Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban
hành đúng thâm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Nhìn
chung, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thường được phân chia thành hai loại
cơ bản là văn bản luật và văn bản dưới luật. Trong đó văn bản luật là văn bản do cơ
quan lập pháp ( Quốc hội) ban hành và văn bản dưới luật là văn bản do các cơ
quan, người có thẩm quyền khác ban hành. Văn bản dưới luật có giá trị pháp lí thấp
hơn văn bản luật. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có thể được
xác định dựa vào các hình thức của các văn bản quy phạm pháp luật ( tương ứng
với cơ quan hoặc người có thẩm quyền ban hành). Theo Điều 4, Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật 2015, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm:
- Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
- Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
- Nghị định của Chính phủ
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thông tin
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
- Thông tư của Viện trường Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ tướng cơ quan ngang bộ
- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước
- Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ
với Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
*Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
+) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà
nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước ta. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước như:
bản chất và hình thức của Nhà nước; thể chế chính trị, kinh tế, xã hội của Nhà
nước; địa vị pháp lí của công dân; hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước,…Với thẩm quyền lập hiến, Quốc hội có quyền
ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp được Quốc hội thông qua với ít nhất
là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Quốc hội quy định
việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và thủ tục, trình
tự giải thích Hiến pháp.
Về thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, GS.
Hoàng Thế Liên nhấn mạnh: 5 bản Hiến pháp của nước ta (Hiến pháp năm 1946,
năm 1959, năm 1980, năm 1992 có sửa đổi bổ sung vào năm 2001 và Hiến pháp
năm 2013) là 5 nấc thang lớn vươn tới dân chủ và Nhà nước pháp quyền, đồng thời
thể hiện sự nhận thức, tiếp cận ngày càng đầy đủ hơn học thuyết về nhà nước pháp
quyền hiện đại.
Sau khi đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" lịch sử ngày 02/9/1945 khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày
03/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ; một trong
những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng hiến pháp. Về vấn đề hiến pháp, Người
viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không
kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ"
Hiến pháp năm 1946 bao gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 Điều.Lời nói đầu
xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành
độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Lời nói đầu còn xác
định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Đó là những nguyên tắc sau đây:
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo;
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ;
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Hiến pháp năm 1959 gồm có Lời nói đầu và 112 Điều, chia làm 10 chương.Lời
nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà
Mau, khẳng định những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lời nói đầu
ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản
Việt Nam) đồng thời xác định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân
dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hiến
pháp năm 1959 là bản Hiến pháp được xây dựng theo mô hình Hiến pháp xã hội
chủ nghĩa. Đó là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.
Hiến pháp năm 1980 bao gồm Lời nói đầu, 147 Điều chia làm 12 chương.Lời
nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi nhận
những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng
tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu còn xác định những nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp năm 1980 đề cập.
Hiến pháp năm 1992 gồm Lời nói đầu và 147 Điều chia làm 12 chương.Lời nói
đầu của Hiến pháp năm 1992 về cơ bản kế thừa nội dung Lời nói đầu của các Hiến
pháp trước; ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới;
So sánh với các bản Hiến pháp trước đây trên cơ sở những nhận thức chung như
vậy, có thể thấy những điểm mới của Hiến pháp 2013 về Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam . So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 đã có các quy định cụ thể
về hiệu lực và quy trình thủ tục làm và sửa đổi Hiến pháp; thể hiện tính chất dân
chủ và pháp quyền của Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện và phát triển. Phải đến
Hiến pháp năm 2013 mới được đánh giá là bước tiến mới về chất trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đã cụ thể hoá những nguyên tắc hiến định
về nhà nước pháp quyền, Nhà nước ta đã có những cố gắng vượt bậc trong xây
dựng và tổ chức thực hiện pháp luật vì dân chủ, nhân quyền và sự phát triển KT-
XH của đất nước, thể hiện ở những thành công bước đầu quan trọng mà Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá.
+) Luật ( Đạo luật) là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị sau Hiến pháp. Luật
của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo
dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công
dân. Luật do Quốc hội thông qua với ít nhất quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội
biểu quyết tán thành. Xây dựng và ban hành luật là hoạt động chủ yếu của Quốc
hội trong các kỳ họp.
Ví dụ: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình…
Trong khoa học pháp lý, bộ luật và luật đều được gọi là đạo luật; sự khác nhau
giữa bộ luật và luật thường không nhiều. Tuy nhiên, bộ luật thường điều chỉnh các
nhóm quan hệ xã hội rộng lớn và có tính bao quát; bộ luật là “xương sống” của
một ngành luật. Ngoài ra, các bộ luật lớn còn chứa đựng những nguyên tắc chi phối
các ngành luật lân cận. Ví dụ: các quy định của Bộ luật Dân sự có thể được viện
dẫn trong khi giải quyết các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp
luật thương mại…Trong khi đó, văn bản luật có phạm vi điều chỉnh không rộng
lắm. Một văn bản luật không nhất thiết tạo ra một ngành luật vì một ngành luật có
thể sử dụng nhiều văn bản luật làm cơ sở. Ví dụ: Luật Tố tụng hành chính năm
2010 là nguồn cơ bản của ngành luật tố tụng hành chính; nhưng Luật Luật sư
không tạo ra ngành luật riêng.
+) Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định tỷ lệ phân chia các
khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương;
thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc
hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành; tạm
ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của
Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp
đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; đại xá; vấn đề khác thuộc
thẩm quyền của Quốc hội. Cũng như luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá
nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
-Nếu Hiến pháp là văn bản thể hiện quyền lập hiến, luật là văn bản thể hiện
quyền lập pháp của Quốc hội, thì nghị quyết không được xác định rõ là văn bản
luật hay văn bản dưới luật. Hơn nữa, có những nghị quyết của Quốc hội dùng để
quy định chế độ làm việc của Quốc hội hoặc dùng để phê chuẩn điều ước quốc tế,
song cũng có nghị quyết dùng để bổ sung, sửa đổi Hiến pháp.
. Có những nghị quyết áp dụng pháp luật, nội dung chính chỉ được trình bày
trong Điều 1 và không trình bày về nghĩa vụ, quyền lợi của đối tượng thi hành
(thường công việc có tính chất đơn giản, mang tính tuyên bố, công nhận về mặt
pháp lý). Ví dụ: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện A về việc bầu các thành
viên Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nội dung chính chỉ có một điều:
“Điều 1. Bầu các ông, bà có tên sau đây là thành viên của Uỷ ban nhân dân huyện
A, khoá ...”
- Phần kết thúc của nghị quyết, người soạn thảo cũng trình bày hiệu lực pháp lý
về đối tượng thi hành: “Ai... có trách nhiệm thi hành Nghị quyết này” trong điều
cuối. Ngoài ra với nghị quyết do Quốc hội và hội đồng nhân dân ban hành phải
soạn thảo một câu cuối cùng về thủ tục thông qua nghị quyết, ví dụ: Nghị quyết
này đã được Quốc hội (hội đồng nhân dân) khoá... kì họp thứ... từ ngày... đến
ngày... thông qua.
Ví dụ: 1) Nghị quyết số 140/2021/QH14 miễn nhiệm chức vụ Thủ tướng Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Preview text:

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban
hành đúng thâm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Nhìn
chung, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thường được phân chia thành hai loại
cơ bản là văn bản luật và văn bản dưới luật. Trong đó văn bản luật là văn bản do cơ
quan lập pháp ( Quốc hội) ban hành và văn bản dưới luật là văn bản do các cơ
quan, người có thẩm quyền khác ban hành. Văn bản dưới luật có giá trị pháp lí thấp
hơn văn bản luật. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có thể được
xác định dựa vào các hình thức của các văn bản quy phạm pháp luật ( tương ứng
với cơ quan hoặc người có thẩm quyền ban hành). Theo Điều 4, Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật 2015, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm:
- Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
- Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
- Nghị định của Chính phủ
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thông tin
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
- Thông tư của Viện trường Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ tướng cơ quan ngang bộ
- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước
- Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ
với Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
*Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội +) Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà
nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước ta. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước như:
bản chất và hình thức của Nhà nước; thể chế chính trị, kinh tế, xã hội của Nhà
nước; địa vị pháp lí của công dân; hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước,…Với thẩm quyền lập hiến, Quốc hội có quyền
ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp được Quốc hội thông qua với ít nhất
là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Quốc hội quy định
việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và thủ tục, trình
tự giải thích Hiến pháp.
Về thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, GS.
Hoàng Thế Liên nhấn mạnh: 5 bản Hiến pháp của nước ta (Hiến pháp năm 1946,
năm 1959, năm 1980, năm 1992 có sửa đổi bổ sung vào năm 2001 và Hiến pháp
năm 2013) là 5 nấc thang lớn vươn tới dân chủ và Nhà nước pháp quyền, đồng thời
thể hiện sự nhận thức, tiếp cận ngày càng đầy đủ hơn học thuyết về nhà nước pháp quyền hiện đại.
Sau khi đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" lịch sử ngày 02/9/1945 khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày
03/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ; một trong
những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng hiến pháp. Về vấn đề hiến pháp, Người
viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không
kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ"
Hiến pháp năm 1946 bao gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 Điều.Lời nói đầu
xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành
độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Lời nói đầu còn xác
định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Đó là những nguyên tắc sau đây:
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo;
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ;
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Hiến pháp năm 1959 gồm có Lời nói đầu và 112 Điều, chia làm 10 chương.Lời
nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà
Mau, khẳng định những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lời nói đầu
ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản
Việt Nam) đồng thời xác định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân
dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hiến
pháp năm 1959 là bản Hiến pháp được xây dựng theo mô hình Hiến pháp xã hội
chủ nghĩa. Đó là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.
Hiến pháp năm 1980 bao gồm Lời nói đầu, 147 Điều chia làm 12 chương.Lời
nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi nhận
những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng
tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu còn xác định những nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp năm 1980 đề cập.
Hiến pháp năm 1992 gồm Lời nói đầu và 147 Điều chia làm 12 chương.Lời nói
đầu của Hiến pháp năm 1992 về cơ bản kế thừa nội dung Lời nói đầu của các Hiến
pháp trước; ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới;
So sánh với các bản Hiến pháp trước đây trên cơ sở những nhận thức chung như
vậy, có thể thấy những điểm mới của Hiến pháp 2013 về Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam . So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 đã có các quy định cụ thể
về hiệu lực và quy trình thủ tục làm và sửa đổi Hiến pháp; thể hiện tính chất dân
chủ và pháp quyền của Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện và phát triển. Phải đến
Hiến pháp năm 2013 mới được đánh giá là bước tiến mới về chất trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đã cụ thể hoá những nguyên tắc hiến định
về nhà nước pháp quyền, Nhà nước ta đã có những cố gắng vượt bậc trong xây
dựng và tổ chức thực hiện pháp luật vì dân chủ, nhân quyền và sự phát triển KT-
XH của đất nước, thể hiện ở những thành công bước đầu quan trọng mà Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá.
+) Luật ( Đạo luật) là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị sau Hiến pháp. Luật
của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo
dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công
dân. Luật do Quốc hội thông qua với ít nhất quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội
biểu quyết tán thành. Xây dựng và ban hành luật là hoạt động chủ yếu của Quốc hội trong các kỳ họp.
Ví dụ: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình…
Trong khoa học pháp lý, bộ luật và luật đều được gọi là đạo luật; sự khác nhau
giữa bộ luật và luật thường không nhiều. Tuy nhiên, bộ luật thường điều chỉnh các
nhóm quan hệ xã hội rộng lớn và có tính bao quát; bộ luật là “xương sống” của
một ngành luật. Ngoài ra, các bộ luật lớn còn chứa đựng những nguyên tắc chi phối
các ngành luật lân cận. Ví dụ: các quy định của Bộ luật Dân sự có thể được viện
dẫn trong khi giải quyết các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp
luật thương mại…Trong khi đó, văn bản luật có phạm vi điều chỉnh không rộng
lắm. Một văn bản luật không nhất thiết tạo ra một ngành luật vì một ngành luật có
thể sử dụng nhiều văn bản luật làm cơ sở. Ví dụ: Luật Tố tụng hành chính năm
2010 là nguồn cơ bản của ngành luật tố tụng hành chính; nhưng Luật Luật sư
không tạo ra ngành luật riêng.
+) Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định tỷ lệ phân chia các
khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương;
thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc
hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành; tạm
ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của
Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp
đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; đại xá; vấn đề khác thuộc
thẩm quyền của Quốc hội. Cũng như luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá
nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
-Nếu Hiến pháp là văn bản thể hiện quyền lập hiến, luật là văn bản thể hiện
quyền lập pháp của Quốc hội, thì nghị quyết không được xác định rõ là văn bản
luật hay văn bản dưới luật. Hơn nữa, có những nghị quyết của Quốc hội dùng để
quy định chế độ làm việc của Quốc hội hoặc dùng để phê chuẩn điều ước quốc tế,
song cũng có nghị quyết dùng để bổ sung, sửa đổi Hiến pháp.
. Có những nghị quyết áp dụng pháp luật, nội dung chính chỉ được trình bày
trong Điều 1 và không trình bày về nghĩa vụ, quyền lợi của đối tượng thi hành
(thường công việc có tính chất đơn giản, mang tính tuyên bố, công nhận về mặt
pháp lý). Ví dụ: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện A về việc bầu các thành
viên Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nội dung chính chỉ có một điều:
“Điều 1. Bầu các ông, bà có tên sau đây là thành viên của Uỷ ban nhân dân huyện A, khoá ...”
- Phần kết thúc của nghị quyết, người soạn thảo cũng trình bày hiệu lực pháp lý
về đối tượng thi hành: “Ai... có trách nhiệm thi hành Nghị quyết này” trong điều
cuối. Ngoài ra với nghị quyết do Quốc hội và hội đồng nhân dân ban hành phải
soạn thảo một câu cuối cùng về thủ tục thông qua nghị quyết, ví dụ: Nghị quyết
này đã được Quốc hội (hội đồng nhân dân) khoá... kì họp thứ... từ ngày... đến ngày... thông qua.
Ví dụ: 1) Nghị quyết số 140/2021/QH14 miễn nhiệm chức vụ Thủ tướng Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2016 - 2021.