Hệ thống hóa pháp luật gì? Hình thức hệ
thống hóa pháp luật
1. Hệ thống hóa pháp luật gì?
Hệ thống hóa pháp luật hoạt động nhằm sắp xếp, hoàn thiện c quy phạm
pháp luật, văn bản pháp luật, chấn chỉnh thành hệ thống sự thống nhất nội
tại theo một trình tự nhất định.
Hệ thống hoá pháp luật hai dạng tập hợp hoá pháp điển hoá.
2. Tập hợp hóa pháp luật gì?
Tập hợp hoá pháp luật sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật theo thời
gian ban hành, theo quan ban hành hoặc theo lĩnh vực quản nhà nước...
trong đó, nội dung các văn bản quy phạm pháp luật được giữ nguyên. Thông
thường, việc tập hợp hoá được thực hiện theo từng ngành luật, từng chế định
pháp luật. Bất nhân, quan, tổ chức nào cũng thể tiến hành tập
hợp hoá pháp luật.
Tập hợp hóa hình thức thu thập sắp xếp c văn bản pháp quy theo
từng vấn đề thành tập luật lệ hiện hành. Việt Nam từ trước đến nay ch
yếu đã tiến hành hệ thống hóa dưới hình thức này theo nhiều lĩnh vực vấn
đề khác nhau.
Các đặc trưng của hình thức hệ thống hóa này thể hiện một số điểm
bản như sau:
- Việc tập hợp hóa các văn bản pháp quy thành tập luật lệ hiện hành không
làm thay đổi phạm vi hiệu lực của các văn bản đó. Trong tập luật lệ này, các
quy phạm, các chương, điều hoặc toàn bộ văn bản pháp quy được trích dẫn
hoặc đưa vào toàn bộ theo nguyên bản. Nếu các quy phạm trong bản gốc
hiệu lực trong phạm vi cả nước thì khi được đưa vào tập luật lệ chúng vẫn
giữ nguyên phạm vi hiệu lực đó.
- Sự liên kết của các quy phạm đượchệ thống hóa theo vấn đề không tạo nên
những chế định pháp mới chỉ dừng lại việc tập hợp hóa các văn bản
theo vấn đ đó. Toàn bộ cấu trúc hình thức của mỗi quy phạm, mỗi chương,
điều trong bản gốc quy phạm nào đó được đánh số th t chương, mục, điều,
khoản như thế nào, thì trong tập luật lệ hiện hành nó vẫn giữ nguyên thứ t
đó n trong n bản gốc.
- Nội dung của các quy phạm pháp luật khi được hệ thống hóa theo hình thức
này không thay đổi.
- Việc hệ thống hóa theo hình thức tập hợp hóa th do bất cứ mọi quan
Nhà nước thực hiện. Các quan này chỉ cần tập hợp, thu thập văn bản, tiến
hành soát, sắp xếp chúng theo vấn đề sau đó quyết định xuất bản tập
hệ thống hóa pháp luật hiện hành. Tập hợp hóa hình thức hiện nay được
các ngành dùng rất rộng rãi. Năm 1978 ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà
nước đã tiến hành hệ thống hóa xuất bản tập luật lệ khoa học kỹ thuật
để sử dụng thống nhất trong cả nước; một số quan chức năng khác như
Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Cục Sở hữu công nghiệp, Cục
Môi trường cũng đã tiến hành tập hợp hóa xuất bản các cuốn văn bản
pháp luật quản chuyên ngành của nh.
3. Pháp điển hoá pháp luật gì?
Pháp điển a pháp luật là hoạt động của quan nhà nước thẩm quyền
nhằm tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật trong từng lĩnh vực quản
nhất định, loại bỏ sự mâu thuẫn, chồng chéo các quy định lỗi thời, bổ sung
quy định mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế - hội. Kết qu của hoạt
động pháp điển hoá việc ban hành một n bản quy phạm pháp luật mới
dựa trên nền tảng pháp luật mà điển hình bộ luật.
Pháp điển hóa hoạt động của quan nhà nước thẩm quyền trong đó
không những tập hợp những văn bản đã theo 1 trình tự nhất định, loại bỏ
những quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn còn chế định thêm những quy phạm
mới nhằm thay thế cho những quy định bị loại bỏ khắc phục những chỗ
trống được thực hiện trong quá trình tập hợp n bản, sửa đổi các quy phạm
hiện hành, nâng cao hiệu lực pháp của chúng.
Pháp điển hóa hình thức cao nhất, hoàn chỉnh của công tác hệ thống hóa
pháp luật. hai trường phái pháp điển hóa pháp điển hóa nội dung
(substantive codification) pháp điển hóa nh thức (formal codification).
Pháp điển hóa nội dung Khi pháp điển hóa người ta không những tập hợp
những quy phạm hiện hành còn ban hành các quy phạm mới ngay
trong chính bộ luật. Khi i về pháp điển hóa, ngoài các đặc trưng nêu trên,
cần lưu ý rằng pháp điển hóa khác với tập hợp hóa rất nhiều về thủ tục tiến
hành. Công tác pháp điển hóa ch thể do quan quyền lực cao nhất
Quốc hội phê duyệt. Kết quả quá trình pháp điển hóa việc ban hành các bộ
luật.
Mặc nhiều ưu điểm nhưng pháp điển hóa nội dung theo cách truyền
thống ngày ng bộc lộ những hạn chế của mình. Đó "quá trình pháp điển
hóa một quá trình lâu i không bao giờ kết thúc không mang tính
tổng thể với hệ thống pháp luật. Trong khi đó, nhu cầu rất lớn của c chủ thể
trong hội thể dễ dàng tiếp cận với các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành theo các lĩnh vực khác nhau. Điều này chỉ thể giải quyết
được thông qua việc sử dụng cách thức pháp điẻn hóa về hình thức với
những ưu thế về tính tổng thể tính thực dụng của nó.
Khác với tập hợp hoá, trong pháp điển hoá, nội dung hình thức của quy
phạm pháp luật, chế định luật, n bản quy phạm pháp luật thể bị thay đổi
quan thẩm quyền thể sáng tạo thêm những quy phạm pháp luật
mới hoặc chế định luật mới, nâng một văn bản dưới luật thành đạo luật hoặc
bộ luật. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định việc soát, hệ
thống hoá văn bản quy phạm pháp luật một cách thường xuyên hoặc định
trách nhiệm các quan nhà nước phải thực hiện trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình.
Dưới đây chúng ta sẽ cùng làm về sự giống khác nhau giữa pháp điển
hóa hệ thống hóa.
4. Sự giống nhau giữa hệ thống hóa pháp điển hóa pháp luật
Đều phương pháp hệ thống hóa pháp luật.
Đề nhằm sắp xếp, hoàn thiện các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật,
chấn chỉnh thành hệ thống sự thống nhất nội tại theo một trình tự nhất định.
5. Sự khác nhau giữa Tập hợp hóa hóa pháp điển hóa pháp
luật
Luật Minh Khuê lập bảng so nh chi tiết sự khác nhau:
Tiêu chí so
sánh
Tập hợp hóa pháp luật
Pháp điển hóa pháp lut
Khái niệm
- Tập hợp hoá pháp luật thu thập, sắp xếp
các quy phạm pháp luật các văn bản quy
phạm pháp luật theo một trật tự nhất định để
làm hình thành nên một tập hợp các quy định
của pháp luật
- Pháp điển hoá pháp luật hình thc h
thống hoá pháp luật, trong đó cơ quan nhà
nước thẩm quyền tập hợp, sp xếp các
quy phạm pháp luật, các chế đnh pháp lut,
các văn bản quy phạm pháp lut hin hành
theo đối tượng điều chỉnh hay theo ch đ;
loại bỏ những mâu thuẫn chồng chéo, nhng
quy định lỗi thời, lạc hậu; sửa đi nhng quy
định chưa phù hợp; xây dựng, b sung nhng
quy định mới, từ đó xây dựng nên mt b
pháp điển hoặc ban hành một bộ lut mi trên
sở kế thừa phát triển các quy phm
pháp luật để m cho pháp lut thng nht,
hợp phát triển hơn.
Sự tác động
đến nội dung
hình thức
của quy
phạm pháp
luật
- Việc tập hợp h pháp luật không làm thay
đổi nội dung hình thức của quy phạm pháp
luật văn bản quy phạm pháp luật được thu
thập, không làm xuất hiện các quy phạm pháp
luật, chế định pháp luật các khái niệm pháp
mới, bởi các quy phạm pháp luật các
văn bản quy phạm pháp luật khi đưa o tập
hợp phải được sao chép nguyên văn.
- Nếu xây dựng bộ pháp điển theo ch đ
(pháp điển hóa về hình thức) thì vic pháp
điển hóa sẽ không làm thay đối ni dung và
hình thức của các quy phạm pháp lut và các
văn bản quy phạm pháp luật đưc tp hp.
Nếu xây dựng bộ luật mới (pháp đin hóa v
nội dung) thì việc pháp điển ho á có th làm
thay đổi nội dung hình thức ca các quy
phạm pháp luật các văn bn quy phm
pháp luật được thu thập, thể làm xut hin
thêm các quy phạm pháp luật, chế đnh pháp
luật các khái niệm pháp mới.
Thủ tục tiến
hành
- Việc tập hợp hoá pháp luật th được tiến
hành theo nhiều tiêu chí khác nhau: theo thời
gian ban hành n bản, theo giá trị pháp của
văn bản, theo đối tượng điều chỉnh của văn
bản...
- Việc pháp điển hoá chỉ được tiến hành theo
đối tượng điều chỉnh của quy phm pháp lut
các văn bản quy phạm pháp lut. Nếu xây
dựng bộ pháp điển theo chủ đề thì còn đưc
tiến hành theo giá trị pháp lý ca văn bn
hoặc quy phạm.
Sự tác động
đến hiệu lực
pháp
- Các quy phạm pháp luật các văn bản quy
phạm pháp luật được đưa vào tập hợp thể
còn hoặc đã hết hoặc sắp hiệu lực pháp lý.
- Các quy phạm pháp luật c văn bn quy
phạm pháp luật được thu thập trong quá trình
pháp điển hóa phải đang còn hiệu lc pháp lý.
Nếu xây dựng bộ pháp điển theo ch đ thì
các quy phạm các văn bản quy phm pháp
luật được thu thập th sắp có hiu lc
pháp lý.
Kết quả
- Kết qu cuối cùng của việc tập hợp h pháp
luật làm hình thành nên một tập hợp các
quy định của pháp luật nên ch thể tiến hành
tập hợp hoá pháp luật thể bất kỳ Tổ
chức, nhân nào trong hội song chủ yếu
c quan nhà nước các chuyên gia
pháp luật.
Theo nghĩa hẹp, tập hợp hoá pháp luật chỉ
một ng đoạn trong quá trình xây dựng pháp
luật, được thực hiện bởi các quan nhà
nước nhân thẩm quyền ban nh văn
bản quy phạm pháp luật. Khi xây dựng ban
hành một văn bản quy phạm pháp luật mới
trên sở các văn bản cũ, các chủ thể này
phải thu thập, sắp xếp các quy phạm pháp luật
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
theo đối tượng điều chỉnh của chúng để lựa
- Kết quả cuối cùng của pháp đin hoá là làm
hình thành nên một bộ pháp điển hoc mt b
luật mới trên sở kế thừa phát trin các
quy phạm pháp luật, các chế đnh pháp lut
các văn bản quy phạm pháp lut cũ nhm
làm cho pháp luật thống nhất, hp lý và phát
triển hơn nên chủ thể tiến hành pháp đin hoá
chỉ thể quan nhà nưc có thm
quyền theo quy định của pháp lut. Vit
Nam, nếu pháp điển hóa về nội dung thì ch
Quốc hội mới thể tiến nh, còn pháp đin
hóa về hình thức thì chủ thể th tiến hành
bao gồm Bộ, quan ngang bộ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân ti cao,
Kiếm toán Nhà nước, Văn phòng Quc hi,
Văn phòng Chủ tịch nước.
chọn các quy phạm pháp luật còn phù hợp
đưa vào văn bản mới, xác định những quy
phạm cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế,
những quy phạm còn thiếu cần phải xây dựng
thêm, làm sở cho việc nh thành nên một
văn bản quy phạm pháp luật mới trên sở
các văn bản .

Preview text:

Hệ thống hóa pháp luật là gì? Hình thức hệ thống hóa pháp luật
1. Hệ thống hóa pháp luật là gì?
Hệ thống hóa pháp luật là hoạt động nhằm sắp xếp, hoàn thiện các quy phạm
pháp luật, văn bản pháp luật, chấn chỉnh thành hệ thống có sự thống nhất nội
tại theo một trình tự nhất định.
Hệ thống hoá pháp luật có hai dạng là tập hợp hoá và pháp điển hoá.
2. Tập hợp hóa pháp luật là gì?
Tập hợp hoá pháp luật là sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật theo thời
gian ban hành, theo cơ quan ban hành hoặc theo lĩnh vực quản lí nhà nước...
trong đó, nội dung các văn bản quy phạm pháp luật được giữ nguyên. Thông
thường, việc tập hợp hoá được thực hiện theo từng ngành luật, từng chế định
pháp luật. Bất kì cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng có thể tiến hành tập hợp hoá pháp luật.
Tập hợp hóa là hình thức thu thập và sắp xếp các văn bản pháp quy theo
từng vấn đề thành tập luật lệ hiện hành. Ở Việt Nam từ trước đến nay chủ
yếu đã tiến hành hệ thống hóa dưới hình thức này theo nhiều lĩnh vực và vấn đề khác nhau.
Các đặc trưng của hình thức hệ thống hóa này thể hiện ở một số điểm cơ bản như sau:
- Việc tập hợp hóa các văn bản pháp quy thành tập luật lệ hiện hành không
làm thay đổi phạm vi hiệu lực của các văn bản đó. Trong tập luật lệ này, các
quy phạm, các chương, điều hoặc toàn bộ văn bản pháp quy được trích dẫn
hoặc đưa vào toàn bộ theo nguyên bản. Nếu các quy phạm trong bản gốc có
hiệu lực trong phạm vi cả nước thì khi được đưa vào tập luật lệ chúng vẫn
giữ nguyên phạm vi hiệu lực đó.
- Sự liên kết của các quy phạm đượchệ thống hóa theo vấn đề không tạo nên
những chế định pháp lý mới mà chỉ dừng lại ở việc tập hợp hóa các văn bản
theo vấn đề đó. Toàn bộ cấu trúc hình thức của mỗi quy phạm, mỗi chương,
điều trong bản gốc quy phạm nào đó được đánh số thứ tự chương, mục, điều,
khoản như thế nào, thì ở trong tập luật lệ hiện hành nó vẫn giữ nguyên thứ tự
đó như trong văn bản gốc.
- Nội dung của các quy phạm pháp luật khi được hệ thống hóa theo hình thức này không thay đổi.
- Việc hệ thống hóa theo hình thức tập hợp hóa có thể do bất cứ mọi cơ quan
Nhà nước thực hiện. Các cơ quan này chỉ cần tập hợp, thu thập văn bản, tiến
hành rà soát, sắp xếp chúng theo vấn đề và sau đó quyết định xuất bản tập
hệ thống hóa pháp luật hiện hành. Tập hợp hóa là hình thức hiện nay được
các ngành dùng rất rộng rãi. Năm 1978 ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà
nước đã tiến hành hệ thống hóa và xuất bản tập luật lệ khoa học và kỹ thuật
để sử dụng thống nhất trong cả nước; một số cơ quan chức năng khác như
Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, Cục Sở hữu công nghiệp, Cục
Môi trường cũng đã tiến hành tập hợp hóa và xuất bản các cuốn văn bản
pháp luật quản lý chuyên ngành của mình.
3. Pháp điển hoá pháp luật là gì?
Pháp điển hóa pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật trong từng lĩnh vực quản lí
nhất định, loại bỏ sự mâu thuẫn, chồng chéo và các quy định lỗi thời, bổ sung
quy định mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Kết quả của hoạt
động pháp điển hoá là việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật mới
dựa trên nền tảng pháp luật cũ mà điển hình là bộ luật.
Pháp điển hóa là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong đó
không những tập hợp những văn bản đã có theo 1 trình tự nhất định, loại bỏ
những quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn mà còn chế định thêm những quy phạm
mới nhằm thay thế cho những quy định bị loại bỏ và khắc phục những chỗ
trống được thực hiện trong quá trình tập hợp văn bản, sửa đổi các quy phạm
hiện hành, nâng cao hiệu lực pháp lý của chúng.
Pháp điển hóa là hình thức cao nhất, hoàn chỉnh của công tác hệ thống hóa
pháp luật. Có hai trường phái pháp điển hóa là pháp điển hóa nội dung
(substantive codification) và pháp điển hóa hình thức (formal codification).
Pháp điển hóa nội dung Khi pháp điển hóa người ta không những tập hợp
những quy phạm hiện hành mà còn ban hành các quy phạm mới ở ngay
trong chính bộ luật. Khi nói về pháp điển hóa, ngoài các đặc trưng nêu trên,
cần lưu ý rằng pháp điển hóa khác với tập hợp hóa rất nhiều về thủ tục tiến
hành. Công tác pháp điển hóa chỉ có thể do cơ quan quyền lực cao nhất là
Quốc hội phê duyệt. Kết quả quá trình pháp điển hóa là việc ban hành các bộ luật.
Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng pháp điển hóa nội dung theo cách truyền
thống ngày càng bộc lộ những hạn chế của mình. Đó là "quá trình pháp điển
hóa là một quá trình lâu dài và không bao giờ kết thúc và không mang tính
tổng thể với hệ thống pháp luật. Trong khi đó, nhu cầu rất lớn của các chủ thể
trong xã hội là có thể dễ dàng tiếp cận với các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành theo các lĩnh vực khác nhau. Điều này chỉ có thể giải quyết
được thông qua việc sử dụng cách thức pháp điẻn hóa về hình thức với
những ưu thế về tính tổng thể và tính thực dụng của nó.
Khác với tập hợp hoá, trong pháp điển hoá, nội dung và hình thức của quy
phạm pháp luật, chế định luật, văn bản quy phạm pháp luật có thể bị thay đổi
và cơ quan có thẩm quyền có thể sáng tạo thêm những quy phạm pháp luật
mới hoặc chế định luật mới, nâng một văn bản dưới luật thành đạo luật hoặc
bộ luật. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định việc rà soát, hệ
thống hoá văn bản quy phạm pháp luật một cách thường xuyên hoặc định kì
là trách nhiệm mà các cơ quan nhà nước phải thực hiện trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình.
Dưới đây chúng ta sẽ cùng làm rõ về sự giống và khác nhau giữa pháp điển hóa và hệ thống hóa.
4. Sự giống nhau giữa hệ thống hóa và pháp điển hóa pháp luật
– Đều là phương pháp hệ thống hóa pháp luật.
– Đề nhằm sắp xếp, hoàn thiện các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật,
chấn chỉnh thành hệ thống có sự thống nhất nội tại theo một trình tự nhất định.
5. Sự khác nhau giữa Tập hợp hóa hóa và pháp điển hóa pháp luật
Luật Minh Khuê lập bảng so sánh chi tiết sự khác nhau: Tiêu chí so sánh
Tập hợp hóa pháp luật
Pháp điển hóa pháp luật
- Pháp điển hoá pháp luật là hình thức hệ
thống hoá pháp luật, trong đó cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tập hợp, sắp xếp các
quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật,
- Tập hợp hoá pháp luật là thu thập, sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
các quy phạm pháp luật và các văn bản quy theo đối tượng điều chỉnh hay theo chủ đề;
Khái niệm phạm pháp luật theo một trật tự nhất định để loại bỏ những mâu thuẫn chồng chéo, những
làm hình thành nên một tập hợp các quy định quy định lỗi thời, lạc hậu; sửa đổi những quy của pháp luật
định chưa phù hợp; xây dựng, bổ sung những
quy định mới, từ đó xây dựng nên một bộ
pháp điển hoặc ban hành một bộ luật mới trên
cơ sở kế thừa và phát triển các quy phạm
pháp luật cũ để làm cho pháp luật thống nhất,
hợp lý và phát triển hơn.
- Nếu xây dựng bộ pháp điển theo chủ đề
(pháp điển hóa về hình thức) thì việc pháp
Sự tác động - Việc tập hợp hoá pháp luật không làm thay điển hóa sẽ không làm thay đối nội dung và
đổi nội dung và hình thức của quy phạm pháp hình thức của các quy phạm pháp luật và các
đến nội dung luật và văn bản quy phạm pháp luật được thu văn bản quy phạm pháp luật được tập hợp.
và hình thức thập, không làm xuất hiện các quy phạm pháp Nếu xây dựng bộ luật mới (pháp điển hóa về của quy
luật, chế định pháp luật và các khái niệm pháp nội dung) thì việc pháp điển ho á có thể làm
lý mới, bởi vì các quy phạm pháp luật và các thay đổi nội dung và hình thức của các quy
phạm pháp văn bản quy phạm pháp luật khi đưa vào tập phạm pháp luật và các văn bản quy phạm luật
hợp phải được sao chép nguyên văn.
pháp luật được thu thập, có thể làm xuất hiện
thêm các quy phạm pháp luật, chế định pháp
luật và các khái niệm pháp lý mới.
- Việc tập hợp hoá pháp luật có thể được tiến - Việc pháp điển hoá chỉ được tiến hành theo
đối tượng điều chỉnh của quy phạm pháp luật
Thủ tục tiến hành theo nhiều tiêu chí khác nhau: theo thời và các văn bản quy phạm pháp luật. Nếu xây hành
gian ban hành văn bản, theo giá trị pháp lý của
văn bản, theo đối tượng điều chỉnh của văn dựng bộ pháp điển theo chủ đề thì còn được bản...
tiến hành theo giá trị pháp lý của văn bản hoặc quy phạm.
- Các quy phạm pháp luật và các văn bản quy
phạm pháp luật được thu thập trong quá trình
Sự tác động - Các quy phạm pháp luật và các văn bản quy pháp điển hóa phải đang còn hiệu lực pháp lý.
đến hiệu lực phạm pháp luật được đưa vào tập hợp có thể Nếu xây dựng bộ pháp điển theo chủ đề thì pháp lý
còn hoặc đã hết hoặc sắp có hiệu lực pháp lý. các quy phạm và các văn bản quy phạm pháp
luật được thu thập có thể sắp có hiệu lực pháp lý.
- Kết quả cuối cùng của việc tập hợp hoá pháp
luật là làm hình thành nên một tập hợp các
quy định của pháp luật nên chủ thể tiến hành - Kết quả cuối cùng của pháp điển hoá là làm
tập hợp hoá pháp luật có thể là bất kỳ Tổ hình thành nên một bộ pháp điển hoặc một bộ
chức, cá nhân nào trong xã hội song chủ yếu luật mới trên cơ sở kế thừa và phát triển các
quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật
là các cơ quan nhà nước và các chuyên gia và các văn bản quy phạm pháp luật cũ nhằm pháp luật.
làm cho pháp luật thống nhất, hợp lý và phát
Theo nghĩa hẹp, tập hợp hoá pháp luật chỉ là triển hơn nên chủ thể tiến hành pháp điển hoá
chỉ có thể là cơ quan nhà nước có thẩm Kết quả
một công đoạn trong quá trình xây dựng pháp quyền theo quy định của pháp luật. Ở Việt
luật, được thực hiện bởi các cơ quan nhà Nam, nếu pháp điển hóa về nội dung thì chỉ
nước và cá nhân có thẩm quyền ban hành văn Quốc hội mới có thể tiến hành, còn pháp điển
hóa về hình thức thì chủ thể có thể tiến hành
bản quy phạm pháp luật. Khi xây dựng và ban bao gồm Bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân
hành một văn bản quy phạm pháp luật mới dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
trên cơ sở các văn bản cũ, các chủ thể này Kiếm toán Nhà nước, Văn phòng Quốc hội,
Văn phòng Chủ tịch nước.
phải thu thập, sắp xếp các quy phạm pháp luật
và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
theo đối tượng điều chỉnh của chúng để lựa
chọn các quy phạm pháp luật còn phù hợp
đưa vào văn bản mới, xác định những quy
phạm cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế,
những quy phạm còn thiếu cần phải xây dựng
thêm, làm cơ sở cho việc hình thành nên một
văn bản quy phạm pháp luật mới trên cơ sở các văn bản cũ.
Document Outline

  • Hệ thống hóa pháp luật là gì? Hình thức hệ thống h
    • 1. Hệ thống hóa pháp luật là gì?
    • 2. Tập hợp hóa pháp luật là gì?
    • 3. Pháp điển hoá pháp luật là gì?
    • 4. Sự giống nhau giữa hệ thống hóa và pháp điển hó
    • 5. Sự khác nhau giữa Tập hợp hóa hóa và pháp điển