết lý âm dương sau khi đã được Trung Hoa
hoàn thiện.(Theo quan điểm của GS Trần Ngọc Thêm).
5.3.2. Các biểu hiện của tính hài hòa
- Tính cặp đôi là người Việt làm gì nghĩ gì cũng luôn có hai yếu tố đi đôi với nhau
ân và dương, thuận và nghịch, phải trái ví như trong kho tàng dân gian Việt Nam “Trong
rủi có may, trong dở có may, trong họa có phúc”; “Mía có đốt sâu có lành”; “Chợ có
hàng rau hàng vàng”; “Người có vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong”, “Kinh đô
cũng ó người rồ/ Man di cũng có sinh đồ trạng nguyên”, “Vất vả có lúc cũng nhàn/
Không dưng ai dễ cầm tàn che cho”…
- Tính mực thước, quân bình. Trong nhận thức của người Việt không nên quá một
cái gì sẽ dẫn đến hậu quả bất lợi như “Nắng lăm thì mưa nhiều”; “Sướng lắm khổ
nhiều”; “Chín quá hóa nẫu”; “Trèo cao ngã đau”; “Chắc quá hóa lép”….tất cả không
nên quá một cái gì. Từ nhận thức đó dẫn đến triết lý sống là bình quân vừa phải luôn lấy
vị trí của mình là ở giữa.
- Tính lạc quan vui vẻ. Do quan niệm và hiểu biết về luật tương hóa nên người
Việt Nam luôn tự an ủi mình bằng nhiều hình thức khác nhau. Ví như ca dao tục ngữ
“Không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”; “Hết con bĩ cực đến hồi thái lai”; “Nhất sĩ
nhì nông,hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”; “Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa
lại quét lá đa/ Bao giờ dân nổi can qua/ Con vua thất thế lại ra quét chùa”….
- Tính ung dung. Người Việt Nam có tính chậm rãi, thong thả, bình tĩnh, bình
thản. Thái độ cụ thể là làm gì cũng từ từ, thong thả không đi đâu mà vội “Đi đâu mà vội
mà vàng, mà vấp phải đá mà quàng phải dây”; “Quan cần mà quan chẳng vội”; “Quan
có cần nhưng dân chưa vội, quan có vội quan lội quan sang”; “Đói chớ vội lo, giàu chớ vội mừng”…..
- Tính thiết thực. Người Việt Nam tuy thần nào cũng thờ nhưng tinh thần tôn giáo
không mạnh. Triết lý của người Việt là “Trước cúng sau ăn”; “Ba phần oản khấn trăm
ông bụt”; “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”…. 5.4. Tính chu toàn
5.4.1. Nguồn gốc vị trí của tính chu toàn.
Xuất phát từ nghề trồng lúa nước phụ thuộc rất lươn vào thiên nhiên buộc người
dân phải quan tâm đến mọi thứ “Người ta đi cấy lấy công/ Tôi đây đi cấy còn trông nhiều
bề/ Trông trời,trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trông ngày trông đêm/ Trông
cho chân cứng đá mềm/ Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng”. Phạm vi quan tâm của
người nông dân phải rất rộng, hệt như phạm vi quan tâm của người phụ nữ cai quan một
gia đình với rất nhiều công việc không tên. Chính vì vậy người dân Việt Nam nói chung
và người phụ nữ nói riêng phải rất bao quát, đây là tầm nhìn phải rộng, mà đã rộng thì khó sâu.
5.4.2. Khả năng bao quát tốt
Do khả năng bao quát tốt nên người Việt nghĩ và làm mọi việc luôn có tính cặp đôi
Trong cuộc sông người Việt Nam rất thích vừa cái này vừa cái kia “vừa…vừa” để diễn
đạt sự kết hợp này “Cơn mưa đằng đông vừa trông vừa chạy, cơn mưa đàng nam vừa
làm vừa chơi”; “Miệng nhà quan có gang có thép, đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm”; “Làm
rể nhà giàu vừa được cơm no, vừa được bò cưỡi”.
Chính nhờ sự bao quát tốt mà một lúc có thể tiếp nhận nhiều tôn giáo tín ngưỡng
khác nhau và theo công bố chính thức hiện nay Việt Nam tồn tại tới 13 tôn giáo khác
nhau. Bức tranh tôn giáo này khiến cho Việt Nam rất khác với các nước phương Tây, nơi
mà tính chủ biệt và tư duy phân tích buộc con người phải nhất quan với mình: trong cùng
một lúc chỉ theo một tôn giáo, sự gặp gỡ giữa các tôn giáo khác nhau sẽ dẫn đến sự xung
đọt và loại trừ nhau: Thiên chúa giáo từng tổ chức những đội quân Thập tự chinh chống
lại Hồi giáo, các tôn giáo khác nhau cùng một gốc không dễ gì tồn tại với nhau. Trong
một tôn giáo thì chỉ thờ một chúa.
Trong ẩm thực cũng vậy hầu hết các món ăn của Việt Nam đều là sự pha trộn của
những sản phẩm pha chế tổng hợp: rau này với rau khác, rau với các loại gia vị, rau quả
với cá tôm…. Các món xào, hấp ninh bao giờ cũng có thịt, cá, rau, củ, quả…rất ít khi chỉ có thị không.
Trong tổ chức xã hội Đình làng là sự phát triển từ nhà Rông là biểu tượng điển
hình đẹp nhất, tập trung nhất cho tính chu toàn về mọi phương diện: nó là một trung tâm
hành chính, trung tâm văn hóa, trung tâm tôn giáo, trung tâm tình cảm, nói đến đình làng
của người Việt là nói đến tất cả những tình cảm thân thương nhất.
Chính trong tính chu toàn với khả năng bao quát tốt là một trong những nguyên
nhân làm nên những chiến thắng chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc. Trong khi các
nền văn hóa gốc du mục thì chiến tranh là việc hoàn toàn của quân đội của đàn ông
nhưng nền văn hóa âm tính của người Việt lại khác, tính chu toàn trong môi trường văn
hóa đối phó với điều kiện tự nhiên xã hội là toàn dân tham gia đánh giặc. Thuật ngữ quân
sự của Việt Nam gị đó là chiến tranh nhân dân.
5.4.3. Khả năng bao quan hệ tốt
Ở quy mô cá nhân, khả năng quan hệ tốt thể hiện rõ nhất ở người phụ nữ, việc xác
lập và duy trì các mối quan hệ chỉ có thể thực hiện thông qua giao tiếp. Mà giao tiếp như
vậy thì phụ nữ làm tốt hơn nam, khéo léo hơn, tình cảm hơn…khiến cho công việc giao
tiếp dễ đạt kết quả hơn. 5.5. Tính linh hoạt
5.5.1. Nguồn gốc và tính linh hoạt.
Như đã nói ở phần trước cái gốc của văn hóa Việt là Văn minh lúa nước, mà nghề
trồng lúa thì phụ thuộc vào tự nhiên rất lớn chính sự khó khăn đó khiên con người phải
luôn có sự thay đổi để phù hợp, từ đó dần hình thành tính linh hoạt của người Việt. Đối
lập với tính linh hoạt là tính nguyên tắc, mà tính nguyên tắc là đặc trưng của phương Tây.
Từ tính linh hoạt đó mà người Việt có những biểu hiện:
Khả năng thích nghi cao, trong mọi điều kiện người Việt rất nhanh thích nghi,
thậm chí là “ranh mãnh”
Khả năng sáng tạo biến báo, từ một cái cụ thể có thể sinh ra nhiều hình thức khác
để đạt hiệu quả cao trong sự thích nghi.
Bài 6: MỘT SỐ GIÁ TRỊ TỔNG HỢP VÀ LIÊN QUAN
6.1. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
Khi bàn về lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của người Việt Nam có thể nói rằng
đã có hầu hết các nhà nghiên bàn về vấn đề này.
Theo quan điểm của Trần Văn Giàu, ông cho rằng “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại”. Nguồn gốc của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam là nằm ở hai đặc điểm nổi bật; thứ nhất là nước văn lang xuất hiện rất
sớm, tình cảm về tự hào về nòi giống tiên rồng đã nảy nở rất sớm và được khắc sâu trong
tâm trí nến nỗi hơn nghìn năm đô hộ của Hán, Đường không sao bãi bỏ được. Thứ hai,
lịch sử Việt Nam là một chuỗi dài các cuộc chiến tranh chống xâm lăng của những nước.
Theo Phạm Huy Thông, ông cũng có ý kiến tương tự về cội nguồn tinh thần yêu
nước của người Việt Nam khi nói đến những thành tựu phong phú của văn minh Đông
Sơn và sự trường tồn của văn hóa Đông Sơn sau thời đại các vua hùng, cũng như cái tinh
thần “ương ngạnh”, “ngỗ ngược”, “yên vui chẳng muốn”, “toàn gây loạn lạc”, “chẳng
ngại mang họa vào thân”, mà bọn quan quân cai trị không ngớt gửi sơ tấu về triều đình
Trung Hoa trong suốt ngàn năm. [9]
Tác giả Nguyễn Văn Huyên không nói đến lòng yêu nước nhưng nói đến một khía
cạnh có liên quan mật thiết đến tinh thần dũng cảm: “Người Việt không thiếu dũng cảm.
Họ có khả năng kháng cự lâu dài, trong những điều kiện thiếu thốn tệ hại nhất, chống lại
những lục lượng mạnh hơn họ về số lượng và chất lượng…người nông dân Việt nam có
thể trở thành người lính dũng cảm và bền bỉ, có sức xông lên mạnh mẽ .”
Trong thời đại ngày ngay việc tìm hiểu, nghiên cứu nguyên nhân lòng yêu nước và
tinh thần dân tộc của người Việt đã được nhà nước cũng như các nhà khoa học hết sức
chú trọng nghiên cứu và có cách kiến giải sâu sắc, hợp lý.
Trong cuốn “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới
tương lai” của Trần Ngọc Thêm, theo ông nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lòng yêu nước
và tinh thần dân tộc của người Việt Nam là tính cộng đồng làng xã và tính trọng âm của văn hóa Việt.
Tính cộng đồng làng xã tạo nên tình yêu làng xóm, quê hương. Làng mở rộng ra
thành nước. Nước là đơn vị hành chính quan trọng thứ hai sau làng; người Việt Nam có
từ ghép “làng nước”, xử sự theo câu tục ngữ “Sống ở làng, sang ở nước”. Cho nên dù tình
bó với làng vì làng là nguồn sức mạnh giúp người nông dân đối phó với môi trường tự
nhiên (cấy gặt cho kịp thời vụ) và môi trường xã hội (chống trộm cướp). Ở quy mô lớn,
nước là nguồn sức mạnh khi mọi người cần cùng nhau đối phó với những hiểm nguy lớn
đến từ môi trường tựu nhiên (đắp đê chống lụt, làm thủy lợi, chống thiên tai) và môi
trường xã hội (chống giặc ngoại xâm). Lịch sử Việt Nam là lịch sử đắp đê chống lụt và
lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, cho nên hai truyền thuyết thuộc loại sớm nhất và
quan trọng nhất là truyền thuyết “Sơn tinh Thủy tinh” như một bài ca chống lụt và truyền
thuyết “Thánh Gióng” như một bài ca chống ngoại xâm.
Tính trọng âm tạo nên một sức tự vệ và sức bật. Người âm tính văn hóa âm tính có
bản chất hướng nội. Họ đã chủ động giới hạn mọi hoạt động của mình trong khuôn khổ,
một không gian tối thiểu đó, đối với người phụ nữ là con, là chồng, là gia đình. Đối với
người Việt Nam là làng, là nước. Khi không gian tối thiểu này của con người âm tính,
văn hóa âm tính, bị xâm phạm tức họ bị đẩy vào con đường cùng, không còn lối thoát thì
trước mặt chỉ có một con đường. Chính khi đó cái lò xo bị nén sẽ bung ra với một sức tự
về và sức bật không có gì ngăn được. . Paul Giran nhận xét là rất đúng là “người An Nam
rất đa cảm nhưng sự can cảm này …mang sắc thái của sự bị động: họ có thể chịu đựng
đau đớn, đối với cái chết không hề run sợ, nhưng họ chỉ có thái độ như thế khi đó là điều
không thể tránh hoặc sau khi đã tìm đủ mọi cách để tránh màn không được …không có gì
có thể lay chuyển được sự trầm tĩnh trong con người họ dù đó là những nhục hình hay
những tai tạn bất ngờ”. [9]
Văn hóa âm tính có đặc điểm là phần âm luôn mạnh hơn phần dương. Trong nội
bộ nông thôn thì tính tự trị (của cả làng) mạnh hơn tính cộng đồng (của các thành viên).
Giữa nông thôn và đôthị thì có biển cả nông thôn (âm) mạnh hơn hẳn khối đô thị (dương)
nhở bé, yếu ớt. Không phải ngẫu nhiên mà trong khi phương Tây, nhà giàu đầu tư vào
công thương nghiệp hoặc gửi tiền vào nhà băng thì ở Việt Nam trước đây, những nhà
giàu ở thành thị thường chuyển tiền về tậu ruộng ở nông thôn.
Âm mạnh hơn dương, tức là khả năng bảo tồn mạnh hơn khả năng phát triển. Trải
qua bao nhiêu triều đại, giặc ngoại xâm chỉ tác động được phần nào tới khối đô thị yếu ớt,
mà không ảnh hưởng được tới cái gốc nông thôn vững mạnh của nó. Cứ mỗi lần, sau khi
kẻ xâm lược rút đi thì văn hóa truyền thông đó được bảo tồn gần như nguyên vẹn ở các
làng quê thì lại tấn công trở lại các đô thị, xóa đi ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa ngoại
lai, chỉ giữ lại những gì xét thấy cần thiết một cách tự nguyện. Về khía cạnh này, Paul
Giran nhận xét: “các tộc người bản xứ này yêu sự tự do và độc lập của họ đến độ, dù trải
qua bao nhiêu thăng trầm, họ vẫn bảo tồn được nét tính cách, đặc điểm, tập tục ngôn ngữ
nguyên thủy của mình, nhưng đồng thời họ cũng biết cách thẩm thấu nền văn hóa do kẻ
chiến thắng mang đến. Nền văn hóa mà ta cứ ngỡ do kẻ chiến thắng áp đặt lên họ bằng vũ
lực lại được họ tiếp nhận một cách tự nguyện, với sự nhượng bộ, vì nó đáp ứng được
nguyện vọng niềm tin sâu kín của họ”. [9]
Như vậy tính công đồng làng xã và tính trọng âm chính hai lý do làm nên lòng yêu
nước và tinh thần dân tộc đặc biệt mạnh mẽ của người Việt Nam. Nhờ thế mà dù trải qua
nghìn năm bị đô hộ, văn hóa Việt Nam, dân tộc Việt Nam chỉ có thể biến đổi, được làm
giàu lên chứ không bị đồng hóa.
Lòng yêu nước của người Việt Nam là không thể phủ nhận, ngay như học giả
người Pháp khi nghiên cứu về Việt Nam, trong cuốn “Tâm lý của người An Nam” ông đã
nói đến sai lầm của người Pháp “yếu tố gieo mầm cho những ý tưởng về Tổ quốc và làm
cho ý tưởng ấy xuất hiện ngày càng mạnh mẽ và cao đẹp hơn, đó chính là…. sự hiện diện của chúng ta”.
Tương tự như vậy người Mỹ sau chiến tranh ở Việt Nam McNamara, nguyên là bộ
trưởng quốc phòng Mỹ. Trong tập hồi ký “Nhìn lại quá khứ: tấm thảm kịch và những bài
học từ Việt Nam” (In Retrospect: The Tragedy and Lesson of Việt Nam), xuất bản lnawm
1995 McNamara đã thừa nhận “Chúng ta…đã hành động theo…nguyên tắc và truyền
thống của nước Mỹ. Chúng ta đã sai lầm đó là việc Mỹ đã “đánh giá thấp sức mạnh của
chủ nghĩa dân tộc”, điều đó “phản ánh sự thiếu hiểu biết cơ bản của chúng ta [người Mỹ]
về lịch sử văn hóa, chính trị” của Việt Nam.
Không chỉ Pháp Mỹ mà cả Trung Quốc rất nhiều lần xâm lược, thua Việt Nam đều
có nguyên nhân có bản là không hiểu được sức mạnh âm tính của văn hóa Việt Nam;
không hiểu được tính cộng đồng làng xã và tính trọng âm như hai đặc trưng nguồn gốc
làm nên lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của người Việt Nam.
6.2. Lòng nhân ái, thương người.
- Lòng nhân ái, thương người của người Việt Nam trước hết khởi đầu từ tình
thương người trong gia đình. Không phải cứ là người trong gia đình thì đương nhiên sẽ
thương yêu nhau. Nếu vậy không sẽ không có những câu chuyện cổ tích giáo dục về tình
cảm anh em (truyện “Ăn khế trả vàng”, “Trầu Cau…”); và cũng sẽ không có những câu
tục ngữ nhắc nhở kiểu như: “Anh em ai đầy nồi đấy”; “Anh em gạo, đạo nghĩa tiền”;
“Anh em hiền thật là hiền/ Bởi một đồng tiền nên mất lòng nhau”; “Chị ngã em bưng
miệng”; và xem hoàn cảnh khốn cùng như một thước đo tình anh em, bạn bè: “Anh em
khi túng, chúng bạn khi cùng”.
Bởi vậy mà trong gia đình cha mẹ luôn dạy bảo con phải luôn thương yêu nhau:
“Anh em như chân như tay/ như chim liền cánh như cây liền cành”; “Anh em như thể tay
chân phước phần cùng hưởng , nợ nần cùng lo”; “Anh em trên thuận dưới hòa/ họ hàng
đẹp mặt, mẹ cha vui lòng”; “Chị em kính trên dưới nhường/ là nhà có phúc mọi đường yên vui”...
Khi trong gia đình có xung đột thì được dạy rằng “Anh em trong nhà đóng cửa bảo
nhau”; “Anh em sảy vai xuống cánh tay”, “Anh em chém nhau bằng sống ai chém nhau
bằng lưỡi”; “Anh em mài gươm ba năm chém nhau bằng dọng”…
Từ gia đình, lòng nhân ái thương người mới mở rộng dần ra hộ hàng “Sảy cha còn
chú, sảy mẹ bù dì”, “Dì ruột thương cháu như con/ Rủi mà không mẹ cháu còn cậy
trông”. Và những người có quan hệ gần gũi: “Có mặt thì mắng, vắng mặt thì thương”;
“Giận thì mắng, lặng thì thương”. Ở đây bắt đầu là quan hệ xã hội, những không phải là
quan hệ không biên giới, mà trước hết là hàng xóng láng giềng, cùng làng cùng xã, nới
người ta gắn bó với nhau, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, nhờ cậy nhau lúc tối lửa tắt đèn.
Tình thương những người cùng cảnh ngộ hoặc những người có hoàn cảnh khó
khăn hơn mình cũng trước hết là cùng cảnh ngộ trong làng, khó khăn hơn trong làng rồi
mới ra ngoài xã hội: “Đau mắt thương người mù”, “Ăn nhạt mới biết thương mèo”; “Dốc
bồ thương kẻ ăn đong/ Có chồng thương kẻ nằm không một mình”.
Có ra ngoài xã hội thì tình thương cũng luôn gắn bó với “cốt nhục”, gắn với “một
nhà”, gắn với “giống nòi”, xây dựng trên nền tảng những gì quen thuộc nền văn hóa trọng
âm, trọng tình “Anh em cốt nhục đồng bào/ vợ chồng là nghĩa, lẽ nào không thương”;
“Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; “Anh em bốn bể
một nhà”, “Anh em cùng giống cùng nòi”; “Lá lành đùm là rách”; “Cành dưới đỡ cành
trên”, “Thương người như thể thương thân”…
Như thế lòng nhân ái, thương người của người Việt Nam cũng có nguồn gốc giống
như nguồn gốc của lòng yêu nước và tinh thần dân tộc: Đó là hai đặc trưng tính cộng
đồng làng xã và tính trọng âm.
6.3. Huyền thoại về tính cần cù
Trong các nhận định cả các nhà nghiên cứu Việt Nam và các tác giả nước ngoài
khi bàn về giá trị tinh thần đều nhận định con người Việt Nam có tính cần cù.
- Theo Đào Duy Anh nhận xét rằng người Việt có “sức làm việc khó nhọc, nhất là
người miền Bắc thì ít dân tộc bì kịp” [1938/1951:23] HGTTT Claude Palazzoli nói đến
“một tinh thần trách nhiệm và say mê lao động thúc đẩy con người không e ngại đồi núi”
HGTTT. Trần Văn Giàu co tính cần cù là ở vị trí thứ hai (sau lòng yêu nước) trong bày
giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Trương Chính nói đến cần cù gắn liền với thông
minh. Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII (1998) nói đến “đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động”. Trong nghị quyết trung ương 9 khóa XI (2014) thì cần cù là đặc trưng thứ sáu
trong bảy đặc tính cơ bản của người Việt Nam.
Đối với không ít nhà nghiên cứu, tính cần cù của người Việt Nam gần như được
xem như là một giá trị đương nhiên không cần phải bàn cãi. Trần Văn Giàu viết: “Không
ai chối cãi rằng nhân dân Việt Nam rất cần cù. Có người quan sát nước ngoài đến nước
ta, chú ý mọi cơ năng của người Việt Nam đều được dùng để làm việc: đầu đội, vai gánh,
lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân chạy như bay…người quan sát nước ngoài
cũng thấy hàng ngàn cây số đê diều, các đê cộng lại dài như vạn lý trường thành …Người
quan sát nước ngoài thấy ruộng thì nước như bàn cờ, cấy hái công phu kĩ lưỡng …mưa
dầm nắng cháy giá lạnh, lúc nào cũng thấy con người đầu đội trời chân trong nước ở đồng ruộng” [9]
Thế nhưng không phải tất cả những người quan sát nước ngoài và học giả đều nghĩ
vậy. Trong số những người phương tây đến Việt Nam vào cuối Thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, số người khen người Việt Nam chăm chỉ dường như không nhiều bằng chê người Việt lười biếng.
Học giả Nguyễn Văn Huyên, trong khi nhận xét rằng “người ta chẳng thấy nơi nào
trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy và những người lao động bằng lòng nhận ít ỏi
như vậy để làm những công việc nặng nhọc đến như vậy” thì đồng thời cũng thừa nhận:
“Người ta [người phương Tây] hay nhận xét và chẳng phải không có lý, rằng nhược điểm
ơn nhất của người Việt Nam là lười biếng, hay ít nhất cũng có khuynh hướng buông trôi”.[9]
Lý do của sự lười biếng này theo Nguyễn Văn Huyên, là “những kẻ có chút tiền
bạc, hoặc có đủ ruộng, thì sống hoàn toàn ăn không ngồi rồi. Cũng nhiều chăm chỉ làm
việc trong một số ngày để có gì sống trong thời gian nhất định mà không cần phải làm gì
cả. Nhiều thanh niên có xu hướng ăn bám , tìm cách dựa vào họ mạc ít nhiều gần gũi, dựa
vào bạn bè tương đối dễ tính”. “Xu hướng biếng nhác này càng trầm trọng thêm về
phương diện tinnh thần do một nền giáo dục truyền thống ….đưa quá nhiều vào trí nhớ
trẻ em …thành ra người Việt có sự lười biếng về trí óc, có xu hướng dễ dàng chấp nhận
hết thảy và bắt chước hết thảy”. [9]
Thực ra người Việt cần cù, chăm chỉ hay lười biếng? Có thể nói rằng hai khẳng
định mang tính tuyệt đối đều chưa đúng.
Toàn bộ vấn đề ở chỗ là nghề trồng lúa nước là nghề phụ thuộc vào tự nhiên ở
mức độ cao nhất, do vậy mà có tính thời vụ cao nhất. Cho nên nếu gặp lúc vào thời vụ sẽ
thấy người Việt Nam hết sức cần cù chăm chỉ; thành ngữ, tục ngữ Việt có nhiều câu nói
lên trạng thái cần cù này: “Đầu tắt mặt tối”; “Buông dầm cầm sào”; “Một năng hai
sương”; “Bán mặt cho đất bán lưng cho trời”…Tục ngữ ca dao Việt Nam cũng có rất
nhiều câu khuyến khích đề cao người chăm chỉ hay làm: “Chịu khó mới có ăn”; “Hay
học thì sáng, hay làm thì có”; “Hay làm thì giàu, hay cầu thì nghèo”; “Hay lam hay làm
quanh năm chẳng lo đói” “Hay lam hay làm đầu quang mặt sạch/ chẳng hay làm đầu
rếch mặt dơ”…Do vậy nếu gặp người Việt Nam đang lao động khi vào vụ thì chắc chắn
sẽ kết luận là người Việt rất cần cù.
Song nếu gặp lúc nông nhàn thì sẽ thấy người Việt Nam ở trong một trạng thái
khác hẳn; ham chơi bời, lễ hội, đàn đúm, nhậu nhẹt. Gặp người Việt trong trạng thái này
dễ hiểu là người quan sát không thể kết luận rằng người Việt Nam chăm chỉ được.
Như vậy những những lý lẽ của Trần Văn Giàu nêu ra để chứng minh cho tính cần
cù của người Việt đều không thể đứng vững vì chưa chặt chẽ.
Thứ nhất, việc “mọi cơ năng của người Việt Nam đều dùng để làm việc đầu đội,
vai gánh, lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân chạy như bay…” là có thực nhưng
lấy đó để chứng minh tính cần cù lao động của người Việt Nam là chưa sát thực. Cần cù
là nói về mật độ của hoạt động, còn việc “mọi cơ năng đề được dùng để làm việc” là nói
về cách khai thác các tiềm năng của con người. Điều đó chỉ nói lên khả năng bao quát,
phối hợp, kết hợp tuyệt vời, sản phẩm đặc trung tính chu toàn của nền văn hóa âm tính
chứ không cho biết được về mật độ của hoạt động.
Thứ hai, việc “ruộng nước như bàn cờ, cấy hái công phu kĩ lưỡng … mưa dầm,
nắng cháy, giá lạnh, lúc nào cũng thấy con người đầu đội trời, chân trong nước ở đồng
ruộng” là cách nói văn chương chứ chưa chứng minh được gì, “Ruộng nước như bàn cờ”
là sản phẩm của việc phân cách cần thiết để quản lý nước, nó hình thành một lần hầu như
không bao giời dỡ ngăn lại. Việc cấy hái đù có công phu kĩ lưỡng thì trong một vụ mỗi
việc cũng chỉ có làm một lần, những việc làm chỉ một lần chưa nói lên tính cần cù. Con
người làm ngoài đồng ruộng trong lúc mưa dầm, trong lúc nắng cháy, trong lúc giá lạnh
nhưng không phải lúc nào cũng là như vậy.
Thứ ba, việc lấy sự kiện “hàng ngàn cây số đê điều, các đê cộng lại dài như Vạn lý
trường thành” để làm minh chứng cho tính cần cù cũng chỉ là cái nhìn phiến diện. Bởi lẽ
hàng ngàn cấy số đê đều là kết quả công sức của nhiều thế hệ, người Việt có góp lại
không phải của một người cụ thể nào. Họ có thể đã từng làm việc cần cù, nhưng đắp đê
không phải là việc làm liên tục từ đầu năm đến cuối năm và liên tục từ năm này qua năm
khác, cho nên công sức của họ là sự nỗ lực từng lúc, từng nơi, từng giai đoạn, chứ không
thể xem và minh chứng cho sự cần cù như một thuộc tính của người Việt Nam. [9]
Trên thực tế hiện nay tình trạng “tháng Giêng là tháng ăn chơi” vẫn chưa thay đổi
được bao nhiêu. Theo luật lao động 2012 thì Tết âm lịch người lao động được nghỉ 5
ngày; nhưng trên thực tế trong khoảng từ 23 tháng chạp đến hết “mùng mền” (ngày 10
tháng Giêng) không khí bao trùm khắp chốn. Ở một số nơi, một số nghề, chỉ từ ngoài rằm
tháng Giêng trở đi mới có thể trở lại làm việc bình thường. Nhưng ngay cái “bình
thường” ấy cũng không bình thường chút nào khi mà lễ hội nhộn nhịp triền miên hết tháng ba.
Một bộ máy không thể coi là “cần cù” khi mà tình trạng khá phổ biến của công
chức trong giờ hành chính làm việc cầm chừng tiêu phí nhiều thời gian vào việc tán gẫu,
lên mạng…Một dân tộc không thể coi là cần cù khi mà các đô thị khi mà ngày nào cũng
từ 5-6h chiều các nhà hàng dần đông nghẹt người ăn nhậu. Theo số liệu điều tra của tổ
chức lao động quốc tế ILO (International Labour Organization) công bố năm 2014 cho
thấy năng xuất lao động của Việt Nam thấp hơn Sigapore gần 15, thấp hơn Nhật Bản gần
11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần. Ngay sơ với các nước ASEAN có thu nhập ở mức
trung bình thì năng xuất lao động của Việt Nam cũng thấp hơn Malayxia 5 lần và thấp
hơn Thái Lan 2,5 lần, năng xuất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất châu Á – Thái Bình Dương.
Như vậy ta có thể nói rằng người Việt Nam chỉ cần cù trong điều kiện nhất định.
Để giải thích tại sao người Việt Nam chỉ cần cù có điều kiện là do các nguyên nhân sau:
+ Thứ nhất, do sống trông quốc gia có khá giàu tài nguyên thiên nhiên nên người
Việt Nam có đủ để sống mà không cần cố gắng quá nhiều.
+ Thứ hai, do tính cộng đồng làng xã cao của nghề lúa nước nên người Việt Nam
có thói quen dựa dẫm, ít chịu cố gắng hết mình: dựa dẫm vào cộng đồng – “Đông tay hơn
hay làm”, dựa dẫm vào số phận – “Hay làm thì no, trời cho thì mới giàu”.
+ Thứ ba, do có tính ưa hài hòa, cho nên sự cần cù của người Việt Nam thường chỉ
duy trì ở mức vừa phải: “Lắm thóc nhọc xay”; “Làm cho lắm cũng ăn mắm với cà, làm
tà tà cũng ăn cà với mắm”….
+ Thứ tư, do có tinh linh hoạt nên người Việt Nam có xu hướng coi trọng vai trò
trí tuệ (khôn ngoan, biết tính toán) hơn là cần cù “Một người hay lo bằng một kho người
hay làm”, “Hay làm mà chẳng hay lo/ Làm chi cho lắm, làm cho nhọc mình”. Coi trọng
vai trò của sự khéo léo hơn là cần cù “Khéo tay hơn hay làm”. Sự khéo léo trong ứng xử
(khéo miệng, khéo ăn khéo nói) còn được người Việt Nam coi trọng hơn cả khéo tay
“Hay làm thì đói, hay nói thì no”
Người Việt nam chỉ cần cù khi thiếu các điều kiện vừa nêu trên. Chẳng hạn trong
ba miền thì miền trung là nghèo tài nguyên thiên nhiên hơn, điều kiện địa hình, thời tiết
khắc nghiệt hơn, cho nên người la động ở miền trung thường cần cù, chịu khó ở mức độ cao hơn.
BÀI 7: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÍN NGƯỠNG VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT 7.1 Tín ngưỡng
7.1.1 Khái niệm tín ngưỡng
Ở nước ta hiện nay, thuật ngữ tín ngưỡng có thể hiểu theo nhiều góc độ khác nhau.
Ngô Đức Thịnh đưa ra quan điểm rõ ràng hơn: “Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của
con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin,
ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó,
quan sát được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin
vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó là
nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng như giống đời sống vật
chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...” [Ngô Đức Thịnh 200 [16].
Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức đời sống cá
nhân: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ chức cộng đồng.
Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức theo những tập tục được lan truyền
từ đời này sang đời khác (phong tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin
tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín
ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng. Từ tự phát lên tự
giác theo con đường quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, thánh đường… tín ngưỡng
trở thành tôn giáo. Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, các tín ngưỡng dân gian chưa chuyển
được thành tôn giáo theo đúng nghĩa của nó - mới có những mầm mống của những tôn
giáo như thế - đó là Ông Bà, đạo Mẫu. Phải đợi khi các tôn giáo thế giới như Phật, Đạo,
Kitô giáo… đã được du nhập và đến thời điểm giao lưu với phương Tây, các tôn giáo dân
tộc như: Cao Đài, Hòa Hảo mới xuất hiện” [Trần Ngọc Thêm 1997: 262].
Hay nói theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO):
“Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia cần có tự hào về quá khứ của mình để bảo vệ và phát triển
văn hóa của mình vào kho tàng văn hóa nhân loại. Sự đa dạng trong tín ngưỡng, tức niềm
tin tín ngưỡng, biểu hiện rất khác nhau, xuyên qua không gian và thời gian, phụ thuộc
hoàn cảnh địa lý - lịch sử của từng quốc gia, từng dân tộc” [dẫn theo Đặng Nghiêm Vạn
2001: 71]. Theo quan điểm của người viết, thì tín ngưỡng được hiểu như sau: Tín ngưỡng
là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ đức tin của con người đối với những hiện
tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan đến cuộc sống
của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ phụng.
7.1.1 Đặc điểm tín ngưỡng Việt Nam
Tín ngưỡng Việt Nam giống như các bộ phận khác của văn hóa Việt Nam đều mang
những đặc trưng của văn hóa nông nghiệp. Dưới đây là những ý nghĩa:
• Tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên: thể hiện ở tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
• Hài hòa âm dương: thể hiện ở các đối tượng thờ cúng: Trời-Đất, Tiên-Rồng, ông đồng-bà đồng,…
• Đề cao phụ nữ: thể hiện ở rất nhiều nữ thần như các Mẫu Tam phủ (Bà Trời,Đất,
Nước), Mẫu Tứ phủ (Bà Mây,Mưa,Sấm,Chớp),…
• Tính tổng hợp và linh hoạt và hệ quả là tôn giáo đa thần chứ không phải độc thần
như trong nhiều tôn giáo khác.
7.2 Một số tín ngưỡng Việt Nam
7.2.1 Tín ngưỡng phồn thực
Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng nghề nông
cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều
trên, những trí tuệ sắc sảo sẽ tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây
dựng được triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn
thực (phồn nghĩa là nhiều, thực nghĩa là nảy nở). Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được
thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và thờ hành vi giao phối
a. Thờ cơ sinh thực khí, thờ hành vi giao phối
Thờ cơ sinh thực khí: Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ)
là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa
nông nghiệp trên thế giới. Nhưng khác với hầu hết các nền văn hóa khác là chỉ thời sinh
thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Việc thờ
sinh thực khí được tìm thấy ở trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Công
nguyên. Các sinh thực khí còn được thấy rất nhiều ở thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn nguyên
dạng đến ngày nay. Ngoài ra nó còn được đưa vào các lễ hội, lễ hội ở làng Đồng Kỵ (Bắc
Ninh) có tục rước cặp sinh thực khí bằng gỗ vào ngày 6 tháng giêng, sau đó chúng được
đốt đi, lấy tro than chia cho mọi người để lấy may.
Thờ hành vi giao phối: Ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt Nam còn thờ
hành vi giao phối, đó là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến các mối quan hệ của
văn hóa nông nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam Á. Các hình nam nữ đang
giao phối được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái), có niên
đại 500 trước Công nguyên. Ngoài hình tượng người, cả các loài động vật như cá sấu, gà,
cóc,…cũng được khắc trên mặt trống đồng Hoàng Hạ (Hòa Bình).
Vào dịp hội đền Hùng, vùng đất tổ lưu truyền điệu múa “tùng dí”, thanh niên nam
nữ cầm trong tay các vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và nữ, cứ mối tiếng trống
“tùng” thì họ lại “dí” hai vật đó lại với nhau. Phong tục “giã cối đón dâu” cũng là một
biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho sinh thực khí nam và
nữ. Ngoài ra một số nơi còn vừa giã cối (rỗng) vừa hát giao duyên.
b. Trống đồng – biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực: Vai trò của tín ngưỡng phồn
thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng
là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực:
• Hình dáng của trống đồng phát triển từ cối giã gạo
• Cách đánh trống theo lối cầm chày dài mà đâm lên mặt trống mô phỏng động tác giã gạo
• Tâm mặt trống là hình Mặt Trời biểu trưng cho sinh thực khí nam, xung quanh là
hình lá có khe rãnh ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí nữ
• Xung quanh mặt trống đồng có gắn tượng cóc, một biểu hiện của tín ngưỡng
phồn thực (xem thêm Con cóc là cậu ông trời)
7.2.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Do là một đất nước nông nghiệp nên việc sùng bái tự nhiên là điều đễ hiểu. Điều
đặc biệt của tín ngưỡng Việt Nam là một tín ngưỡng đa thần và âm tính (trọng tình cảm,
trọng nữ giới). Có giả thuyết cho rằng đó là do ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ thời xưa tại
Việt Nam. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn
thực như đã nói ở trên nên các vị thần đó không phải là các cô gái trẻ đẹp như trong một
số tôn giáo, tín ngưỡng khác mà là các bà mẹ, các Mẫu.
c. Thờ Tam phủ, Tứ phủ: Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần: Bà Trời (hay
Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẫu
Thoải). Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản những
lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần Mặt Trời là vị thần quan
trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng. Việc thờ trời ở Việt Nam có trước ở Trung Quốc.
d. Thờ Tứ pháp: Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp, đại
diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này
khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp với
truyền thuyết về Man Nương Phật Mẫu. Tứ pháp gồm:
• Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu
• Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu
• Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng
• Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn
Ảnh hưởng của Tứ Pháp ở Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước
tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa.
e. Thờ động vật và thực vật: Khác với văn hóa phương tây là thờ các con vật có
sức mạnh như hổ, sư tử, chim ưng,… tín ngưỡng Việt Nam thờ các con vật hiền lành hơn
như trâu, cóc, chim, rắn, cá sấu,… các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân
của một xã hội nông nghiệp. Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức biểu trưng
như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc “họ Hồng Bàng” (có
nghĩa là một loài chim nước lớn), thuộc giống “Rồng Tiên”. Con rồng lần đầu tiên xuất
hiện ở vùng Nam Á, sau đó mới được phổ biến ở Trung Quốc rồi đến các nước phương
tây. Con rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp: tổng hợp của cá sấu, rắn;
sinh ra ở dưới nước nhưng lại có thể bay lên trời mà không cần cánh; có thể vừa phun
nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hàm Rồng,…
Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,… đôi khi
ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau, …
7.2.3. Tín ngưỡng sùng bái con người
Ngoài phồn thực, tự nhiên, tín ngưỡng Việt Nam rất coi trọng con người.
a. Hồn và vía. Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh
hồn. Một số dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm "hồn" và "vía". Vía được hình dung
như phần trung gian giữa thể xác và hồn. Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có
bảy vía và nữ có chín vía. Ba hồn gồm: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức), Khí (năng
lượng làm cho cơ thể hoạt động) và Thần (thần thái của sự sống). Bảy vía ở đàn ông cai
quản hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng. Chín vía ở nữ giới cai quản bảy thứ như ở nam
giới cộng thêm hai vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích. Phụ nữ thì có thêm 2 vía
cai quản nơi sinh đẻ và nơi cho con bú. Người Việt thường có câu nói nam có "ba hồn
bảy vía" còn nữ có "ba hồn chín vía", cũng là từ các quan niệm trên mà ra.
Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hợp hôn mê ở các mức độ khác nhau
được giải thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu phần thần của
hồn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hồn nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp
khác còn vía nặng hơn sẽ bay là là mặt đất rồi tiêu tan. Thế nên mới có những câu ngạn
ngữ như: "hồn xiêu phách lạc" (phách tức là vía; ở đây muốn nói trạng thái run sợ, mất
chủ động), "sợ đến mức hồn vía lên mây"...
Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng
có nhiều sông nước như ở cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi
chôn người chết trong những chiếc thuyền.
b. Tổ tiên: Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm
và sớm nhất, nó gần như trở thành một tôn giáo: Đạo ông bà.
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ.
(Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên)
Người phương tây coi trọng ngày sinh thì người Việt coi trọng ngày mất. Họ cho
rằng người đã mất đi về nơi chín suối. Bàn thờ tổ bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng
nhất. Ngày xưa khi cúng lễ bao giờ cũng có nước (hoặc rượu) cùng với những đồ tế lễ
khác như vàng mã. Sau khi cúng xong thì đem đốt vàng mã rồi đổ rượu hoặc nước lên
đống tro tàn -- khói bay lên trời, nước hòa với lửa thấm xuống đất -- theo họ như thế tổ
tiên mới nhận được. Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước-Lửa (âm dương) và
Trời-Đất-Nước (tam tài) mang tính triết lý sâu sắc.
c. Thổ công: Thổ Công là một vị thần được thờ trong gia đình, một dạng của Mẹ
Đất, là vị thần trông coi nhà cửa, định đoạt họa phúc cho một gia đình. Sống ở đâu thì có
Thổ Công ở đó: "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Một số giả thuyết cho rằng Thổ
Công là một trong ba vị Táo Quân xuất hiện trong truyện sự tích Táo Quân (hay Sự tích
ba ông đầu rau). Người chồng mới là Thổ Công (trông coi việc bếp núc, còn gọi là "vua
bếp"), người chồng cũ là Thổ Địa (trông coi việc nhà cửa), người vợ là Thổ Kỳ (trông coi
việc mua bán). Tuy nhiên, một số người cho rằng Thổ Công là vị thần cai quản vùng đất
còn Táo Quân chỉ coi việc bếp núc trong nhà.
Thổ Công được nhiều người tin là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Tổ tiên
có công sinh thành dưỡng dục nên được tôn vinh nhất. Bàn thờ tổ tiên ở giữa, vị trí quan
trọng nhất, bàn thờ Thổ Công ở bên trái, quan trọng thứ hai. Nhưng khi cúng lễ tổ tiên,
người ta đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về.
Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất (đất phải về với
đất), nhiều nơi còn gọi Ông Địa là Thần Tài (mọi thứ đều từ đất mà ra)
d. Thành hoàng làng: Ở phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và Thổ Công, ở
phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng. Giống như Thổ công, Thành hoàng cai
quản và quyết định họa phúc của một làng. Không có làng nào ở Việt Nam mà không có
Thành hoàng.Những người được thờ thường là những người có tên tuổi và địa vị, có công lao đối với làng đó.
e. Vua tổ: Trong nhà thờ gia tiên, trong làng thờ Thành Hoàng, thì phạm vi quốc
gia, người Việt Nam thờ Vua Tổ - vua Hùng. Mảnh đất Phong Châu (Phú Thọ), nơi đóng
đô của các vua Hùng khi xưa, trở thành đất Tổ. (Tục thờ Vua Tổ chỉ có ở Việt Nam - điều
này càng cho thấy tính đặc thù của tục thờ cúng tổ tiên ở người Việt Nam)
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân - con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục
lấy nàng Âu Cơ - con gái Vua Đế Lai rồi sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm người
con trai. Sau đó, năm mươi người con theo mẹ lên núi, năm mươi người theo cha xuống
biển lập nghiệp. Người con cả theo mẹ lên vùng đất Phong Châu (nay là Phú Thọ) lập ra
nước Văn Lang và được tôn làm Vua Hùng. Văn Lang là nhà nước đầu tiên trong lịch sử
của người Việt, được cai trị bởi 18 đời vua. Các Vua Hùng đã dạy dân trồng lúa nước và
chọn núi Nghĩa Lĩnh, ngọn núi cao nhất vùng để thực hiện những nghi lễ theo tín ngưỡng
của cư dân nông nghiệp như thờ thần lúa, thần mặt trời để cầu mưa thuận gió hòa, mùa
màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi, nảy nở.
Để ghi nhớ công lao to lớn của các Vua Hùng, nhân dân đã lập đền thờ tưởng
niệm (khu di tích lịch sử đền Hùng) mà trung tâm là núi Nghĩa Lĩnh và lấy ngày 10 tháng
3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ. Từ trung tâm thờ tự đầu tiên này, Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương dần lan tỏa, có sức sống lâu bền từ đời này qua đời khác, từ đồng bằng
lên miền núi, từ Bắc vào Nam, từ trong nước ra nước ngoài. Đất nước có lúc thịnh lúc
suy, có lúc bị giặc ngoại xâm thống trị nhưng Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn
được các thế hệ duy trì đến tận ngày nay và còn mãi đến muôn đời sau.
f. Tứ bất tử: Người Việt còn thờ bốn vị thánh bất tử, đó là Tản Viên, Thánh Gióng,
Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh.
Tản Viên, còn gọi là Sơn Tinh, là vị thần cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên),
một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt (tứ bất tử). Các sự tích, truyền thuyết về
Đức thánh Tản (đặc biệt là truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh), thể hiện khát vọng làm
chủ thiên nhiên của người Việt, mở đất, dựng nước.
Thánh Gióng, hay gọi là Phù Đổng Thiên Vương hay Xung Thiên Thần Vương,
là một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (tứ bất tử). Người
có công dẹp giặc Ân đem lại thái bình cho đất nước.
Truyền thuyết kể rằng: Ông sinh ra tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời
vua Hùng thứ 6. Thánh Gióng là người "trời" đầu thai làm đứa trẻ tuy lên ba mà không
biết nói cười, đi đứng. Nhưng khi có bộ tộc khác (truyền thuyết ghi là giặc Ân) tràn
xuống thì cất tiếng gọi mẹ nhờ ra gọi sứ giả của nhà vua, rồi bỗng chốc vươn vai thành
một thanh niên cường tráng đi đánh giặc. Sau khi đánh tan giặc Ân, ông bay về trời. Nơi
ông hóa chính là núi Sóc thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Trong trận chiến với nhà Ân Thánh Gióng cùng chiến đấu với Thánh Hùng Linh
Công, cả hai cùng hợp binh lại đánh một trận quyết định ở chân núi An Vũ Ninh Sơn.
Hùng Linh Công là cháu ruột Vua Hùng, một danh tướng thuộc đời Hùng Vương thứ sáu
(1718 - 1631 TCN), ông được vua trao cho kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cùng
với Thánh Gióng đánh tan giặc Ân. Ông được vua Hùng giao cho cai quản xứ Kinh Bắc,
ông cũng có công trừ hổ để giữ cuộc sống an bình cho dân. Ông sinh ra và mất trên đất
Hiệp Hòa, Bắc Giang và được thờ ở Đền IA khoảng 3700 năm nay.
Hội đền Gióng được tổ chức long trọng tại hai nơi: Đền Phù Đổng, xã Phù Đổng
huyện Gia Lâm, Hà Nội và núi Sóc huyện Sóc Sơn, Hà Nội vào ngày mồng 9 tháng Tư
âm lịch. Phong giao Kinh Bắc xưa có câu: "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu,
mồng chín đâu đâu cũng kéo về xem hội Gióng".
Chử Đồng Tử là tên của một vị thánh nổi tiếng, một trong "Tứ bất tử" trong tín
ngưỡng Việt Nam.Truyền thuyết về Tiên Dung-Chử Đồng Tử là một trong những huyền
sử được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái kể về thời kì cổ xưa của nước Việt Nam. + Truyền Thuyết
Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Chử Xá (huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên (có bản viết là Chử Vi Vân. Theo "Việt sử Giai Thọai" của
Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo dục). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con
chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con
lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố
theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá,
ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.
Thời ấy vua Hùng Vương thứ ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn
chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa
đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp
nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên
Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử
Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn
hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý
nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh,
ai cũng kính thờ Tiên Dung-Chử Đồng Tử làm chúa (Theo "Việt sử Giai Thọai" của
Nguyễn Khắc Thuần-NXB Giáo dục). Một hôm có người bày cho cách ra ngòai buôn bán
nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi
khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Tiên (có bản ghi là Quỳnh
Vi - tham khảo "Việt sử Giai thọai" Chuyện kể Chử Đồng Tử) Đây là tên một ngọn núi
chỉ có trong thần thọai), Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật
Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học
phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một
chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.
Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc
buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có
hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng
nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính
tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả
ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi
người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình.
Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng
nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng
Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó
là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và
chợ đó là chợ Hà Thị.
Lễ hội Chử Đồng Tử tại Đền Hóa Dạ Trạch + Thờ cúng. Đền thờ Chử Đồng Tử bao gồm hai đền chính.
• Đền Đa Hòa thuộc thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên
• Đền Hóa (nơi Chử Đồng Tử và nhị vị phu phân hóa về trời) thuộc thôn Yên
Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khóai Châu, tỉnh Hưng Yên Cả hai đền đều thờ Đức Thánh
Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân
+ Các truyền thuyết khác
Có thuyết kể rằng Chử Đồng Tử trong lúc chu du tìm thầy học đạo cùng vợ đã lấy thêm
một người vợ thứ hai là một tiên nữ giáng trần. Cả ba người đã giúp dân chữa bệnh
Liễu Hạnh Công chúa là một trong những vị thần quan trọng nhất của tín ngưỡng
Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh
hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Liễu Hạnh Công chúa được thờ ở rất nhiều nơi như phủ Giầy (Nam Định), phủ Tây Hồ
và đền Sòng Sơn Vọng Từ (phố Tôn Đức Thắng) ở (Hà Nội), đền Dâu Tam Điệp (Ninh
Bình), đền Sòng và đền Phố Cát (Thanh Hóa), đền Phủ Giày (Thành phố Hồ Chí Minh) ...
trong đó, phủ Giầy ở Vụ Bản Nam Định là nơi quan trọng nhất. Hàng năm, đến ngày huý
của bà, dân chúng đi trẩy hội rất đông, đặc biệt là ở hội Phủ Giầy vào tháng 3 âm lịch.
Thành ngữ có câu: "Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ", nói về ngày giỗ của hai vị
được dân gian thờ cúng: "Cha" là Vua Cha Bát Hải Động Đình và Trần Hưng Đạo, còn
"Mẹ" chính là bà Chúa Liễu.
Bà còn được tôn vinh trong hệ thống tứ bất tử. Bà thường được thờ cùng với hệ
thống tam phủ, nên tạo thành tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh còn được thờ trong một tín ngưỡng
riêng gọi là Tam Tòa Thánh Mẫu.
Đời thứ nhất Mẫu giáng sinh tại thôn Quảng Nạp xã Vỉ Nhuế huyện Thái An phủ
Nghĩa Hưng trấn Sơn Nam, trong nhà thái ông họ Phạm hiệu là Huyền Viên, thái bà hiệu
là Thuần hai người cùng một quê. Ở đời này mẫu cũng luôn giữ chữ Trinh hiếu thảo thờ
phụng cha mẹ, sau trở về chốn linh tiêu, mẫu tại thế từ năm Giáp Dần niên hiệu Thiệu
Bình nguyên niên (1434) cho tới năm Quí Tỵ niên hiệu Hồng Đức thứ 4 (1473). Đời thứ
hai của mẫu giáng sinh vào nhà thái công họ Lê tại xã Vân Cát huyện Vụ Bản phủ Nghĩa
Hưng, thái công họ Lê tên húy là Đức Chinh. Tới tuổi trưởng thành được gả cho Trần
Đào Lang ở thôn An Thái (sau đổi là Tiên Hương), sinh được một con trai tên là Nhâm.
Ở kiếp này mẫu tại thế từ năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên (1555) cho tới
năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577). Đời thứ ba của mẫu giáng sinh tại xã Tây
Mỗ huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa, lấy chồng họ Mai (là tái hợp với hậu thân của Đào
Lang), sinh được một con trai tên là Cổn, được hơn một năm mẫu quay gót trở về đế
hương. Sau Ngọc hoàng chuẩn cho mẫu được trắc giáng xuống cõi trần thường xuyên
tiêu dao khắp nơi, được miễn vòng sinh tử luân hồi
Tản Viên biểu hiện cho ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội; Thánh Gióng biểu
hiện cho tinh thần chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử biểu hiện cho cuộc sống phồn
vinh về vật chất; Liễu Hạnh biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần của người dân Việt Nam.
7.3. Vai trò của tín ngưỡng dân gian Việt hiện nay
Tín ngưỡng Việt Nam xuất hiện từ rất sớm, nó đã tồn tại cùng chiều dài lịch sử
của dân tộc. Vì vậy, nó có vai trò, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống người Việt:
7.3.1 Trong đời sống văn hóa, chính trị, xã hội
Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó tín
ngưỡng dân gian thu hút rất nhiều người, các sinh hoạt tín ngưỡng thời gian trước đây
diễn ra bán công khai, nay với chính sách tự do tín ngưỡng và tôn giáo của Nhà nước ta
thì nó trở nên công khai hơn, tự do hơn. Chính vì thế, vai trò và ảnh hưởng của tín
ngưỡng đối với văn hóa, chính trị, xã hội ngày càng lớn.
Thực tế cho thấy, nếu một số người trong chúng ta từ một cách nhìn nào đó coi
sinh hoạt tín ngưỡng dân gian như một thứ trở lực xã hội gây hao tổn thì giờ, tiền
bạc…mà đi đến bài trừ hoặc cấm đoán một cách thái quá loại hình tín ngưỡng dân gian
này, có thể dẫn tới việc vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Ngược lại, nếu
chúng ta để hiện tượng lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng và tôn giáo của Nhà nước ta
để chống lại Nhà nước, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, hoạt động mê tín dị đoan
thì điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống văn hóa – xã hội, dẫn tới những hậu quả khôn lường.
Việc thờ cúng trong tín ngưỡng dân gian ở Viêt Nam cũng có những vai trò tích
cực đối với cộng đồng, cho dù nhiều hình tượng chỉ là một nhân vật huyền thoại nhưng
vẫn mang tính chất hiện thực. Cụ thể việc thờ Mẫu đã phản ánh được trong lịch sử văn
hóa của tổ tiên ta là những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và vai trò quan trọng của
người phụ nữ luôn có vị trí quan trọng trong gia đình, xã hội và trong đời sống cộng
đồng. Có thể nói: “Người nông dân đã sử dụng tôn giáo tín ngưỡng truyền thống như chỗ
dựa tinh thần không thể thiếu qua nhiều thế kỷ ”.
Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong việc dung nạp các tín ngưỡng,
tôn giáo khác ở Việt Nam. Góp phần trong truyền thống hòa đồng các tôn giáo, tín
ngưỡng: Thánh, Thần, Phật,…đều phù hộ độ trì cho con người. Tín ngưỡng dân gian với
tư cách là một tín ngưỡng bản địa, còn có sự ảnh hưởng ngược lại đối với tôn giáo ngoại
nhập như Phật giáo, Công giáo,…
Tín ngưỡng dân gian còn có vai trò là liên kết tinh thần giữa những người có cùng
một niềm tin vào các vị thần, người ta có thể liên kết với nhau đôi lúc rất chặt chẽ trên
nhiều phương diện ngay cả khi họ không cùng ý thức chính trị. Bởi vì, bản thân tín
ngưỡng này đã có sức mạnh cố kết tinh thần mạnh mẽ. Sự cố kế ấy được nâng lên nhờ sự
“linh thiêng” của các vị thần. Nếu tổ chức tốt các sinh hoạt tín ngưỡng ở các vùng, các
địa phương sẽ làm tăng cường tình đoàn kết, cảm thông lẫn nhau một cách sâu sắc hơn
giữa các thành phần và các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Những giá trị văn hóa của Tín ngưỡng dân gian cũng được xem là có vai trò, vị trí
vô cùng quan trọng trong sinh hoạt tín ngưỡng, nếu gạt bỏ những tiêu cực thì tín ngưỡng
dân gian đã góp phần đáng kể cho bản sắc văn hóa Việt Nam: Từ truyền thuyết, văn
khấn, trang phục trong các cơ sở thờ tự đều là nét độc đáo về văn hóa, nghệ thuật. Ngoài
ra, bên cạnh hát chầu văn, hát tuồng theo nhạc điệu còn có múa đồng. Đó là những di sản
văn hóa dân tộc rất quý giá cần được đánh giá đúng mực, cần bảo tồn và phát triển.
7.3.2 Trong đời sống tinh thần và đạo đức truyền thống
Khi xã hội phát triển toàn diện thì cuộc sống của nhân dân lao động cũng không ngừng
được cải thiện và nâng cao về mọi mặt. Trong đó, tín ngưỡng cũng trở nên không thể
thiếu được đối với một bộ phận cư dân có nhu cầu trong đời sống tâm linh của họ. Tín
ngưỡng dân gian cũng là một nhu cầu thuộc đời sống tinh thần của một số người.
Từ việc nghiên cứu khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của tín ngưỡng
dân gian truyền thống đã cho thấy vai trò của phần “lễ” và phần “hội” trong xã hội ngày
nay là là rất to lớn. Ngoài việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc, nó còn lưu truyền những
tinh hoa văn hóa giàu bản sắc địa phương, có tính chất vùng miền…vốn có từ xa xưa do
cha ông để lại cho con cháu sau này. Nó giúp cho thế hệ con cháu đời sau nhớ về cội
nguồn lịch sử dân tộc, ca ngợi các vị thần ví như Mẹ khởi thủy, Mẹ dạy nghề. Bởi vì các
Mẹ là anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc. Ý thức về cộng đồng cũng được củng cố thêm
trong lễ hội của tín ngưỡng truyền thống.
Trong tín ngưỡng người Việt, cái đẹp của lễ hội là đề cao và khuyến khích chính
những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng được thể hiện qua các nhân vật được cử lễ. Các
hình tượng nhân vật trong tín ngưỡng dân gian thực chất là tinh hoa và thể hiện khát vọng
của cộng đồng tích tụ lại trong đấy mà thôi.
Tín ngưỡng của người Việt còn là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, là chỗ dựa tâm
linh cho một bộ phận dân cư khi họ tin và đi theo thứ tín ngưỡng này. Ngoài ra, lễ hội
trong tín ngưỡng dân gian còn mang tính thiêng liêng, phản ánh tình cảm, sự ngưỡng mộ
về vai trò của các vị thần trong các lĩnh vực của đời sống văn hóa xã hội. Trong sinh hoạt
của tín ngưỡng của người Việt đã giúp liên kết mọi người, thậm chí vượt ra khỏi giới hạn
của tư tưởng định kiến tôn giáo hoặc sự cục bộ địa phương để cùng hướng về một đối
tượng linh thiêng, với một lễ hội thống nhất. Nó còn phát khởi mối thiện tâm trong mỗi
con người trong các mối quan hệ xã hội.
Biểu tượng của các vị thần được thờ ở Việt Nam bao giờ cũng mang một ý chí
kiên cường, sức mạnh tổng hợp để chiến thắng giặc ngoại xâm, thiên tai nhằm xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Đây chính là nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Vai trò và ảnh
hưởng của tín ngưỡng và lễ hội trong tín ngưỡng còn được thể hiện qua cách ứng xử, tấm
lòng, tâm hồn thật đẹp của các nhân vật được tôn thờ, nhất là những cái đẹp của người
phụ nữ Việt Nam (qua tục thờ Mẫu) là một biểu tượng cần được đề cao và luôn ghi nhớ.
Thực tế, khi một ai đó bước chân vào những nơi thờ tự họ đều nghĩ rằng đây là
chốn linh thiêng. Cho nên, tín ngưỡng có thể khơi dậy tính lương thiện và bản chất chân
thành của con người vì họ muốn thể hiện sự tốt đẹp của mình trước những vị thần linh.
Khi con người tin vào một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào đó thì người ta tin
rằng với không gian và thời gian linh thiêng đó, mọi lời cầu xin sẽ được thiêng hóa vì đã
có các thánh chứng giám. Họ tin vào điều đó, có thể đời họ chưa thực hiện được, nhưng
đời con cháu họ sẽ đạt được. Trong chiều sâu tâm thức của con người, niềm tin đã đánh
thức và thúc giục họ đến một nhu cầu hiện thực hóa những đối tượng họ tin dưới dạng lý
tưởng nhất. Mặt khác, người Việt luôn tâm niệm rằng con cái được hưởng phúc từ người
mẹ nên có câu “phúc đức tại mẫu”. Vì vậy tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu
nói riêng đã góp một phần vào việc giáo dục và hướng con người đến với Chân – Thiện – Mỹ.
Hình ảnh người Mẹ trong tín ngưỡng thờ Mẫu cũng là người Mẹ có công sinh
thành và nuôi dưỡng đàn con:
Một lòng thờ Mẹ, kính Cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Có thể nói tín ngưỡng người Việt là một loại hình tín ngưỡng dân gian gắn liền với
tập tục, truyền thống văn hóa đạo đức của người Việt hết sức quan trọng trong đời sống
văn hóa, chính trị, xã hội Việt Nam.
7.3.3. Trong quá trình hội nhập kinh tế và văn hóa
Chúng ta đã biết, giữa văn hóa với kinh tế- xã hội có một mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Vì vậy, Đảng ta đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội”.Với những
định hướng trên, chúng ta đã đặt Việt Nam trong bối cảnh: “Thế giới đã bước vào nền
văn minh mới, văn minh trí tuệ, còn văn hóa không chỉ gắn với phát triển mà còn có khả
năng điều tiết sự phát triển đúng hướng”.
Khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đây cũng là điều kiện để cho
sự tích hợp và phát huy mọi tiềm năng văn hóa tinh thần vốn có của dân tộc, là tiền đề
cho sự mở rộng mọi mối quan hệ tiếp xúc, giao lưu, hội nhập văn hóa giữa các vùng,
miền trong và ngoài nước. Con người có cơ hội bày tỏ những tâm tư nguyện vọng của
mình, vừa được giao lưu tình cảm với cộng đồng… Nhưng xuất hiện cùng lúc này là
hàng loạt vấn đề đặt ra do cơ chế thị trường đem lại.
Xu hướng “thương mại hóa” lại ảnh hưởng đến lễ hội dân gian của loại hình thờ
cúng. Ảnh hưởng của kinh tế thị trường còn bộc lộ đến một số người dân sở tại nơi có
đình, đền, phủ, miếu thờ thần. Họ đến với nơi thờ cúng không còn xuất phát từ nhu cầu
tâm linh mà bởi nhu cầu kinh tế.
Thực tế, trong thời đại ngày nay khi mà xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang
phát triển ở nước ta, hiện đang có nguy cơ lãng quên hoặc không quan tâm đến những giá
trị của tín ngưỡng truyền thống, những sự kiện lịch sử của dân tộc mà ông, cha đã để lại.
Đây là lúc cần phát huy vai trò, ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian nói chung vào phần
“lễ” và “hội” để mọi người cùng tham gia những lễ hội đó. Hạn chế những tác động và du
nhập của văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng ngoại lai có hại cho sự phát triển văn hóa của dân
tộc ta. Từ đó, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống lịch sử, văn hóa, truyền thống “uống
nước nhớ nguồn” cho thế hệ con cháu và mọi người dân.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang được thực hiện, nền kinh
tế nước ta đã phần nào khởi sắc. Nhưng một hiện tượng khá nổi bật mà rất nhiều người
quan tâm, ngay cả những quốc gia được coi là phát triển cũng không tránh khỏi đó là sự
chênh lệch khá lớn giữa những người được coi là giàu có và những người còn quá nghèo.
Sự bất bình đẳng đó thường ngày là khoảng cách giữa mọi người có thể tách biệt về thân
phận, địa vị xã hội, các thành phần kinh tế… Nhưng với những người tin và đi theo tín
ngưỡng thì khi vào đình, đền, phủ, miếu, chùa đứng trước ban thờ, điện thờ, trước những
làn khói hương thì mọi người đều bình đẳng, dân chủ, không có sự phân biệt.
BÀI 8. NHỮNG GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU VỀ ANH HÙNG DÂN TỘC
TRONG LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG VĂN HIẾN VIỆT NAM 8.1.
Một số vấn đề chung về anh hùng dân tộc Việt Nnam 8.1.1 Khái niệm
Anh hùng : Anh hùng trong lịch sử, anh hùng dân tộc, anh hùng trong vệ quốc,
anh hùng trong lao động, anh hùng trong dựng xây, anh hùng trong thời chiến, anh hùng
trong thời bình v.v. mới là những anh hùng hiện hữu và có thật. Có đóng góp thiệt thực,
thực tế vào cuộc đời này cho nhân lọai.
Còn anh hùng trong văn học, anh hùng trong tiểu thuyết, anh hùng trong thần thọai, cổ
tích, huyền sử, dã sử, truyền thuyết dân gian v.v. thường là những nhân vật hư cấu hoặc
những nhân vật có thể có thật trong chính sử nhưng được tiểu thuyết hóa, nghệ thuật hóa,
tựu trung vẫn là sản phẩm tưởng tượng trong đầu óc của người viết.
Mỗi dân tộc cũng có cách nhìn về khái niệm "anh hùng" khác nhau tùy thuộc vào văn hóa
lâu đời của họ.Người Việt Nam quan niệm anh hùng thường gắn liền với sự dũng cảm, là
người có công kiệt xuất trong cuộc đấu tranh cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc,
được nhân dân suy tôn và lịch sử dân tộc ghi nhận.
Anh hùng dân tộc: Là những nhân vật có thật, kiệt xuất trong lịch sử dựng nước
và giữ nước, tạo dựng văn hóa văn minh mà tên tuổi hành động chiến công… gắn bó với
công việc cụ thể ở từng thời điểm, giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể. Anh hùng dân tộc
thường là những vĩ nhân, những chính khách, những nhà cách mạng lão thành có tư
tưởng lớn, nhân cách lớn, chí hướng lớn, đạt thành tựu lớn trong việc khẳng định ý thức
dân tộc, niềm tự hào dân tộc, chiến đấu hi sinh cho độc lập, dân tộc, tìm đường giải
phóng dân tộc, thúc đẩy sự phát triển dân tộc ngày càng văn hiến, văn minh, hạnh phúc.
Tên tuổi anh hùng dân tộc mãi mãi gắn liền với lịch sử dân tộc, với truyền thống dân tộc.
Nhiều anh hùng dân tộc đồng thời là danh nhân văn hóa dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới (Từ điển Bách khoa tri thức)
Tóm lại, Anh hùng dân tộc Việt Nam là những người có công kiệt xuất trong
cuộc đấu tranh cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam, được nhân dân suy
tôn làm anh hùng và ghi danh vào lịch sử dân tộc Việt Nam. Anh hùng dân tộc thường
xuất hiện ở bước ngoặt lịch sử của dân tộc, trở thành biểu tượng và niềm tự hào bất diệt
của dân tộc. Như vậy, Anh hùng dân tộc là danh hiệu cao quý hơn Anh hùng (là người tài
năng xuất chúng, công to, đức cả khiến mọi người đều kính phục)
8.1.2 Khái quát một số anh hùng dân tộc tiêu biều qua các thời kỳ lịch sử văn hóa Việt Nam
Trong suốt lịch sử hàng nghìn năm bảo vệ và phát triển đất nước của dân tộc Việt
Nam đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc tiêu biểu. Ngày 21/6/2013, tại văn bản số
2296/BVHTTDL-MTNATL, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đã đưa ra danh
sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam theo thứ tự thời gian như sau:
1. Hùng Vương ( vua Hùng ) là vị vua của nhà nước Văn Lang của người Lạc
Việt. Hùng Vương là con trai của Lạc Long Quân, lên ngôi vào năm 2879 trước công
nguyên đặc quốc hiệu Văn Lang, chia nước làm 15 bộ là quốc tổ của Việt Nam.
2. Hai Bà Trưng tức Trưng Trắc, Trưng Nhị là 2 vị nữ anh hùng đầu tiên của
dân tộc Việt Nam. Là thủ lĩnh khởi binh chống lại ách đô hộ tàn bạo, độc ác của nhà
Đông Hán thuộc Trung Quốc. Cũng là người đã lập ra một quốc gia mới lấy kinh đô là
Mê Linh và tự phong Nữ Vương
3. Lý Nam Đế tên thật Lý Bí là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa chống ách đô
hộ của Nhà Lương, lập ra Nhà Tiền Lý và nước Vạn Xuân
4. Ngô Quyền sinh năm 898 ở làng Đường Lâm, còn được biết đến với tên
gọi Tiền Ngô Vương là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938,
Ngô Quyền lãnh đạo nghĩa quân đánh tan quân Nam Hán bằng cách cắm cọc trên sông
Bạch Đằng giành được thắng lợi vẻ vang với một trận thành danh lưu sử ngàn năm là
gương sáng cho bao thế hệ trẻ mai sau. Chấm dứt ách đô hộ hơn 1000 năm phong kiến
Bắc thuộc của Việt Nam. Đại thắng sông Bạch Đằng đã khắc họa mưu lược cùng tài trí
của ông. Ông được xem là " vua của các vị vua "
5. Đinh Tiên Hoàng tức Đinh Bộ Lĩnh là vị vua sáng lập ra triều Đinh tạo ra
nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng với tài đánh đâu thắng đó, dùng
mưu lược trong 2 năm đã dẹp được loạn 12 sứ quân, lên ngôi vua năm 968
6. Lê Đại Hành tên thật Lê Hoàn làm quan triều Đinh đến chức Thập đạo tướng
quân. Khi quân Tống xâm lược ông đem quân ra kháng cự, thay nhà Đinh làm vua. Có
công trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoại yên lòng dân, trong nước thanh bình Bắc, Nam vô sự
7. Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn người sáng lập ra nhà Lý có công dời đô từ Hoa
Lư về Thăng Long ( Hà Nội ngày nay )
8. Lý Thường Kiệt là một doanh tướng có công lớn trong việc đánh bại quân
Tống xâm lược vào năm 1075 - 1077. Ông được tương truyền là người đã viết ra bài thơ "
Nam Quốc Sơn Hà " bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam
9. Trần Nhân Tông là vị hoàng đế thứ 3 của nhà Trần, trị vì 15 năm, làm Thái
Thượng Hoàng 15 năm. Là người lãnh đạo nhân dân chống quân Mông Cổ và quân
Nguyên xâm lược. Nổi tiếng là vị vua anh minh trong lịch sử. Là người thành lập ra
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và còn là một nhà thơ xuất sắc của thời Trần
10. Trần Hưng Đạo tức Trần Quốc Tuấn, còn được biết là Hưng Đạo
Vương. Là vi tướng tài, 3 lần chỉ huy nhân dân đánh tan quân Mông - Nguyên dưới thời
Hốt Tất Liệt là một trong chiến thắng vĩ đại trong lịch sử thế giới. Ngoài ra, ông còn là
một nhà chính trị, nhà văn lỗi lạc. Nổi tiếng nhất với bài " Hịch tướng sĩ " chan chứa tinh
thần yêu nước nồng nàn và cách dạy quân
11. Lê Thái Tổ tức Lê Lợi là người khởi xướng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống
quân nhà Mình lập ra nhà Hậu Lê. Ông cũng là nhân vật nổi tiếng trong truyền thuyết Hồ
Gươm, một sự tích của dân gian Việt Nam
12. Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai (1380–19/9/1442), quê gốc ở làng Chi Ngại,
huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Ông là con trai của
Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán. Thi đỗ
Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị
rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do
Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn.
Năm 1442, toàn gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm
1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Ông là một nhà văn hóa lớn nổi
tiếng nhất với bài " Bình Ngô Đại Cáo " được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc Việt Nam.
13. Quang Trung tức Nguyễn Huệ ( 1753 - 1792 ) còn được biết đến là Quang
Trung Hoàng đế hay Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ 2 của nhà Tây Sơn. Là người
đã đánh dẹp vua Lê, chúa Trịnh và chúa Nguyễn giúp thống nhất Việt Nam. Đồng thời
đánh bại quân Xiêm và quân Thành lập ra Nhà Tây Sơn
14. Hồ Chí Minh ( 19/5/1890 - 2/9/1969 ):là lãnh tụ của phong trào Việt Nam thời
Pháp thuộc, là người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương và là người khai sinh ra nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bác dẫn dắt Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm
lược của Nhật, Pháp và Mỹ. Là vị lãnh tụ được nhiều người ngưỡng mộ, tôn sùng, là
gương sáng cho bao thế hệ trẻ Việt Nam.
Bác còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa thế giới, nhà chính trị gia tài ba.
Đến nay, Bác có tổng cộng 152 tên gọi, bút danh, bí danh, từng hoạt động 30 năm ở nước
ngoài, người đi qua 4 châu lục, 3 đại dương đặt chân lên gần 30 nước 8.2.
Thờ cúng các vị anh hùng dân tộc của người Việt Nam
Thờ cúng tổ tiên, anh hùng dân tộc là một hiện tượng mang tính lịch sử - xã hội, tồn
tại phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt tốt của hiện tượng này
là ở chỗ, nó nhắc thế hệ những người đang sống phải nhớ đến nguồn, “ăn quả nhớ người
trồng cây”. Sự thanh cao, tinh khiết của nó đã trở thành đạo lý, lẽ sống, trở thành nét đẹp
trong truyền thống văn hoá của nhiều dân tộc.
8.2.1 Người Việt tin vào sự bất tử linh hồn tổ tiên, anh hùng dân tộc
Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tình cảm biết ơn, tưởng nhớ, hướng về cội
nguồn, quá khứ. Thờ tổ tiên, anh hùng dân tộc là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn,
tưởng nhớ tổ tiên, anh hùng dân tộc đồng thời cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che
chở, bảo hộ, trợ giúp của tổ tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức về tổ tiên, anh hùng dân
tộc là niềm tin về linh hồn tổ tiên, các vị anh hùng dân tộc còn sống, có thể che chở, phù
hộ độ trì cho con cháu, cho người dân. Biểu tượng về tổ tiên là hình ảnh về những người
tài giỏi, có công, có đức. Trên bàn thờ thường có bài vị, tượng, ảnh được bày đặt cầu kỳ, trang trọng.
Cúng là yếu tố mang tính nghi lễ, là sự thực hành một loạt động tác (khấn, vái, quì,
lạy ) của người người dân. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được qui định bởi quan
niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng, dân tộc. Thờ và cúng là hai yếu tố có tác
động qua lại và tạo nên chỉnh thể riêng biệt - đó là sự thờ phụng tổ tiên . Sự “thờ”, “tôn
thờ” là nội dung, còn hoạt động cúng” là hình thức biểu đạt của nội dung thờ cúng.Ý thức
tôn thờ, thành kính, biết ơn, tưởng nhớ, hy vọng sự trợ giúp của tổ tiên là nội dung cốt
lõi, là cái chủ yếu khiến sự thờ phụng tổ tiên thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu
không có “thờ” mà chỉ có “cúng” thì sự thờ phụng tổ tiên không có “hồn thiêng”, không
có sức hấp dẫn nội tại dễ thành nhạt nhẽo và do vậy, không thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên. Sự “cúng” tuy chỉ là hình thức biểu đạt, song nó tôn vẻ linh thiêng, huyền bí, mờ ảo
và tạo nên sức hấp dẫn. Nó chính là chất kết dính, tạo nên màu sắc thoả mãn niềm tin của chủ thể thờ cúng.
Thờ cúng anh hùng dân tộc được hình thành trên cơ sở niềm tin vào sự bất tử của linh
hồn. Niềm tin ấy bắt nguồn từ ước muốn mang tính bản năng - ước muốn cuộc sống
trường thọ bền vững của con người. Chính con người đã thiêng liêng hoá tình cảm dành
cho tổ tiên, anh hùng dân tộc được gắn cho sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là sự thiêng
liêng hoá, thần thánh hoá bắt nguồn từ quan niệm về sự bất diệt của linh hồn. Sự thiêng
liêng hoá, thần thánh hoá anh hùng dân tộc là sự tưởng tượng, song lại có cội nguồn từ
cuộc sống hiện thực. Ý thức tưởng nhớ về tổ tiên, anh hùng dân tộc có công xây dựng
cuộc sống với người dân hình thành và tồn tại giúp con người vượt qua cái trần tục, đời
thường, thúc đẩy sự tìm tòi, vượt qua trạng thái hiện tồn để hướng về phía trước, khắc
phục sự hẫng hụt về tinh thần. Xét về mặt đạo đức, ý thức nhớ về tổ tiên, anh hùng dân
tộc có công với đất nước mang giá trị nhân văn sâu sắc, nó phát khởi mối thiện tâm trong
mỗi con người trong cộng đồng xã hội. Qua đó còn thể hiện ý niệm về thần che chở tạo
cho người ta cảm giác yên tâm.
8.2.2 Nhớ ơn công lao hiển hách của các danh nhân, anh hùng
Trong phạm vi gia đình, người Việt Nam thường giữ đạo hiếu. Theo đạo hiếu, con
cháu nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cho nên hết lòng
phụng dưỡng khi các ngài còn sống. Khi các ngài khuất núi, trong niềm tin hương hồn
các ngài vẫn hiện diện gần gũi đâu đây trong cõi vô hình thì con cháu cúng giỗ để tưởng
nhớ các ngài đồng thời dâng hiến những lễ vật để các ngài hưởng dùng.
Cũng tương tự, trong phạm vi làng xã hay quốc gia, thường hay xuất hiện những danh
nhân, anh hùng. Các ngài là những vĩ nhân, những công dân kiệt xuất bởi công lao to lớn
đối với làng xã, đối với đất nước. Do đó, khi chết đi, các ngài được dân chúng tin tưởng
và tôn lên làm thần. Trong số đó, có những vị được chính thức công nhận bởi các chức
sắc của làng xã, có những vị được nhà vua ban sắc phong.
Việc thờ cúng các danh nhân, anh hùng chẳng những do lòng biết ơn các ngài mà còn
do thành tâm cầu xin các ngài phù giúp dân làng hoặc xin các ngài tiếp tục góp công bảo vệ đất nước.
8.2.3 Noi gương các đức tính đặc biệt của các ngài
Lí do thứ ba khiến cho người Việt Nam thờ cúng các danh nhân, anh hùng chính là
lòng cảm phục các đức tính đặc biệt của các ngài và mong muốn noi gương các ngài. Đó
cũng là nhận định của giáo sư Lê Hữu Mục trong phần Dẫn nhập bản dịch cuốn Việt
Điện U Linh Tập của ông: Theo tác giả thì thần thánh có ai là xa lạ đâu. Đó là những
người trần mắt thịt như tất cả chúng ta, chỉ khác một điều là các người ấy đã sống một
đời sống siêu phàm, trong sự cần lao cam khổ, trong sự phục vụ tích cực, trong nỗ lực
chống lại sự quyến rũ của vật chất; thần thánh là những người đã sống hết tất cả kích
thước của người, tận cùng biên giới nhân loại. Đến trình độ ấy, giá trị của con người tự
nhiên được gia tăng, con người có thể tham dự vào đời sống linh thiêng để tiếp tục quảng
bố ơn cương thường như trước, đến giai đoạn này, các vị anh hùng xứng đáng được lòng
ngưỡng mộ sùng kính của nhân dân. Việc có đền miếu phụng tự trở thành một điều kiện
phải có. Ta không lạ gì khi thấy có nhiều vị thần hiển linh như muốn được hưởng tế tự
lâu dài... Thần thánh là kiểu mẫu lí tưởng của nhân dân, họ cần được sự phù trợ của thần,
nhưng hơn hết tất cả, họ mong muốn được nên giống như thần thánh, có can đảm chống
lại dục vọng của họ để đi lên cao hơn. 8.3.
Truyền thống yêu nước từ tấm gương anh hùng dân tộc
1. Ngay từ thời Hùng Vương dựng nước, dân tộc Việt Nam đã phải chống các thế lực
xâm lược như giặc Ân, ngoại bang xâm chiếm bờ cõi. Qua các cuộc đấu tranh bảo vệ đất
nước, dân tộc Việt Nam đã được rèn đúc ý chí chống xâm lược. Trong quá trình chống
xâm lược, xây dựng và phát triển đất nước, đã định hình ra các nền văn hóa tiêu biểu. Đó
là văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, văn hóa Đông Sơn. Đây
là đỉnh cao để định hình nền văn minh sông Hồng với 4 yếu tố quan trọng: Phát triển lực
lượng sản xuất thời đại đồ đồng; định hình ra nền nông nghiệp lúa nước; phát triển giá trị
văn hóa, đặc biệt là cộng đồng làng xã, ứng xử văn hóa làng xã; định hình ra Nhà nước
dân chủ sơ khai, cố kết các thành viên trong xã hội, trong cộng đồng. Thế giới đã công
nhận nền văn minh sông Hồng là 1 trong 33 nền văn minh cổ đại của nhân loại. Dân
tộc Việt Nam hoàn toàn có quyền tự hào về những giá trị văn hóa như vậy.
2. Sau này, khi bị thế lực phong kiến phương Bắc xâm lược, nước Âu Lạc rơi vào tay
phương Bắc, bị phương Bắc thống trị kéo dài tới 1117 năm. Sau năm 938, Ngô Quyền
mới giành lại độc lập. Trong thời kỳ Bắc thuộc đen tối, vẫn sáng ngời lên giá trị văn hóa
yêu nước. Đó là khởi nghĩa của các vị anh hùng dân tộc- vị danh tướng như Hai Bà
Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ, Dương Đình
Nghệ, Ngô Quyền… đã giành lại độc lập cho đất nước.
Bước vào thời kỳ phong kiến, bị Bắc thuộc kéo dài hơn 11 thế kỷ, vì sao dân tộc Việt
Nam vẫn giành lại được độc lập chủ quyền? ngoài lý giải về sức mạnh về quân sự, kinh
tế, cần phải khẳng định về sức mạnh văn hóa, đã làm thất bại ý đồ đồng hóa về văn hóa
của phương Bắc, giữa gìn nền văn hóa, văn minh của dân tộc. Đây là yếu tố cực kỳ quan
trọng để Việt Nam không bị đồng hóa bởi văn hóa phương Bắc.
Dưới thời chế độ phong kiến, khi nước ta giành được độc lập từ thế kỷ thứ X đến thế
kỷ XIX, Việt Nam cũng phải chịu biết bao cuộc xâm lược, xâm phạm đến chủ quyền
quốc gia, nhưng chúng ta vẫn giữ vững chủ quyền độc lập. Tại thời điểm này, không thể
phủ nhận sức mạnh của chế độ chính trị, của kinh tế, sức mạnh của những đội quân thao
lược do những vị tướng tài ba huấn luyện lực lượng quân sự. Bên cạnh đó, cũng cần nhìn
nhận thấy rõ sức mạnh của văn hóa, mà chúng ta vẫn gọi là văn hóa, văn minh Đại Việt.
Ý chí bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc đã thể hiện rõ trong bản Tuyên ngôn độc lập đầu
tiên của dân tộc, đó là bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt: “Nam quốc sơn hà, nam đế
cư”. Bài thơ đã thể hiện ý chí văn hóa bảo toàn nền độc lập của toàn dân tộc “Tuyệt
nhiên định phận tại thiên thư” (việc này đã định phận ở sách trời – đó là cơ sở pháp lý
của thuyết chính danh định phận khi xưa). Tiếp đó, vua Quang Trung đã khẳng định:
“Đánh cho sử chi Nam quốc anh hùng chi” (Đánh cho kẻ xâm lược biết nước Nam là
nước đã có chủ). Những minh chứng trên đây đều thể hiện văn hóa yêu nước của dân tộc
Việt Nam, mà đỉnh cao là độc lập chủ quyền, khẳng định chủ quyền về mặt pháp lý và về
mặt lịch sử. Quá trình đấu tranh giành độc lập thời phong kiến cũng đã nêu cao giá trị,
sức mạnh văn hóa, văn hiến của dân tộc như Nguyễn Trãi đã nói:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Một nền văn hiến cần phải hội tụ 4 yếu tố: văn hoá, học thức, đạo đức, cái đẹp. Tất
cả những giá trị văn hiến đó tạo ra sức mạnh, tạo niềm tự hào tự tôn dân tộc. Dân tộc Việt
Nam hoàn toàn có thể tự hào về dân tộc mình, về một nền văn minh, văn hiến. Điều đó sẽ
tạo ra sức mạnh tinh thần mà không thế lực nào có thể thắng được việc tự hào, tự tôn dân tộc
Trong chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã luôn ứng xử khoan hòa, khoan dung
với các thế lực xâm lược.Việt Nam tuy đánh thắng nhưng bao giờ cũng ứng xử rất văn
minh, khoan hòa, hiếu sinh, chứ không gây thù oán, vẫn giữ quan hệ bang giao tốt. Điều
này cũng đã được kết tinh trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: “Đem đại nghĩa để
thắng hung tàn. Lấy trí nhân để thay cường bạo”. Hay “Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân”. Con người Việt Nam ăn ở với nhau có nhân nghĩa, tình nghĩa, hiếu nghĩa, đối với
bên ngoài là đại nghĩa.
Một yếu tố quan trọng, tạo ra sự thành công trong việc chống giặc xâm lược dưới
thời đại phong kiến chính là văn hóa đồng thuận trong xã hội, đoàn kết, ứng xử tốt trong
xã hội, tạo ra sự đồng lòng nhất trí, cùng hướng về mục tiêu nhất định như Trần Hưng
Đạo đã khẳng định: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức. Đấy
chính là thượng sách về giữ nước”. Và các bậc ông cha đi trước đã đúc kết thành 4 chữ
tạo nên xã hội: “khoan – giản – an – lạc”, là khoan dung, giản dị, hòa đồng; làm cho đời
sống của người dân tốt đẹp sung sướng, tạo ra sức mạnh của xã hội. Với sức mạnh ấy,
dân tộc Việt Nam đã đánh bại mọi kẻ thù xâm lược.
3. Thời đại Hồ Chí Minh, Đảng và Bác Hồ đã kế thừa và nêu cao tinh thần dân tộc,
văn hóa yêu nước đã được kết tụ lại hàng nghìn năm qua.
Năm 1945- 1946, thực dân Pháp quay lại xâm lược Nam bộ. Ngoài Bắc, 20 vạn
quân của Tưởng Giới Thạch kéo vào với các chính sách diệt cộng, cầm hồ, tiêu diệt và
bắt giam các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta. Lúc đó Bác đã rất chủ động, áp
dụng chính sách khoan hòa, hòa hoãn. Bác đã tuyên bố chính sách “Hoa - Việt thân
thiện” để tạm hòa với quân Tưởng, tập trung đánh giặc Pháp ở miền Nam. Sau đó, Bác lại
chủ trương hòa với Pháp để gạt quân Tưởng về nước, tranh thủ tối đa khả năng hòa bình.
Đó là những minh chứng khẳng định khát vọng hòa bình của dân tộc, thể hiện văn hóa
ứng xử khoan hòa của nước vừa giành được độc lập chính nghĩa, nhưng rất chủ động để
ổn định hòa bình. Trong đường lối, trong quan điểm, trong ứng xử, dân tộc ta lúc nào hết
sức nhũn nhặn để giữ hòa bình.
Trong thư gửi cho đồng bào Nam bộ năm 1945, Bác Hồ đã nói: “Chúng ta là
quang minh chính đại, chúng ta chỉ đòi quyền độc lập tự do của chúng ta thôi chứ không
gây tư thù, tư oán gì cả. Chúng ta phải tỏ rõ cho thế giới biết rằng dân tộc chúng ta là
dân tộc văn minh, văn minh hơn những kẻ đi xâm lược”. Đây chính là những ý tưởng rất
quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước thế giới.
Khi viết thư cho Mỹ, Bác cũng nhấn mạnh: “Quan điểm của chúng tôi là giữ vững
độc lập, nhưng hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ”. Có thể nói đó là những chính sách hết
sức cởi mở. Năm 1946, Bác đã tuyên bố những luận điểm rõ ràng: Việt Nam thực hiện
chính sách mở cửa và hợp tác toàn diện với bên ngoài. Những từ ngữ “Chính sách” và
“mở cửa” được Bác dùng từ năm 1946 trong thư gửi cho Liên Hợp quốc.
Năm 1947, Bác đã tuyên bố Việt Nam làm bạn với các nước dân chủ, không gây
thù oán với ai. Đó là chính sách ngoại giao, vừa thể hiện sự kiên quyết giành độc lập, vừa
thực hiện đúng lời kết của Bản tuyên ngôn độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do, độc lập”.
Bên cạnh sự kiên quyết đó, chúng ta còn rất ôn hòa khoan dung trong quan hệ ngoại giao.
Trong chuyến đi thăm nước Pháp 2-7-1946, tại lễ chiêu đãi của Chủ tịch hội đồng
nội các Pháp, Bác đã có bài phát biểu và nhấn mạnh một ý rất quan trọng: “Trong quan
hệ ngoại giao với nhau phải trung thực, nếu trung thực sẽ gạt được hết mọi trở ngại”. Bác
cũng nhắc câu triết lý: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều mà mình không muốn đừng
áp đặt cho người khác). Dân tộc nào, quốc gia nào cũng muốn được tự do và độc lập, cớ
gì lại đi xâm phạm độc lập của nước khác? Mỗi dân tộc tôn trọng tự do, độc lập, lợi ích
của dân tộc mình thì cũng phải biết tôn trọng tự do, độc lập, lợi ích của dân tộc khác. Đó
là triết lý sơ đẳng của một xã hội văn minh mà các nước đều nên tuân thủ và làm theo. Có
thể thấy, trong quan hệ ngoại giao với các nước khác trên thế giới, tư tưởng hòa bình vẫn
là tư tưởng chủ đạo của Bác Hồ kính yêu.
Trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Bác Hồ cũng đã nhấn mạnh: “Chúng ta
muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Càng nhân nhượng, giặc Pháp càng lấn tới,
buộc chúng ta phải đứng lên kháng chiến. Kháng chiến ấy cũng vì mục tiêu hòa bình,
nhân nghĩa, sẵn sàng đối xử rất tốt với các tù binh. Đấy chính là nhân đạo, nhân văn cao
cả của văn hóa Việt Nam. Những điều đó cần phát huy, từ thời kỳ lịch sử xa xưa cho đến thời đại ngày nay
4. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Việt
Nam, dân tộc Việt Nam cần nêu cao tinh thần chính nghĩa, nêu cao vai trò của một nước
có nền văn hiến, có nền văn hóa lâu đời, chống hành vi xâm phạm trái phép đến độc lập
chủ quyền của dân tộc. Đó là nguyên tắc bất biến. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái bất
biến của chúng ta hiện nay chính là độc lập, chủ quyền của dân tộc mình. Là của mình thì
một tấc đất trên bộ, một con sóng ngoài biển chúng ta cũng phải giữ. “Ứng vạn biến” là
chúng ta phải linh hoạt mềm dẻo, theo tinh thần “đoàn kết, đồng thuận trong xã hội, tỏ
cho thế giới biết rằng dân tộc Việt Nam là dân tộc hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát
triển”. Đó là tư tưởng xuyên suốt từ thời đại dựng nước, giữ nước của ông cha ta từ trước,
đến thời đại ngày nay – thời đại Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những
bài học lịch trong truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vẫn còn nguyên giá trị
cho tình hình mới hiện nay.
BÀI 9: NHỮNG GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU CỦA TRI THỨC VIỆT NAM TRONG
LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG 1. Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, quê ở thôn Chi Ngại, phường Cộng Hoà, thị xã Chí
Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội.
Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ, nhà
Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh đầu hàng từ trước đó viết thư khuyên ông
ra hàng, ông làm theo. Sau khi nước Đại Ngu rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn
Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh. Ông
trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo
các văn thư ngoại giao với quân Minh. Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di
tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan
cho ông. Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của
văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc Việt Nam.
Vinh dự và đau khổ của người tri thức: Sự nghiệp anh hùng của một dân tộc bao
gồm sự nhiệp của người tri thức. Nguyễn Trãi luôn coi mình là tri thức, ông đã có những
đóng góp vẻ vang của trí thức vào sự nghiệp của dân tộc Việt Nam. Là tri thức, là niêm
vinh dự đó cũng là nỗi khổ đau đeo đuổi Nguyễn Trãi suốt cả cuộc đời ông. Chính ông
cũng đã từng xót xa mà cho thân phận của mình: “Xưa nay người biết chữ thường lắm lo
âu và hoạn nạn. Ông già Tô Đông Pha đã từng như thế và tôi cũng nói như thế”.
Cổ lai thức tựu đa ưu hoạn
Pha lão tầng vân, ngã diệc vân
(Mạn hứng số 615)
Cuộc đời Nguyễn Trã thật đầy ưu loạn. Lên 5 tuổi, ông đã mồ côi, sớm mất đi tình
thương và tiến hát của người mẹ dòng dõi anh hùng. Năm ông 10 tuổi người ông ngoại
kính yêu qua đời. Ông theo cha trở lại quê hương tại làng Nhị Khê nghéo khổ, sống
những ngày cóm không đủ no, áo không đủ ấm.
Năm 20 tuổi, đỗ tiến sĩ và cùng cha làm quan cho nhà Hồ, ông lại trải qua những
ưu loạn của người tri thức trước muôn vàn khó khăn của đất nước và nguy cơ xâm lược
của quân thù. Năm ông 27 tuổi đất nước bị nằm trong tay giặc. Cha ông cùng với anh em
bị giặc bắt đi, nhân dân sống khổ cực dưới sự tàn bào bạo của quân Minh. Những ưu
hoạn lớn nhất của con người lại đeo đuổi ông trong suốt những ngày lưu lạc xa nhà,
những năm chiến đấu gian khổ.
Khi đất nước được giải phóng khỏi quân giặc, nhân dân được trở lại cuộc sống
thanh bình, nhưng vua qua triều đại mới lại chuyển vào cuộc sống xa hoa, ông lại lắng
nghe những lời sầu than oán giận của quần chúng văng vẳng bên tai ông như những nỗi
ưu loạn của chính mình. Những lời gièm pha của bọn xiển nịnh đã đưa ông vào tù, rồi gạt
ông ra khỏi việc nước. Cuối cùng ưu hoạn của ông được kết thúc bằng vụ án Lệ Chi
Viên. Nỗi oan tày trời đã cắt đứt cuộc đời ông giết hại cả nhà ông để người đời sau
thương xót không nguôi với người tri thức của dân tộc.
Khi còn sống từ cuộc đời ưu hoạn của mình, Nguyễn Trãi đã liên tưởng đến cuộc
đời ưu loạn của Tô Đông Pha, một tri thức xuất sắc dưới thời Tống đã từng sống một
cuộc đời thường xuyên bị đày ải. Nỗi long đong của ông luôn được thể hiện qua những
lời thơ chua chát. Tô Đông Pha đã bù đắp cho nỗi ưu hoạn của mình bằng uống rựu ngâm
thơ cùng bạn bè tổ chức những cuộc tiêu dao trên sông biển, trên hồ. Nhưng Nguyễn Trãi
thì khác, ưu hoạn của ông không giống ưu hoạn của Tô Đông Pha. Ưu hoạn của Nguyễn
Trãi luôn gắn bó với ưu hoạn của người dân, ưu hoạn của người dân là ưu hoạn đã tao
nên sự nghiệp tri thưc. Khi Trần Hưng Đạo “ngày quên ăn, đêm quên ngủ lòng đau như
cát, nước mắt đầm đìa” thì ưu hoạn của ông chính là ưu hoạn của người tri thức anh hùng
trước sự tàn bạo của quân thù và nguy có diệt vong của dân tộc. Khi Ngô Thì Nhậm sống
lẫn với nông dân Thái Bình, khi Cao Bá Quát nhìn sao suốt đêm không ngủ, khi Nguyễn
Đình Chiểu muốn mù đôi mắt, thì ưu hoạn ở những tri thức ấy là nỗi thống khổ của nhân
dân. Sự đau khổ của người tri thức được nhân lên gấp đôi bởi đó là đau khổ của nhân dân
được cộng thêm những suy tư của tri thức.
Nguyễn Trãi suốt cuộc đời suy tư trước nỗi khổ của nhân dân. Biết bao nhiêu bài
thơ đã phản ánh những suy tư ấy trước những đau khổ của nhân dân vì sự bạo ngược của quân thù.
Bình sinh độc bão tiên ưu niệm
Tọa ủng hàn khâm dạ bất niên
(Hải khẩu dạ tạc hữu cảm)
(Suốt đời ôm mãi lòng “lo trước”
Chăn lạn choàng vai thức suốt đêm).
Nỗi lo dân đã thường xuyên day dứt Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi đêm chẳng ngủ.
Có đêm thức thức mãi bên ngọn đèn mờ. Có đêm ngồi mãi dưới vầng trăng lạnh. Có đêm
tựa mãi bên song suốt ba canh mưa gió. Có đêm thổn thức nỗi nhớ quê hương. Có lúc
nửa đêm bỗng xô gối ngồi dậy.
Quốc phú binh cường chẳng có chước
Bằng tôi nào thửa ích chưng dân (Trần tình, sô 37)
Làm gì để giúp ích cho nhân dân? Nhân dân còn sống dưới nanh vuốt quân thù.
Nhân dân bào giờ được giải phóng ? Nhân dân bao giờ được trở lại cuốc ống ấm no, an
vui? Nhân dân bao giờ hết nỗi sầu than, oán giận? Những ưu hoạn của nhân dân ngày
đêm thôi thúc Nguyễn Trãi suy tư để tìm ra con đường đuổi giặc cứu nước. Ông đã đem
hết trí tuệ, tâm huyết, tài năng cùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn giành lại đất nước.
Sự nghiệp lẫy lừng của ông trên mọi lĩnh vực, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa gắn
liền với lòng yêu nước mãnh lệt của ông, găn liền với suy tư, sáng tạo của người tri thức.
Người tri thức ấy trở thành anh hùng bởi người ấy đã găn bó với nhân dân trong sự
nghiệp đấu tranh đánh đuổi quân thù.
Trừ độc, trù tham, trừ bạo ngược,
Có nhân, có trí, có anh hùng
(Bảo kính cảnh giới, số 133)
Nhân dân ta luôn suy tôn Nguyễn Trãi là một vị anh hùng, tên tuổi của ông luôn
gắn liền với Lê Lợi và các danh tướng của nghĩa quân Lam Sơn và mỗi người lại cố một
sự cống hiến khác nhau để có được thành công. Không thể vì đề cao Nguyễn Trãi mà che
mờ Lê Lợi. Lê lợi là anh hùng kiệt xuất của Lam Sơn, ông đã có sức hấp dẫn kỳ diệu, tập
hợp được cả “bốn phương manh lệ” và toàn thể nhân dân. Ông đã có cái nhìn sắc bén của
lãnh tụ hiển hách, hiểu địch, hiểu mình để quyết định mau lẹ quả cảm. Ông hiểu Nguyễn
Trãi và sử dụng Nguyễn Trãi một mưu sỹ tài giỏi dưới trướng mình và Nguyễn Trãi đã
nhận biết được lãnh tụ của mình, một anh hùng để cùng cống hiến.
Chúng ta coi Nguyễn Trãi như một nhà quân sự thiên tài, nhưng không vì thế mà
lu mời những chiến công hiển hách của các tướng lĩnh Làm Sơn. Nguyễn Chính với chiến
lược tiến công, các bài binh bố trận của Lê Sát, Lê Ngân, tài đánh viện, dồn địch của Trần
Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo. Đối với Nguyễn Trãi chiến lược “tâm công” đã cống hiến
cực kỳ vẻ vang. Chiến lược ấy cáo tác dụng quyết định, làm tan rã tinnh thần quân địch
và đập tan ý chí xâm lược của triều đình nhà Minh.
Từ đỉnh cao của trí tuệ đương thời: Nguyễn Trãi ông luôn tự coi mình là nhà Nho
điều này có ý nghĩa ông là một tri thức. Trong thời đại của Nguyễn Trãi là tri thức ai
cũng phải qua cửa Khổng sân Trình. Nho giáo từ Đông Chu đến thời Nguyễn Trãi đã trải
qua nhiều bước thăng trầm và được bổ sung bởi nhiều lưu phái khác nhau, nhất là Hán
Nho, Tống Nho, Nho giáo được du nhập vào Việt Nam cùng với gót dày của quân xâm
lược phương Bắc nhưng đẫ gặp phải sự phản ứng của nhân dân. Suốt hơn nghìn năm theo
học Nho giáo chỉ là những người tầng lớp trên, muốn thông qua học tập để thi đỗ và làm
quan với giặc. Trong hoàn cảnh đó, Nho giáo được coi như phương tiện nô dịch của bọn
cướp nước và kẻ bán nước chính vậy mà nó không thể phát triển sâu rộng như Phật giáo
và Đạo giáo. Đạo giáo đã hòa lẫn với tín ngưỡng cổ truyền của nhân dân và trở thành phổ
biến. Phật giáo với những khẩu hiệu “Từ bi, bắc ái” đã dễ tranh thủ được cảm tình của
người dân sống trong đau khổ áp bức. Sau khi đất nước được giải phóng khỏi ách nô
dịch, giai cấp phông kiến Việt đứng trước nhu cầu củng cố trật tự xã hội và xây dựng chế
độ thì Nho giáo lại là một công cụ tinh thần phù hợp trong thời điểm lịch sử đó.
Việc chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam cho xây dựng Văn Miếu, thành
lập Quốc Tử Giám, mở các khoa thi Tam giáo. Nho giáo dần được truyền bá rộng rãi và
trở thành môn học chính để đào tạo tri thức, đó là cách chủ động lựa chọn phù hợp mà
chính quyền phong kiến lúc bấy giờ thực hiện.
Nho giáo vào Việt Nam nó đã được biến đổi, trong hàng ngũ Nho giáo có những
người trí thức lỗi lạc, gắn chặt với Tổ quốc và nhân dân. Do biết suy nghĩ độc lập sáng
tạo đã vượt qua khuôn khổ thông thường của Nho giáo góp phần vào sự nghiệp chung.
Đó là trường hợp của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi ra đời trong một gia đình nhà Nho và được nuôi dưỡng bằng những
câu chữ của nhà Nho. Thân sinh ra Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh từng đỗ Tiến sĩ.
ông ngoại Trần Nguyên Đán đã từng đọc “vạn quyển sách” cả hai đều là những trí thức
nho học uyên bác. Trong khi được ông và cha dạy dỗ Nguyễn Trãi học được ở đó tâm
hồn cao đẹp của một kiểu nhà Nho. Học ở tấm lòng thương nhân dân đến bạc đầu “Bạch
đầu không phụ ái nhân tâm” (Trần Nguyên Đán: Nhân dân lục nguyệt tác). Học ở cha
“ngày giá rét muốn thổi cơn gió ấm vào lòng mọi người” (Nguyễn Phi Khanh: Xuân Hàn).
Với quan niệm học để “trọn nềm trung hiếu” , để biết “lo trước, vui sau”, để tầm
hồn “thanh cao trong sáng”, Nguyễn Trãi đã say mê trong “vườn chư tử, bể lục kinh” và
đã sớm nổi danh trong rừng Nho học:
Thanh niên phương dư ái Nho lâm
(Mạn chành I, số 79).
Khi 20 tuổi Nguyễn Trãi thi đỗ Tiến sĩ từ đó tiếp tục học tập và nghiên cứu. Khi
hứng thì “mở của Nho chở khách đến”. Trong âm quạnh thì “thiêu hương đọc ngũ kinh”.
Ông luôn nói đến trách nhiệm của nhà Nho. Sống làm thế nào cho đúng “Nho phong”,
làm quan nghĩ đến tư cách của “Nho thần”. Được ơn vua thì mừng cho “chiếu nhà Nho” được ấm.
Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở Nho học. Bộ óc vĩ đại này còn tiếp thu các kiến
thức đương thời như giáo lý Phật, tư tưởng Lão Trang…Cũng có người coi ông hư một
Phật tử, bởi ông hay viếng cảnh chùa, hay bàn luận và ngâm vịnh với nhà sư, có lúc bàn
về đạo Phật: “Bụt ấy là lòng, bụt há cầu” (Mạn thuật, số 30).
Nguyễn Trãi cũng đã làm hàng trăm bài thơ ca ngợi thú tiêu giao giữa cảnh trời
mây, trăng nước. Ông muốn làm bạn với chim hoa với suối rùng và mây núi. Ông cũng
coi bầu trời là bé nhỏ, coi cuộc sống là hư vô. Người ta cũng thấy phảng phất những lời
nói của Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử những ý hào phóng của Lý Bạch, Tô Thức, Phương Duy. [tr 24, 4]
Tri thức của Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại như vậy mà ông còn thừa hưởng
những di sản về khoa học quân sự được tích tụ từ Đinh, Lê, Lý, Trần và kết tinh ở Binh
thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn. Nguyễn Trãi còn nghiên cứu về nhiều mặt trong cuộc
sống đời thường như lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, nghề nghiệp…những hiểu biết
đó là cơ sở vững chắc đó được thể hiện trong cuốn Dư địa chí của ông.
Là người có tri thức cao và vốn hiểu biết rộng Nguyễn Trãi luôn suy nghĩ về trách
nhiệm và vinh dự của người tri thức:
Đầu tiếc đội mồn khăn Đỗ Phủ
Tài còn, lo ái cúc Uyên Minh
(Mạn thuật, số 31)
Nguyễn Trãi cũng nhắc đến Đào Tiềm về vườn hài cúc, Lầm Bồ thích “nuôi hạc,
trồng mai”. Dương Thực quen sống với “hạc rừng và vượn núi”. Tuy nhiên, ông không
thể đi ở ẩn như những người ấy. ông muốn làm việc gì có ích cho đời, để khỏi thẹn với
chiệc khăn Đỗ Phủ đội trên đầu. Nhưng khăn Đỗ Phủ mà ông “đội mòn” lại là cái khăn
mà mọi nhà Nho đều đội. Cũng cái khăn ấy, có người muốn thi đỗ để làm quan, đạt vinh
hoa phú quý, có người lại mong làm một điều gì đó ích lợi cho dân. Cùng một mục tiêu
“tu tề, trị bình”, có người mong muốn được cai quản đất nước, thống nhất, trị dân, có
người lại hiểu rằng phải rèn luyện bản thân, xây dụng gia đình thốt đẹp, góp phần đem lại
cuộc sống thanh bình cho tổ quốc và nhân loại [tr 26, 4]
Nguyễn Trãi khác hẳn các nhà Nho khác ở chỗ không những ông học rộng biết
nhiều mà còn suy nghĩ và sáng tạo. Giữa bối cảnh hoạn nạn của gia đình và đất nước,
trước những vấn đề phức tạp của xã hội, Nguyễn Trãi đã tìm ra được hướng đi đúng đắn
cho dân tộc, hiểu rỗ được đâu đúng, đâu sai, đâu mạnh, đâu yếu để từ đó xác định thái độ
và hành động của mình. Đó chính là điểm nổi bật mà ông vượt lên hẳn các nhà Nho khác
đương thời,trở thành người tiêu biểu cho khí phác và tinh hoa của dân tộc.
Từ truyền thống anh hùng của dân tộc: Cả cuộc đời Nguyễn Trãi trung hiếu là lẽ
sống nhưng ở ông lại mang một mầu sắc đặc biệt, mầu sắc của truyền thống dân tộc, quan
niệm của ông khác hẳn với quan niệm được rút ra từ sách vở của Nho giáo.
Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên giữa những ngày đen tối nhất. Tổ quốc độc lập
được xây dựng tự bao đời với bao xương máu của cha ông đã biến thành quận, huyện của
nước người. Đồng bào trên khắp mọi miền đang rên siết dưới sự bạo tàn của quân giặc,
nền văn minh Đại Việt hùng cường bị vùi dập, người tri thức Việt cùng với nhân dân
đang đứng trước những thử thách lớn lịch sử dân tộc. Là cháu ngoại của anh hùng
Nguyễn Trãi từ ngày còn thơ, sống giữa những truyền thuyết và chiến tích anh hùng
“Đoạt sao Chương Dương độ, cầm Hồ Hàm tử quan”, câu thơ đầy khí phách của cụ ngoại
Trần Quang Khải vang trong đầu óc ông trước khi ông đọc chữ “thành hiền”. Còn đó
sông Bạch Đằng, Vạn Kiếp nơi hàng ngàn chiến thuyền giặc đã bị đánh đắm giữa sông,
cách đó không lâu nhân dân đã ba lần đánh bại kẻ thù hung hăng nhất thế giới với vũ khí
của chúng vẫn đang còn xếp thành núi ở bên bờ. Với khí phách anh ùng ấy Nguyễn Trãi
viết Bình Ngô đại cáo, áng “thiên cổ hùng văn” vừa phản ánh sự nghiệp lẫy lừng của Lê
Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, vừa nối tiếp Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo thể hiện dũng khí của dân tộc Việt.
Nguyễn Trãi không những kết tinh truyền thống yêu nước của dân tộc, ông còn là
người đầu tiên cố ý thức sâu sắc về khái niệm nước và yêu nước. Nước của ông là nước
Đại Việt “vốn xưng nền văn hiến từ lâu”. Nước của ông lãnh thổ riêng biệt với “cõi bờ
sông núi đã chia”và “phong tục Bắc Nam cũng khác”. Nước của ông có một nền chính trị
riêng biệt, đã “cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi đằng làm đế một phương”. Nước
của ông là đỉnh cao của trí tuệ tài năng với những “Hào kiệt không bao giờ thiếu”. Với
quan niệm ngày nay những yếu tố như một cộng đồng hình thành trong lịch sử, có sự
thống nhất về lãnh thổ, kinh tế, chính trị , văn hóa để khẳng định chủ quyền riêng của một
đất nước đã được Nguyễn Trãi nhìn thấu cách đây gần 600 năm.
Chính với cái nhìn sâu sắc đi trước thời đại đó mà Nguyễn Trãi đã quan niệm thế nào là trung và hiếu.
Tư tưởng của Khổng giáo, trung là trung với ông vua của mình, trung là tận trung
với dòng họ của ông vua ấy. Khái niệm mất nước ở Trung Quốc là mất quyền tự trị của
một dòng tộc. Các nhà Nho thời xưa ở Trung Quốc không có ý thức về tổ quốc, họ đi hết
nước này sang nước khác, nơi nào dùng họ thì nơi ấy là tổ quốc. Người nào nuôi họ tử tế
thì họ thờ phụng, coi đó là trung. Họ là thực khách ở những nhà Mạnh thường quân, Bình
nguyên quân, Tín lăng quân hằng ngày được nuôi dưỡng rồi chờ dịp để báo đáp. Họ là
Yêu ly, là Kinh Kha, là Dự Nhượng, là Điểu Vi, họ sẵn sàng chết cho một người để đền ơn tri ngộ.
Trường hợp Ngũ Tử Tư được coi là “trung thần” ông ta thù gét tổ quốc đã sinh ra
ông là nước Sở. Ông ta trung với vua nước Ngô, ông vua xâm lược mà ông ta đã đưa về
để dày xéo chính quê hương ông.
Nguyễn Trãi, với truyền thống dân tộc, không bao giờ quan niệm trung với một
dòng họ. Tổ quốc, theo ông không phải là riêng của một triều đại nào cả, mà là của nhân
dân nước đó. Nhân dân bảo vệ tổ quốc của mình và ủng hộ bất cứ ai chiến đấu cho tổ
quốc đó, dù người là Thục Phán ở Cao Bằng xuống, dù người ấy là Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa
Lư ra, nhân dân đều ủng hộ nếu như họ chiến đấu cho Xã Tắc, Đinh, Lê, Lý, Trần các
dòng họ ấy đã từng nối tiếp nhau để xây dựng đất nước, họ đã tranh thủ được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân.
Khi Lê Hoàn thay thế nhà Đinh nhân dân đã không hề “phàn nàn” về sự chiếm
đoạt mà ngược lại chiến đấu quên mình dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn để đánh tan quân
Tống. Khi nhà Trần “cướp ngôi” nhà Lý nhân dân cũng không hề trách nhà Trần mà
ngược lại đã khắc chữ “Sát Thát” trên tay để chống quân Nguyên dưới sự lãnh đạo của
vua Trần. Khi nhà Hồ thay thế nhà Trần thì tình hình lại khác, các nhà Nho chịu ảnh
hưởng sâu sắc của Khổng Tử đã khư khư bảo vệ nhà Trần và lên án Hồ Quý Ly. Thậm
chí có những nhà Nho như Bùi Bá Kỳ đi cầu cứu nhà Minh và đón chúng về đánh nhà Hồ
và xâm lược đất nước. Cũng với quan niệm ấy sau này đại bộ phận nhà Nho cuối thời Lê
đã trung thành một cách mù quáng với Lê Chiêu Thống để đón quân Thanh về và nhiều
người đến phút cuối vẫn chống lại Quang Trung.
Khác với những nhà nho ấy Nguyễn Trãi suốt cuộc đời của mình chỉ phục vụ tổ
quốc chứ không chiến đấu cho một dòng họ riêng nào. Khi triều Trần ngày một suy thoái,
các vua Trần ngày một bạc nhược, không còn có đủ tài đức để bảo vệ và xây dựng đất
nước thì sự thay thế vua Trần bằng một người có tài có đức hơn là lẽ phù hợp, là tất yếu
của lịch sử, Nguyễn Trãi đã theo quan niệm ấy nên khi Hồ Quý Lý phế bỏ nhà Trần để
lên ngôi vua, ông cũng chẳng tiếc thương chi cho triều đại cũ mà đã cùng với cha mình là
Nguyễn Phi Khanh cộng tác với Hồ Quý Ly ngay từ buổi đầu. Tiếc rằng những cải cách
vượt thời đại của Hồ Quý Lý không được nhân dân ủng hộ, nhà Hồ nhanh chóng thất bại
và đất nước bị quan Minh xâm chiếm. Vấn đề trung hiếu đã được đặt ra với Nguyễn Trãi,
giặc Minh đã bắt vua và cha của ông giải về Trung Quốc. Theo đạo thờ vua, thờ cha,
đáng lẽ ông phải sống chết theo vua và cha, nhưng ông đã không làm như thế. Nhất trí
với lời dặn của cha ông đã quay về tìm đường cứu nước, cứu nhân dân coi đó mới thật sự
là đại trung, đại hiếu.
Trong thời điểm khắp cả nước có nhiều phong trào nổi dậy để đánh đuổi quân xâm
lược nhằm khôi phục nhà Trần hay nhà Hồ, nhưng Nguyễn Trãi đã không tham gia kể cả
những phong trào rộng lớn của các vua hậu Trần như Trần Quỹ, Trần Quý Khoáng…
Nguyễn Trãi đã không tin vào những ông vua này, bởi những vua ấy chỉ đại diện cho
quyền lợi của dòng tộc Trần chứ không phải sự nghiệp lâu dài của tổ quốc. Khác hẳn với
những nhà Nho đương thời, một bộ phận theo giặc, bộ phận khác đi vói các vua hậu Trần.
Nguyễn Trãi tìm đến Lê Lợi, môt người áo vải ở đất Lam Sơn. Người ấy không thuộc
dòng họ vua chúa nào, nhưng lại có khả năng tập hợp quảng đại nhân dân để giải phóng
đất nước. Không ngần ngại bản thân là cháu ngoại của nhà Trần lại là Tiến sĩ nho học
làm quan Ngự sử triều cũ Nguyễn Trãi đã tình nguyện suốt đời chiến đấu trung thành dưới cờ của Lê Lợi.
Từ sức mạnh của nhân dân: Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi Tổ quốc và nhân dân
là một. Nguyễn Trãi vĩ đại không chỉ là tình cảm sâu sắc với nhân dân mà ông còn nhận
thức được sức mạnh ghê gớm từ nhân dân. Con đường cứu nhân dân chính là con đường
nhân dân tự cứu. Sức mạnh của nhân dân là sức mạnh của nước. Nước có thể đẩy thuyền
đi, nhưng nước lại có thể lật đổ thuyền. Chiến thắng vĩ đại của nhân dân ta trong thời kỳ
chống quân Nguyên là do Trần Quốc Tuấn và các vua Trần biết dựa vào nhân dân và
động viên toàn dân chống giặc. Nguyễn Trãi đã phân tích sâu sắc sự thất bại của nhà Trần
sau này của nhà Hồ và của cả quân xâm lược nhà Minh đều do chỗ để mất lòng dân,
không được dân ủng hộ. Nhà Trần diệt vong chỉ vì “cậy mình giàu, mặc dân khốn khổ”,
“chỉ ham vui chơi, đắm đuối tửu sắc”, “nhân dân cam ghét mà không biết”, “lòng người
khiển trách mà chẳng kinh”. Nhà Hồ để mất nước là vì “dùng gian trí để cướp lấy nước,
lại lấy gian trí để hiếp lòng dân”, “thuế mà phiền, sưu dịch nặng, pháp luật nặng, hình
phạt nghiêm. Chỉ vì ích kỷ phì gia, chẳng nghĩ khổ dân hại nước”. Giặc Ngô thất bại vì
“không biết lấy khoan thay bạo mà càng tàn bạo thêm. Chuyên chém giết để ra oai, coi
mạng người như cỏ rác. Trói bắt vợ con của dân ta, đào lăng mộ của nước ta. Cấm cả
muối để dân không thức ăn, đòi gấm lụa để dân thiếu đồ mặc. Chính thì hà khắc, hình thì
thảm thương, dân không sống nổi”.
Nhận rõ sức mạnh của nhân dân. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã tập hợp nhân dân lao
động trong cả nước gắn bó mật thiết để đánh giặc, cứu nước.
Dựng gậy làm cờ, tập hợp bốn phương manh lộ
Rựu hòa nước lã, dưới một dạ cha con.
Nhìn rõ được sức mạnh của quần chúng nhân dân, Nguyễn Trãi một mặt tập hợp
và động viên quân ta, mặt khác thực hiện chiến lược công tâm đánh vào lòng địch. Tâm
công là vũ khí lợi hại nhất để đánh và chiến thắng. Chúng ta khi chống quân Minh tương
quan lục lượng rất chênh lệch, nhỏ chống lớn, ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Quân
Minh vào nước ta với nhiều tướng giỏi nguồn binh lực bổ sung lớn, 20 vạn quân chiến
đầu 60 vạn quân hậu cần, thường xuyên được tăng thêm lực lượng viện binh. Ngoài
những tướng giởi như Trương Phụ, Liễu Thăng còn có hàng chục đô đốc danh tiếng của
nhà Minh. Trong tình cảnh nói trên phía ta không chỉ phải chiếm lại thành trì, tiêu diệt
sinh lực địch mà còn hơn thế nữa là đè bẹp chí xâm lược của kẻ địch. Đây là một việc
làm vô cùng khó khăn mà chỉ riêng lực lượng quân sự thì không thể làm nổi. Công việc
khó khăn ấy Nguyễn Trãi đã làm được, công tâm đánh vào lòng người. Đối với tướng
lĩnh quân địch công tâm vạch ra nhận thức mơ hồ, tình cảm xấu xa, hành động đê hèn của
chúng làm cho chúng thấy thất bại mà sớm rút quân. Đối với quân sĩ địch, công tâm là
cho chúng thấy chính nghĩa và sức mạnh của ta, đi đến phản chiến và đầu hàng, cuối
cùng công tâm phải dập tắt được ý muốn xâm lược.
2. Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân
Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (1491), ở thời kỳ được coi là
thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng,
trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Cha của
ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa
hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến
sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh
khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài
giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi
luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định (người huyện Vĩnh Lại) là
người có tướng sinh quý tử.
Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam
Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành
phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa
đầu làng, chỉ qua con sông Hàn (Tuyết Giang) nối đôi bờ.
Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng
thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử
Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535)[3] và làm quan dưới triều
Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian
quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn
ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Người đời coi ông là nhà tiên tri số
một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn
từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người xứng đáng kế thừa và phát triển ngôn ngữ
thi ca dân tộc kể từ sau thời Nguyễn Trãi, góp phần giúp nó đạt đến mức độ hoàn thiện
cao dưới thời Nguyễn Du. Hai tập thơ của ông là Bạch Vân am thi tập (chữ Hán) và Bạch
Vân quốc ngữ thi tập (chữ Nôm) được coi là thành tựu lớn của thơ văn trung đại Việt
Nam, mở đầu cho một dòng văn học chạm chân vào hiện thực, đã mô tả xã hội dưới góc
nhìn đời tư và đời thường, là một cống hiến lớn của văn học thời Mạcđối với tiến trình
phát triển và hoàn thiện của văn học dân tộc.
Ngoại trừ quãng thời gian dưới 10 năm thời thơ ấu có thể xem là bình yên cuối triều Lê
Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống gần trọn thế kỷ 16, một thế kỷ nhiều biến
chuyển mang tầm ảnh hưởng chưa từng có trước đó trong lịch sử dân tộc, mà ông vừa là
nhân chứng vừa là nhân tố quan trọng tạo nên chúng. Là một người xuất thân từ tầng lớp
trí thức quan lại nhưng cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ coi việc làm quan
là lý tưởng cao nhất của sự nghiệp, cũng như là một nhà nhân đạo chủ nghĩa ông luôn đề
cao tư tưởng thân dân trong sách lược trị nước.
Ông cũng được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo,
hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ.
Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiếnMạc, Lê-
Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếp là phiến ngữ toàn tam tính) đã có
ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác
động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á trở về sau. Theo nhận
định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm có khả năng là người đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt về chủ quyền của đất nước
trên biển Đông (còn được gọi là biển Hoa Nam hay biển Nam Trung Hoa) ngay từ thế kỷ
16. Ông cũng có thể là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam – với tư
cách là quốc hiệu của dân tộc – một cách có ý thức nhất thông qua di sản thơ văn của ông
còn lưu lại đến ngày nay.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có
học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn
Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân
cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn (thuộc nhánh hậu duệ
người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm) ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại: "Phu nhân
hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế", qua đó cho thấy người mẹ Nhữ
Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ.
Thời niên thiếu và những năm biến loạn cuối đời Lê sơ. Đến tuổi trưởng thành,
nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa,
tỉnh Thanh Hóa ngày nay) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
cất công vào tận xứ Thanh để tầm sư học đạo. Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ
chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định triều chính
do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, Lương Đắc Bằng đã cáo quan về quê
sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học
hành nên chẳng bao lâu đã trở thành học trò xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi
vậy mà trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh
Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác người
con trai Lương Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ.
Thi cử và làm quan dưới triều Mạc. Lớn lên trong thời đại loạn (giai đoạn triều Lê
sơ rơi vào khủng hoảng, suy tàn), không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc
Bằng nên từ khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thí (1535), suốt hơn 20 năm, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay
cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều
Mạc). Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị
vương đạo nhất triều Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên, năm ấy
ông đã 45 tuổi. Ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư (chuyên
việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình) rồi sau được cử giữ nhiều chức vụ
khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng
sự qua đời đột ngột của Mạc Thái Tông vào năm Đại Chính thứ 11 khi mới 41 tuổi
(1540) đã kết thúc giai đoạn được coi là thịnh trị nhất dưới triều Mạc đồng thời Nguyễn
Bỉnh Khiêm cũng mất đi một chỗ dựa vững chắc cho việc thực hiện những hoài bão trị
quốc của mình. Nhân lúc triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái do Mạc Hiến
Tông (Mạc Phúc Hải) còn ít tuổi lên thay vua cha nhưng chưa đủ năng lực điều hành
chính sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần (trong đó có cả con rể của
ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam) nhưng không được vua chấp thuận. Bởi vậy,
năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan tại triều đình.
Sau hai năm về trí sĩ, tới năm Giáp Thìn (1544), vua Mạc lại cho người về phong
tước Trình Tuyền Hầu cho ông, rồi sau lại thăng ông lên chức Thượng thư bộ Lại, Thái
phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Một số
nhà nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nguồn gốc của tên gọi Trình
Tuyền (gắn với tước hiệu Trình Tuyền Hầu và Trình Quốc Công của ông) là bắt nguồn từ
tên địa danh của làng Trung Am từ trước chứ không phải là bắt nguồn từ họ tên người
theo ý hiểu rằng "Nguyễn Bỉnh Khiêm là người hiểu rõ suối nguồn Lý học của họ Trình
(tức Trình Di và Trình Hạo) đời Tống bên Trung Quốc".
Gần hai chục năm từ năm 53 tuổi tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở
hẳn kinh đô nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn quốc sự, lúc theo xa giá
nhà vua đi dẹp loạn, vua Mạc tôn kính ông như bậc quân sư. Những việc trọng đại nhà
vua thường sai sứ giả về hỏi (trong đó có lời khuyên nổi tiếng đã đi vào sử sách: Cao
Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài
được vài đời), có khi lại đón ông lên kinh để bàn việc, xong rồi ông lại trở về làng Trung
Am. Ngoài 73 tuổi, ông mới chính thức treo ấn từ quan, về quy ẩn nơi quê nhà. Trạng
nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải một người bạn lâu niên với Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm
thơ ca ngợi tài đức cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu
như "Lực phù nhật cốc trụ kình thiên" (năng lực phò vua như cột chống đỡ trời) hay "Tứ
triều huân nghiệp nhân trung kiệt" (một tay anh kiệt huân nghiệp trải bốn triều vua).
Trong những năm trí sĩ cũng như thời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã cho dựng
am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong,
Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học cạnh sông Tuyết (còn có
tên là sông Hàn). Vì vậy mà về sau các môn sinh tôn ông là "Tuyết Giang phu tử". Học
trò của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu
Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông).
Những năm cuối đời. Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên
niên (1585), ông tạ thế tại quê nhà ở tuổi 95, đây là tuổi thọ hiếm có đương thời. Trước
khi qua đời, ông còn dâng sớ lên vua Mạc: "... Thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy,
vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song nhân giả có thể hồi
thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng,
trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì
thần chết cũng được thỏa lòng". Bấy giờ vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng
vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Việc vua Mạc
cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân trọng rất lớn của triều
Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triều đình lại sai cấp ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời
cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn
trước đền thờ là "Mạc Triều Trạng nguyên Tể Tướng Từ".
Gia đình và hậu duệ. Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt
phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy
ba người vợ và 12 người con, trong đó có 7 người con trai. Cũng giống như cha, hầu hết
các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc. Bởi vậy sau khi nhà Mạc
bị thất thủ dưới tay nhà Lê-Trịnh (1592), con cháu ông đều phải thay tên đổi họ, li tán
thập phương. Một chi họ do người con trai cả của ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn
Chính đứng đầu đã di cư về vùng Trường Yên thuộc đất Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay và
đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Lúc sinh thời,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) dẫn người cháu đội bát
hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để trông
coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị Thục rồi về sau
tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên đất Tiên Lãng ngày nay.
Thể loại sáng tác.
Thơ chữ Hán: Bạch Vân am thi tập
Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một
nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đề tựa cho tập thơ chữ Hán của mình,
ông đã viết: "... Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy.
Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn
thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà
tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành
sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân" (Bạch Vân am thi tập tiền tự).
Thơ chữ Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi tập
Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công
Bạch Vân quốc ngữ thi tập), chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng
không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh
Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt
tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này.
Theo Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) của Vũ Khâm Lân,
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc.
Các thể loại khác: Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (cả chữ Hán và chữ
Nôm) còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia (bi ký)
nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh... Hầu hết
bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều
bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia
do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại
huyện Quỳnh Phụ của tỉnhThái Bình (nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa).
Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm kí Nôm thường
mang tên Trạng Trình (Sấm Trạng Trình) và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình
quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học
cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm.
Giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh
Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một
chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri... Nhưng ông cũng đồng thời là một tác
gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sáng tác
của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Nguyễn Bỉnh Khiêm
là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng,
tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển
của tiến trình văn học dân tộc.
Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt
phả ký soạn năm 1743, có đôi dòng nhận định về di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
"không cần gọt dũa mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà có nhiều ý vị... như
gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy". Danh sĩ thời nhà Nguyễn là Phan
Huy Chútrong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí ở phần Văn tịch chí cũng gần như
có chung quan điểm với Vũ Khâm Lân khi nhận xét về thơ văn Trạng Trình: "thanh tao,
tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên".
Như PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh (Viện Văn học) đã đánh giá, Nguyễn Bỉnh
Khiêm là nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam.
Về số lượng mà xét thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà quán quân. Tuy nhiên vấn đề
không chỉ là số lượng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một phong cách thơ riêng không lẫn.
Ai cũng biết một nguyên tắc thẩm mỹ quan trọng của thơ thời trung đại là "thơ ngôn chí",
nguyên tắc mà các nhà nghiên cứu hiện đại thường xem là làm hạn chế tính thẩm mỹ của
thơ và ngay các nhà thơ cổ cũng không phải đều nhất nhất tuân theo. Thế nhưng Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã tuân theo một cách "triệt để" và với một cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ.
Với ông, đề vịnh, tự sự, tự thuật cũng đều để ngôn chí, và phong cách riêng của ông cũng
được xác định chính từ những vần thơ ngôn chí ấy. Thơ văn của ông thể hiện sự ưu thời
mẫn thế, đậm chất triết lý, giáo huấn nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.
Theo đánh giá của GS. Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận "Bước đầu suy nghĩ
về Văn học Mạc", thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu cho sự khởi đầu của một
hình thức tư duy mới trong tiến trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam. Đó là tư duy
thế sự. Thơ vẫn mang tính trữ tình nhưng là "trữ tình lý trí". Nó mang hình thức không
phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên gọi là tư duy thế
sự. Bởi vậy thơ có tính phát hiện, hiện thực rất đáng kể. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu
vào các ngóc ngách của xã hội để thấy bức tranh phức tạp của xã hội mà bức tranh ấy
diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực. Vì là tư duy thế sự nên cũng
nhìn sâu vào tâm lý con người. Trong khi ở thời trước đó (điển hình là thời của Lê Thánh
Tông) mọi thứ trong xã hội đều được ước lệ hoá, công thức hoá, được mỹ hoá thành một
xã hội chung chung đâu cũng như nhau.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người xứng đáng kế thừa và phát triển truyền
thống thi ca dân tộc kể từ sau thời Nguyễn Trãi, góp phần giúp nó đạt đến mức độ hoàn
thiện cao dưới thời Nguyễn Du, đồng thời bổ sung vào đó đậm đặc hơn, chất triết lý, suy
tưởng và giáo huấn, để thơ trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh
hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng một cách sâu sắc, với cái nhìn khái quát của
một triết gia, trong đó có những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Giàu chất trí
tuệ, thơ ông là những khát vọng muốn khám phá những quy luật của thiên nhiên, xã hội
và của cả con người, nhằm tự vượt thoát ra khỏi những bế tắc của một thời và có ảnh
hưởng sâu sắc tới tận ngày hôm nay, cả về tư tưởng và nghệ thuật của thơ, cả về tầm vóc
văn hóa và nhân cách của một nhà thơ, được thể hiện rõ nét nhất qua Sấm ký Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Các học giả như GS. Nguyễn Huệ Chi (Viện Văn học) và PGS.TS. Trần
Nguyên Việt (Viện Triết học) có chung quan điểm khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là
người mở đầu cho tư duy biện chứng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam dưới cái nhìn mang
đậm tính triết học thể hiện qua thơ văn của ông.
Ngoài những sáng tác thơ ca còn lưu truyền, những văn bia do Nguyễn Bỉnh
Khiêm soạn và cho khắc đá không chỉ có giá trị về mặt lịch sử hay khảo cổ mà còn chứa
đựng nhiều giá trị về mặt tư tưởng cũng như nhân sinh quan của ông. Một trong số những
bài văn bia có giá trị nhất là bài đề tại quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn với
nội dung như sau: "... Tôi viết biển đề tên Quán Trung Tân. Có người hỏi tôi: Quán tên là
Trung Tân có ý nghĩa như thế nào? Tôi trả lời rằng: Trung là đạo trung, giữ được toàn
Thiện là Trung, trái lại thì không phải là Trung. Còn Tân là bến để đậu, biết chỗ bến đậu
đúng thì là bến chính, nếu đậu sai chỗ là bến mê... Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ chí
Thiện... Xin ghi vào đá để lưu lại lâu dài. Tháng Mạnh xuân, niên hiệu Quảng Hoà thứ ba
(1543) Tiến sĩ cập đệ khoa Ất Mùi (1535) Lại bộ Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ
Tư chính Khanh Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn" (Bản dịch của nhà sử học Ngô
Đăng Lợi). Qua bài văn bia này, ông không chủ trương trung với một cá nhân nào dù đó
là một ông vua, mà là trung với lẽ phải, với chân lý, với điều thiện và với nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.
Tiên tri và sấm ký. Sấm Trạng Trình , Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm , và Sấm ký:
Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần
kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không
còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình
Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý
học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức
Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình Quốc công. Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán
được biến cố xảy ra đến 500 năm sau, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên
tri" số một của Việt Nam.
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn gọi là "Sấm Trạng Trình" là những lời tiên tri
của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ
năm 1509 đến khoảng năm 2019). Đây là những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự
cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên "thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất
vả". "Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa" (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời
Lê mạt). "An Nam lý học hữu Trình Tuyền" (lời Chu Xán- sứ giả của triều Thanh). Sấm
ký, giai thoại và giải đoán chứa đựng nhiều thú vị về một trí tuệ bậc Thầy kỳ tài muôn
thuở, nặng lòng yêu nước thương dân và sâu sắc hiếm thấy.
Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu "cảm đề" và 248 câu "sấm ký". Đây là
bản trích ở bộ "Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển" (tập 2) của Trịnh Văn Thanh –
Sài Gòn – 1966. Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên
quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã
hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội và 13 tựa sách
quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948 đến nay. Bản tiếng quốc ngữ phát
hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930
mà hiện nay vẫn chưa tìm được.
Sấm ký gắn với những giai thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm ký
hiện đã được giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật- dự đoán học trong
Kinh Dịch và Thái Ất thần kinh". Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử về Sấm
Trạng Trình đã được giải mã.
Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua Phật Trần Nhân Tông (1258- 1308) là người rất
coi trọng phép biến Dịch. Người đã viết trong "Cư trần lạc đạo":"Kinh Dịch xem chơi,
yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng
kim". Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với "Thái Ất thần kinh","Sấm ký","Bạch Vân
Am thi văn tập", "huyền thoại và di tích lịch sử" đã lưu lại cho dân tộc Việt Nam và nhân
loại một tài sản văn hoá vô giá.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc,
Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía
nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là "khả dĩ dung
thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo
và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất
cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiển, khả diên
số thể" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ
được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết
không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người
đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa
thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe
theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức
là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành
chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn
nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong".
Theo một số nhà sưu tầm và nghiên cứu, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã
được Trạng Trình dự báo qua câu thơ: "Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi
vào Thăng Long". ở câu 1, "đầu Thu" là tháng 7 Âm lịch, "gà" nghĩa là năm Ất Dậu, thời
điểm sự kiện diễn ra, "gáy xôn xao" nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người. Ở
câu 2, "Trăng xưa" nghĩa là "cổ nguyệt" theo Hán tự, ghép lại thành từ "hồ", là họ của Hồ
Chí Minh. "Sáng tỏ soi vào Thăng Long" là sự kiện Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc
lập ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội.
Những đóng góp trong tiến trình phát triển của ngôn ngữ văn chương và lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Là một trung thần của nhà Mạc, triều đại đối địch hoàn toàn với quyền
lợi của các dòng họ thế lực Lê-Trịnh-Nguyễn (vốn cùng phát tích từ xứ Thanh) của nhà
Lê trung hưng và cả nhà Nguyễn về sau, bởi vậy sau khi nhà Mạc thất thủ (1592), sự
nghiệp cũng như di sản văn hóa của Nguyễn Bỉnh Khiêm không tránh được cái nhìn thiên
kiến của đại bộ phận những sử gia, học giả dưới thời cai trị của các họ Lê-Trịnh rồi họ
Nguyễn trong nhiều thế kỷ. Như nhà nghiên cứu Trần Khuê (Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh
Khiêm và Vương triều Mạc, 1991) đã lưu ý: "...Cũng như việc Lê Quý Đôn ghi đủ loại
chư thần và nghịch thần, và trong Kiến văn tiểu lục, mục Tài phẩm (tài năng và phẩm
hạnh), ông ghi mấy chục danh nhân kể cả một số người đã làm quan với “ngụy Mạc” như
Lễ bộ thượng thu Hà Nhậm Đại, nhưng tài năng, phẩm hạnh, hành trạng… của Lại bộ
thượng thư Thái phó Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ông không ghi chép. (Có
những nhân vật ít nổi tiếng như Lê Bá Ly mà Lê Quý Đôn ghi về tài năng phẩm hạnh 2
trang giấy đặc tới hơn 500 chữ, một số nhân vật khác cũng còn được một vài trăm chữ.
Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm thì không được ghi tiểu truyện). Lê Quý Đôn chỉ ghi về
Nguyễn Bỉnh Khiêm rất sơ sài: Một lần ghi về thi đỗ, một lần ghi về “trí sĩ”, một lần ghi
về “tên tác phẩm”. Thế thôi? À, có thêm một lần ông ghi ý kiến của Chu Xán về Nguyễn
Bỉnh Khiêm: “Hồi đầu niên hiệu Khang Hy, nhà Thanh sai Minh Đồ và Chu Xán sang
nước ta sách phong, lúc ấy là năm Chính Hòa thứ tư (1683)." Những cái nhìn theo hướng
như vậy cũng được phần lớn giới nghiên cứu hiện đại ở Việt Nam duy trì cho tới đầu thập
niên cuối cùng của thế kỷ 20. Trong suốt một thời gian dài cho tới cuối thập niên 1980,
cách đánh giá của giới nghiên cứu “chính thống” tại Việt Nam về sự nghiệp và tác phẩm
của Nguyễn Bỉnh Khiêm bị ảnh hưởng lớn bởi cái nhìn thiên kiến về vai trò lịch sử của
vương triều Mạc bắt đầu từ thời Lê trung hưng (1533) cho tới tận trước thời kỳ Đổi Mới.
GS. Vũ Khiêu trong bài viết “Kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Những vấn đề khoa học trong nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm” (1985) đã có những đánh
giá mang tính tổng kết về những đóng góp quan trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong
dòng chảy của lịch sử thơ văn Việt Nam: “...Trước hết, phải thấy rằng suốt bao nhiêu thế
kỷ học chữ Hán và làm thơ bằng chữ Hán, các nhà trí thức Việt Nam trước những khó
khăn về ngôn từ và thể loại đã lẩn tránh việc cố gắng làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ. Trước sự
sáng tạo của Nguyễn Thuyên, sự quan tâm đặc biệt của Nguyễn Trãi, thành quả bước đầu
của Lê Thánh Tông và nhóm Tao Đàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã suốt cuộc đời dành bao
tâm huyết để làm thơ bằng tiếng Việt. Không chỉ nói với đồng bào mình những điều
muốn nói. Ông cũng như Nguyễn Trãi đã đem hết nhiệt tình xây dựng nền văn học dân
tộc mà lòng yêu nước và óc tự cường đã hằng ngày thôi thúc các ông. Với một di sản lớn
lao mà ông để lại, thơ Nôm của ông đã đánh dấu một chặng đường quang vinh trong lịch
sử văn học Việt Nam. Thơ văn ông vừa mang những nét mộc mạc và rắn chắc của thơ
Nguyễn Trãi, vừa tiếp thu truyền thống trau chuốt và nhuần nhuyễn của thơ Lê Thánh
Tông và nhóm Tao Đàn. Thơ của ông chính là sự chuẩn bị cần thiết cho sự phát triển rực
rỡ của thơ Nôm thế kỷ XVIII. Có lẽ đầy lòng tự hào về tinh hoa và tiềm năng của dân tộc
trong thơ ca dân gian Việt Nam mà ông đã đưa vào tràn ngập trong thơ ông những lời đẹp
nhất của ca dao, tục ngữ. Thơ của ông hướng vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân mà
ông gần gũi và yêu quý. Có lẽ vì thế mà thơ Nôm của ông ít những lời sáo rỗng về phong,
hoa, tuyết, nguyệt, mà lại đi vào lòng người với những nét rất thân thương của những đồ
đạc, những rau cỏ, những chim muông gặp gỡ hằng ngày... Phải chăng vì gần gũi với đời
sống như thế, ông đã thuộc tên từ cụ già đến trẻ em, đi vào niềm vui và nỗi lo của từng
người, và từ đó đưa vào thơ một tính nhân dân sâu sắc... Di sản văn học của Nguyễn Bỉnh
Khiêm là tấm gương soi của xã hội ông, của cuộc đời ông.”
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc trong một bài phân tích cụ thể về phong cách thơ ca của
Nguyễn Bỉnh Khiêm đăng trên Tạp chí Sông Hương (số 35, T.1&2-1989) đã nhận định:
“...Ông là một ẩn sĩ nhưng không phải một ẩn sĩ Ấn Độ chạy vào núi sống để thờ thần
linh, không phải một ẩn sĩ Trung Quốc quay lưng với chính trị, tự thổi phồng mình, tự
tôn thờ mình. Thơ ông chẳng có gì là huênh hoang của thơ triết lý Trung Quốc. Ông quay
về sống trong vòng tay của làng mạc họ hàng, dạy học trò, bình dị, khiêm tốn, như cha
ông chúng ta... Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế. Con người lỗi lạc về lý học đến
mức sứ thần Trung Quốc là Chu Xán phải phục chẳng hề nhắc đến một thuật ngữ lý học:
tính, khí, ly, tâm... Nhân vật mà truyền thuyết nâng lên địa vị một tiên tri, biết trước hậu
thể năm trăm năm chẳng hề nói bóng gió gì đến hậu vận. Ông trạng nguyên hay chữ nhất
nước chẳng thiết gì đến chữ nghĩa, điển tích từ chương. Con người được cả thời đại tôn
sùng chẳng buồn nhắc tới danh tiếng của mình. Thậm chí ông không nhắc đến cá nhân
mình. Đây là một phong cách lạ, trước ông không có mà sau ông cũng không. Nhưng ông
hiểu được cái bí quyết để giành được lòng tin của hậu thế. Phải gạt bỏ mọi "bánh vẽ" của
cuộc đời (công danh, chức tước, chữ nghĩa, trang tức) để xuất hiện giản dị và chân thành.
Không rên la, thậm chí không thở dài, không đóng vai một người thuyết phục, giáo dục.
Hãy quên cái con người của cương vị xã hội (bằng tôi, nhà sư, nho sĩ...) để làm con người
trong lòng mọi người. Chính vì vậy thơ ông lần đầu tiên trong văn học ta nói với mọi
người. Nếu muốn nói đến ý nghĩa triết học của thơ ông thì nó là ở đấy... Thơ của Nguyễn
Bỉnh Khiêm không phải loại thơ đọc để nhìn, để nghe. Ông là con người duy nhất của
văn học ta chủ trương một đường lối nghệ thuật riêng: nghệ thuật là để giúp con người
tìm lại được chính mình, chân thành với mình và với xã hội. Khi nào ta hiểu được nhu
cầu ấy, ta sẽ biết ơn phu tử và sẽ hiểu được giá trị của nhà thơ kiệt xuất.” (Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua một bài thơ, Tạp chí Sông Hương, 1989)
Như PGS. Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học) đã đánh giá: “Bên cạnh nhiều tác gia văn
học lớn ở thế kỷ XVI như Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng, Hà Nhậm Đại, Phùng Khắc
Khoan,Hoàng Sĩ Khải..., Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi lên như một hiện tượng văn hoá tiêu
biểu, một “cây đại thụ” văn hoá dân tộc thế kỷ XVI. Tư cách tác gia văn học - “cây đại
thụ văn hoá” thể hiện trước hết trên phương diện số lượng tác phẩm, mức độ thâu thái các
giá trị văn hoá tinh thần thời đại cũng như khả năng kết hợp giữa việc tinh lọc, nâng cấp
vốn tri thức bác học với việc phổ cập, tạo ảnh hưởng trong toàn bộ đời sống xã hội...
Nguyễn Bỉnh Khiêm là sản phẩm văn hoá điển hình của thế kỷ XVI - một thế kỷ nặng về
chinh chiến và nhiều biến động nên phải lựa chọn một phương thức ứng xử văn hoá khả
dĩ có thể đáp ứng được nhu cầu đời sống tinh thần vốn muôn phần phức tạp. Trên nhiều
phương diện, ông trở thành thước đo thực trạng đời sống tinh thần dân tộc ở một chặng
đường lịch sử, cây đại thụ văn hoá toả bóng xuống cả thế kỷ. Một mình ông buộc phải
đóng nhiều vai diễn. Đồng thời với vốn kiến thức cao siêu, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại vẫn
bộc lộ cái nhìn nhân ái, dân dã, hoà đồng với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá, làng thôn, trăng
trong gió mát. Điều này góp phần giải hoà dòng thơ duy lý, khơi mở nguồn cảm hứng
nghệ sĩ thanh cao. Điều cũng rõ ràng là mặc dù mang trong mình đầy những lẽ bất cập do
hoàn cảnh thời đại quy định song Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn hiện diện như một nhân cách
lịch sử chói sáng, một cây đại thụ văn hoá chính bởi sự kết tinh vốn kiến thức sâu rộng
trên cơ sở một tấm lòng chính trực, gắn bó sâu sắc với cội nguồn văn hoá dân tộc. Ông là
hiện thân của mĩ học phong kiến cả trên phương diện nhân văn lẫn mặt hạn chế của nó.”
Nhân kỷ niệm 425 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ Trần Nhuận Minh
(Ủy viên Hội đồng Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam) trong bài viết “Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Nhà thơ lớn bóng trùm nhiều thế kỷ” (Báo Hải Dương Điện tử, 2010) đã phân tích một số
điểm nổi bật trong di sản thi ca của ông: “Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhà
thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động
tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến
trình văn học dân tộc. Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là
có khoảng 1.000 bài, nay còn khoảng 700 bài. Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc
ngữ thi tập, chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, chúng ta không biết có
bao nhiêu bài, hiện còn khoảng 170 bài, trong đó vài chục bài lẫn với thơ Nôm Nguyễn
Trãi(1380-1422)... Ông đã kế thừa xứng đáng truyền thống thơ Lê Thánh Tông, đặc biệt
là thơ Nguyễn Trãi và bổ sung vào đó, đậm đặc hơn, chất triết lý, suy tưởng và giáo huấn,
để thơ trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh hiện thực đời sống và
hiện thực tâm trạng sâu nặng lẽ đời, với cái nhìn khái quát của một triết gia, trong đó có
những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Giàu chất trí tuệ, thơ ông là những khát
vọng muốn khám phá những quy luật của thiên nhiên, xã hội và của cả con người, nhằm
tự vượt thoát ra khỏi những bế tắc của một thời và có ảnh hưởng sâu sắc tới tận ngày hôm
nay, cả về tư tưởng và nghệ thuật của thơ, cả về tầm vóc văn hóa và nhân cách của một
nhà thơ Trong thơ Việt Nam, có lẽ ông là người sáng lập ra loại thơ diễn giải minh họa
và tuyên truyền, mà sau này ta thấy càng ngày càng phổ biến trong nền thơ hiện đại, chảy
thành một dòng lớn trong thơ Việt Nam thế kỷ thứ XX, với nhiều tác phẩm xuất sắc của
những tên tuổi lớn... Đặc biệt, lẽ đời, nhân tình thế thái, được ông trình bày vô cùng đa
dạng, phong phú, có đủ các mùi vị, sắc thái. Đây là một đóng góp đặc sắc và có thể nói là
độc đáo của ông trong thơ Việt Nam, tạo thành một từ trường, khiến ông trở thành một
trong những ngọn núi lớn của thi ca dân tộc. Ở đây, màu sắc triết học đã tan vào cảnh vật
và tâm trạng, làm cho nó có sức lan tỏa xa rộng, bền vững lâu dài. Nhiều câu thơ của ông
ở loại này đã trở thành danh ngôn, thành ngạn ngữ, có cuộc sống riêng, độc lập với chính
người đã sinh ra nó. (...) Một nội dung quan trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là chữ
“nhàn”. Chữ “nhàn” cũng đã xuất hiện trong thơ Chu Văn An, Nguyễn Trãi và một số
nhà thơ khác. Đây là một xu hướng sáng tác văn chương của các sĩ phu ở nhiều thời kỳ,
thể hiện sự bất hợp tác với chính quyền phong kiến và sự phủ nhận hiện thực thối nát của
xã hội đương thời. Vì thế, giá trị khách quan của nó là tích cực. Trong thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm, chữ “nhàn” trở thành một ám ảnh nghệ thuật, bởi nó không chỉ bộc lộ những tâm
trạng riêng của ông, gắn liền với thời cuộc, mà còn thể hiện một quan niệm triết học của
ông, một cách ứng xử của ông trước cuộc đời. Nội dung chữ “nhàn” trong thơ ông phức
tạp hơn các nhà thơ khác, và nét chủ yếu không phải là tiêu cực mà là phép hành tàng của
nhà nho trong lẽ xuất xử trước thời cuộc mà thôi.”
Nhìn trong toàn bộ tiến trình phát triển và hoàn thiện thơ văn chữ viết của Việt Nam,
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đi đầu trong việc khai phá một số chức năng mới, hình
thức tư duy mới của thơ văn trung đại Việt Nam, đánh dấu một bước tiến quan trọng so
với các thời kỳ trước ông, bằng cách bổ sung vào dòng chảy thơ ca dân tộc những đặc
tính còn khá mới (hoặc chưa từng được quan tâm đúng mức ở những thời kỳ trước ông)
như tính triết lý, tính thế sự và tính trào phúng được vận dụng linh hoạt bên cạnh tính trữ
tình vốn quen thuộc. Và như vậy, ông là người có công khơi mở những hướng đi mới,
những hướng tư duy mới cho nhiều tên tuổi nổi bật của thơ văn dân tộc ở các thế kỷ sau.
Sự chuyển biến về nhận thức và ứng xử chính trị của giới trí thức phong kiến Việt
Nam. GS. Nguyễn Huệ Chi (Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc) đã khái quát: “Một
trong những đặc điểm nổi bật của văn học thời Mạc là thời đại này đã bước đầu xây dựng
nên hình tượng con người tự do. Ở thời đại Lê sơ vì lực hút của triều đình phong kiến,
Nho giáo độc tôn mạnh, nên gần như hút về tâm là quỹ đạo chủ đạo. Đến một Nguyễn
Trãi vĩ đại là thế mà khi bị ruồng rẫy về Côn Sơn bao giờ lòng cũng đau đáu nghĩ đến
vương triều, hễ được vời ra thì ra lại ngay. Đến thế kỷ XVIII lại có một hiện tượng ngược
lại là người ta bỏ chạy khỏi triều đình, bỏ chạy để về sống ẩn, chỉ có mình với mình. Đây
là thời đại ly tâm. Vào thời đại Mạc thế kỷ XVI thì khác, người ta không bị hút về tâm
nữa nhưng cũng không hẳn ly tâm, nhờ đó tạo nên chính sự tự chủ cho người thức giả.
Mình muốn ra thì ra, muốn về thì về, biểu trưng rõ nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn
Bỉnh Khiêm ra thi với Mạc rồi sau 7 năm, thấy cần phải xuất thế ông bèn chủ động rút
lui, bấy giờ Mạc vẫn chưa suy thoái. Về một thời gian ông lại ra giúp. Chính phong thái
ung dung chủ động kia đã tạo nên tiếng nói tự do, tự tại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và
thơ văn của rất nhiều người như Nguyễn Hãng, Nguyễn Dữ… Dòng mạch tư duy tự do tự
tại quy tụ nên hình tượng con người không bị lệ thuộc trăm phần trăm vào quyền lực nữa
mà ít hay nhiều đã là con người giải thoát. Cần phải thừa nhận rằng trong cái nhàn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm có một phương diện gọi là tự tại. Nhàn ở đây không là ẩn, chưa phải
xã hội thối nát đến mức mình không thể chấp nhận nổi mà trở về chăm nom vài luống
cúc, hoặc lẩn trốn vào cửa thiền, hoặc tìm quên trong thú vui cần câu, chén rượu. Nhàn,
bởi mình cảm thấy phải làm chủ cuộc sống của mình, cho nên tự mình trở về an nhàn
nghỉ ngơi. Nhưng khi nhà Mạc kêu gọi đi đánh bọn phản loạn thì Nguyễn lại hăng hái ra
giúp. Nhàn trong trường hợp này là nhàn tự tại. Nhàn tự tại chính là nét khác với nhàn ở
nhiều thời đại khác là thứ nhàn chỉ muốn lánh đục, lánh triều đình, “dũng thoái”. Nhàn tự
tại không cố chấp mà hồn nhiên hơn.”
Như nhà phê bình Đỗ Lai Thúy trong bài tiểu luận “Nguyễn Bình Khiêm, lựa chọn
như một lối ứng xử” (Tạp chí VHNT số 334, tháng 4-2012) đã nhận định, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, xét về mặt loại hình nhân cách hoặc mẫu người văn hóa có thể xem là điểm trung
gian trong sự biến chuyển từ mẫu nhà nho - con người quân tử như Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông... sang mẫu nhà nho - con người tài tử như Nguyễn Du, Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát… Nhưng khác Nguyễn Trãi ở chỗ Ức Trai sống vào giai đoạn Nho
giáo chưa chính thức trở thành quốc giáo, chưa lên ngôi chính thống, độc tôn. Và khác Lê
Thánh Tông ở chỗ Nho giáo thời Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy vẫn là chính thống, vẫn là độc
tôn, nhưng đang suy vi vì chiến tranh, đất nước bị chia cắt, nhân dân cực khổ và nổi loạn.
Nhà nho quân tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, vì thế, có những nét mới, đặt ra những vấn đề
mới. Với một nhà nho quân tử, vấn đề cốt yếu, mang tính lý tưởng vẫn là trung thành với
nhà vua chính thống (trung thần bất sự nhị quân). Nhưng ở thời Nguyễn Bỉnh Khiêm, các
khái niệm “vua” và “nước” (cũng như giữa “vương triều” và “quốc gia”, “quyền lợi gia
tộc” và “quyền lợi dân tộc”) không còn trùng khít nữa, quyền lợi của vua mâu thuẫn với
quyền lợi của dân, nên việc trung thành với một ông vua ngu tối (hôn quân) sẽ trở thành
ngu trung: vấn đề chọn chủ được đặt ra. Sự lựa chọn này trở thành một vấn đề trí thức bắt
đầu từ Nguyễn Bỉnh Khiêm với Lê – Mạc, sẽ kéo dài với bao người khác trước sự phân
tranh Trịnh – Nguyễn, Tây Sơn – Nguyễn Ánh… Ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm về
sau đã trở thành một trong những khuôn mẫu cho nhiều thế hệ nhà nho, trí thức... trong
xã hội Việt Nam. Việc Nguyễn Bỉnh Khiêm ra ứng thí dưới triều “ngụy” Mạc, rồi làm
quan lớn, rồi tòng chinh theo vua Mạc đánh dẹp “loạn quân”, trong đó có cả dòng dõi nhà
Lê-Trịnh-Nguyễn, đã gây nhiều băn khoăn, thắc mắc ở những đầu óc phò “chính thống”.
Thế mà Nguyễn Bỉnh Khiêm làm tất cả những điều ấy không hề có một mặc cảm “ý thức
hệ” nào, với một trạng thái nhận thức gần như cao nhất trong mọi cách hành xử của bản thân ông.
Trong bài viết “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sự chuyển biến về ứng xử chính trị của trí
thức Việt Nam”, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh đã có những phân tích về cách hành xử
của Nguyễn Bỉnh Khiêm trước thời thế, như là hình mẫu khởi đầu cho một quá trình
chuyển biến thực sự về nhận thức cũng như hành động của giới trí thức - nho sĩ trong lịch
sử phong kiến Việt Nam:...Rõ ràng, với Nguyễn Bỉnh Khiêm, giới nho sĩ - trí thức Việt
Nam đã đạt tới một trình độ nhận thức cũng như khả năng ứng xử chính trị cao hơn so
với thời gian trước đó. Sự phân biệt vương triều chính thống với văn hóa truyền thống
nơi họ đã minh bạch hơn trước, điều này giúp họ vươn lên thành tầng lớp thể hiện và
phản ảnh không những quyền lợi và tương lai của đất nước mà còn cả lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân. Cần nói thêm rằng với nhân cách và bản lĩnh chính trị của ông,
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ mới đứng trong chặng đầu của quá trình chuyển biến toàn
diện có thể coi như một trào lưu lịch sử về tập quán ứng xử chính trị của trí thức Việt Nam thời phong kiến....
Xuất hiện ở một thời kỳ khủng hoảng của thể chế quân chủ và suy thoái của tầng lớp
thống trị, sự chuyển biến về ứng xử chính trị của trí thức Việt Nam thời Nguyễn Bỉnh
Khiêm là một tất yếu lịch sử. Trong giới hạn những điều kiện cụ thể của thời đại mình,
với chuyển biến ấy, họ đã giữ được vị trí và vai trò truyền thống trong sinh hoạt chính trị
của đất nước, vị trí và vai trò đã được lịch sử xác nhận qua truyền thuyết về việc “làm
thầy” cho cả ba tập đoàn Mạc, Lê-Trịnh và Nguyễn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dĩ nhiên,
bên cạnh sự chuyển biến nói trên, một quá trình phân hóa toàn diện về tư duy và học
thuyết chính trị cũng diễn ra trong nội bộ giới trí thức, nhưng nhìn chung thì sự phân hóa
này lại tạo điều kiện cho họ qua thực tiễn nhận thức và hoạt động của mình phản ảnh và
thể hiện được chính xác hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn các quá trình xã hội trong lịch sử
của đất nước cũng như những trào lưu tư tưởng trong đời sống của dân tộc. Đó có lẽ còn
là sự chuẩn bị của lịch sử cho người trí thức Việt Nam thích ứng được với những xử cảnh
chính trị đặc biệt kiểu “Đã có vua lại có chúa” của chính quyền Lê-Trịnh ở Đàng
Ngoài hay tự xưng là Thiên vương song “vẫn theo chính sách nhà Lê” của các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ XVII-XVIII. Hơn thế nữa, với một Trình quốc công
Nguyễn Bỉnh Khiêm của nhà Mạc “ngụy triều” rồi một Hoằng quốc công Đào Duy
Từ của họ Nguyễn cát cứ, người trí thức Việt Nam đã chứng tỏ được rằng họ hoàn toàn
có khả năng kế thừa truyền thống cũng như thi thố tài năng mà không nhất thiết phải
ghép mình vào với vương triều chính thống. Theo thời gian, bước trưởng thành về ứng xử
chính trị ấy sẽ dần dần được khẳng định, góp phần tạo ra một truyền thống dân chủ chính
trị nơi những người trí thức Việt Nam ngày trước, truyền thống đã đem lại cho lịch sử
Việt Nam những Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích trong triều đại nông dân Tây Sơn cuối thế
kỷ XVIII và một Cao Bá Quát với ngọn cờ Vũ Thang “Điếu dân phạt tội” ở miền Bắc
năm 1851 rồi những Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huân Nghiệp dưới
ngọn cờ cứu nước “chẳng nghe Thiên tử chiếu” ở Nam Kỳ sau Hòa ước 1862.
Sự tự do tư tưởng trong việc chọn lựa con đường sự nghiệp và cách ứng xử linh hoạt
trước những biến chuyển thời thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm (toàn tâm đi theo nhà Mạc
đến cuối đời, một triều đại bị coi là “ngụy triều” tiếm ngôi theo quan điểm Nho giáo
truyền thống, mà không theo nhà Lê sơ “chính thống” hay nhà Lê trung hưng sau đó
được nhiều nho sĩ đương thời ủng hộ) có thể ít nhiều đã ảnh hưởng đến sự chọn lựa bước
đường công danh của các học trò ông như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh (cả hai
đều theo nhà Lê trung hưng thay vì nhà Mạc).
Với tư cách một nhà dự báo, hoạch định chiến lược. Sách lược phân vùng ảnh hưởng
địa chính trị. Nguyễn Bỉnh Khiêm được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư
cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước
thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các dòng
họ Mạc, Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếp là phiến ngữ toàn tam
tính) đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với cỗ xe tiến trình của lịch sử
Việt Nam (trong đó bao gồm quan hệ Việt Nam – Trung Quốc) và từ đó tác động lớn
tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á từ thời kỳ trung đại (thế kỷ 16) trở về sau.
Cho đến nay vẫn tồn tại những luồng quan điểm khác biệt về tính xác thực của những
lời cố vấn nổi tiếng không chỉ được ghi trong sử sách mà cũng được truyền tụng rộng rãi
trong dân gian về tài tiên đoán, dự báo đi trước thời đại của Nguyễn Bỉnh Khiêm dành
cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, Lê-Trịnh, Nguyễn đương thời. Không ít nhà
nghiên cứu phủ nhận việc Nguyễn Bỉnh Khiêm (vốn là một trung thần của nhà Mạc) lại
có thể sẵn lòng bày kế cho các họ Lê, họ Trịnh hay họ Nguyễn, vốn là những thế lực đối
địch hoàn toàn với họ Mạc. Nhưng xét một cách khách quan và công bằng thì những lời
khuyên đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm không xung đột lợi ích với nhau. Đúng như danh sĩ
Nguyễn Thiếp sống thời nhà Tây Sơn đã ca ngợi: “phiến ngữ toàn tam tính”, nghĩa là lời
nói ngắn gọn mà bảo toàn lợi ích cho cả ba họ. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng những lời
“mách nước” đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là giai thoại hay truyền thuyết, cũng như
quan điểm của nhiều người về nguồn gốc sấm truyền của Trạng Trình chỉ là sáng tác của
dân gian hay người đời sau mà thôi. Nhưng có một thực tế là chúng đã được ghi lại trong
không ít sử liệu cũng như được lưu truyền qua nhiều đời con cháu của một số dòng họ có liên quan.
Theo Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn: “Vua Lê
Trung Tông (1549 - 1557) không có con nối ngôi, đại thần bàn định xem nên lập ai,
nhưng chưa quyết được, mới sai người đến hỏi (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Ông không đáp và
bảo người nhà rằng: Năm nay đã mất mùa, sao không mau tìm thóc giống cũ mà đem
gieo trồng cho kịp thời vụ. Bề tôi nhà Lê suy ý lời nói ấy, bèn quyết kế rước lập vua Anh
Tông”. Rồi việc “Khi Trịnh Tùng lăng loàn, có dị chí, ngầm sai người hỏi Nguyễn Bỉnh
Khiêm về số phận nhà Lê còn dài ngắn như thế nào? Ông không đáp bỏ ra chùa chơi, giả
bộ giận các nhà sư bất cẩn, trách mắng rằng: Ngạn ngữ có câu “thờ Phật ăn oản, không
biết thờ Phật thì mong gì được ăn oản”. Trịnh Tùng nghe nói mới thôi không cướp ngôi
nhà Lê nữa”. Hay như việc “Đức Thái tổ Hoàng đế triều ta (Nguyễn Hoàng) luôn bị họ
Trịnh chèn ép bức bách, muốn dời đi nơi khác, đã sai người đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm,
ông trả lời: Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân (nghĩa là: Một dải núi ngang có thể
dung thân muôn đời được). Sau bản triều xây dựng cơ nghiệp ở miền Nam, lời ông quả ứng nghiệm”.
Sử liệu Đại Nam thực lục (cũng do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn) cũng ghi
việc Nguyễn Bỉnh Khiêm “mách nước” cho Nguyễn Hoàng mở về phương Nam: “Đến
khoảng năm Thuận Bình đời Lê Trung Tông, do quân công được tiến phong Đoan quận
công. Bấy giờ Hữu tướng triều Lê là Trịnh Kiểm (bấy giờ xưng là Lượng quốc công) cầm
giữ binh quyền, chuyên chế mọi việc. Tả tướng là Lãng quận công Uông (con trưởng
Triệu Tổ) bị Kiểm hãm hại. Kiểm lại thấy chúa công danh ngày càng cao nên rất ghét.
Chúa thấy thế, trong lòng áy náy không yên, cùng bàn mưu với Nguyễn Ư Dĩ rồi cáo
bệnh, cốt giữ mình kín đáo để họ Trịnh hết ngờ. Chúa nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm
(người làng Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều Mạc, làm đến chức Thái
bảo về trí sĩ) giỏi nghề thuật số, nên ngầm sai người tới hỏi. Bỉnh Khiêm nhìn núi non bộ
trước sân ngâm lớn rằng: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Sứ giả đem câu ấy về
thuật lại. Chúa hiểu ý”.
Trong bài viết phóng sự “Bí ẩn trầm hương - Kỳ 1: Vài dòng lịch sử” đăng trên báo
Thanh Niên phiên bản điện tử (03/01/2011), tác giả Hoàng Hải Vân trong cuộc đối thoại
với ông Nguyễn Phúc Ưng Viên (là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mạng, khi đó
đang sống và hành nghề bào chế thuốc nam tại TP. Hồ Chí Minh), đã thuật lại nguyên
văn như sau: “Ông Ưng Viên nói một trong những thứ mà Chúa Tiên mang vào Nam là
những đàn dê, việc này do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đề nghị. Dê là con vật độc đáo,
không những có giá trị y thực phục vụ sức khỏe cho dân chúng, mà còn rất tiện ích cho
hậu cần quân sự. Dê dễ nuôi, có thể dẫn các đàn dê theo quân, khi có chiến sự chúng ở
đâu nằm im ở đó không chạy nhặng xị như trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối trong quân,
một con dê có thể phục vụ gọn bữa ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông của ông Ưng Viên
dặn dò con cháu ngoài việc nhớ ơn và thờ phụng tổ tiên mình, còn phải nhớ ơn và thờ
phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đề xuất với Chúa
Nguyễn từ chiến lược chiến thuật, từ chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ
thể liên quan đến bảo vệ sức khỏe cho quân dân như món ăn, bài thuốc để làm hành
trang Nam tiến. Trong đó có chuyện “dụng trầm”.”
Như Li Tana, một nhà nghiên cứu về lịch sử Việt Nam trung cận đại, đã nhận định:
“Một làn sóng di dân vĩ đại của người Việt Nam đã diễn ra vào cuối thế kỷ XVI. Về
phương diện lịch sử, nó có thể sánh với cuộc di dân của người Trung Hoa, tuy với tỷ lệ
nhỏ hơn, từ phía Bắc tới đồng bằng sông Dương Tử dưới thời Đông Tấn (thế kỷ thứ IV
sau CN). Trước thời kỳ này, số người Việt Nam di dân xuống phía Nam không nhiều, có
vẻ lác đác. Nhưng bây giờ động cơ thúc đẩy họ di dân trở nên mạnh hơn và mục đích của
họ cũng rõ ràng hơn. Nếu Thuận Hóa trước đây xem ra còn là một vùng đất đầy bất trắc,
bấp bênh về một số lĩnh vực thì việc Nguyễn Hoàng thiết lập chính quyền ở đây được coi
như là việc tái khẳng định quyền của người Việt Nam được định cư ở vùng đất này và vì
thế là một khuyến khích lớn đối với việc di dân…”
Giai đoạn cai trị của họ Nguyễn ở Đàng Trong kể từ thời Nguyễn Hoàng (1558) cho
tới thời Minh Mạng (1820-1841) cũng đưa tới một hệ quả lịch sử mang tính bước ngoặt
là nó đã thay đổi căn bản nhận thức của người Việt về tầm quan trọng của chủ quyền biển
đảo đối với an ninh quốc phòng cũng như lợi ích kinh tế lâu dài của dân tộc. Nó cho thấy
một tầm nhìn chiến lược rõ ràng của những nhà cai trị họ Nguyễn (bao gồm các đời chúa
Nguyễn và vua nhà Nguyễn) thông qua những động thái cụ thể thể hiện ý thức xác lập và
thực thi chủ quyền lịch sử của người Việt đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa trước khi có sự tranh chấp chủ quyền từ những thế lực khác.
Tầm nhìn chiến lược về biển Đông. Bài thơ “Cự ngao đới sơn” nằm trong tập thơ chữ
Hán Bạch Vân am thi tập được Nguyễn Bỉnh Khiêm viết cách đây gần 500 năm, được
GS. Đinh Gia Khánh dịch thơ đã lâu, song gần đây, bài thơ được nhiều người quan tâm
nghiên cứu. Đặc biệt từ khi chính quyền Trung Quốc bộc lộ rõ tham vọng xâm lấn, thuộc
địa hoá biển Đông, chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của
Việt Nam, vốn là một thực tế lịch sử được sử liệu các triều đại Trung Quốc, Việt Nam và
nguồn tư liệu phong phú về hàng hải của nhiều quốc gia phương Tây thừa nhận.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai thuộc Trung tâm nghiên cứu Minh triết Việt Nam
trong bài viết “Bài thơ Cự Ngao Đới Sơn - một dự báo chiến lược thiên tài của Nguyễn
Bỉnh Khiêm” (2013) đã có những phân tích về tầm nhìn đi trước hằng thế kỷ của Nguyễn
Bỉnh Khiêm đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của một quốc gia (cụ thể ở đây là
phải chắc chắn xác lập được chủ quyền của con dân nước Việt đối với biển Đông hay còn
gọi là biển Nam Trung Hoa) ở vào giai đoạn trung đại khi mà không mấy ai thực sự quan
tâm đến nó, ngay cả với những nhà hoạch định chiến lược vốn nổi tiếng nhìn xa trông
rộng của các triều đại phong kiến Trung Hoa trước đây. Tác giả bài viết có những phân
tích: “Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà bây giờ càng đọc càng thấy rất kim nhật
kim thì, rất thời sự. Ta những tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm
nay. Bài thơ nguyên là để nói cái chí của cụ: Chí những phù nguy xin gắng sức (Ngã kim
dục triển phù nguy lực)... Câu thơ cuối bài của cụ: Ta nay cũng muốn đem sức phò
nguy chính là nói về chúng ta trong những nhiệm vụ làm chủ biển Đông hôm nay vậy.”
Một bài phân tích đáng chú ý khác là bài viết “Tầm nhìn chiến lược về biển đảo của
Trạng Trình từ 500 năm trước: Nhân đọc bài thơ Cự ngao đới sơn trong Bạch Vân am thi
tập của danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm” (2014) của nhà thơ Nguyễn Đình Minh
với những nhận định như sau: “Tác giả đã chỉ ra một trong những điều tất yếu của sự bền
vững muôn đời của giang sơn Đại Việt chính là nắm giữ chủ quyền biển Đông. Trước
đây khi đề cập đến lãnh thổ, chúng ta thường nói nhiều về sông núi, đất đai; chúng ta có
nói về biển nhưng không nhiều, biển không là trọng điểm nhấn mạnh. Nhưng từ về 500
năm trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo tầm quan trọng của biển đảo dẫn đến sự tồn
vong thịnh trị của cả quốc gia; điều ấy cho thấy tầm chiến lược về bảo vệ của ông rất
rộng lớn và toàn diện.” Như tác giả bài viết đã kết luận: “Một tầm nhìn chiến lược về biển Đông”.
Khi bài “Cự ngao đới sơn” được viết ở thế kỷ 16, vào thời đó, chủ quyền của
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không bị tranh chấp quốc tế, các thế lực khác nhau
chủ yếu đặt tham vọng xâm chiếm phần lãnh thổ đất liền mà thôi. Hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa ở rất xa đất liền là nơi lánh nạn, trú bão của các đoàn thương thuyền, ngư
thuyền mạo hiểm dám ra khơi xa, trong điều kiện phương tiện thuyền bè đương thời, vai
trò của kinh tế biển - đảo khi đó chưa được khai thác như bây giờ.
Đặc biệt hai câu kết của bài thơ như một lời tự day dứt, trăn trở, một ý chí quyết tâm
của chính tác giả: “Ta nay muốn thi thố sức phù nguy / Lấy lại quan hà, thành xưa của
nhà vua” (“Ngã kim dục triển phù nguy lực / Vãn khước quan hà cựu đế thành”). Sức lay
động của bài thơ chính là ở đây, là ở những chữ như “ngã” (tôi, ta), “kim” (nay, hiện
thời), “dục” (ước muốn, khát khao), “phù” (giúp sức), “nguy” (nguy nan), “vãn” (muộn,
chậm, lâu), “khước” (lấy lại, giành lại). Như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, bài thơ
nếu không phải “sấm ký” thì cũng là lời nhắn nhủ, lời hiệu triệu xuất phát từ tận đáy lòng
của tác giả, với tính dự báo chiến lược đi trước thời đại hằng thế kỷ, dụng ý dành cho hậu
thế nhiều đời sau chứ không phải cho riêng đương thời thế kỷ 16.
Bài thơ là một ví dụ điển hình cho tôn chỉ nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm: thơ
ngôn chí, như ông đã bộc bạch trong lời đề tựa của Bạch Vân am thi tập. Xuyên suốt cả
bài thơ là một tư tưởng chủ đạo: lo trước cái lo của thiên hạ (khái niệm thiên hạ đặt trong
ngữ cảnh cụ thể của bài thơ trên chính là để chỉ quốc gia - dân tộc). Như có nhà nghiên
cứu đã nhận định về giá trị tư tưởng của bài thơ: một con người dù ở bất cứ quốc gia nào,
dân tộc nào, thời đại nào, mà có thể bận tâm lo trước mối lo lớn (an ninh quốc phòng, an
nguy chủ quyền) của giang sơn xã tắc hằng trăm năm sau (500 năm ở đây nếu xét tuổi đời
của bài thơ) thì đáng để hậu thế phải ngàn lần suy ngẫm và kính phục.
Kết tinh Tam giáo Nho-Lão-Phật trong nhân cách và tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Nếu Nguyễn Trãi có nhiều lần đọc "Pháp Bảo đàn kinh" (tác giả từng viết "Môn
Thiền nhất phái Tào Khê thủy", "Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm" – "Du Nam Hoa
tự"); Nguyễn Du sau này đã viết "Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh" (Tụng đọc "Kinh
Kim Cương" hơn nghìn vạn lần) ("Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài") thì
Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài "Độc Phật kinh hữu cảm". Ông đã chịu ảnh hưởng Phật
giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có cái nhìn thời thế rất sâu sắc, độc đáo. Ông học
được những kiến thức Nho học từ Lương Đắc Bằng (thuộc phái Tướng số học của Tống
Nho). Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang Phu Tử– một bậc chân nho.
Tuy nhiên ta vẫn gặp thái độ như không mấy lạc quan trong cuộc đời. Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã viết những câu tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi: "Nho quan tự tín đa thân
ngộ" (Tự biết "cái mũ nhà nho" đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ – "Ngụ hứng, 3",
"Bạch Vân am thi tập"). Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan với nhà Mạc nhưng ông cũng
thấy được sự đổ nát từ bên trong. Ông đã dâng sớ chống tham nhũng. Về trí sĩ ông lấy
hiệu là Bạch Vân cư sĩ như là một tín đồ nhà Phật. (Cha ông là Văn Định cũng đã từng
lấy đạo hiệu là Cù Xuyên).
Về quê ông tích cực xây chùa, mở trường học. Thường ngày ông cùng với vài nhà
sư, một số bạn bè dạo chơi các danh thắng trong đó có núi Yên Tử – trung tâm thiền
học Việt Nam. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi chùa Phổ Minh (ngôi chùa được xây dựng
từ thời nhà Trần), ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật với quan niệm Trời của Nho gia:
"Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại" (Pháp giới sánh ngang tầm rộng lớn của trời) "Du
Phổ Minh tự"). Điều này chứng tỏ ông đã nhận thức được tư tưởng "Nhất thế chư pháp
vô phi Phật pháp" ở "Kinh Kim Cang". Đến tiết Trung nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm hy
vọng ở lòng yêu thương rộng lớn:"Từ bi ta muốn nhờ công sức, Cứu được bao người chịu
khổ oan" ("Trung nguyên tiết xá tội" – Đinh Gia Khánh dịch). Nhà thơ rất cảm hứng khi
đọc kinh Phật ("Độc Phật kinh hữu cảm"). Ông tâm đắc triết lý sắc không: "Xuân hoa
phong nguyệt không mà sắc" ("Tân quán ngụ hứng, 12"). Đây là tư tưởng "Sắc tức thị
không, không tức thị sắc" nổi bật của "Kinh Bát nhã" Tư tưởng Thiền có lẽ đã gây chấn
động trong nhận thức của tác giả: "Vị Phật na tri vô hữu tướng, Đáo thiền phương ngộ
bổn lai ky (cơ)" (Chưa Phật nào hay vô hữu tướng, Đạt thiền mới biết bổn lai cơ – "Tân
quán ngụ hứng, 18"). Tư tưởng này được tìm thấy ở "Kinh Kim Cang". Khi Phật nói với
Tu – bồ - đề: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu các ông thấy các pháp
(tướng) đều hư vọng, không thật (phi tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các
pháp)". Tư tưởng này cũng được tiếp nối ở "Pháp Bảo Đàn kinh". Tác giả nói "Bổn lai
cơ" trong trường hợp này không ngoài mệnh đề "Bổn lai vô nhất vật" ("Pháp Bảo Đàn
kinh"). Khái niệm "cơ" ở cuối câu có thể có nguồn gốc xuất pháp từ Tượng Số học – vốn
là sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính tư tưởng Thiền và kinh Phật đã làm phong
phú và nâng cao bản lĩnh Nho học cùng bản sắc trí tuệ trong thơ và đời Nguyễn Bỉnh Khiêm. 3. Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn, sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2 tháng 8 năm 1726) tại làng
Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam; nay là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập,
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.xã Độc Lập. Tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn
Hậu, hiệu Quế Đường, là vị quan thời Lê trung hưng, cũng là nhà thơ, và được mệnh
danh là " nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến".
Ở thế kỷ XVIII, các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng
ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại.
Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có những bộ óc bách khoa, Lê Quý Đôn với học vấn
uyên bác của mình đã trở thành người "tập đại hành" mọi tri thức của thời đại. Có thể nói,
toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ XVIII của nước ta đều được bao quát vào
trong các tác phẩm của ông. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn
hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó.
Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm
Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721), và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước
Nghĩa Phái hầu. Mẹ Lê Quý Đôn họ Trương (không rõ tên), là con gái thứ ba của Trương
Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.
Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển,
nhưng một số bị thất lạc.
Trần Danh Lâm, bạn của Lê Quý Đôn đã viết về ông: “ Không sách gì không đọc,
không việc gì không suy nghĩ đến cùng, ngày thường ngẫm nghĩ điều gì điều viết ngay
thành sách, sách chất đầy bàn, đầy tủ, kể ra không xiết”.
Ngô Thì Sĩ cũng là bạn của ông viết về cuốn Phủ biên tạp lục: “Sách này chép về
xứ Thuận Hóa và Quảng Nam; ghi rõ núi sông thành ấp, rạch kinh, thuế má, nhân tài, vật
sản… rõ ràng để thấy như nghìn ngón tay trên bàn tay”.
Hai lời đánh giá trên đây đã nói lên hai đặc điểm nổi bật ở Lê Quý Đôn, người đã
kết hợp những kiến thức cao nhất của đương thời với thực tế sinh động nhất của xã hội.
“Không sách gì không đọc” để vươn tới đỉnh cao của kiến thức đó là đặc điểm
đầu tiên của người tri thức chân chính, đó là mục tiêu phấn đấu suốt đời của người ấy.
Nhưng đọc sách mà không suy nghĩ đến cùng để gạn đục khơi trong, để biến những kiến
thức của xã hội thành những nhận định đọc lập của bản thân trước những hiện thượng
phức tạp của cuộc sống thì đọc sách như thế chỉ là con mọt sách. Những người nàu không
thể trở thành người tri thức mà chỉ là nạn nhân không tự giác của chủ nghĩ giáo điều mà thôi.
Nhìn đất nước mình: “như nhìn ngón tay trên bàn tay”, đó cũng là đặc điểm thứ
hai nổi bật ở người tri thức chân chính. Cuốn sách quan trọng nhất của người tri thức
chưa phải là cuốn sách được xếp trong kho của thư viện mà là cuốn sách rộng lớn mở ra
giữa cuộc đời, trước cảnh bao la của “núi sông, thành ấp, sản vật, nhân tài”… Tuy nhiên,
sống giữa cuộc nhưng không phải ai cũng nhìn được cuộc đời “như nhìn ngón tay trên
bàn tay”. Cuốn sách của cuộc đời cúng như cuốn sách trong kho đều khép lại trước những con mù chữ.
Không thể hiểu gì về cuộc sống nếu như không trang bị cho mình những kiến thức
cao nhất mà nhân loại đã tích lũy. Không có sự kiểm nghiệm và bổ sung của cuộc sống
thì những kiến thức sẽ thành viễn vông. Phép biện chứng ấy giữa lí luận và thực tiễn, là
phương châm hoạt động của mọi người tri thức, là mối quan hệ giữa cuốn sách trong kho
và “cuốn sách cuộc đời” là hai điều kiện đã hun đúc nên tài năng kiệt xuất của Lê Quý Đôn.
Con người bao giờ cũng là sản phẩm của lịch sử. Chủ nghĩa Mác dạy chúng ta tìm
bản chất con người từ tổng hóa những mối quan hẹ xã hội. Vậy điều kiện lịch sử và xã
hội nào đã tạo nên những người như Lê Quý Đôn; khiến cho Lê Quý Đôn đã dễ dàng
vượt qua con đường gập ghềnh của khoa học để vươn tới đỉnh cao của trí tuệ loài người.
Từ trước đến nay, bao nhiêu người đã ngợi ca tài năng hiếm có của Lê Quý Đôn:
“hai tuổi đã biết đọc chữ “hữu” và chữ “vô”, năm tuổi đã đọc được nhiều bài trong Kinh
Thi, mười bốn tuổi đã đọc hết ngũ kinh, tứ thư, sử, truyện, và đọc đến cả Chu Tử, trong
một ngày có thể làm được mười bài phú không cần viết nháp”.
Chủ nghĩa Mác không phủ nhận, những năng khiếu bẩm sinh của mỗi người,
nhưng tài năng và sự nghiệp của một con người không phải chỉ hình thành từ năng khiếu
bấm sinh. Giá trị của một con người là ở chỗ người ấy phát triển năng khiếu bẩm sinh
như thế nào để từ hoàn cảnh cảu xã hội và nỗ lực cá nhân, họ đã tự mình tạo ra phẩm giá
và bản lĩnh chính mình. Hãy trả cho “Thượng đế” những cái bẩm sinh! Hãy cảm ơn núi
sông, nếu như linh khí của núi sông đã kết tinh lại ở con người ấy. Chúng ta đánh giá con
người ở chỗ người ấy đã rèn luyện và phát triển bản thân như thế nào dưới tác động của
gia đình, của quê hương, của toàn xã hội.
Gia đình Lê Quý Đôn là một gia đình tri thức luôn gắn bó với đời sống xã hội, tiếp
xúc thường xuyên với các tầng lớp nhân dân. Cha đẻ của ông là tiến sĩ Lê Trọng Thứ
hằng ngày kèm cặp ông và bằng roi vọt, sớm nhồi nhét ông những kiến thức đương thời.
Quê hương ông, quê hương của bão lụt và nghèo khổ đã sớm xúc động lòng ông
và luôn luôn thúc đẩy ông suy nghĩ và hành động. Không phải một lần ông đã viết những câu thơ như:
Dân nghèo cay đắng thật
Long đong sớm lại chiều
Hoàn cảnh xã hội của ông là hoàn cảnh của người tri thức luôn luôn tiếp xúc với
mọi hoạt động của nhân dân. Nếu người tri thức chỉ sống vì miếng cơm manh áo thì quá
lắm, họ chỉ leo lên bậc thang cao nhất của trật tự xã hội. Nhưng người tri thức dành cả
cuộc đời mình để nghiên cứu và biên soạn thì động cơ thôi thúc họ lại xuất phát từ cái gì
cao hơn những lợi ích tầm thường. Cái gì khiến Nguyễn Trãi luôn luôn lo lắng, băn khăn
“ Canh lạnh chùm chân ngồi chẳng ngủ”. Cái gì đã làm cho Cao Bá Quát đêm đêm ngẩng
mặt nhìn sao, suy nghĩ về sự cô đơn của mình trước vận mệnh đát nước: “Đêm nay dưới
có người không ngủ, trên có vì sao muốn rơi...”.
Cũng như mọi nhà tri thức chân chính của Việt Nam, Lê Quý Đôn luôn luôn tưởng
nhớ quê hương, lo âu trước cảnh khổ của dân nghèo:
Xanh xanh dương liễu nhớ quê nhà
Đêm lạnh tàn canh ngồi chẳng ngủ ( Trụ sinh kế)
Cái gì cũng đã hằng ngày dây dứt Lê Quý Đôn, đã làm ông chẳng ngủ? Đó là cảnh
đói rét, túng thiếu của quê hương. Đó là nỗi cực nhọc của người nông dân khi mất mùa và
hạn hán. Ông cố tìm ra từ sách vở thời xưa những biện pháp “kinh bang tế thế”, nhưng
việc chủ yếu của ông là phải tự mình đi vào đời sống để ghi chép và suy nghĩ từ những sự
kiện cụ thể hằng ngày.
Khác với những nhà Nho vốn rời xa nhân dân, thoát ly thực tế, ông luôn luôn bám
sát đời sống xã hội, cố gắng biết rộng nghe nhiều, luôn luôn suy nghĩ làn thế nào để giúp
nước, giúp dân. Ông nói: “Căn bản lời nói việc làm: then chốt sự học hỏi có bao giời
không dựa vào sự biết rộng nghe nhiều ?”.
Suốt trọn đời làm quan, để biết rộng và nghe nhiều, Lê Quý Đôn tự đặt cho mình
nhiệm vụ hàng đầu là vừa học tập vừa biên soạn, vừa điều tra vừa nghiên cứu. Chính ông
đã viết về tinh thần cố gắng biết rộng nghe nhiều của ồn như sau: “ Tôi vốn là người nông
cạn từ lúc bé thì thích chứ sách, lúc trưởng thành làm quan xem sách đã chứa trong tủ,
vâng theo “lời dậy lúc qua sân”, lại được giao du với bậc hiền sĩ đại phụ. Thêm vào đấy,
phụng mệnh làm việc công, bốn phương dong duổi. Đi đến đâu cũng để ý tìm tòi, phàm
việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép lại phụ lên lời bình luận sơ qua, giao tiểu
đồng đựng vào túi sách, lâu ngày tích tập sau mới chép thành từng thiên…”.
“ Dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận”, đó là cách thức làm việc suốt đời
của Lê Quý Đôn. Đọc sách như thế và tìm hiểu cuộc sống như thế. Có thể nói ông đã đọc
hết các sách mà ông tìm thấy. Đọc đến đâu ghi chép đến đấy, chép xong sắp xếp vào từng
lạo khác nhau, vừa hệ thống hóa kiến thức của mình, vừa cung cấp những tư liệu giúp
cho học trò của ông và thanh niên đương thời nhanh chóng hiểu biết.
Để góp phần giáo dục đạo đức cho mình và cho người khác, ông đã ghi những
gương sáng , những lời nói và việc làm tốt đẹp của người xưa và xếp thành những bộ
sách quý báu như: Quần thư khảo biện, Thánh mô hiền phạm lục, Thư kinh diễn nghĩa, Vân đài laoij ngữ…
Ông đã biên soạn nhiều cuốn sách về lịch sử, với rất nhiều công phu sưu tầm và
tra cứu. Ông không dừng lại ở chổ giới thiệu những triều đại nói tiếp nhau mang còn ghi
lại rất nhiều chi tiết phong tục, tập quán cùng những đặc điểm về lao động, về sinh hoat,
về văn hóa qua các thời kỳ.
Qua di sản của Lê Quý Đôn, người ta thấy ông như đã nắm bắt hết mọi hiểu biết
mà thời đại ông cho phép, từ lịch sử xa xưa của Việt Nam và các nước đến những việc cụ
thể hằng ngày như ăn uống, từ những đặc điểm của chim muông, cây cỏ đến những
phong tục tập quán của từng huyện, từng làng, từ những tư tưởng thần bí trong các tôn
giáo đến nhận thức khoa học mơi nhất về chiều quay của trái đất xung quanh mặt trời.
Tác phẩm của ông bao trùm moi vấn đề của thiên nhiên, xã hội và con người, thể hiện tài
năng và trí tuệ của một danh nhân lỗi lạc về mọi mặt: triết học, xã hội học, kinh tế học,
chính trị học, văn học, nghệ thuật học.
Tác phẩm của Lê Quý Đôn là cơ sở đầu tiên để chúng ta đánh giá về ông. Nhiều
người đã hết lòng kính phục và nhấn mạnh vị trí khoa bảng của ông. Vì bảng nhãn này đã
đỗ đầu trong mọi cuộc thi: thi hương, thi hội, thi đình. Chúng tôi nghĩ rằng khoa cử, văn
bảng chỉ có thể là thước đo giản đơn về trình độ hiểu biết của một người tri thức. Tuy
nhiên, những thứ trên chứ đủ để đánh giá thực chất của một người tri thức chân chính.
Bao nhiêu ông cử, ông nghè, bao niêu hoàng giáp, bản nhãn, thám hao, trạng nguyên đã
chìm đi trong bóng đêm lịch sử. Tên tuổi của người ấy còn lại trên bia đá Văn miếu đang
mờ dần với thời gian. Giá trị chân chính của một con người, kể cả tri thức của tác phẩm
người ấy. Nói như Các Mác, tác phẩm của mỗi người là sự tự thể hiện của người ấy, là sự
vật chất hóa phẩm chất tài năng của họ, là sự nhân đôi của con người ở anh ta và tác
phẩm của anh ta. Giá trị chân lí của Lê Quý Đôn chính là ở giá trị cả lâu đài văn hóa và
khoa học cực kì to lớn và phong phú mà ông để lại.
Tác phẩm của ông đều phong phú đến mức chúng ta ngày nay khi đi tìm hiểu di
sản văn hóa của dân tộc đều gặp Lê Quý Đôn trên mọi nẻo đường. Lê Quý Đôn trở thành
tấm gương soi mà mỗi nghành khoa học khi soi vào đấy đều như thấy có bản thân mình.
Lê Quý Đôn có mặt trên mọi lĩnh vực. Những công trình nghiên cứu của ông giúp cho
mỗi người chúng ta hiểu thêm về ông và cũng qua đó hiểu thêm về bản thân mình. Sau
hai trăm năm, chúng ta đã tích lũy được những kiến thức mới lại và phong phú mà thời
đại Lê Quý Đôn chưa hề biết tới. Nhưng so với mỗi người chúng ta. Lê Quý Đôn vẫn cứ
vĩ đại không những ở toàn bộ di sản của ông mà còn ở ngay mỗi bộ môn khoa học.
Giới triết học có thể tính đén những quan điểm duy vật biện chứng, suy nghĩ về
bản thể luận và nhận thức luận của Lê Quý Đôn trong quá trình tiếp thu toàn bộ các trào
lưu tư tưởng từ Chu Tử và Khổng Mạnh đến Tống Nho.
Giới luật học sẽ phân tích những quan điểm của Lê Quý Đôn, không đề cập đến
lịch sử pháp luật Việt Nam từ Hình thư thời Lý đến Quốc triều hình luật thời Trần và
luật Hồng Đức thời Lê. Tư tưởng Lê Quý Đôn về thiết định pháp chế sẽ giúp chúng ta
suy nghĩ gì thêm về việc xây dựng các bộ luật ngày nay, tầm quan trọng của công việc
giáo dục trong nhân dân ý thức tôn trọng pháp luật.
Tư tưởng cực kì phong phú của ông về quan điểm mỹ họ và văn học, những bình
luận về ngôn ngữ, ghi chép của ông về văn hóa dân gian đang giúp gì cho giới văn nghệ
suy về truyền thống của dân tộc, về những qua hệ thẩm mỹ ngày xưa và ngày nay.
Sử học, khỏa cổ học, dân tộc học, tâm lý học và đạo đức học sẽ thu hoạch những
kiến thức phong phú nào trong di sản của Lê Quý Đôn và từ đó suy nghĩ về những vấn đề
đang đặt ra cho bộ môn khoa học của mình.
Nghành Thông tin sẽ học tập gì ở việc Lê Quý Đôn đã biên soạn và giới thiệu cho
người đời không chỉ thư mục mà còn cả những nội dung phong phú và thiết thực nhất
được rút ra từ kiền thức đương thời.
Viện Hán Nôm từ mấy chục năm nay ra sức thu thập các sách của thời xưa, sẽ
kinh ngạc trước sự làm việc của chỉ một người mà đã sưu tầm , nghiên cứu và giới thiệu hàng trăm đầu sách.
Viện Từ điển bách khoa sẽ tìm thấy trong di sản của Lê Quý Đôn tấm gương miệt
mài nghiên cứu để xây dựng những tác phẩm tràn đầy kiến thức bách khoa của thời đại.
Mấy điểm nêu lên trên đây là phản ánh sơ lược những kết quả rực rỡ của một quá trình
say mê tìm tòi và sáng tạo về lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Ở đây cần nhấn mạnh đến
triều mà Lê Quý Đôn thường xuyên quan tâm. Đó là việc điều tra thực tế .
Ông nhắc nhở những người làm quan tại triều đình không nên chỉ ngồi một chổ
mà phải đi xuống nhân dân: “Kẻ sĩ ra làm quan hành chính có phải chỉ ung dung ở chốn
miếu đường, bàn bạc văn nhã và tỏ ra đức vọng thôi đâu. Có khi càn phải xét đến biên
giới mà chịu trách nhiệm một phương thì cũng phải nghĩ làm sao để vỗ về binh nông, lấy
lợi trừ hại, tuyên bố giáo điều, rời đổi phong tục, mang hết khả năng tâm lực mà làm điều
chức phận nên làm để thỏa lòng bề trên, ban ơn dân chúng”… ( Trích lời tựa Phủ biên tạp lục).
Qua Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, Vân đài loại ngữ, chúng ta tìm ở đấy
những kiến thức cực kỳ phong phú của Việt Nam. Đọc chương Phẩm vật trong Vân đài
loại ngữ, chúng ta đã thấy Lê Quý Đôn biết đến 201 thứ lúa. Ông còn khuyên các nông
gia những việc làm cụ thể: “phép làm cho tốt ruộng, thì nên trồng đậu xanh trước đã, thứ
đến đậu nhỏ và vừng, các thứ ấy trồng vào tháng 5, tháng 6,. Đến thàng 7 tháng 8 (thu
hoạch xông) cầy lật úp xuống, làm ruộng rồng lúa cho mùa xuân năm sau, thì mỗi mẫu
thu hoạch 10 thạch thóc. Những cây đậu và vừng, bừa cày lên như thế, sẽ bón cho ruộng
tốt ngang với bón phân tằm hay phân người.
Những kiến thức, những kinh nghiệm, những cách thức làm ăn thiết thực như thế
đã tràn ngập trong nhiều tác phẩm của Lê Quý Đôn như thế nào, đối với điều tra nghiên
cứu về mọi mặt của đời sống xã hội.
Hiện nay con người và sự nghiệp của Lê Quý Đôn đang được giới khoa học xã hội
nghiên cứu ở nhiều gốc độ.
Có người nghiêm cứu đã từ mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh xã hội
nhấn mạnh vai trò của thế kỷ XVII đối với Lê Quý Đôn. Thế kỷ XVII là một thế kỷ rất
đặc biệt trong lịch sử phát triển dân tộc. Thế kỷ ấy đánh dấu sự suy sụp của chế độ phong
kiến từ mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng cũng chính thế kỷ ấy lại tạo ra sự phồn
vinh rực rỡ của chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần sáng tạo trên mọi lĩnh
vực văn hóa, triết học, nghệ thuật… Thế kỷ XVII tiếp tục là một đề tài khoa học cần
được đi sâu thêm góp phần giải quyết nhiều vấn đề có ý nghĩa lớn lao về mặt lí luận.
Những đặc điểm cụ thể của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội của thế kỷ XVII đã
diễn ra như thế nào? Vì sao trên mảnh đất khô cằn của cơ sở kinh tế xã hội nảy sinh
những bông hoa đẹp nhất của trí tuệ và tâm hồn?
Nhiều nhà khoa học đã nêu lên những mầm mống của chủ nghĩa tư bản ở thế kỷ
XVII coi như cơ sở xã hội của những tư tưởng tiên tiến..
Luận điểm trên đưa chưa đủ để thuyết phục chúng ta. Kinh tế hàng hóa, thương
nghiệp và thủ công nghiệp của thế kỷ XVII chư đủ tiêu biểu để nói lên sự thai nghén một
chế độ tư bản. Những nhân tố đó đã nảy sinh từ lâu ở Hy Lạp, La Mã và Trung Quốc cổ
đại. Phân tích tình hình này từ đặc điểm xã hội của thế kỷ XVII nhất từ cuộc đấu tranh
giai cấp sâu sắc giữa phong kiến và nông dân. Chế đôh phông kiến thời đó đã bộc lộ sự
thối nát, suy đồi tới mức không thể tiếp tục như trước nữa. Nó đang được phủ định,
nhưng mặt đối lập lịch sử của nó – mặt phủ định cụ thể của nó là chủ nghĩa tư bản chưa
ra đời. Chính vì thế mà lúc đó đối lập với chế độ phong kiến chưa phải là giai cấp tư sản.
Lúc đó, phê phán sự tàn bạo bằng khẳng định chủ nghĩa nhân đạo lên án chính sách ngu
dân bằng tiếp thu những sự phát triển văn hóa và nghệ thuật, lại là nhiệm vụ lịch sử của
những người tri thức đứng về phía nhân dân lao động.
Cũng có những người đi sâu tìm hiểu quan điểm triết học và hệ tư tưởng của Lê
Quý Đôn, về mối quan hệ của các trào lưu tư tưởng đương thời: Nho, Phật, Lão với sự
hình thành các quan điểm triết học và xã hội học của Lê Quý Đôn. Tôi nghĩ nên coi lại ý
kiến cho rằng: “Lê Quý Đôn là người đầu tiên không chỉ biết tư tưởng Nho giáo mà còn
phủ định tư tưởng Nho giáo trên lập trường của Phật giáo và Lão giáo”.
Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên đã tồn tại ngay từ buổi đầu khi đất nước ta giành
được độc lập. Các kỳ thi Tam giáo đã được tiến hành ngay từ đời nhà Lý. Bàn về Phật
giáo không phải chỉ có Trúc Lâm tam cổ thời Trần. Tiếp thu sâu sắc tư tưởng Lão Trang
không chỉ một mình Nguyễn Bĩnh Khiêm. Ngay ở thế kỷ XVII của Lê Quý Đôn, bàn về
cả Tam giáo không chỉ ở cha con Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhận, tin đạo giáo đến mức u mê
không chỉ mình tể tướng Nguyễn Hoàn… Ngay ngày nay, vấn đề người tri thức Việt
Nam trong mối quan hệ Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo vẫn tiếp tục là đề tài khoa học
rất lý thú mà chúng ta sẽ còn mất nhiều công phu để tìm hiểu va trao đổi.
Có ý kiến để đề cập đến quan điểm Lê Quý Đôn về bản thể luận và nhận thức
luận. Với tinh thần suy nghĩ độc lập và sáng tạo tác giả đã nêu lên những ý kiến độc đáo
của Lê Quý Đôn về khí và lý, gạt bỏ những quan điểm tâm thường trước đây đã đồng
nhất một cách giản đơn cập phạm trù khí và lý trong triết học phương đông với cập phạm
trù vật chất và tinh thần trong triết học phương Tây. Chúng ta hoang nghênh những ý
kiến đó, coi như những dâu hiệu rất tốt đẹp của những người làm công tác khoa học Việt
Nam đã đi vào hoạt động nghiên cứu với thái độ độc lập và tự chủ trong suy nghĩ.
Nhiều người đã nêu lên và phân tích những quan điểm của Lê Quý Đôn về văn học nghệ
thuật, về mỹ học và đạo đức, về các lĩnh vực xã hội học, dân tộc học về địa lý lịch sử…
Chúng tôi hoan nghênh rất nhiều ý kiến đã nói lên sự phong phú kỳ lạ của Lê Quý Đôn trên mọi lĩnh vực.
Đi vào đánh giá Lê Quý Đôn chúng ta có nhiều điểm chưa hoàn toàn nhất trí với
nhau, xung quanh các mặt tích cực và tiêu cực, cống hiến và hạn chế, chính trị và khoa
học. Lê Quý Đôn vừa là nhà bác học, lại là vừa là một ông quan đại thần, vừa gắn bó với
đời sống nhân dân lại vừa bảo vệ triều đình phong kiến, vừa tham gia đánh dẹp các phong
trào khởi nghĩa lại vừa xót thương trước cảnh vất vả và đói khổ của nhân dân. Tính phức
tạp này ở Lê Quý Đôn cần được tiếp tục nghiên cứu và phân tích.
Lê Quý Đôn nêu lên cả quan điểm đức trị và pháp trị. Phải chăng mặt đức trị nhân
đạo hơn mặt pháp trị? Hay đức trị lại chính là quan điểm phản động nhất của Khổng giáo,
biện pháp cai trị nguy hiểm nhất và tàn bạo nhất?
Có người ngợi ca Lê Quý Đôn đã tiếm hành giáo dục đạo đức bằng những châm
ngôn. Điều này chưa hẳn là một ưu điểm. Nó hoàn toàn trái ngược với phương pháp giáo
dục của Đảng ta là thông qua lao động, chiến đấu và học tập. Chúng ta không thể chấp
nhận lối giáo dục đạo đức bằng một số “ngữ lục” mà phải giải phóng cho khối óc và trái
tim của con người để người đó hoàn toàn sáng suốt khi nhận thái độ và hành vi của mình
trước mọi diễn biến phức tạp trong cuộc sống.
Chúng ta tiếp tục đi sâu vào những điểm chưa nhất trí ấy. Chúng ta đánh giá Lê
Quý Đôn là nhà bác học lớn nhất của thế kỷ XVII, có thể của cả thời kỳ trung đại lâu dài
của dân tộc. Đó là con người đã dành cả cuộc đời phục vụ cho sự phồn vinh của Tổ Quốc
và hạnh phúc của nhân dân, người đã để lại một di sản tinh thần cực kỳ to lớn và quý báu
đối với dân tộc ta hôm nay và mãi mãi sau này.
Trong sự nghiệp khoa học của mình, Lê Quý Đôn đã có những đóng góp kiệt xuất,
nhưng không khỏi có nhiều nhược điểm mà chúng ta rất dễ dàng nhìn thấy từ thời đại của chúng ta.
Những nhược điểm ấy chính là những hạn chế tất yếu mà ông không thể vượt qua.
Xuất phát từ thế giới quan duy tâm của Khổng giáo, từ lợi ích giai cấp của tầng lớp thống
trị, ông đi sát nhân dân nhưng không thể hiểu được vai trò và sức mạnh của nhân dân.
Với sự hạn chế của thời đại, Lê Quý Đôn cũng như những nhà tri thức đương thời không
thể vượt ra khỏi chế độ phong kiến.
Mặc dù có những nhược điểm đó, Lê Quý Đôn vẫn nêu lên những bài học quý báu cho chúng ta ngày nay.
Lê Quý Đôn đã tiếp thu những kiến thức khoa học đầy đủ nhất của thời đại để suy
nghĩ và hành động. Điều này nhắc nhở chúng ta lời dạy của Lê nin đối với người cộng
sản là phải tiếp thu toàn bộ văn hóa của nhân loại để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp của
mình. Tiếc rằng ở thời đại Lê Quý Đôn, kiến thức khoa học của ông không đáp ứng được
bao nhiêu cho việc đổi mới hoàn cảnh xã hội, cải thiện đời sống cho nhân dân. Ở đất
nước ta ngày nay thì khác. Trình độ văn hóa và khoa học đang là điều kiện quang trọng
bậc nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần trao đổi kiến thức
của Lê Quý Đôn trở thành bài học vô cùng quan trọng với mỗi người chúng ta hiện nay.
Lê Quý Đôn đã duyệt trở lại toàn bộ di sản của cổ nhân, để từ đó cân nhắc, chọn
lọc và rút ra những bài học thiết thực của bản thân mình. Tiếc rằng sự hạn chế về thế giới
quan đã khiến cho Lê Quý Đôn không thể trên cơ sở của quy luật phát triển xã hội đánh
giá đúng được những di sản của quá khứ để vì tương lai của dân tộc phát huy những cái
tốt đẹp và gạt bỏ đi những cái lạc hậu. Ngày nay, cách mạng tư tưởng và văn hóa đòi hỏi
chúng ta phải phát huy cao nhất tinh hoa của tổ tiên, đồng thời kiên quyết gạt đi những
cái đã trở thành lạc hậu. 4. Ngô Thì Nhậm
Ngô Thì Nhậm (còn gọi là Ngô Thời Nhiệm 25/10/1746–1803), tự là Hy Doãn,
hiệu là Đạt Hiên, là danh sĩ, nhà văn đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc
giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Ngô Thì Nhậm xuất thân gia đình vọng tộc chốn
Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội.
Ngô Thì Nhậm thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông thi
đỗ giải nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ tam giáp năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm
quan ở bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh, được chúa Trịnh Sâm rất quý mến. Năm 1778 làm
Đốc đồng Kinh Bắc vàThái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con
đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ.
Sau Vụ án năm Canh Tý (1780), ông bị nghi ngờ là người tố giác Trịnh Khải nên
phải bỏ trốn về quê vợ ở Thái Bình lánh nạn.
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại
của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần
Văn Kỉ,Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông. Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn
chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy
Ích, Bùi Dương Lịch; các tiến sĩ Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Đoàn
Nguyễn Tuấn (anh rể Nguyễn Du); Vũ Huy Tấn; Nguyễn Huy Lượng (tác giả "Tụng Tây
Hồ phú")...lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Sử cũ viết khi được Thì Nhậm, Nguyễn
Huệ mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy", và phong cho ông chức Tả thị
lang bộ Lại, sau lại thăng làm thượng thư bộ Lại-chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.
Cuối năm Mậu Thân (1788) do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân
Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê. Ngô Thì Nhậm đã
có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên
chiến thắng của nhà Tây Sơn.
Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng
thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và
giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại
giao sang Trung Hoa. Sau khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học.
Sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn
Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn thì bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803.
Nhưng do trước đó có mâu thuẫn với Đặng Trần Thường nên cho người tẩm thuốc vào
roi. Sau trận đánh đòn, về nhà, Ngô Thì Nhậm chết.
Sinnh ra trông một gia đình đại thế tộc, đã từng đỗ đại khoa và nhận tước lộc cao
nhất của triều đình. Ông luôn tự hào về quê hương của mình, quê hương đã từng có “ngàn
quan muôn xe tỏa hương trời ở sông Nhuệ…” đỗ đạt liên tiếp công hầu nối nhau, văn
phong lẫy lừng tới Trung Hoa, thanh danh vang dội khắp bốn cõi
5. Nguyễn gia Thiều
Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), tức Ôn Như Hầu là một nhà thơ thời Lê Hiển
Tông. Ông là tác giả Cung oán ngâm khúc, tác phẩm nổi tiếng của văn học Việt Nam.
Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu, tức ngày 22 tháng
3 năm 1741, cuối thời vua Lê chúa Trịnh, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu
Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là làng Liễu Ngạn, xã Ngũ Thái, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm
tướng, làm quan cho triều đình.
Ông nội Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh
sử được phong tước Siêu Quận công. Bà nội ông là bà Cảo Phu Nhân là em họ bà chúa
Ghênh -Thái Phi Trương thị Ngoc Chử và là vú nuôi của chúa Trịnh Cương. Cha của
Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Cư, một võ quan cao cấp được phong tước Quận công
2 người chú bác của ông cũng là Quận Công. Mẹ của ông là quận chúa Quỳnh Liên, con
gái chúa Trịnh Cương. Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy
giờ là cậu ruột, và là anh em họ với chúa Trịnh Sâm. Vợ của Nguyễn Gia Thiều là con
gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.
Vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa, nên từ lúc lên năm, sáu tuổi Nguyễn Gia
Thiều đã được vào học trong phủ chúa. Năm 1759 khi mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy,
quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự, năm 1782 thăng Tổng binh coi
giữ xứ Hưng Hóa. Nguyễn Gia Thiều là một người rất được chúa Trịnh tin dùng. Vì có
công nên ông được phong tước hầu - Ôn Như Hầu. Các em của ông cũng lần lượt được
phong tước hầu, tước bá, như Nguyễn Gia Thưởng là Thưởng Vũ Bá; Nguyễn Gia Xuyên là Du Lãnh Hầu.
Thời gian làm Tổng binh ở Hưng Hóa, mặc dù có công được khen thưởng,
Nguyễn Gia Thiều vẫn thường hay bỏ về nhà riêng ở gần hồ Tây để vui chơi, làm thơ và
cùng bạn bè bàn luận về triết học. Ông tự xưng là Hy Tôn tử và Như ý thiền, lấy biệt hiệu
là Tân Thi viện tử và Sưu Nhân. Có người bảo giai đoạn này chúa Trịnh không còn tin
ông như trước, mới đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa, và Nguyễn Gia Thiều biết điều đó,
nên ông chán nản bỏ về.
Năm 1786, khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn
lên miền núi xứ Hưng Hóa. Năm 1789, Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh, lập ra triều
Tây Sơn. Vua Quang Trung trọng người tài, thu dụng một số quan lại cũ của triều đình
Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều được mời ra cộng tác, nhưng ông cáo bệnh từ chối.
Nguyễn Gia Thiều về lại làng cũ, sống ở đấy cho tới khi mất vào ngày 9 tháng 5 Mậu
Ngọ, tức ngày 22 tháng 6 năm 1798, thọ 57 tuổi.
Nguyễn Gia Thiều là người có sự hiểu biết sâu rộng về văn học, sử học và triết
học. Ông còn tinh thông nhiều bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang
trí. Về âm nhạc, Nguyễn Gia Thiều sở trường các bài ca, bài tán, ông là tác giả các
bản Sơn trung âm và Sở từ điệu. Về hội họa, ông có bức tranh lớn Tống sơn đồ, dâng vua
xem được khen thưởng. Về kiến trúc, trang trí, ông là người được chúa Trịnh giao cho
trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích. Các công
trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều đến nay không còn được lưu lại.
Về sáng tác, Nguyễn Gia Thiều có hai tập thơ chữ Hán là Ôn Như thi tập, khoảng
một nghìn bài, nhưng đã thất truyền. Những tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm
khúc, ông còn có Tây hồ thi tập và Tứ trai thi tập, hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong
tập Tạp ký của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườn và Miếng tình.
Nguyễn Gia Thiều tuy thuộc tầng lớp quý tộc, nhưng sống trong một thời kỳ nhiều
biến động, loạn lạc. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của ông nói lên tâm trạng ai oán của
mộtcung phi sống trong hoàng cung. Nhiều nhà phê bình đánh giá Cung oán ngâm
khúc chịu ảnh hưởng bởi Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch của Đoàn
Thị Điểm, từ thể loại ngâm khúc viết bằng song thất lục bát đến cách phát triển chủ đề
cũng như bút pháp nghệ thuật.
Nguyễn Gia Thiều có nhiều con, trong số đó bốn người con đầu giỏi văn chương,
có một tác phẩm chung là Tứ trai thi tập, gồm sáng tác của Tâm Trai - tức Nguyễn Gia
Thiều, Kỷ Trai - Nguyễn Gia Cơ, Hoà Trai - Nguyễn Gia Diễm và Thanh trai - Nguyễn Gia Chu. 6. Cao bá Quát
Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà
thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.
Ông là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Có ý kiến khác nhau về tên tự của Cao Bá Quát. Theo GS. Dương Quảng Hàm thì
Cao Bá Quát có hiệu là Chu Thần. Theo các tác giả gần đây như GS. Nguyễn Lộc, GS.
Vũ Khiêu, GS. Thanh Lãng, GS. Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế... thì tự của ông
là Chu Thần, còn Mẫn Hiên chỉ là hiệu hoặc là biệt hiệu. Ông còn có tên hiệu khác là Cúc
Đường. Theo gia phả của dòng họ Cao ở Phú Thị: thân sinh ra Cao Bá Quát tên là Cao
Huy Tham, có tên tự là Bộ Hiên. Ông nội Cao Bá Quát có tên tự là Ngọ Hiên. Cao Bá
Quát có tên tự là Mẫn Hiên, lúc sinh thời, ông thường dùng các bút hiệu như: Chu Thần
hoặc Cao Chu Thần hoặc Cúc Đường hoặc Cao Tử.
Ông nội Cao Bá Quát tên là Cao Huy Thiềm (1761-1821) sau đổi là Cao Danh
Thự, một danh y nổi tiếng trong vùng. Thân sinh Cao Bá Quát tên là Cao Huy Sâm
(1784-1850) sau đổi là Cao Huy Tham, cũng là một thầy thuốc giỏi . Cao Bá Quát là em
song sinh với Cao Bá Đạt.
Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông
minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Năm Tân Tỵ (1821), ông thi khảo hạch ở trường thi
tỉnh Bắc Ninh lúc đó mới 13 tuổi, nhưng thi Hương (lần đầu) không đỗ.
Năm Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng, ông thi Hương đỗ Á Nguyên tại trường
thi Hà Nội, nhưng đến khi duyệt quyển, bị Bộ Lễ kiếm cớ xếp xuống cuối bảng [8] xếp
ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ cử nhân.
Năm Nhâm Thìn (1832), Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không
đỗ. Sau đó, ông vào kinh dự thi mấy lần nữa, nhưng lần nào cũng hỏng.
Năm 1841 đời vua Thiệu Trị, được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, Cao Bá Quát được
triệu vào kinh đô Huế bổ làm Hành tẩu ở bộ Lễ. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, ông được cử
làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường
quy, ông bàn với bạn đồng sự là Phan Nhạ lấy son hòa với muội đèn chữa lại. Việc bị
phát giác, ông bị bắt giam vào ngục Trấn Phủ (ngày 7 tháng 9 âm lịch), rồi chuyển đến
ngục Thừa Thiên (21 tháng 1 âm lịch năm Nhâm Dần, 1842). Suốt thời gian dài bị giam
cầm, ông thường bị nhục hình tra tấn. Nhưng khi án đưa lên, vua Thiệu Trị đã giảm cho
ông từ tội "trảm quyết" xuống tội "giảo giam hậu", tức được giam lại đợi lệnh. Sách Đại
Nam thực lục(Tập 23) chép việc:
Năm Tân Sửu (1841), tháng 8...Cao Bá Quát và Phan Nhạ làm Sơ khảo trường
thi Thừa Thiên, chữa văn sĩ nhân (chữa 09 chữ trong một số quyển thi phạm húy). Bộ
Lễ và Viện Đô sát tra xét, nghị tội: Quát và Nhạ phải tội xử tử. Nguyễn Văn Siêu (làm
Phân khảo) phải tội trượng, đồ. Chủ khảo và Giám khảo bị cách chức, giáng chức. Vua
xét lại, tha cho Quát, Nhạ tội xử tử và chuyển thành giảo giam hậu. Siêu chỉ bị cách chức,
tha cho tội đồ; Chủ khảo Bùi Quỹ và Phó khảo Trương Sĩ Tiến bị cách lưu làm việc. 5 cử
nhân có bài được sửa đều phải thi lại cả 3 kỳ và đều được lấy đỗ trở lại.
Sau gần ba năm bị giam cầm khổ sở, khoảng cuối năm Quý Mão (1843), Cao Bá
Quát được triều đình tạm tha, nhưng bị phát phối đi Đà Nẵng, chờ ngày đi "dương trình
hiệu lực" (tức đi phục dịch để lấy công chuộc tội). Tháng 12 (âm lịch), ông theo Đào Trí
Phú (trưởng đoàn) xuống tàu Phấn Bằng đi hiệu lực đến vùng Giang Lưu Ba (Indonesia).
Cùng lúc ấy, Phan Nhạ theo Nguyễn Công Nghĩa (trưởng đoàn) xuống thuyền Thần Dao
đi hiệu lực sang Tân Gia Ba (Singapore)
Tháng 7 năm Giáp Thìn (1844), đoàn công cán trên thuyền Phấn Bằng về đến Việt
Nam. Sau đó, Cao Bá Quát được phục chức ở bộ Lễ, nhưng chẳng bao lâu thì bị thải về
sống với vợ con ở Thăng Long.
Ông trở về sống với vợ con ở Hà Nội. Trước đây, nhà ông vốn ở phố Đình Ngang
(nay gần phố Nguyễn Thái Học), năm 1834 khi ông vào Huế thi Hội, thì vợ ông ở nhà đã
xin phép cha chồng cho sửa lại một ngôi nhà gần Cửa Bắc về phía Hồ Tây và Hồ Trúc
Bạch. Thời gian này, những lúc thư nhàn, ông thường xướng họa với các danh sĩ
đất Thăng Long như Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý, Trần Văn Vi, Diệp Xuân Huyên...
Sau ba năm bị thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào Huế (1847) làm ở
Viện Hàm Lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Thời gian ở Kinh đô Huế lần này,
ông kết thân với một số thi nhân nổi tiếng như Nguyễn Hàm Ninh, Đinh Nhật
Thận, Nguyễn Phúc Miên Thẩm, Nguyễn Phúc Miên Trinh...và ông đã được mời tham
gia Mạc Vân Thi xã do hai vị hoàng thân này sáng lập.
Năm Canh Tuất (1850), do không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá
Quát đã bị đầy đi làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây cũ).
Khoảng cuối năm Canh Tuất (1850) đời vua Tự Đức, Cao Bá Quát lấy cớ về quê
chịu tang cha và sau đó xin ở lại nuôi mẹ già rồi xin thôi chức Giáo thụ ở phủ Quốc Oai.
Khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch năm Giáp Dần 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp
đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống người nhân dân hết
sức cực khổ; Cao Bá Quát bèn vận động một số sĩ phu yêu nước, các thổ hào ở các
vùng Quốc Oai, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng Sơn...cùng nhau (tôn Lê Duy Cự làm minh
chủ, Cao Bá Quát làm quốc sư, họp với thổ mục Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch
Công Trân) dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương, thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình đương thời.
Đang trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, do có người tố giác nên kế hoạch bị bại
lộ. Trước tình thế cấp bách, Cao Bá Quát buộc phải phát lệnh tấn công vào cuối năm 1854.
Buổi đầu ông cùng các thổ mục ở Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Trân
đem lực lượng đánh phá phủ Ứng Hòa, huyện Thanh Oai, huyện thành Tam Dương,
phủ Quốc Oai, Yên Sơn...Tuy giành được một số thắng lợi, nhưng sau khi quan quân
triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại.
Tháng Chạp năm Giáp Dần (tháng Chạp năm này rơi vào năm dương lịch 1855 ),
sau khi bổ sung lực lượng (chủ yếu là người Mường và người Thái ở vùng rừng núi Mỹ
Lương, nay là vùng đất phía Tây sông Đáy thuộc các huyện Chương Mỹ, Mỹ Đức của Hà
Nội, và các huyện Lương Sơn, Kim Bôi tỉnh Hòa Bình), Cao Bá Quát đem quân tấn công
huyện lỵ Yên Sơn lần thứ hai (huyện lỵ huyện Yên Sơn cũng là phủ lỵ phủ Quốc Oai,
ngày nay là thị trấn Quốc Oai huyện Quốc Oai). Phó lãnh binh Sơn Tây là Lê Thuận đem
quân nghênh chiến. Cuộc đối đầu đang hồi quyết liệt tại vùng núi Yên Sơn (giáp Sài
Sơn), thì Cao Bá Quát bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Tiếp theo, Nguyễn
Kim Thanh và Nguyễn Văn Thực cũng lần lượt sa vào tay đối phương (sau cả hai đều bị
xử chém). Ngoài những thiệt hại này, hơn trăm quân bị chém chết và khoảng 80 quân
khác bị bắt (theo sử nhà Nguyễn).
Nghe tin đại thắng, vua Tự Đức lệnh cho ban thưởng và cho đem thủ cấp của
nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống sông. Sự thật về
cái chết của Cao Bá Quát cho đến nay vẫn còn là một vấn đề nghi vấn cần làm sáng tỏ hơn.
Ngay sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây) bị thất bại (1855-1856),
các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và
lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn
Cao Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kỹ thuật trung ương (Hà
Nội), và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm còn sót
lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán.
Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo
thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong số này về chữ
Nôm, có một số bàihát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm
cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập: Cao Bá Quát thi tập Cao Chu Thần di thảo Cao Chu Thần thi tập Mẫn Hiên thi tập
Toàn cảnh Dục Thúy Sơn, ngọn núi trong thơ Cao Bá Quát. Giới thiệu một vài nét
chính trong sự nghiệp văn chương của Cao Bá Quát, GS. Vũ Khiêu viết đại ý như sau:
Tuổi trẻ của Cao Bá Quát được ghi lại bằng hàng loạt bài thơ tràn đầy khí phách
(Tài mai [Trồng mai], Thanh Trì phiếm châu nam hạ [Từ Thanh Trì buông thuyền xuôi
nam], Quá Dục Thúy Sơn [Qua núi Dục Thúy]...). Trích hai câu trong bài Quá Dục Thúy Sơn: Ngã dục đăng cao Hạo ca ký vân thủy Dịch;
Ta muốn trèo lên đỉnh cao ngất
Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước...
Nhưng rồi, mấy lần khăn gói vào Huế thi đều bị hỏng, nên mộng khoa cử đã tan.
Năm 32 tuổi, lần đầu ông được bổ làm một chức quan nhỏ (Hành tẩu Bộ Lễ). Ở đây, ông
bắt đầu cảm thấy nhụt chí và bế tắc khi nhìn thấy cảnh thối nát, bất công và hèn yếu của
nhà Nguyễn. Đến khi bị tù, bị tra tấn vì chữa những quyển thi, ông càng đau khổ, uất ức
và căm thù cái triều đình ấy (Cấm sở cảm sự, túng bút ngẫu thư [Nơi nhà giam nhân việc
cảm xúc phóng bút viết ngay], Trường giang thiên [Một thiên vịnh cái gông dài], Đằng
tiên ca [Bài ca cái roi song], Độc dạ cảm hoài [Ban đêm một mình cảm nghĩ]...). Trích
mấy câu trong Trường giang thiên (dịch): Gông dài! Gông dài! Mày biết ta chăng?
Ta chẳng có gì đáng hợp với mày cà!
Mày biết thế nào được ai phải ai trái!
Mày chẳng qua chỉ là cái máy làm nhục người đời mà thôi...
Sau thời gian dương trình hiệu lực, Cao Bá Quát bị thải về quê quán. Ông càng có
nhiều dịp tiếp xúc với đời sống của nhân dân lao động. Những cảnh người dân vì túng
thiếu đói rét, phải đi xin ăn hay những cảnh họ bị bắt phu bắt lính...đều đã làm ông đau
xót, day dứt (Cái tử [Người ăn xin], Phụ tương tử [Người vác hòm], Quan chẩn [Xem phát chẩn]...).
Đứng trước những cảnh tình ấy, cộng thêm nỗi đau của bản thân, cuối cùng đã dẫn
ông đến những ý nghĩ hành động:
Ta đã không nỡ nghe mãi bài thơ Hoàng Điểu nói lên cảnh ly tán của nhân dân do
chính sự hà khắc: thì lẽ nào chỉ chịu gửi gắm mãi tâm sự vào khúc ngâm của Gia Cát
Lượng khi chưa ra giúp đời (Trích bản dịch bài Ngẫu nhiên nằm mơ đến thăm ông Tuần phủ...)
Tuy nhiên, mãi đến lần Cao Bá Quát bị triều đình đuổi khéo về làm Giáo thụ ở
Quốc Oai - một vùng bán sơn địa hẻo lánh xa hẳn kinh thành Huế, thì suy nghĩ của ông
mới trở thành quyết tâm đứng lên đánh đổ nhà Nguyễn (Đối vũ [Nhìn mưa], Trích Tống
Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Huy vĩnh lão khê [Tiễn Nguyễn Trúc
Khê ra nhận chức tại phủ Thường Tín, đồng thời gửi cho ông bạn già là Lê Huy Vĩnh]...). Trích giới thiệu:
Mặt trời đỏ lẩn đi đàng nào?
Để dân đen than thở mãi... (Trích Đối Vũ) Và:
Tài trai sống ở đời, đã không làm được việc phơi gan, bẻ gãy chấn song, giữ vững cương thường.
Lại ngồi nhìn bọn cầm quyền sói lang hoành hành,
Đến lúc tuổi già thì mặc áo gấm ban ngày về bôi nhọ quê hương.
Chỉ cúi đầu luồn xuống mái nhà thấp, nhục cả khí phách,
Đến lúc già thì gối đầu vào vợ con mà chết,
Giả sử hạng người ấy xuống suối vàng gặp hai cụ (Chu Văn An và Nguyễn Trãi),
Thì cũng mặt dầy, trống ngực đánh, thần sắc rũ rượi ra mà thôi…
(Trích bản dịch nghĩa bài Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Huy vĩnh lão khê)
Trích đánh giá trong Từ điển văn học (bộ mới):
Cao Bá Quát là một nhà thơ rất có bản lĩnh. Từ những tác phẩm đầu tiên đã thấy
lòng tin của nhà thơ vào ý chí và tài năng của mình. Ông sống nghèo, nhưng khinh bỉ
những kẻ khom lưng uốn gối để được giàu sang, và tin rằng mình có thể tự thay đổi đời mình.
Đến khi làm quan, muốn đem tài năng ra giúp đời, nhưng rồi Cao Bá Quát sớm
nhận ra rằng vấn đề không hề đơn giản như ông tưởng.
Có những lúc ông cảm thấy bất lực trước những bất công trong xã hội, ông cũng
muốn nhàn hưởng lạc thú như Nguyễn Công Trứ. Thế nhưng mỗi khi nghĩ đến những
người cùng khổ bị áp bức, ông lại thấy cách đó là không thể, mà phải tìm một con đường
khác. Cuối cùng, con đường mà ông chọn là đến với phong trào nông dân khởi nghĩa
chống lại triều đình.
Ngoài những chủ đề nêu trên, ông còn viết về vợ con, bè bạn, học trò và quê
hương. Bài nào cũng thắm thiết, xúc động. Ông cũng có một số bài đề cao những anh
hùng trong lịch sử, để qua đó thể hiện hoài bão của mình. Ông cũng có một số bài thơ
viết về chuyện học, chuyện thi mà ông cho rằng chỉ là chuyện "nhai văn nhá chữ". Trong
dịp ông đi công cán ở vùng Hạ Châu, ông cũng có những bài thơ phản ảnh cảnh bất công
giữa người da trắng với người da đen...
Về mặt nghệ thuật, Cao Bá Quát là một nhà thơ trữ tình với một bút pháp đặc sắc.
Ông làm thơ nhanh, có lúc "ứng khẩu thành chương", nhưng vẫn thể hiện được cảm xúc
dồi dào và sâu lắng. Và mặc dù hình tượng trong thơ ông thường bay bổng, lãng mạn,
nhưng trong những bài viết về quê hương thì ông lại sử dụng rất nhiều chi tiết hiện thực
gợi cảm. Ngoài ra, đối với thiên nhiên, ông cũng hay nhân cách hóa, coi đó như những
người bạn tri kỷ tri âm... 7. Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh
ngày 15 tháng 2 năm1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên,
tỉnh Hà Nam Ninh nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ,
xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.
Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi là Mền Khởi,
đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), nguyên là con của Trần
Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.
Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm
1864-1865) là bạn học ở trường Hoàng giápPhạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là
một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội.
Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử
Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa
(chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn).
Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó,
Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và
điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn
Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi
tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn
Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc
sống và gắn bó với thiên nhiên.
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như
sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Lúc này Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra
Hà Nội. Năm 1885, họ tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất
Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp
nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.
Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt,
Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan
về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.
Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm
Ngữ,"Bạn đến chơi nhà", và 3 bài thơ hay về thu: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh cùng
nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ
Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch
ra tiếng Việt, hoặc ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó để
xác định vì chúng rất điêu luyện.
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà
thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của
ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.
8. Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh
Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt
Nam trong nửa cuối thế kỷ 19 Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm
Ngọ (1 tháng 7 năm 1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình
Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Ông xuất thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người làng
Bồ Điền, xã Phong An , huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên; nay thuộc huyện Phong
Điền, tỉnhThừa Thiên-Huế. Lớn lên, ông cưới vợ ở đây và đã có hai con (một trai và một
gái). Mùa hạ, tháng 5 năm Canh Thìn (1820) Tả quân Lê Văn Duyệt được triều
đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định Thành. Đến đầu mùa thu, Nguyễn Đình Huy
đi theo Tả quân, để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định,
ông Huy có thêm người vợ thứ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, sinh ra 7
con (4 trai, 3 gái), và Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu lòng.
Thuở nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo
học với một ông thầy đồ ở làng.
Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê
Văn Khôi, vì bất mãn đã làm cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm
cả Nam Kỳ. Trong cơn binh biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế, nên bị
cách hết chức tước. Song vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem ông ra gửi cho
một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở
Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840), thì trở về Gia Định.
Năm Quý Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy, có
một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849). Lần này, ông
cùng đi với em trai là Nguyễn Đình Tựu (10 tuổi).
Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (31 tháng 12 năm 1848), mẹ Nguyễn Đình
Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ.
Trên đường trở về, vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường, nên
đến Quảng Nam thì Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở
nhà một thầy thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết, nhưng ông cũng đã học
được nghề thuốc. Lâm cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình
Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường dạy học và làm thuốc ở
Bình Vi (Gia Định). Truyện thơ Lục Vân Tiên của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.
Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886, người làng Thanh
Ba, huyện Cần Giuộc, trước thuộc Gia Định; nay thuộc tỉnh Long An) làm vợ. Bà Điền là
em gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì cảm phục và mến thương thầy, đã
xin gia đình tác hợp. Truyện thơ Dương Từ-Hà Mậu của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.
Dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ văn yêu nước. Năm 1858, quân Pháp nổ súng
vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân Việt, họ vào Nam đánh
phá thành Gia Định vào đầu năm 1859. Sau khi tòa thành này thất thủ (17 tháng
2 năm 1859), Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở Thanh Ba (Cần Giuộc), tức quê
vợ ông. Vô cùng đau đớn trước thảm cảnh mà quân Pháp đã gây nên cho đồng bào ông,
và rất thất vọng về sự hèn yếu, bất lực của triều đình, ông làm bài thơ "Chạy giặc".
Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (16 tháng 12 năm 1861), những nghĩa sĩ mà
trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp
ởCần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt
đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó
đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia
Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", để đọc tại
buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh này.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất về tay Pháp, theo
phong trào "tỵ địa", Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba (Cần Giuộc) về Ba
Tri (Bến Tre), vì không thể sống chung với họ. Chia tay với bạn bè thân quen, ông làm
bài thơ "Từ biệt cố nhân".
Về Ba Tri, ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình ra
phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa.
Năm 1863, em trai út ông là Nguyễn Đình Huân theo Đốc binh Là chống Pháp, hy sinh ở Cần Giuộc.
Tháng 8 năm 1864, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gò Công là Trương
Định bị thương rồi tuẫn tiết ở Ao Dinh; xúc động, Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và
mười hai bài thơ liên hoàn để điếu ông.
Năm 1867, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản và Đốc học Vĩnh Long Nguyễn
Thông tổ chức đưa di hài nhà giáo Võ Trường Toản từ làng Hòa Hưng (Gia Định) về
táng ở Bảo Thạnh (Ba Tri), Nguyễn Đình Chiểu có đến dự lễ rước.
Ngày 4 tháng 8 năm đó (1867), Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ được
thành Vĩnh Long, Nguyễn Đình Chiểu có làm hai bài thơ điếu ông. Có thể ông bắt đầu
soạn quyển thơ Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca trong năm này.
Năm 1868, thủ lĩnh kháng Pháp ở Ba Tri là Phan Tòng (còn có tên là Phan Ngọc
Tòng) hy sinh, ông làm 10 bài thơ điếu.
Năm 1877, Nguyễn Đình Chiểu dời đến ở làng An Bình Đông (sau đổi là An Đức)
cách chợ Ba Tri khoảng hai cây số.
Năm 1883, Tỉnh trưởng Bến Tre là Michel Ponchon đã đến nhà để yêu cầu ông
nhuận chính quyển thơ Lục Vân Tiên, đồng thời ngỏ ý trao trả lại ruộng vườn của ông mà
họ đã chiếm đoạt. Ông khẳng khái nói: "Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá
gì", rồi khước từ mọi hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền thực dân. Lại hỏi ý muốn riêng
của ông, ông đáp "muốn tế vong hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh", và được viên Tỉnh trưởng chấp
thuận. Sau đó, ông tổ chức lễ tế tại chợ Ba Tri, và đọc bài "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh".
Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì cảnh
nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng, hai năm sau, ngày
24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba
Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng
An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến mộ ông.
Ông được an táng cạnh mộ vợ, nay thuộc ấp 3, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre . Tác phẩm chính.
Lục Vân Tiên (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1851), gồm 2082 câu thơ lục
bát. Đây là một "bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng trọng
ở đời" đã làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu, và là một tác phẩm lớn của văn học Việt
Nam, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Sau thời gian phổ biến
theo lối truyền miệng, truyện Lục Vân Tiên đã được Duy Minh Thị (tên thật là Trần
Quang Quang ở Chợ Lớn) khắc in lần đầu ở Trung Quốc trước năm 1864, và đã được các
nhà văn như Aubaret, Abel de Michels, Bajot...dịch ra tiếng nước ngoài.
Dương Từ - Hà Mậu (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1854). Căn cứ bản
Tân Việt (Sài Gòn, 1964) do Phan Văn Hùm sao lục và hiệu đính, thì tập thơ gồm 3.456
câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen thơ luật Đường (33 bài) và các thể khác....
Tác giả mượn câu chuyện này để nói lên thái độ của ông đối với đạo Phật và Công giáo
Rôma mà ông không tán thành.
Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư tiều y thuật vấn đáp, 1867?), gồm 3.642
câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ và một số bài thơ ca, phú…trích
từ các sách thuốc Trung Quốc. Đây là một quyển sách dạy nghề làm thuốc chữa bệnh,
viết dưới hình thức truyện thơ Nôm. Song giá trị chủ yếu ở việc tác giả đã lồng tư tưởng
yêu nước vào nội dung y thuật.
Ngoài ra, ông còn để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế, trong số đó có nhiều bài nổi tiếng, như: Chạy giặc (1859) Từ biệt cố nhân (1859)
Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn (tức Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, 1861)
Mười hai bài thơ và bài văn tế Tướng quân Trương Định (1864)
Thơ điếu Đông các Đại học sĩ Phan Thanh Giản (2 bài, 1867)
Mười bài thơ điếu Ba Tri Đốc binh Phan Tòng (1868)
Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn (Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, chưa biết đích
xác thời điểm sáng tác).
Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Thảo thử hịch (Hịch đánh chuột, chưa xác định thời điểm sáng tác)
Ngóng gió đông (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Thà đui (chưa xác định thời điểm sáng tác), v.v...
Sự nghiệp văn chương: Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo
đạo nghĩa, tuy mang tật mù tối, và gặp lúc biến loạn mà vẫn giữ được phẩm cách thanh
cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, mà còn là một nhà thơ
yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị.
Ông là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn
chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm
thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy người". Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen
chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông. Sự
nghiệp văn chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác:
- Giai đoạn đầu (những năm 50 của thế kỷ 19): Trong giai đoạn này, ông viết "Lục
Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu". Có thể xem đây là thời kỳ khẳng định tư tưởng nhân
nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của ông.
-Giai đoạn sau bắt đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia Định (1859) cho đến
khi ông qua đời (1888): Ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật thiết với cuộc sống
của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như "Chạy Giặc", "Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân trận vong", v.v,...ông đã lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược,
phê phán triều đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm
gương chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự
nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu.
Và dù ở giai đoạn nào, trong các tác phẩm của ông nổi bật lên ba đặc điểm về nội
dung và hình thức, đó là:
- Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi
cảm, khiến cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam.
- Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân
trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong
trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược.
- Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các
tư tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với
vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại
văn chương sử thi mới sau này.
Tóm lại, so với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có
một thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí
giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét
quân địch và bọn hợp tác...
Theo giai thoại Mộ Nguyễn Đình Chiểu (trái), mộ vợ ông (phải), phía xa là
mộ Sương Nguyệt Anh và đền thờ của ông
Thực dân Pháp cho Tôn Thọ Tường, là bạn của Đồ Chiểu đến dụ dỗ ông. Đến mấy
lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu tìm cớ lánh mặt, Sau Tường gửi tặng hủ mắm cá lóc,
mà Tường nói rõ trong thư là chính tay của vợ mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần
hết, Đồ Chiểu mới phát hiện ở dưới đáy hũ có mấy nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết
thư trách Tôn Thọ Tường và sai người trả lại vàng.
Michel Ponchon, tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre cũng đã mấy lần thân hành đến nhà Đồ
Chiểu. Có lần lấy cớ nhờ nhuận sắc bản Lục Vân Tiên, nhưng ông giả vờ điếc đặc. Có lần
viên quan này thông báo việc trả lại ruộng đất ở Tân Thới (Gia Định) cho Đồ Chiểu,
nhưng nhận được câu trả lời: "Đất vua còn phải bỏ, thì đất tôi sá gì!". Lần khác, M.
Ponchon đặt ra vấn đề cấp dưỡng, Đồ Chiểu nói: "Tôi đây đang sống đầy đủ trong sự tôn
kính của các môn đệ và sự quý mến của đồng bào. Điều đó đã làm tôi thỏa mãn lắm
rồi"...Duy nhất có một lần, M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ Chiểu nói
chỉ mong ước chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn những người dân
đã chết trận, và đã được viên quan này đồng ý. Hôm đó, tại chợ Đập (nay là chợ Ba Tri),
nghe Đồ Chiểu đọc bài văn tế thảm thiết, đông đảo mọi người đến dự đều không cầm được nước mắt... 9. Đặng Huy Trứ
Đặng Huy Trứ ( 16 tháng 5, 1825 - 7 tháng 8, 1874) là một nhà cải cách Việt
Nam thời cận đại, ông tổ nghề nhiếp ảnh ở Việt Nam và là người đầu tiên đưa kỹ nghệ
đóng tàu phương Tây du nhập vào Việt Nam
Đặng Huy Trứ, tự Hoàng Trung, hiệu Võng Tân, Tỉnh Trai, tục gọi là Bố Trứ - Bố
Đặng (do ông từng làm Bố chính), pháp danh Đức Hải (thuở thiếu thời ông từng được
đem quy y tại chùa Từ Hiếu), quê làng Bát Vọng, sau sang ngụ ở làng Thanh Lương - nay
thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông mất năm Giáp Tuất
(1874) tại xã Cao Lăng, Chợ Bến, Đồn Vàng, thuộc tổng Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông (nay
thuộc Hà Nội). Sau này ông được đưa về an táng tại Hiền Sĩ, nay ở xã Phong Sơn, huyện
Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Đặng Huy Trứ là một trong những người có công đầu đưa nhiếp ảnh vào Việt
Nam, bằng việc mở hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường (ngày 14 tháng 3 năm 1869) ở phố Thanh
Hà, Hà Nội. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, đĩnh ngộ. Khoa thi năm 1847, ông đã
lọt qua các vòng thi Hương và thi Hội (đã chắc chắn đỗ tiến sĩ), đến khi thi Đình do bài
thi phạm húy nên bị cách tuột và cấm thi trọn đời. Biết tài học của ông, một vị quan lớn
đương triều đã mời ông về dạy học cho con em trong nhà và cho tới 8 năm sau, nhờ vị
quan nọ tâu xin với vua nên ông được thi lại và đỗ tiến sĩ năm 1855.
Từ năm 1856 đến năm 1864, ông lần lượt trải các chức: Thông phán Ty Bố
chính Thanh Hóa; Tri huyện Quảng Xương; Tri phủ Thiên Trường tỉnh Nam Định; Hàn
lâm viện trước tác; Ngự sử.
Năm 1864, ông được bổ nhiệm chức Bố chính Quảng Nam.
Năm 1865, ông đi Hương Cảng nhằm xem xét tình hình phương Tây và đã đem về
về một cuốn sách kỹ thuật của người Tây Dương viết về máy hơi nước do chính ông biên dịch sang tiếng Hán.
Năm 1867, trong chuyến đi Trung Quốc đầy bất trắc (ông mắc bệnh và phải nằm
nhà thương 9 tháng ròng không tiền bạc, không người thân bạn bè) nhưng đã mua được
cho triều đình 239 khẩu "quá sơn pháo". Cũng trong thời gian ngã bệnh, ông viết cuốn Từ
thụ yếu quy dài 900 trang gồm 4 tập nhằm chống thói hối lộ - tham nhũng chốn quan trường.
Năm 1871, ông giữ chức Bang biện quân vụ Lạng – Bằng - Ninh – Thái.
Cuối năm 1873 ông lui quân về căn cứ Đồn Vàng – Hưng Hóa dưới quyền Thống
thống quân vụ Hoàng Kế Viêm, mưu tính kháng chiến lâu dài nhưng việc trù tính còn dở
dang thì vua Tự Đức đã ký Hòa ước Giáp Tuất (1874).
Năm 1886, ông làm Biện lý Bộ Hộ, trực tiếp phụ trách Ty Bình chuẩn tại Hà Nội
để chuyên lo việc kinh tế, tài chính cho triều đình.
Sinh thời, Đặng Huy Trứ làm quan đời vua Tự Đức, ông nổi tiếng thanh liêm, từng
đi xứ các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Xiêm La (Thái Lan). Suốt 18 năm làm quan,
Đặng Huy Trứ trải qua nhiều chức vụ, có mối quan hệ rộng rãi với các tầng lớp nhân dân
cũng như sĩ phu trong và ngoài nước. Ông đi nhiều, tiếp xúc nhiều và có tầm tư duy
quảng bác. Sự nghiệp quan trường của ông đều nhằm mục đích canh tân đất nước nhưng
quan lại đương thời thường nghĩ đến Đặng Huy Trứ như một vị quan to ham đi buôn.
Năm 1858 khi làm tri huyện Quảng Xương, ông đã lập ra các nghĩa trang để có
chốn chôn cất, cúng tế cho nắm xương tàn của những cô hồn. Từ đó mới có lệ lập ra nghĩa trang ở các vùng.
Ông là nhà cải cách, gieo mầm canh tân và khai hóa thời Nguyễn giữa thế kỷ
19 với tư tưởng phát triển kinh tế (khai mỏ, mở mang thủ công nghiệp và thương nghiệp,
phát triển giao thông vận tải); phát triển khoa học quân sự (đưa ra tư tưởng chiến tranh
nhân dân cho mọi chiến lược và chiến thuật, cử người đi học hỏi những kỹ nghệ phương
Tây như đóng thuyền, chế tác vũ khí); cải cách xã hội (chống tư tưởng trọng văn khinh
võ, chống hối lộ - tham nhũng, nhấn mạnh đức tính cần kiệm liêm chính – chí công vô tư
của quan lại). Ông lập ra các thương điếm như Lạc Sinh Điếm, Lạc Thanh Điếm và Ty
Bình Chuẩn để giao thương với phương Tây, tạo dựng nền tảng tài chính và quân sự cho
triều đình nhà Nguyễn trong những 1850-1870.
Con đường canh tân đất nước của Đặng Huy Trứ bị bỏ dở sau khi ông mất. Những
nỗ lực canh tân của ông không có đất phát triển do đầy rẫy những biến động về chính trị,
giặc ngoại xâm của đất nước cuối thế kỷ 19. Không giống những nhà canh tân cùng thời,
Đặng Huy Trứ là nhà canh tân dám dấn thân, canh tân dựa vào dân và làm lợi cho dân
(công tư lưỡng lợi), dấn thân đến tột cùng trái ngược hẳn với bản tính ốm yếu về thể chất của ông
10. Nguyễn Quang Bích
Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890), còn có tên là Ngô Quang Bích, tự Hàm Huy,
hiệu Ngư Phong; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
chống Pháp tại vùng Tây Bắc (Việt Nam).
Nguyễn Quang Bích sinh ngày 8 tháng Tư năm Nhâm Thìn (tức 7 tháng 5 năm 1832)
tại làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủKiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là làng Trình
Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình).
Ông vốn họ Ngô, dòng dõi vua Ngô Quyền và khai quốc công thần nhà Hậu Lê -
Ngô Từ - ông ngoại vua Lê Thánh Tông, nhưng do ông nội ông đổi sang họ ngoại là họ
Nguyễn nên sử sách thường gọi ông là Nguyễn Quang Bích. Nguyễn Quang Bích là học
trò của tiến sĩ Doãn Khuê. Năm 1861, ông đỗ cử nhân và được bổ làm Giáo thụ phủ
Trường Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Năm Kỷ Tỵ (1869), thời Tự Đức, ông đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ đình nguyên (tức
Hoàng giáp). Sau đó ông được cử làm Tri phủ tại phủ Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ ngày
nay), rồi Tri phủ Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa ngày nay) và lần lượt làm Án sát tỉnh Sơn
Tây, Tế tửu Quốc tử giám Huế, Án sát tỉnh Bình Định.
Năm Ất Hợi (1875), được vua Tự Đức giao cho duyệt bộ sách Khâm định Việt sử
Thông giám cương mục. Cũng trong năm này, triều đình mở doanh điền Hưng Hóa (tức
tỉnhPhú Thọ ngày nay) vừa khai hoang vừa phòng vệ vùng núi rừng Tây Bắc, ông được
cử làm Chánh sơn phòng sứ. Đến năm sau (1876) ông kiêm thêm chức Tuần
phủ tỉnh Hưng Hóa. Tại đây, Nguyễn Quang Bích phối hợp với Tôn Thất Thuyết, Hoàng
Tá Viêm vừa đánh dẹp vừa lôi kéo phân hóa các đội quân người Trung Quốc mà sử cũ
gọi là "giặc khách" (tàn dư của các cuộc chống Thanh, nhưng đã biến chất). Đặc biệt,
trong số người mà Nguyễn Quang Bích cảm hóa được có Lưu Vĩnh Phúc, thủ lĩnh đội
quân Cờ Đen (dư đảng của Thái Bình Thiên quốc)
Ngày 12 tháng 4 năm 1884, thành Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích cai quản bị
quân Pháp đánh hạ. Noi gương Tổng đốc Hoàng Diệu, ông định tuẫn tiết, nhưng nhờ
quân sĩ phá vòng vây cứu ra. Sau đó, ông thu tàn quân chạy về Tứ Mỹ, tiếp theo là Áo
Lộc, rồi lên Tiên Động (nay thuộc huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ) lập căn cứ để kháng Pháp.
Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Cam Lộ (Quảng Trị), ban bố
dụ Cần Vương. Biết Nguyễn Quang Bích là người có chí và có tài đức, nhà vua phong
ông làm Lễ bộthượng thư, sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần
Trung hầu; lãnh nhiệm vụ tổ chức kháng chiến ở vùng Tây Bắc (Bắc Bộ).
Kể từ đó, với uy tín của mình, ông vừa trực tiếp chỉ huy phong trào, vừa tìm cách
liên hệ để phối hợp với các phong trào khác, như của Nguyễn Thiện Thuật, Đèo Văn
Trì (thủ lĩnh người Thái), Nông Văn Quang, Cầm Văn Hoan, Cầm Văn Thanh,...Ngoài
ra, ông còn lôi kéo được nhiều sĩ phu, tù trưởng và đông đảo người dân (gồm các dân tộc
Kinh, Thái, Mường, Mông) trong vùng tham gia chiến đấu hay ủng hộ.
Trong hai năm 1885-1886, ông đã hai lần sang Trung Quốc cầu viện (nhưng việc
không thành, vì triều đình nhà Thanh đã thỏa hiệp với thực dân Pháp), mua vũ khí và
phối hợp hoạt động với nhiều nhóm nghĩa quân khác ở Bắc Kỳ.
Cuối năm 1886, Nguyễn Quang Bích trở về nước. Xét thấy địa thế Tiên Động khá
hẹp, lại do yêu cầu mới về chiến lược, chuẩn bị cho việc đón vua Hàm Nghi ra Bắc, nên
ông và Nguyễn Văn Giáp (tức Bố Giáp, một cộng sự đắc lực) bèn đem quân lên Nghĩa
Lộ (trước thuộc châu Văn Chấn, nay là thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái) xây dựng căn cứ mới.
Tháng 4 năm 1888, Soái phủ Nam Kỳ gửi thêm viện binh ra Bắc Kỳ. Ngay sau đó,
quân Pháp chia làm hai đạo mở cuộc hành quân lên Nghĩa Lộ. Đạo thứ nhất gồm 400
quân do Thiếu tá Bose chỉ huy, đi từ Ngòi Hút (tức Đại Lịch). Đạo thứ hai gồm 384 quân
do Thiếu tá Berger chỉ huy tiến từ Ngòi Lao. Dọc đường cả hai đạo quân đều chịu thiệt
hại nặng vì bị mai phục và dịch bệnh, nên mặc dù chiếm được một số nơi mà vẫn phải triệt hồi.
Cầm cự ở đây thêm ít tháng nữa, thì Nguyễn Quang Bích mang một số quân rời
Nghĩa Lộ đến Yên Lập, là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ, để củng cố phong trào
kháng chiến tại vùng này. Từ nơi đây, ông đã phái nhiều đạo quân đi đánh phá nhiều nơi.
Công cuộc đang thu được một số kết quả, thì bất ngờ ông lâm bệnh nặng rồi mất tại
núi Tôn Sơn, (thuộc xã Mộ Xuân, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ) ngày rằm tháng Chạp
năm Canh Dần (tức 24 tháng 1 năm 1890).
Phong trào kháng Pháp ở vùng Tây Bắc (Việt Nam) vì thế bị giảm sút nặng nề sau
cái chết của Bố Giáp và ông. Tuy nhiên, công cuộc do hai ông và các đồng đội đã dày
công gầy dựng vẫn chưa chấm dứt hoàn toàn mà còn được tiếp tục ở miền hạ lưu sông
Đà (nổi bật là cuộc khởi nghĩa Thanh Sơn do Đốc Ngữ làm thủ lĩnh) cho đến
năm 1893 mới chấm dứt hẳn.
Bài 10: NHỮNG GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP TRƯỚC NGƯỠNG CỦA CỦA THỜI ĐẠI
VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN PHÁT HUY
10.1. Văn hóa truyền thống đứng trước công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay.
Vân đề bảo tồn gắn với phát triển bền vững tức là phải đề cập vấn đề phát triển
hướng tới con người, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người, đó là phát triển
năng lực sáng tạo của con người, cải thiện chất lượng sống của con người (cả về vật chất
lẫn tinh thần), thiết lập và củng cố các thiết chế văn hóa – xã hội có lợi nhất cho con
người, tạo sự tham gia bình đẳng cho tất cả các cá nhân trong xã hội. Đó là cách thức
đúng đắn nhất để bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày nay.
Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người, nó phản ánh mối quan hệ tương tác
giữa con người với thiên nhiên và xã hội. Mối quan hệ tương tác đó mang tính biện
chứng, thể hiện rất rõ qua hàng loạt các định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đề
xuất trong các công trình nghiên cứu mà chúng ta đã được biết. Ta thấy, con người từ lúc
sinh ra cho tới khi trở về cát bụi với “ Bà mẹ thiên nhiên”, luôn cần được gắn bó, nương
tựa, phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên và xã hội. Môi trường thiên nhiên được coi là “
Bà đỡ ”/ “Mẹ nuôi” của con người và xã hội. Đó chính là nơi con người sinh ra, và cũng
là nguồn tài nguyên quan trọng đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của
con người và văn hóa. Bằng cách khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, con người sáng
tạo ra môi trường nhân tạo - thiên nhiên thứ hai và môi trường văn hóa – xã hội mang
tính nhân văn. Và do đó, con người – xã hội – thiên nhiên là 3 thực thể có mối quan hệ
hữu cơ ở mọi nơi, mọi lúc, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Có thể khẳng định văn hóa
và con người có quan hệ từ cội nguồn, không có thiên nhiên thì không có con người,
không có con người cũng không bao giờ có văn hóa. Trong suốt tiến trình lịch sử nhân
loại, văn hóa luôn là tiền đề cơ bản không thể thiếu đối với sự phát triển nguồn lực xã
hội, nên văn hóa cũng có thể được hiểu là thái độ ứng xử của chúng ta đối với thiên
nhiên, đối với xã hội, đối với cộng đồng và đối với chính bản thân chúng ta.
Trong thời đại ngày nay, khi mà sự giao lưu văn hóa ngày càng sâu và rộng nó đã
đem lại những biến đổi vô cùng to lớn trên mọi phương diện, trong đó đem lại cả cái hay-
cái không phù hợp, cái dở - cái không phù hợp với thuần phong mỹ tục của xã hội Việt Nam.
Theo GS Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam”, tác
giả đã so sánh giữa văn hóa cổ truyền với văn hóa thời kỳ kinh tế thị trường như sau: TIÊU CHÍ
VĂN HÓA CỔ TRUYỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Chủ nhân Xã hội nông nghiệp Xã hội thương nghiệp Không gian điển hình Vùng nông thôn Vùng đô thị TỔNG QUAN Đặc trưng
Tính cộng đồng làng xã Tính độc lập cá nhân
Thái độ với thương nghiệp Coi nhẹ thương nghiệp Coi trọng thương nghiệp Lối tư duy
Tổng hợp, trọng quan hệ
Phân tích, trọng yếu tố TƯ DUY Cách tư duy Linh hoạt dễ thay đổi Kiên định, quyết đoán Lối sống Theo tình nghĩa Theo luật pháp Chuẩn đánh giá Theo đạo đức Như hàng hóa HÀNH Chiến lược hành động Giữ thế bình quân Cạnh tranh ĐỘNG Cách hành động Dựa vào quen biết
Quy thành giá cả, lợi nhuận Cách thức quản lý
Theo “lệ làng, phép nước” Theo quy luật kinh tế
Trong sự đối mặt với cơ chế thị trường để rồi dung hợp với nó, cái hay và cái dở,
có cái được, có cái mất, có cái xuất hiện và cái tiêu vong, có cái Việt Nam thoát khỏi và
có cái Việt Nam sẽ nhiễm phải. Những nét phác thảo chính của bức tranh này thể hiện: CÁI HAY CÁI DỞ TT Cái được thêm Cái thoát khỏi Cái mất mát Cái nhiễm phải Đô thị và công nghiệp Đô thị bị nông thôn Thiên nhiên bị tàn phá 1
Nạn ô nhiễm môi trường phát triển khống chế nhanh
Đời sống vật chất cao,
Lối sống tình nghĩa phai 2
Sự nghèo nàn thiếu thốn Lối sống thực dụng tiện nghi nhiều mờ
Vai trò cá nhân được đề
Thói dựa dẫm, bệnh bảo
Tính tập thể, sự ổn định Lối sống cá nhân chủ 3 cao thủ gia đình nghĩa Tinh thần tự do, phê Thói gí trưởng “lão
Nề nếp chữ “lễ” phai
Lối sống “cá đối bằng 4 phán làng” nhạt đầu”
Sự liên kết quốc tế rộng Óc địa phương chủ
“Văn hóa” đồi trụy du 5
Tính độc lập(tự trị) giảm rãi nghĩa nhập [8]
Với sự hội nhập sâu và rộng trong giai đoạn hiện nay chúng ta sẽ có những thuận lợi
nhưng kèm theo nó là những khó khăn không tránh khỏi đó là quy luật tất yếu của quá trình hội nhập.
Thuận lợi, về cơ bản Văn hóa Việt Nam vốn có đặc tính linh hoạt do lối tư duy
tổng hợp, trọng mối quan hệ (như đã trình bày ở bài số 5), điều này phù hợp cho sự xâm
nhập của kinh tế thị trường vốn có đặc điểm năng động và nhanh nhạy. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân rất quan trọng để giải thích vì sao cùng có gốc chung là các
nước xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam tiếp nhận nền kinh tế thị trường nhẹ nhàng hơn các
nước khác (trong khi Liên Xô và các nước Đông Âu thì sụp đổ phải rất lâu mới gượng
dậy được và Trung Quốc thì cũng phải mất tới hàng chục năm, sau cái quằn quại đau đớn
của thời kỳ đại cách mạng văn hóa).
Khó khăn, một số căn bện như bệnh tùy tiện – mặt trái của lối ứng xử linh hoạt.
Điều này không phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế vì cái gốc của
phương tây là du mục dẫn đến sau này là văn minh đô thị và kinh tế thị trường với lối
ứng xử kiên định và quyết đoán. Bệnh này, có biểu hiện như dễ thay đổi ý kiến, chưa
quen với lối sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đây là môt khó khăn cần pahir
có sự thay đổi. Một khó khó khăn nữa là bệnh làm ăn theo kiểu sản xuất nhỏ - mặt trái
của tính cộng đồng và tính tự trị làng xã, biểu hiện là hàng giả, hàng rởm, nối thách, làm
ăn theo kiểu phương hội, thương nhân liên kết với nhau chèn ép khách hàng. Đó laftrais
ngược với có chế thị trường phương Tây, phương Tây thương nhân kiếm lời bằng cách
chiếm lòng tin của khaccsh hàng đồng thời tìm cách loại trừ lẫn nhau (quy luật cạnh tranh).
Tuy có những khó khăn đó nhưng phần lớn chỉ mang tính nhất thời. Một khi xã
hội đã đi vào thời kỳ hội nhập sau rộng thì những việc như vạy sẽ phải bị loại bỏ dần, vì
nếu không tự thay đổi thì sẽ không tồn tại được trong thòi điểm hiện nay. Không những
thế, nước ta đang trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang được tiến
hành có hiệu quả thì chính nó sẽ phải tự thay đổi theo quy luật của xã hội.
10.2. Bảo tồn và phát huy một nền văn hóa mới -Văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
Phát triển bền vững được xác định như là khả năng phát triển kinh tế liên tục, lâu
dài mà không gây hậu quả tới môi trường tự nhiên và văn hóa – xã hội. Ngược lại phát
triển kinh tế không có chừng mực hoặc thái quá, thiên về tăng trưởng kinh tế có thể dẫn
đến tình trạng ô nhiễm môi trường, xói mòn đạo đức, lu mờ bản sắc văn hóa. Một khi đạo
đức xã hội bị băng hoại và suy thoái sẽ tạo ra lực cản, tác động tiêu cực tới quá trình phát
triển. Đến một thời điểm nào đó, chợt nhận ra rằng bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị
lu mờ thì khả năng ngăn chặn và phục hồi càng bị thu hẹp lại hoặc giả sử nếu có từng
bước làm hồi sinh lại cũng sẽ tốn kém hoặc giả sử có từng bước làm hồi sinh lại cũng sẽ
tốn kém vượt lực lượng vật chất quá lớn, trong khi tài sản văn hóa “vốn văn hóa” bị hao
hụt, để lại khoảng trống tinh thần cho thế hệ mai sau. Tuy nhiên, trên thực tế trong những
năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam đó là sự “phục hưng”
trong lĩnh vực văn hóa. Nhiều giá trị tinh thần truyền thống (trong quan hệ gia đình, làng
xóm, thầy trò…các lễ hội, phong tục tập quán tốt đẹp…) đang dàn được khôi phục, các di
sản văn hóa vật chất, tinh thần đang được nhà nước chú trọng tu bổ, tôn tạo. Nhiều hình
thức hoạt động văn hóa đa dạng, phong phú đang thu hút được phần nào nhu cầu thụ
hưởng của nhân dân. Nhưng bên bên cạnh đó mặt trái của kinh tế thị trường, khuynh
hướng “thương mại hóa”, sự sáo trộn về bậc thang gí trị, hủ tục vẫn đang tồn tại. Hơn lúc
nào hết cần phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa là tối cần thiết trong thòi đại ngày nay.
Nhận biết được được tình hình cụ thể như vậy Đảng và nhà nước ta cũng đã có sự
quan tâm và hành động đúng lúc. Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII) đã dành
hẳn hội nghị lần thứ 5 (7/1998) để bàn về Văn hóa và thông qua nghị quyết “Về xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Để bảo tồn và phát triển, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, trước hết phải nhận thức rõ ràng rằng việc thực hiện hai nhiện vụ này
phải đi liền vói nhau. “Bảo tồn” chứ không phải “bảo vệ”: Bảo tồn là “giữ không để cho
mất đi”, còn bảo vệ là “giữ nguyên trạng không cho biến đổi”. Bảo tồn văn hóa không có
nghĩa là ôm khư khư lấy vốn cổ không cho nó thay đổi, trái lại là phải làm cho nó lớn
mạnh hơn, giàu có hơn, bổ sung những yếu tố mới, tức là phát triển nó.
Vấn đề mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển rất đa dạng, cần phải hiểu thấu đáo.
Có khi bên cạnh cái vốn có của ta sẽ xuất hiện những cái mới, cái vay mượn (như loại
hình tranh sơn dầu của phương Tây trong hội họa, các thể loại tiểu thuyết và thơ tự do
mượn của phương tây trong văn chương). Có khi cái của ta lai tạo với cái của người tạo
ra một cái không có ở người, chưa có ở ta và nó tồn tại bên cạnh những cái mà ta có (như
nghệ thuật Cải lương là con đẻ của sự phối hợp giữa hát bội truyền thống với kịch nói
phương Tây và nó tồn tại song song cùng với các loại hình chèo tuồng). Có khi cái của ta
chuyển thành cái mới thay thế cái cũ (như chiếc áo dài tân thời được cải tiến từ áo tứ
thân, năm thân cổ truyền và thay thế chúng). Có đặt bảo tồn trong mối quan hệ biện
chứng với phát triển mới tránh được cái nhìn phiến diện và bảo thủ, phản tiến hóa – trân
trọng quá khứ không phải lấy nó làm chuẩn mực, làm thước đo rồi kìm giữ, không cho cái mới vượt qua. [8]
Hiều vấn đề nêu trên để thực hiện việc “bảo tồn” và “phát triển”:
Với việc “bảo tồn”, cần phải lựa chọn những yếu tố có giá trị phải được gìn giữ,
những yếu tố trở thành vật cản phải loại bỏ (ví dụ lòng yêu nươc, lối sống tình nghĩa, óc
sáng tạo, linh hoạt…cần được giữ gìn, thói cào bằng, níu kéo chân người khác không cho
hơn mình, lối sống tự cung tự cấp khép kín, tính bè phái, lợi ích nhóm….cần phải loại bỏ).
Trong số những giá trị cần bảo tồn cũng phải lựa chon, cái gì còn được giá trị cần
phải gìn giữ như những kỷ niệm của một thời đã qua, cái gì cần thiết duy trì thì hành
động, để tránh phục cổ tràn lan (như nhuộm răng đen, chiếc iếm thắm, tà áo tứ thân, ăn
trầu, hút thuốc lào, cưới hỏi, ma chay rườm rà….là những phong tục đầy ý nghĩa của một
thời tuy được đời đời nhắc nhở nhưng nay không còn phù hợp, không nên khôi phục;
những cái như tình làng, nghĩa xóm, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, lời hát ru, các
món ăn dân tộc….là những thứ đừng bao giờ phải bỏ).
Với việc “phát triển” bằng con đường tiếp thu cũng như vạy: cần có sự lựa chọn
những yếu tố tinh túy, cái gì cần thiết thì tiếp thu chứ không phải tiếp thu ồ ạt, đua
đòi. (Học khiêu vũ, học chơi nhạc rock, học chơi tenniss… cũng tốt nhưng học
theo phim ảnh bạo lực, khiêu dâm, mà túy, mafia thì không thể được – bởi lẽ đó là
những thứ rác rưởi, cặn bã của người phương Tây cũng đang lên án đào thải). rong
những cái tinh túy cần tiếp thu lại để lựa chọn xem cái gì có thể tiếp thu nguyên
vẹn, cái gì cần sửa đổi cho phù hợp.
Sự lựa chọn trong bảo tồn và phát triển còn có nghĩa là áp dụng tùy nơi, tùy
lúc sao cho phù hợp (đó cũng là tính vừa hài hòa và tính linh hoạt của văn hóa
người Việt). Học ngoại ngữ là cần thiết nhưng không phải bảng hiệu nào cũng
trưng lên bằng tiến Anh, phát triển đô thị cần quy hoạch, tính toàn đến tương quan
của môi trường xung quanh, tránh xây dựng tràn lan nhưng cũng không nên quá vì
một hai công trình kiến trúc nào đó mà chưa cổ kính lắm nhưng lại phản đối việc
cho xây dựng các tòa nhà cao tầng, hiện đại, quá khứ là đáng kính trọng nhưng xã
hội phải có sự đi lên.
Khi hiểu sự cần thiết phải lựa chọn rồi cần những biện pháp đảm bảo về
mặt vật chất và tinh thần để lựa chọn cho sáng suốt và thực hiện bảo tồn những cái
đã lựa chọn cho thành công. Biện pháp bảo đảm tinh thần quan trọng nhất là giáo
dục về mặt văn hóa (văn hóa dân tộc và văn hóa nước ngoài) một cách bài bản, hệ
thống. Đây không phải chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà phải là toàn xã hội
cùng phải thực hiện. Hiểu được cái hay và biết được cách thưởng thức, người ta sẽ
bớt thờ ơ với các loại hình sân khấu truyền thống của Việt Nam mà thế giới đang
ca ngợi như tuồng, chèo, xẩm, rối nước, cải lương, chầu văn…Biết được lý do tồn
tại và phạm vu sử dụng của một hiện tượng văn hóa nước ngoài, người ta sẽ không
đòi hổi chay theo đến mức mù quáng. Hiểu biết về văn hóa sẽ hạn chế được hàng
loạt sai sót đáng tiếc sảy ra khá nhiều trong cuộc sống.
Bảo đảm về tinh thần, tức là đi đôi với những việc trên, các cơ quan chức
năng, đại phương cố liên quan (văn hóa, du lịch, bảo tàng, giáo dục…) cần có
những biện pháp bảo đảm về mặt vật chất cụ thể không chỉ kiên quyết bài trừ các
loại văn hóa phẩm độc hại “văn hóa ngoài luồng”, mà còn sản xuất nhiều hơn,
duyệt nhanh hơn để các để có nhiều sản phẩm văn hóa “trong luồng” có chất
lượng đủ để đầu tư bảo trì, đầu tư các danh thắng.
Việc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc sẽ phụ thuộc vào
chính bản thân chúng ta. Từ chỗ hiểu rồi đến chỗ thấy cần, từ chỗ cần rồi đến chỗ
tự thân vận động. Sách vở văn hóa khá nhiều, văn hóa ở khắp nơi, chính chúng ta
cần phải suy nghĩ học hỏi, không thụ động để ngồi chờ để rồi trách cứ không ai
cho hay. Đừng mượn cớ “tác phong công nghiệp nhanh gọn, thiết thực” mà thờ ơ
với văn hóa dân tộc, một báu vật vô giá mà không dễ gì có được.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, Việt nam Văn hóa sử cương, NXB VH Thông tin, 2014 (tái bản)
2. Chu Xuân Diên, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB ĐH QG TP HCM 2008.
3. Huỳnh Công Bá, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, 2008, NXB Thuận Hóa
4. Vũ Khiêu, Bàn về Văn hiến Việt Nam NXB. Khoa học xã hội 1996.
5. Vũ Khiêu, Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân tộc, NXB KHXH, 1980
6. Phan Ngọc, Bản sắc Văn hóa Việt Nam, NXB Văn học HN, 2015
7. Lê Văn Siêu, Văn Minh Đại Việt, NXB Thanh niên, 2004(tái bản )
8. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP Hồ Chí Minh, 2006.
9. Trần Ngọc Thêm, Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường
tới tương lai, , NXB Văn hóa – Văn nghệ, 2015
10. Trần Quốc Vượng (CB), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 2013
11. WWW.https://vi.wikipedia.org/wiki/....
12. Đặng Nghiêm Vạn, Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam. - HN:
Nxb Chính trị Quốc gia, 2001
13. Ngô Đức Thịnh (chủ biên). Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam. - HN:
Nxb Khoa học xã hội, 2001
14. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam. - Tp. HCM: Nxb Giáo dục, 1998
15. Trần Trọng Dương, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa. Hà Nội. số tháng 3/2012