








Preview text:
lOMoAR cPSD| 58702377 Mục lục lOMoAR cPSD| 58702377
I: Định nghĩa .............................................................................................................. 3
II: Thực trạng ............................................................................................................ 3
1.1. Giai đoạn 2020-2021 (dịch covid-19) ............................................................. 3
1.2. Giai đoạn hiện nay .......................................................................................... 4
III: Nguyên nhân và hậu quả ................................................................................... 5
1: Nguyên nhân ...................................................................................................... 5
2: Hậu quả .............................................................................................................. 6
IV: Giải pháp ............................................................................................................. 8 lOMoAR cPSD| 58702377 I:Định nghĩa
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm 2021, doanh nghiệp nhà nước bao gồm
các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền
biểu quyết theo quy định pháp luật.
Ở Việt Nam, kinh tế nhà nước luôn được xác định giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, trong đó, doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận của kinh tế nhà nước, hiện
diện ở nhiều ngành, lĩnh vực và có vai trò, vị trí quan trọng đối với nền kinh tế. II: Thực trạng
1.1. Giai đoạn 2020-2021 (dịch covid-19) Năm 2020:
• Số lượng DNNN khoảng 0.07% tổng số doanh nghiệp trên cả nước nhưng tổng
giá trị vốn nhà nước đầu tư lên đến 1.573.471 tỷ đồng, tỷ trọng tài sản bình quân
chiếm 36% tổng tài sản.
• Mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 nhưng các DNNN vẫn duy trì hoạt
động sản xuất kinh doanh ổn định
• Số lượng DNNN chỉ chiếm 0.1% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động (2021)
nhưng hoạt động hiệu quả với hiệu suất lao động cao so với các doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế khác (18,9 lần), hiệu suất sinh lợi đạt mức 5,8% Năm 2021
• Tổng giá trị tài sản đạt 2.965.425 tỷ đồng (tăng 8%), vốn chủ sở hữu đạt
1.445.877 tỷ đồng (tăng 17%), quy mô tài sản bình quân của mỗi doanh nghiệp
nhà nước là 4.100 tỷ đồng, cao gấp 10 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và gấp 109 lần doanh nghiệp tư nhân trong nước
• Tổng doanh thu của khối doanh nghiệp nhà nước vượt 43,3% kế hoạch, tăng 7,8%
so với năm 2020; lợi nhuận trước thuế vượt kế hoạch 41,7%, tăng 22,5% so với
năm 2020, nộp ngân sách chiếm 17 - 23% tổng thu ngân sách nhà nước ; lợi nhuận
trước thuế đạt 122.347 tỷ đồng (tăng 5%) so với năm 2016.
• Tuy nhiên hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh còn hạn chế, chưa tương
xứng với nguồn lực. Khoảng 60% nguồn lực xã hội tập trung cho DNNN nhưng
đến 60% GDP là từ doanh nghiệp tư nhân và FDI
• Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả đầu tư của DNNN thấp hơn so với khu vực có
vốn FDI => sử dụng nhiều vốn hơn để tạo ra một giá trị sản phẩm đầu ra lOMoAR cPSD| 58702377
1.2. Giai đoạn hiện nay Năm 2022: •
Tổng giá trị vốn Nhà nước đang đầu tư tại các DNNN là 1.699.125 tỷ đồng, tăng
3% so với năm 2021. Trong đó: doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ là 1.556.863 tỷ đồng (chiếm 91,62%) và doanh nghiệp do Nhà nước nắm
giữ trên 50% vốn điều lệ là 142.262 tỷ đồng (chiếm 8,38%). •
Tính đến cuối năm 2022, tổng số tiền nộp NSNN của khu vực DNNN là 382.904
tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2021, chủ yếu thu từ hoạt động kinh doanh nội địa
(chiếm 74% tổng số phát sinh phải nộp NSNN). Trong đó, khối các TĐ, TCT,
Công ty mẹ - con là 332.828 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2021, chiếm 87% tổng số tiền nộp NSNN •
Tổng doanh thu của các DNNN đạt 2.643.544 tỷ đồng, tăng 29% so với năm
2021; tổng lãi trước thuế đạt 241.165 tỷ Năm 2023: •
Đến cuối năm 2023, nước ta có 671 DNNN, gồm 473 100% vốn điều lệ NN và
198 đơn vị có > 50% vốn NN •
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 3423,5
nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% so với năm trước, trong đó khu vực Nhà nước tăng
14,6%, khu vực ngoài Nhà nước tăng 2,7%, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 5,4%. •
Tính đến cuối năm 2023, vốn chủ sở hữu của các DNNN là hơn 1,8 triệu tỷ đồng
(giá trị vốn Nhà nước đầu tư khoảng 1,7 triệu tỷ)
(Nguồn: Tổng cục thống kê) •
Chính phủ nhận định: “Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Nhà nước chưa
tương xứng với nguồn lực nắm giữ”. Trong năm 2023, hàng trăm doanh nghiệp lOMoAR cPSD| 58702377
NN thua lỗ: 134 doanh nghiệp thua lỗ lũy kế, khoảng 115.270 tỷ đồng ~ 4,6 tỷ
USD, mức lỗ lũy kế này gấp 1,7 lần so với ghi nhận cuối năm 2022 (gần
69.900 tỷ đồng). Trong đó, 72 doanh nghiệp lỗ phát sinh hơn 33.700 tỷ đồng.
Chẳng hạn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tiếp tục lỗ 26.700 tỷ đồng năm
2023, tăng 29% so với khoản lỗ một năm trước đó. Số này cao hơn mức ước tính
của Bộ Công Thương trước đó (17.000 tỷ đồng). •
Các DN lĩnh vực vận tải chưa hồi phục sau ảnh hưởng từ Covid-19
VD: Tổng công ty hàng không VN (VN Airline) lỗ hơn 8.850 tỷ đồng trong 2
năm (2022-2023), vốn chủ sở hữu âm 8.377 tỷ •
Ngành xi măng gặp nhiều khó khăn. Tổng công ty Xi măng Việt Nam (VICEM)
lỗ 1.078 tỷ đồng trong năm này. Cùng với đó, 6 công ty con và 2 đơn vị liên
doanh sản xuất xi măng cũng lỗ. Trước đó, năm 2022, hầu hết các công ty này đều có lãi. •
Các Dn có lãi trên 5000 tỷ đồng… •
Lĩnh vực năng lượng: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) lãi trước thuế gần
56.400 tỷ đồng; Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lãi sau thuế 6.329 tỷ. •
Hàng hải: Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn - nhà khai thác cảng container lớn
nhất nước - lãi 5.072 tỷ đồng •
Tập đoàn Công nghiệp viễn thông quân đội (Viettel) lãi trước thuế 46.331 tỷ
đồng, tăng 2% so với năm 2022. (Nguồn: báo Vn.Economy)
=> Về cơ bản, DNNN vẫn được đánh giá là đầu tàu, tạo động lực cho các thành phần
kinh tế khác phát triển. Các doanh nghiệp cũng tích cực tái cơ cấu, nâng hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Họ cũng có phương án xử lý các đơn vị trực thuộc, dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả.
III: Nguyên nhân và hậu quả 1: Nguyên nhân •
Cơ cấu vốn chưa hợp lý: Khi xem xét đến cơ cấu vốn của DN, thường chỉ xét
đến vốn dài hạn mà không đề cập đến vốn ngắn hạn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu
về cơ cấu vốn của DNNN lại thấy rằng vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá lớn. Hệ
số nợ của các DNNN quá cao nên chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Mặt khác, các
DNNN chủ yếu hoạt động bằng nợ ngắn hạn, trong khi lại đầu tư dài hạn nhiều,
điều này biểu hiện sự mất cân đối trong cơ cấu vốn, chưa kể đến nợ quá hạn của
các DNNN cũng chiếm khá cao. Hơn nữa, trên thực tế, các DN sử dụng vốn Nhà lOMoAR cPSD| 58702377
nước với chi phí phải trả rất thấp nên các DNNN chưa có kế hoạch xác định cơ
cấu vốn tối ưu mà hoàn toàn bị động vào nguồn vốn Ngân sách cấp và kế hoạch
huy động vốn ngắn hạn, mang tính chất tình thế. •
Thứ hai, sử dụng đòn bẩy tài chính kém hiệu quả : Đòn bẩy tài chính là thể
hiện việc sử dụng vốn vay trong nguồn vốn của DN nhằm hy vọng gia tăng tỷ
suất lợi nhuận VCSH (ROE) hay thu nhập trên một cổ phần của Cty. Mức độ sử
dụng đòn bẩy tài chính DN được thể hiện ở hệ số nợ. DN có hệ số nợ cao thể hiện
DN có đòn bẩy tài chính ở mức độ cao và ngược lại. Tuy nhiên, việc sử dụng đòn
bẩy tài chính không phải lúc nào cũng đưa lại kết quả tích cực cho chủ sở hữu
DN, nó cũng có thể gây ra tác động tiêu cực đối với DN khi DN sử dụng không
có hiệu quả số vốn vay, nếu số lợi nhuận trước lãi vay và thuế được tạo ra từ sử
dụng vốn vay nhỏ hơn số tiền lãi vay phải trả thì nó làm giảm sút nhanh hơn tỷ
suất lợi nhuận VCSH và nếu DN bị thua lỗ thì càng bị lỗ nặng nề hơn. Như vậy,
các DNNN Việt Nam hiện nay đang sử dụng tỷ lệ nợ rất cao nhưng tỷ suất sinh
lời của tài sản (hay tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên vốn kinh doanh)
lại thấp và nhỏ hơn lãi suất vốn vay nên chính việc sử
dụng nhiều nợ lại làm giảm tỷ suất lợi nhuận VCSH, điều này cho thấy các
DNNN chưa phát huy được tác dụng của đòn bẩy tài chính •
Chưa phát huy quyền tự chủ về tài chính và tự chủ sản xuất kinh doanh:
Các DNNN hiện nay vẫn còn chưa chủ động trong việc huy động vốn và quản lý
tài sản, chỉ có rất ít các DN có chiến lược huy động vốn một cách cụ thể, luôn rơi
vào thế bị động. Hơn nữa, khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng của các DN này
lại bị hạn chế do trên giác độ người cho vay, quyết định cho vay của ngân hàng
phải dựa trên khả năng trả nợ của người vay vốn, trong khi đó các DNNN lại
thiếu thông tin, trình độ quản lý yếu kém nên các DNNN vẫn khó khăn trong việc
vay ngân hàng. Mặt khác, hầu hết các DNNN lại chưa đủ uy tín để huy động vốn
bằng phát hành trái phiếu… Tất cả những điều trên khiến DNNN luôn rơi vào thế
bị động, không phát huy được quyền tự chủ về tài chính trong kinh doanh. 2: Hậu quả •
Một số dự án của DNNN còn thua lỗ, thất thoát vốn lớn (12 dự án của ngành Công Thương) lOMoAR cPSD| 58702377 lOMoAR cPSD| 58702377 •
Nhiều trường hợp chậm trễ trong việc đăng ký lưu ký và giao dịch, niêm yết trên
thị trường chứng khoán, ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư khi đưa ra quyết
định đầu tư qua đấu giá do e ngại cổ phiếu sau đấu giá khó giao dịch IV: Giải pháp
Biện pháp khắc phục của việc sử dụng không hiệu quả nguồn vốn tại các doanh nghiệp nhà nước:
Cần sửa luật để phù hợp với các bước đột phá mới
Hành lang pháp lý cho hoạt động của DNNN là luật Quản lý sử dụng vốn đầu tư vào sản
xuất kinh doanh tại DN, đến nay cũng đã được ban hành gần 10 năm. Hành lang pháp
lý của Luật cũng tạo được khuôn khổ trong việc quản lý, sử dụng vốn tài sản Nhà nước.
Tuy nhiên, luật này trong những năm vừa qua cũng đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, ảnh
hưởng đến hoạt động của DN cũng như chưa đáp ứng được các định hướng, chủ trương mới của Đảng.
Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của Luật chưa thực sự tách bạch, chưa phân định được
một cách rõ ràng chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu tài sản vốn nhà
nước, chức năng quản trị kinh doanh của DN.
Thứ hai, việc đầu tư vốn nhà nước tại DN cũng chưa có được sự chủ động, chưa có một
hành lang để cho các DN hoạt động một cách linh hoạt, kịp thời theo các tín hiệu của
thị trường. Việc đánh giá, xếp loại DN cũng như việc đánh giá khả năng bảo toàn vốn
của DN cũng chưa phù hợp với thực tiễn của DN nhà nước. lOMoAR cPSD| 58702377
Phân định rõ chức năng, giảm can thiệp, tăng tính cạnh tranh của DNNN
Về quan điểm xây dựng Luật, Thứ trưởng cho biết thêm, cơ quan soạn thảo thực hiện
đảm bảo các nguyên tắc.
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật;
tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; tránh
chồng chéo, mâu thuẫn với các luật khác có liên quan.
Thứ ba, kế thừa, phát huy và hoàn thiện những quy định phù hợp của pháp luật về quản
lý vốn nhà nước đầu tư tại DN; loại bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tiễn.
Thứ tư, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn nhà
nước tại DN gắn với việc phân công rõ, phân cấp mạnh cho cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn và DN.
Thứ năm, bảo đảm các nguyên tắc về đầu tư vốn, quản lý thống nhất thông qua cơ quan
đại diện chủ sở hữu vốn, "quyền sở hữu đi đôi với quyền kiểm soát"; nhà nước đầu tư
vốn tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc
phòng, an ninh, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; không can thiệp
hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DN; tách bạch, phân định rõ chức
năng chủ sở hữu vốn với chức năng quản lý nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN…
Thực hiện cơ chế quản trị hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình; thực hiện quản
lý và giám sát chặt chẽ; tuân thủ các thông lệ quốc tế tốt nhất về quản trị và cơ cấu. Bằng
cách tuân theo những hướng dẫn này, các DNNN có thể nâng cao hiệu quả hoạt động,
mang lại giá trị cho các bên liên quan và đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.