







Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN 
KHOA TUYÊN TRUYỀN    ----  --                ĐỀ CƢƠNG   
MÔN: HỆ TƢ TƢỞNG HỌC   
Đề tài: Hệ tư tưởng phong kiến với vấn đề con người         
Học viên: Tạ Vũ Uyên Nhi  Mã sinh viên: 2055380037 
Lớp chuyên ngành: Truyền thông chính sách K40 
Khoa: Tuyên Truyền               
Hà Nội – Năm 2021      1   
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Vấn đề con người luôn là đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm trên các 
diễn đàn. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử thì việc phát 
hiện và nghiên cứu về con người là khác nhau bởi sự chi phối về điều 
kiện văn hóa và chính trị khác nhau hay còn gọi là hệ tư tưởng xã hội. 
Quá trình chuyển hướng này diễn ra vô cùng phức tạp được thông qua 
nhiều sự kiện đa dạng và phong phú, đôi khi gây nên những bi kịch lịch 
sử kéo dài đối với cả một dân tộc. Đối với hệ tư tưởng phong kiến – một 
giai cấp đã giữ vai trò thống trị xã hội hàng bao nhiêu thế kỷ với sự 
chuyên chế độc đoán, gia trưởng cũng đã có những tác động to lớn nhất 
định, dẫn đến sự thay đổi và phát triển của con người. Ngày nay, có nhiều 
quốc gia xưa kia đã từng phải chịu ảnh hưởng bởi chế độ phong kiến đã 
có những sự đổi mới về mặt chính trị, văn hóa… Tuy nhiên chúng ta vẫn 
phải tìm hiểu nguyên nhân sâu xa, xem xét ảnh hưởng của những tư 
tưởng lý thuyết chính trị xã hội trong lịch sử, bởi chúng mang cả ảnh 
hưởng tích cực lẫn tiêu cực đến quá trình phát triển đổi mới của con  người. 
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ tư tưởng phong kiến và tác động của hệ tư 
tưởng đối với sự phát triển của loài người 
- Phạm vi nghiên cứu: Các quốc gia ở phương Đông, phương Tây đã 
từng trải qua thời kỳ phong kiến, cùng với những học thuyết liên quan 
3. Mục đích nghiên cứu 
Làm rõ nội dung chủ yếu của hệ tư tưởng phong kiến, phân tích thực 
trạng và nguyên nhân ảnh hưởng của hệ tư tưởng tác động đối với con  người. 
4. Cơ sở lý luận  2   
Đề tài được thực hiện dựa trên các quan điểm, nghiên cứu những bước 
tiến trong sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng phong kiến, từ đó 
tác động lên sự thay đổi của loài người qua các thời kỳ ở các nước từ 
phương Đông đến phương Tây.      NỘI DUNG 
CHƢƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM   
1.1. Khái niệm hệ tƣ tƣởng 
Khái niệm hệ tư tưởng có liên quan đến hàng loạt khái niệm lân 
cận, tương đồng như: tư tưởng, ý thức, tinh thần, tri thức, kiến 
thức, thế giới quan, ý thức hệ, chủ nghĩa, học thuyết, nhận thức, tư  duy, linh hồn... 
Hệ tư tưởng là tổng hợp các tư tưởng và quan điểm phản ánh dưới 
hình thức lý luận ít nhiều có tính hệ thống những mối quan hệ của 
con người với thế giới xung quanh và quan hệ giữa con người với 
con người; nó có vai trò chỉ đạo hoạt động của con người nhằm 
củng cố, phát triển các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của chủ  thể hệ tư tưởng. 
Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống 
những quan điểm, tư tưởng (triết học, chính trị, đạo đức, nghệ 
thuật, tôn giáo...), là kết quả của sự khái quát hóa kinh nghiệm xã 
hội, thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp, tầng lớp xã hội. 
Hệ tư tưởng luôn mang tính giai cấp, phản ánh lợi ích của giai cấp, 
mối quan hệ giữa các giai cấp. Nếu hiểu chính trị là mối quan hệ 
giữa các giai cấp như V.I.Lênin nói, thì hệ tư tưởng là một phạm  trù chính trị. 
1.2. Khái niệm hệ tƣ tƣởng phong kiến  3   
Hệ tư tưởng phong kiến là những quan điểm, tư tưởng về chính trị, 
triết học, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... được giai cấp 
thống trị trong xã hội phong kiến chấp nhận, truyền bá để bảo vệ 
địa vị và lợi ích của giai cấp mình.   
CHƢƠNG II: ẢNH HƢỞNG CỦA HỆ TƢ TƢỞNG PHONG KIẾN VỚI  CON NGƢỜI 
Chế độ phong kiến xuất hiện khi những mâu thuẫn chủ yếu của xã hội chiếm 
hữu nô lệ trở nên gay gắt không thể giải quyết được; giai cấp nô lệ liên tục nổi 
dậy đấu tranh nhằm tìm ra lối thoát cho giai cấp mình, nhưng tất cả các cuộc nổi 
dậy đó đều bị nhà nước chiếm hữu nô lệ đàn áp một cách tàn khốc. Những cuộc 
đấu tranh đó làm cho xã hội nô lệ bước vào thời kỳ suy tàn, tạo thời cơ cho các 
bộ tộc lạc hậu lân cận ở cả phương Tây cũng như phương Đông, thừa cơ xâm 
nhập mà lật đổ chế độ nô lệ, thay thế bằng chế độ phong kiến. Bản chất của chế 
độ mới này là sự x ấ
u t hiện hai giai cấp mới: giai cấp địa chủ phong kiến và giai  cấp nông dân. 
 2.1. Ảnh hƣởng của hệ tƣ tƣởng phong kiến với con ngƣời ở phƣơng  Đông 
 Phương Đông là vùng đất rộng lớn, bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Việt 
Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, vùng Trung Á, Tây Á và vùng bán đảo Ảrập... Ở 
mỗi vùng lãnh thổ đó, trong thời kỳ phong kiến giai cấp thống trị xã hội lại chấp 
nhận và sử dụng những trào lưu tư tưởng khác nhau. Vì thế, nên khi nghiên cứu 
hệ tư tưởng phong kiến phương Đông chủ yếu tập trung vào nghiên cứu tư 
tưởng của Nho giáo. Bởi lẽ, tư tưởng Nho giáo được truyền bá và ảnh hưởng 
đến nhiều nước ở phương Đông, trong đó có Việt Nam. 
 2.1.1. Con ngƣời trong nội dung tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo  4   
 Tư tưởng Nho giáo gồm bốn nội dung cơ bản: Vũ trụ quan, lịch sử 
quan, đạo đức và trị đạo. Trong đó, nội dung cơ bản nhất của Nho giáo là đạo 
đức. Đạo đức quan hệ chặt chẽ với trị đạo. Cái đích của Nho giáo là nhằm phục 
vụ trị nước, bình thiên hạ. 
 So với hệ tư tưởng thời nô lệ với thế giới quan hai tầng, thì tư tưởng 
mệnh trong thế giới quan Nho giáo đã rất linh hoạt, tạo những cơ sở khoáng đạt 
cho sự vươn lên của con người trong việc đấu tranh với thiên mệnh. Nhiều nhà 
nho tiến bộ sau này đã tìm ra những quy luật vận động của tự nhiên xã hội cũng 
chính nhờ tư tưởng khoáng đạt này. Khổng Tử nói: “Đến 50 tuổi người ta có thể 
biết mệnh trời”. Tức là con người đến độ chín của tư duy thì có thể biết mệnh 
trời, chứ không đợi mệnh trời giáng xuống bất kỳ. Biết mệnh trời chẳng qua là 
biết tư duy, luận chứng và dự đoán sự vận động trong thế giới và trong mỗi con  người. 
 Quá trình nhận thức về nguồn gốc con người là một vấn đề khó khăn 
đòi hỏi phải trải qua một quá trình phát triển của nhân loại thì mới có thể lý giải 
một cách đúng đắn. Tuy nhiên, Khổng Tử đã có cái nhìn về con người một cách 
khá toàn vẹn khi bắt đầu lý giải con người sinh ra từ đâu. Trên quan điểm con 
người là một bộ phận không thể t ách rời với tự n
 hiên, Khổng Tử cho rằng 
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên đều vận hành theo quy luật âm dương. 
Trong quan điểm của mình Khổng Tử đề cao vai trò và vị trí của con người 
trong xã hội. Ông xem con người là vấn đề quan trọng nhất dẫn đến sự thịnh, 
suy của một triều đại. Tuy nhiên, Khổng Tử cho rằng mỗi con người trong xã 
hội đều có một vai trò nhất định. Vai trò đó của mỗi con người là không giống 
nhau nên con người có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Nho giáo 
thực sự là một hệ tư tưởng của chế độ phong kiến, nó có đầy đủ các quan điểm, 
lý lẽ về thiên nhiên, xã hội, đạo đức, chính trị, lấy con người làm cơ bản, lấy xã 
hội làm trung tâm, nhưng vẫn phụ thuộc vào trời, thần vào số mệnh.  5   
 Hệ tư tưởng phong kiến đã có vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử xã 
hội loài người. Nhờ tư tưởng lấy con người, lấy xã hội làm trung tâm, lấy đạo 
đức và trung tín làm gốc - nên đã hình thành một nền văn hóa giàu tính nhân 
bản ăn sâu vào đời sống của con người và của dân tộc. Tuy nhiên là hệ tư tưởng 
của giai cấp bóc lột, giai cấp quý tộc phong kiến, nên không tránh khỏi có 
những hạn chế lịch sử và chứa đựng những yếu tố lạc hậu và phản động, kìm  hãm sự phát triển. 
 Hệ tư tưởng phong kiến ở phương Đông đã có tác động tích cực đối với 
con người như có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt Nam, là nền 
tảng đạo đức giáo dục con người, đóng góp to lớn vào việc tổ c ứ h c nhà nước, 
duy trì trật tự xã hội, phát triển kinh tế, sáng tác văn học trong các triều đại quân 
chủ như Nhà Lý, Nhà Trần, Nhà Lê, Nhà Nguyễn, trong suốt chiều dài lịch sử 
phù hợp và dung hòa với đời sống người Việt hình thành nền Nho giáo bản sắc 
Việt Nam nôm na gọi là Việt Nho. N
 ho giáo từng bước định hình lối sống, sinh 
hoạt, đạo đức, đối nhân xử thế trong xã hội Việt Nam. Một số tư tưởng của Nho 
giáo vẫn đóng vai trò trong trật tự xã hội Việt Nam tới ngày nay. 
 Còn về mặt tiêu cực là hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột, giai cấp quý tộc 
phong kiến, nên không tránh khỏi có những hạn chế lịch sử và chứa đựng những 
yếu tố lạc hậu và phản động, kìm hãm sự phát triển.   
 2.2. Ảnh hƣởng của hệ tƣ tƣởng phong kiến với con ngƣời ở phƣơng  Tây 
 Trong suốt thời kỳ Trung cổ, giai cấp thống trị phương Tây đã thừa 
nhận tư tưởng thần học Kitô giáo là hệ tư tưởng chính thống và sử dụng nó để  thống trị xã hội. 
 2.2.1. Con ngƣời trong nội dung thần học Kitô Giáo  6   
 Theo giáo lý của đạo Công giáo, con người do Thiên Chúa tạo dựng 
nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa tạo ra có nhiệm 
vụ thờ phụng Thiên Chúa và tiếp tục công việc kiến tạo trái đất của Thiên Chúa. 
Theo quan niệm của đạo Công giáo, trong các công trình sáng tạo của Thiên 
Chúa, con người là sản phẩm hoàn hảo và tuyệt mỹ. Con người có trí khôn, có 
lương tâm và đạo đức nên làm chủ thế giới và muôn loài. Con người có mối 
quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa và được Thiên Chúa yêu thương hơn hết. Sau 
này khi con người sa ngã tội lỗi, mối quan hệ trực tiếp không còn nữa mà thông 
qua Đấng Cứu chuộc là Chúa Giêsu. 
Con người có tính phàm tục nên mắc phải nhiều tội lỗi. Bản chất tội lỗi của con 
người là lòng tham và tính ích kỷ. T
 heo quan niệm của đạo Công giáo, trong các 
công trình sáng tạo của Thiên Chúa, con người là sản phẩm hoàn hảo và tuyệt 
mỹ. Con người có trí khôn, có lương tâm và đạo đức nên làm chủ thế giới và 
muôn loài. Con người có mối quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa và được Thiên 
Chúa yêu thương hơn hết. Theo Giáo lý của đạo Công giáo, con người có hai 
phần là phần thể xác và phần linh hồn. Phải có đủ hai phần thể xác và linh hồn 
mới thành một con người sống. 
Tích cực :Hệ tư tưởng phong kiến ở phương Tây đã chấm dứt chế độ nô lệ giúp 
con người hướng thiện chăm làm việc tốt, làm cho cuộc sống con người trở nên 
tốt đẹp hơn. tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin 
thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng 
đồng. Họat động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh 
mẽ hơn, nhiệt thành hơn. 
Tiêu cực: Nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm 
tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Về mặt nào đó, đã 
tạo cho con người thế giới quan và nhân sinh quan sai lệch, làm hạn chế tính 
tích cực, chủ động và sáng tạo của con người. Nó tạo cho các tín đồ thái độ  7   
bàng quan trước thế giới hiện thực, bằng lòng với số phận. không tích cực đấu 
tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin 
rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu “quả báo” hoặc bị trừng trị ở kiếp sau.   
KẾT LUẬN 
Ở nước ta chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm. Chúng ta tiến lên chủ 
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Do vậy các yếu tố 
trong hệ tư tưởng phong kiến còn lưu giữ và ảnh hưởng khá phổ biến. Có những 
yếu tố tích cực và nhiều yếu tố lạc hậu, nói chung về căn bản hệ tư tưởng phong 
kiến đã lỗi thời. Chế độ phong kiến chấm dứt, kéo theo hệ tư tưởng phong kiến 
cũng không còn chiếm địa vị chủ đạo. Tuy nhiên vì nó ăn sâu vào truyền thống 
nên có những giá trị của nó vẫn còn lưu giữ tới bây giờ, đòi hỏi hệ tư tưởng vô 
sản của chúng ta phải đấu tranh với những gì bảo thủ, phản động, phát huy và 
chuyển hóa những mặt tích cực thành các yếu tố góp phần vào công cuộc xây 
dựng chủ nghĩa xã hội.        8