Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản Luật Hiến
Pháp Việt Nam năm 1980
Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do điều kiện thuận lợi để thống nhất hai
miền Nam- Bắc, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa hội.
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1980
Trước tình hình đó, tháng 9/1975, Hội ngh lần thứ 24 của Ban chấp nh
trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu lúc này phải hoàn thành việc thong nhất nước nhà. Nghị quyết của Hội
nghị đã nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa nguyện vọng tha thiết bậc
nhất của đồng bào cả nước, vừa quy luật khách quan của sự phát triển
cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam...”. Hội nghị lần thứ 24
của Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định triệu
tập Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc. Hội nghị đã nhất trí
quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Cuộc
tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp bỏ phiếu kín
đã diễn ra ngày-25/4/1976 với sự tham gia của hơn 23 triệu cử tri, chiếm gần
99% tổng số cử tri.
Tổng số đại biểu Quốc hội đã bầu 492, trong đó 249 đại biểu miền Bắc
243 đại biểu miền Nam.1 Tổng số đại biểu Quốc hội được tính theo t lệ: 1
đại biểu/1.000 cử tri.
Quốc hội chung của cả nước đã bắt đầu họp đầu tiên vào ngày 25/6/1976
kéo dài đến ngày 03/7/1976. Ngày 02/7/1976, Quốc hội đã thông qua các
nghị quyết quan trọng. Quốc hội đã quyết định trong khi chưa Hiến pháp
mới, t chức hoạt động của Nhà nước ta dựa trên sở Hiến pháp năm
1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đồng thời Quốc hội khoá VI đã
ban hành Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1959 thành lập Uỷ
ban d thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch
Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch. Sau một năm rưỡi làm việc khẩn
trương, Uỷ ban đã hoàn thành Dự thảo. Bản Dự thảo được đưa ra cho toàn
dân thảo luận. Tháng 9/1980, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam đã họp đặc biệt để xem xét cho ý kiến bổ sung, sửa chữa Dự thảo
trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Sau một thời gian thảo luận, tại
họp thứ 7, Quốc hội khoá VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp.
2. Nội dung bản của Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp năm 1980 bao gồm lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi
nhận những thắng lợi đại nhân dân Việt Nam đã giành được trong
Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp cuộc
kháng chiến chống đế quốc xâm lược lũ tay sai. Lời nói đầu còn xác
định những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đ ra nêu lên những vấn đề
bản Hiến pháp năm 1980 đề cập.
Chương I của Hiến pháp năm 1980 quy định chế độ chính trị của Nhà nước ta.
Chương này 14 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) bao gồm các vấn đề bản
sau đây:
- Xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta Nhà nước chuyên chính
sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước thực hiện quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động... xây dựng thắng lợi chủ nghĩa hội, tiến tới chủ nghĩa
cộng sản (Điều 2).
- Khác với Hiến pháp năm 1946 Hiến pháp m 1959, Hiến pháp năm
1980 quy định các quyền n tộc bản bao gồm 4 yếu tố: Độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Đây một phạm trù pháp luật quốc
tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng dựa trên những khái niệm chung về
quyền tự nhiên của con người. Phạm t quyền dân tộc bản được thế giới
thừa nhận một cách rộng rãi trở thành một trong những phạm trù quan
trọng của luật quốc tế hiện đại, một đóng góp lớn của Việt Nam vào sự
nghiệp bảo vệ các quyền bản của các dân tộc.
- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 thể chế
hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước hội vào một
điều của Hiến pháp iều 4).
Sự thể chế hoá này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp ng quy định: Các tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp.
- Ngoài việc thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp năm 1980 còn
xác định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - hội quan trọng khác n
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng công đoàn Việt Nam (Điều 10).
Đây cũng lần đầu tiên vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội này
được quy định trong Hiến pháp.
- Với Hiến pháp năm 1980, quan điểm về quyền m ch tập thể của Đảng ta
đã được thể chế hoá (Điều 3).
- Cũng như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định
chính sách đoàn kết dân tộc của Nhà nước ta. Điều 5 Hiến pháp năm 1980
quy định: “N nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước thong
nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đẩt nước Việt Nam, bình đẳng về
quyền nghĩa vụ. Nhà nước bảo vệ, tăng cường củng cổ khối đại đoàn
kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vỉ miệt thị, chia rẽ dân tộc”.
- Hiến pháp năm 1980 kế tục tưởng của Hiến pháp năm 1959 nhấn mạnh
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực n
nước thông qua Quốc hội Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra
chịu trách nhiệm trước nhân dân. Cũng như Hiến pháp năm 1959, Hiến
pháp năm 1980 quy định Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cũng như các
quan khác của nhà nước đều tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ.
- Ngoài nguyên tắc tập trung dân chủ, Hiến pháp còn quy định nguyên tắc
pháp chế Xã hội ch nghĩa. Đây một quy định hoàn toàn mới so với Hiến
pháp năm 1959. Tại Điều 12 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Nhà nước quản
hội theo pháp luật không ngừng tàng cường pháp chế hội chủ
nghĩa”.
Chương II- Chế độ kinh tế, gồm 22 điều (từ Điều 15 đến Điều 36).
Giống n Hiến pháp năm 1959, Chương này quy định những vấn đề bản
trong lĩnh vực kinh tế n mục đích của chính sách kinh tế, các hình thức sở
hữu, các thành phàn kinh tế, các nguyên tắc lãnh đạo nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 nhiều điểm khác với Hiến pháp năm
1959. Theo Hiến pháp năm 1959, đất đai thể thuộc sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân, còn Hiến pháp năm 1980 quốc hữu hoá toàn bộ
đất đai (Điều 19). Theo Hiến pháp năm 1959, các hình thức sở hữu về liệu
sản xuất là: Sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân), sở hữu của hợp tác (sở
hữu tập thể của nhân dân lao động), sở hữu của người lao động riêng l
hình thức sở hữu của nhà sản dân tộc (Điều 11). Còn theo Điều 18 Hiến
pháp năm 1980 thì Nhà nước tiến hành ch mạng về quan hệ sản xuất,
hướng dẫn, sử dụng cải tạo các thành phần kinh tế phi hội chủ nghĩa,
thiết lập củng cố chế độ sở hữu hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm
thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu hai thành phần: Thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân thành phần kinh tế họp tác
thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, Kỹ thuật, bao gồm 13 điều (từĐiều
37 đến Điều 49).
Đây một chương hoàn toàn mới so với Hiến pháp năm 1946 Hiến pháp
năm 1959. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tưởng văn
hoá xây dựng nền văn hoá mới nội dung hội chủ nghĩa tính chất
dân tộc, tính đảng tính nhân dân; y dựng con người mới ý thức
làm chủ tập thể, yêu lao động, quý trọng của công, n hoá, kiến thức
khoa học, thuật, sức khoẻ, yêu nước hội chủ nghĩa tinh thần
quốc tế sản (Điều 37). Theo quy định của Hiến pháp, chủ nghĩa Mác -
Lênin h tưởng chỉ đạo sự phát triển của hội Việt Nam (Điều 38). Nhà
nước ta chủ trương bảo vệ phát triển những giá trị văn hoá tinh thần
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới; chống các tưởng phong
kiến, sản... bài trừ mê tín, dị đoan. Ngoài những quy định trên, Chương
III còn xác định chính sách về khoa học, lỡ thuật, văn học, nghệ thuật các
công tác thông tin, báo chí, xuất bản, t viện, phát thanh, truyền hình...
Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa, bao gồm 3 điều (từ Điều 50
đến Điều 52).
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ Tổ quốc hội
chủ nghĩa được y dựng thành một chương riêng trong hiến pháp. Điều này
xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ
Tổ quốc hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định một trong hai nhiệm vụ
chiến lược của Đảng Nhà nước.. Bảo vệ y dựng Tổ quốc hội chủ
nghĩa hai nhiệm vụ tồn tại song song trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
hội, sự gắn tương h lẫn nhau. Tại Điều 50 Hiến pháp năm 1980
xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước xây dựng một nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện hiện đại trên sở kết hợp y dựng Tổ quốc
với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng trang nhân dân với
sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống
ngoại xâm với sức mạnh của chế đ hội chủ nghĩa. Tại Điều 51 Hiến pháp
xác định nhiệm vụ của các lực lượng trang nhân dân. Điều cuối cùng trong
Chương này thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp
quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng trang
nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.
Nhà nước ta y dựng nền quốc phòng toàn dân, vậy Hiến pháp đã quy
định: Tất cả các quan nhà nước, tổ chức hội công dân phải làm đầy
đủ nhiệm vụ quốc phòng an ninh do pháp luật quy định” (Điều 52).
Chương V - Quyền nghĩa vụ bản của công dân, bao gồm 29 điều (từ
Điều 53 đến Điều 81).
Ke tục phát triển Hiến pháp năm 1946 Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980 một mặt ghi nhận quyền nghĩa vụ của công dân đã quy định
trong hai bản Hiến pháp trước, mặt khác xác định thêm một số quyền
nghĩa vụ mởi phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa.
So với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã xác định thêm một số
quyền mới của công dân như quyền tham gia quản lý công việc của Nhà
nước của hội iều 56), quyền được khám chữa bệnh không phải
trả tiền (Điều 61), quyền nhà (Điều 62), quyền được học tập không phải
trả tiền (Điều 60), quyền của các viên hợp tác được ph cấp sinh đẻ
(Điều 63). Hiến pháp cũng c định thêm một số nghĩa vụ mới của công dân:
Công dân phải trung thành với Tổ quốc (Điều 76); ngoài bổn phận làm nghĩa
vụ quân sự, công dân còn phải tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân;
ngoài nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, tôn trọng
những quy tắc của cuộc sống hội chủ nghĩa, công dân n phải bảo vệ an
ninh chính trị trật tự, an toàn hội, giữ gìn mật nhà nước; ngoài nghĩa
vụ đóng thuế, ng dân còn phải tham gia lao động ng ích. Tuy nhiên, một
số quyền mới quy định trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với điều
kiện thực tế của đất nước nên không điều kiện vật chất đảm bảo thực hiện.
Mặc những hạn chế nói trên song chế định quyền nghĩa vụ bản
của công dân trong Hiến pháp năm 1980 vẫn một bước phát triển mới,
phong phú hơn, cụ thể hơn, nét hơn.
Chương VI - Quốc hội, bao gồm 16 điều (từ Điều 82 đến Điều 97).
Cũng như quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 xác định
Quốc hội quan đại biểu cao nhất của nhân dân, quan quyền lực nhà
nước cao nhất, quan duy nhất quyền lập hiến lập pháp. Quốc hội
quyết định những chính ch bản về đối nội đối ngoại, những mục tiêu
phát triển kinh tế văn hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ chức hoạt động
của bộ máy nhà nước. Quốc hội thành lập các quan nhà nước tối cao như
bầu ra Chủ tịch, các Phó Chủ tịch các thành viên khác của Hội đồng Nhà
nước; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch các thành viên khác của Hội đồng Bộ
trưởng; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm t nhân
dân tối cao. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước... (Điều 82 83). Như vậy về bản, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Quốc hội không thay đổi nhưng cấu tổ chức của Quốc
hội sự thay đổi lớn. Nếu theo Hiến pháp năm 1959 quan thường trực
của Quốc hội Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì theo Hiến pháp năm 1980
quan thường trực của Quốc hội Hội đồng Nhà nước. Nhưng Hội đồng Nhà
nước theo Hiến pháp năm 1980 còn Chủ tịch tập thể của nước Cộng h
hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 1959, khi Quốc hội họp t
bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp (Điều 47), còn theo Hiến pháp năm
1980 thì Quốc hội bầu ra Chủ tịch các Phó Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch
Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội, bảo đảm việc thi hành nội quy
của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội; điều hoà phối họp
hoạt động của các uỷ ban của Quốc hội; chứng thực những luật những
nghị quyết đã được Quốc hội thông qua; thực hiện quan hệ đối ngoại của
Quốc hội.
Như vậy, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội một thiết chế mới, một
cách t chức mới của Quốc hội trước đó lịch sử lập hiến nước ta chưa
biết đến.
Chương VII - Hội đồng Nhà nước, bao gồm 6 điều (từ Điều 98 đến Điều 103).
Đây một chương mới so với Hiến pháp năm 1959. Theo quy định tại Điều
98 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Nhà nước quan cao nhất hoạt động
thường xuyên của Quốc hội, Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà hội
chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch
nước. vậy, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm
quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền của Chủ tịch nước
trong Hiến pháp năm 1959. Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ quyền
hạn rất lớn, được quy định tại Điều 100 Hiến pháp năm 1980.
Trong số c quyền của Hội đồng Nhà nước thì việc quyết định thành lập
hoặc bãi bỏ các bộ, các uỷ ban n nước; cử bãi miễn các P Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng, các chủ nhiệm uỷ ban n nước; việc
tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, Hội đồng Nhà nước
phải trình Quốc hội phê chuẩn trong họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài
những nhiệm vụ, quyền hạn đã được xác định, tại khoản 21 Điều 100 Hiến
pháp năm 1980 còn ghi nhận: “... Quốc hội cỏ th giao cho Hội đồng Nhà
nước những nhiệm vụ quyền hạn khác, kh t thấy cần thiết”. Thể chế
Chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm nhược
điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này các vấn đề quan trọng của đất
nước đều được thảo luận tập thể quyết định theo đa số, như vậy thường
vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó do mọi
vấn đề phải bàn bạc tập thể nên ng việc đôi khi chậm chạp, trách nhiệm
của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chưa thật ràng. Giữa hai họp của Quốc
hội thì quyền hạn của Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng trong họp Quốc
hội thì thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước lại hầu như không được thể hiện.
Mặt khác, việc Hội đồng Nhà nước được quyền quyết định một số quyền hạn
thuộc thẩm quyền Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đ liên quan đến yêu cầu tập
trung quyền lực, nhất quyền lập pháp o Quốc hội. Theo quy định của
Hiến pháp thì chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước rất lớn
nhung cấu của thành viên Hội đồng Nhà nước hầu hết gồm những người
kiêm nhiệm.
Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng, bao gồm 9 điều (từ Điều 104 đến Điều
112).
Theo quy định tại Điều 104 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng
Chính phủ của nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam vị trí n Hội
đồng Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959. Tuy nhiên, Hội đồng Bộ trưởng
về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính
phủ theo quy định của Hiến pháp năm 1959 “cơ quan chấp hành của
quan quyền lực nhà nước cao nhất, là quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Việt Nam dãn chủ cộng hoà”.
Khác với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Bộ
trưởng quan chấp hành hành chính nhà nước cao nhất của quan
quyền lực nhà nước cao nhấc. Với quy định này, thể thấy tính độc lập của
Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội bị hạn chế.
Về nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, Điều 107 Hiến pháp năm
1980 quy định các vấn đề bản sau đây:
Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp pháp luật; trình dự án luật, dự án pháp
lệnh các dự án khác trước Quốc hội Hội đồng Nhà ớc; lập dự án kế
hoạch nhà nước dự án ngân sách nhà nước trình Quốc hội; tổ chức thực
hiện kế hoạch n nước ngân ch n nước; thống nhất quản việc cải
tạo, y dựng phát triển nền kinh tế quốc dân, việc xây dựng phát triển
văn hoá, giáo dục, khoa học, thuật; y dựng kiện toàn bộ máy quản
nhà nước từ trung ương đến sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp sử dụng
đội ngũ cán bộ n nước; lãnh đạo công tác cùa các bộ các quan khác
thuộc Hội đồng Bộ trưởng; bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực
hiện nhiệm vụ quyền hạn của quan quyền lực nhà nước địa phương;
lãnh đạo ủy ban nhân dân các cấp; đình chỉ việc thi hành sửa đổi hoặc bãi
bỏ những quyết định, ch thị, thông không thích đáng của các bộ c
quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết
không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương cấp tương đương, đồng thời đề ngh Hội đồng Nhà nước sửa đổi
hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó; đình chỉ việc thi hành sửa đổi hoặc bãi
bỏ những quyết định, chỉ thị không thích đáng của ủy ban nhân dân các cấp;
quyết định việc phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh...
về bản, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng B trưởng theo Hiến pháp năm
1980 giống với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp
năm 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 b sung một số nhiệm vụ, quyền
hạn mới phù hợp với nhu cầu của hội như tổ chức lãnh đạo công c
trọng tài nhà nước về kinh tế; tổ chức lãnh đạo ng tác bảo hiểm nhà
nước ...So với các hiến pháp trước thì chế định về Hội đồng B trưởng còn
một điểm mới nữa quy định về trách nhiệm tập thể của các thành viên
Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội Hội đồng Nhà nước.
Chương IX - Hội đồng nhân dân uỷ ban nhân dân, bao gồm 14 điều (từ
Điều 113 đến Điều 126).
Tại Chương này, Hiến pháp quy định về phân cấp hành chính nước ta, xác
định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân ủy ban
nhân dân.
về phân cấp đơn vị hành chính, Hiến pháp năm 1980 quy định nước ta ba
cấp hành chính. Đó tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp tương
đương; huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh thị ; xã, phường, thị trấn.
Khác với Hiến pháp năm 1959 khu tự trị bị bãi bỏ (theo Ngh quyết họp
Quốc hội khoá V ngày 27/12/1975) nhưng lập thêm đơn vị nh chính đặc
khu (tương đương với tỉnh), đơn vị phường những thành phố, thị (tương
đương với xã). tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội
đồng nhân dân ủy ban nhân dân.
Những quy định của Hiến pháp năm 1980 về Hội đồng nhân dân ủy ban
nhân dân được cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân y ban
nhân dân năm 1983. Luật t chức Hội đồng nhân dân ủy ban nhân dân
năm 1989 đưa thêm vào cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, huyện, quận, thị một quan mới thường trực Hội
đồng nhân dân. Nhiệm Hội đồng nhân dân y ban nhân dân các cấp
cũng được nâng lên từ 3 năm lên 5 năm.
về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân y ban nhân
dân bản giống Hiến pháp năm 1959.
Chương X - Toà án nhân dân viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều (từ
Điều 127 đến Điều 141).
Cũng giống n Hiến pháp năm 1959, Chương y quy định về nhiệm vụ
chung của tòa án nhân dân viện kiểm sát nhân dân, về hệ thống các
quan toà án, chức năng của các quan toà án, các nguyên tắc tổ chức
hoạt động của toà án. th khẳng định rằng các quy định của Hiến pháp
năm 1980 trong Chương này hoàn toàn giống với Hiến pháp năm 1959.
Chương Xỉ của Hiển pháp quy định về Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô.
Chương XII quy định về hiệu lực của Hiến pháp việc sửa đổi Hiến pháp.
Điều 146 Hiến pháp quy định: Hiến pháp luật bản của Nhà nước,
hiệu lực pháp cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải p hợp với Hiến
pháp, về thủ tục sửa đổi Hiến pháp hoàn toàn giống Hiến pháp năm 1959.
Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 Hiến pháp của thời quá độ lên chủ nghĩa
hội ữong phạm vi cả nước. Tuy nhược điểm nhưng Hiến pháp năm
1980 một mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.
3. Tìm hiểu những vấn đề khác liên quan đến Hiến pháp 1980
Hiến pháp Việt Nam năm 1980 Đạo luật gốc, bản được Quốc hội nước
Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa VI, họp thứ 7 thông qua ngày
18.12.1980 Ch tịch Hội đồng n nước công b ngày 19.12.1980, gồm
12 chương, 147 điều, được sửa đổi, bổ sung hai lần: Lần thứ nhất sửa đổi
Lời nói đầu tại họp thứ 4 Quốc hội Khóa VIII; lần thứ hai, sửa đổi các điều
57, 115 (điểm 9), 116, 118, 122, 123 125 tại họp thứ 5 Quốc hội Khoá
VIII.
Hiến pháp năm 1980 bản Hiến pháp thứ bậc của nước Việt Nam bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất hội chủ nghĩa.
Sau ngày 30.4.1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng do Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lí. Trên đất nước Việt
Nam tổn tại hai chính quyền, xét theo bản chất, đều chính quyền nhân dân
đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vấn đ thống nhất nước Việt Nam trước
hết về mặt n nước đã được đặt ra. Từ ngày 15 đến 21.11.1975, Hội nghị
hiệp thương chính trị bàn về vấn đề thống nhất Việt Nam về mặt n nước đã
được tiến hành giữa hai Đoàn cấp cao của miền Bắc miền Nam cuộc tổng
tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất đã được tiến
hành ngày 25.4.1976 họp đầu tiên của Quốc hội chung của nước Việt Nam
thống nhất đã khai mạc tại thủ đô Nội. Ngày 24.6.1976, Quốc hội đã
những quyết định quan trọng, trong đó quyết định thành lập Uỷ ban dự
thảo Hiến pháp nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam sau hơn bốn
năm làm việc khẩn trương, cuối năm 1980, Hiến pháp mới, thứ ba đã được
Quốc hội thông qua.
Kế thừa, phát triển, nâng cao những quy định của 2 bản Hiến pháp trước, vận
dụng vào điều kiện cụ thể của giai đoạn phát triển mới, Hiến pháp năm 4980
một bước phát triển mới của nền lập hiến Việt Nam. Đi theo nh "Lời
nói đầu" phổ biến lúc bấy gi của Hiến pháp hội chủ nghĩa, "Lời nói đầu"
Hiến pháp năm 1980 một bản tổng kết lớn thành quả đấu tranh của dân tộc
Việt Nam trong trường lịch sử dựng nước, giữ nước, nhất trong thời hiện
đại, dưới sự lãnh đạo của Đẳng Cộng sản Việt Nam đã giành được những
thắng lợi tính lịch sử. "Lời nói đầu", đồng thời, lần đầu tiên đã xác định vai
trò, sứ mệnh của hoạt động lập hiến trong mối quan h với đường lối chính trị
của Đảng lãnh đạo thể chế a đường lối của Đảng: Nước Cộng hòa
hội chủ nghĩa Việt Nam cần một bắn Hiến pháp thể chế hóa đường lối của
Đẳng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới của thời quá đ lên chủ
nghĩa hội trong phạm vi cả nước.
Chương l - Nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam. Chế độ chính trị vốn
chương thường bao gồm những thể chế bản của Nhà nước hội.
Nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam với tính chất, đặc trưng bản
"một nước độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm
đất liền, vùng trời, vùng biển hải đảo" tiếp theo sự ghi nhận các chế
định bản của chính quyền: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; nhân dân
sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội Hội đồng nhân dân.
Đồng thời, Chương I, lần đầu tiên xác nhận bản chất chuyên chính sản
của chính quyền ngay tại Điều 2, thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo
hội.
Tiếp đó, Hiến pháp đã lần lượt xác định vị trị, vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận (Điều 9) nh riêng một
điều về Tổng công đoàn Việt Nam (Điều 10); của tập thể nhân dân lao động
quan, nghiệp (Điều 12)...
Chương II - Chế độ kinh tế 22 điều từ Điều 15 đến Điều 36 một trong
những chương lớn của Hiến pháp, ch đứng sau Chương V - Quyền nghĩa
vụ bản của công dân. Nội dung chủ yếu của cả chương thể chế hoá một
cách tổng quát đường lối xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
của hội Việt Nam trong thời quá độ tiến lên chủ nghĩa hội, thiết lập
củng cố chế độ sở hữu hội chủ nghĩa về liệu sản xuất nhằm thực hiện
một nền kinh tế quốc dân chủ yếu hai thành phần: thành phần kinh tế quốc
doanh thuộc sở hữu toàn dân thành phần kinh tế hợp tác thuộc sở hữu
tập thể của nhân n lao động.
Chương III - Văn hoá, giáo dục, khoa học, Kĩ thuật: 13 điều từ Điều 37 đến
Điều 49. Lần đầu tiên, trong đạo luật bản của Nhà nước các vấn đề `
thuộc đường lối phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, thuật của đất
nước đã được tập trung lại, thể hiện thành những thể chế hiến định trong một
chương riêng, phản ánh một cách nhìn mới về văn hoá, giáo dục, khoa học
thuật trong đời sống của đất nước trong quá trình phát triển đi lên của hội.
Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa: gồm 3 điều, từ Điểu 50 đến
điều 52. Cũng lần đầu tiên, bảo vệ Tổ quốc vị trí của một chương riêng
biệt trong Hiến pháp - luật bản, phản ánh một thực tế đấu tranh đã trở
thành quy luật trong trường lịch sử, công cuộc dựng nước bao giờ cũng
gắn với sự nghiệp giữ nước, bảo vệ Tổ quốc.
Chương V - Quyền nghĩa vụ bản của công dân: gồm 29 điều, t Điều
53 đến Điều 81, chương lớn nhất của Hiến pháp thể hiện quan điểm
như sợi ch đổ xuyên suốt các Hiến pháp Việt Nam đến Hiến pháp năm
4980 bước phát triển mới: địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ hội của
nhân dân.
Nội dung của chương này quy định tương đối bao quát, đầy đủ các quyền
nghĩa vụ bản của ng dân, các quyền t do dân chủ (các điều 67, 68, 71).
Một điều mới trong cách thể hiện lao động học tập được quy định
quyền đồng thời nghĩa vụ của công dân. Các nghĩa vụ bản của công
dân cũng được quy định đầy đủ.
Một đặc điểm đáng kể của chương này cùng với các quy định đầy đủ, toàn
diện về c quyền nghĩa vụ của công dân, lại những quy định tuy không
trực tiếp đề cập quyền nghĩa vụ công dân nhưng lại mối quan hệ khăng
khít trong cuộc sống cộng đồng n vị trí, vai t của gia đình tế bào của
hội (Điều 64) hoặc trách nhiệm của Nhà nước hội trong việc chú trọng
bảo vệ, chăm sóc giáo dục thiếu niên, nhi đồng (Điều 65), "fạo
điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, năng
khiếu thể lực" (Điều 66). Năm chương từ Chương VI đến Chương X gồm
60 điều từ Điều 82 đến Điều 141, với các quy định về tổ chức bộ máy nhà
nước trung ương địa phương thể hiện mối quan hệ khăng khít với nhau
theo tinh thần vừa sự phân công, vừa phối hợp trên sở tiếp thu, kế
thừa các quy định đã thành nguyên tắc, nguyên của hai Hiến pháp trước,
đồng thời, sự điều chỉnh lớn, đưa hình tổ chức bộ máy Nhà nước Việt
Nam về bản theo hình tổ chức n nước hội chủ nghĩa phổ biến
những năm 70, 80, thế kỉ XX.
Về Quốc hội, Chương V 16 điều t Điều 83 đến Điều 97, khẳng định các
quy định truyền thống tính nguyên tắc về vị trí của Quốc hội, đồng thời,
khẳng định Quốc hội quan duy nhất quyền lập hiến, lập pháp, quyết
định những chính sách bản về đối nội, đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh
tế văn hoá, quy tắc chủ yếu về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà
nước... thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn b hoạt động của
Nhà nước (Điều 82).
Chương VII - Hội đồng n nước: 6 điều từ Điều 98 đến Điều 103, thiết kế
một thể chế rất mới mẻ Việt Nam, vừa làm chức năng của quan thường
trực của Quốc hội, vừa làm chức năng của Chủ tịch nước - nguyên thủ quốc
gia. Điều 98 ghi:
Hội đồng nhà nước quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc
hội, Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam... Hội
đồng nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng thay mặt nước Cộng hoà hội
chủ nghĩa Việt Nam về đối nội đối ngoại.
Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng 9 điều từ Điều 104 đến Điều 112, chủ
yếu kế thừa, tiếp thụ các quy định của thiết chế Hội đồng Chính ph của Hiến
pháp năm 1959 với những điều chỉnh, bổ Sung cần thiết cho phù hợp với giai
đoạn phát triển mới, Hội đồng Bộ trưởng, theo Điều 104, Chính phủ của
nước Cộng h hội chủ nghĩa Việt Nam, quan chấp hành hành
chính nhà nước cao nhất của quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về
chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của Hội đồng Bộ trưởng về bản n
Hiến pháp năm 1959 với sự cụ thể hoá, bổ sung một số chức năng Nhà
nước ta, do bản chất nhân dân của nó, giai đoạn nào cũng được thể hiện,
nhưng các Hiến pháp trước chưa được chính thức ghi nhận thì nay đã
được bổ sung, trở thành những nhiệm vụ, quyền hạn mới của Hội đồng Bộ
trưởng.
Chương IX - Hội đồng nhân dân Uỷ ban nhân dân: 14 điều, từ Điều 113
đến Điều 126, ch yếu kế thừa, tiếp tục các quy định của thiết kế hình tổ
chức chính quyền địa phương của các Hiến pháp trước: tổ chức chính quyền
ba cấp hoàn chỉnh: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp đều Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân (cơ quan hành pháp địa phương đã được gọi Uỷ ban
nhân dân thay cho tên gọi Uỷ ban hành chính hai Hiến pháp trước.
Tháng 6.1989, họp thứ 9 Quốc hội Khoá VII đã nghị quyết sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm 1980 trực tiếp liên quan đến các quy
định của Chương IX, theo đó tất cả 6 điều được sửa đổi, bổ sung đều quan
hệ đến 1 thiết chế thường trực Hội đồng nhân dân được thành lập Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh Hội đồng nhân dân cấp huyện, gồm Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Thư Hội đồng nhân dân làm nhiệm vụ triệu tập hội nghị Hội
đồng nhân dân cùng cấp điều hành, phối hợp hoạt động của các ban do
Hội đồng nhân dân lập r4, nhiệm vụ trước đó do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cùng cấp thực hiện. Nghị quyết sửa đổi bổ surb một số điều của Hiến
pháp năm 1980 cũng điều chỉnh nhiệm của
Hội đồng nhân dân, nếu trước đây cấp tỉnh 4 năm, cấp huyện, cấp 2
năm (Điều 116), t nay theo nghị quyết mới tất cả đều 5 năm.
Chương X - Toà án nhân dân Viện kiểm sát nhân dân 15 điều từ Điều
127 đến Điều 141 về bản kế thừa, tiếp thu những quy định của Hiến pháp
năm 1959 về Toà án nhân dân Viện kiểm sát nhân dân. Lần đầu tiên,
tầm hiến định, chương này quy định: Ởở sở, thành lập các tổ chức
thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật tranh
chấp nhỏ trong nhân dân, theo quy định của pháp luật.
Chương XI - Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô 4 điều, từ Điều 142 đến
Điều 145, so với Hiến pháp năm 1959, bổ sung quan trọng về Quốc ca:
Quốc ca nước Cộng h hội ch nghĩa Việt Nam do Quốc hội quyết định.
Về Quốc (Điều 142); Quốc huy (Điều 143) sự bổ sung, miêu tả cụ thể
những chỉ tiết của quốc - hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều
dài, nền đỏ, giữa ngôi sao vàng năm cánh; đối với Quốc huy cũng
tả chỉ tiết cụ thể (Điều 143).
Chương XII - Hiệu lực của Hiến pháp việc sửa đổi Hiến pháp 2 điều:
Điều 146 Điều 147. So với Hiến pháp 1959, bổ sung một điều đặc biệt
quan trọng về hiệu lực của Hiến pháp, cụ thể Điều 146 ghi: Hiến pháp nước
Cộng h hội ch nghĩa Việt Nam đạo luật bản của Nhà nước,
hiệu lực pháp cao nhất. Mọi n bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp. Điều 147 về sửa đổi Hiến pháp giữ nguyên như Điều 112 Hiến pháp
năm 1959: chỉ Quốc hội mới quyền sửa đổi Hiến pháp phải được hai
phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành mới giá trị.

Preview text:

Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản Luật Hiến Pháp Việt Nam năm 1980
Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai
miền Nam- Bắc, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1980
Trước tình hình đó, tháng 9/1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành
trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu lúc này là phải hoàn thành việc thong nhất nước nhà. Nghị quyết của Hội
nghị đã nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc
nhất của đồng bào cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển
cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam...”.
Hội nghị lần thứ 24
của Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định triệu
tập Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc. Hội nghị đã nhất trí
quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Cuộc
tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín
đã diễn ra ngày-25/4/1976 với sự tham gia của hơn 23 triệu cử tri, chiếm gần 99% tổng số cử tri.
Tổng số đại biểu Quốc hội đã bầu là 492, trong đó 249 đại biểu miền Bắc và
243 đại biểu miền Nam.1 Tổng số đại biểu Quốc hội được tính theo tỷ lệ: 1 đại biểu/1.000 cử tri.
Quốc hội chung của cả nước đã bắt đầu kì họp đầu tiên vào ngày 25/6/1976
và kéo dài đến ngày 03/7/1976. Ngày 02/7/1976, Quốc hội đã thông qua các
nghị quyết quan trọng. Quốc hội đã quyết định trong khi chưa có Hiến pháp
mới, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta dựa trên cơ sở Hiến pháp năm
1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đồng thời Quốc hội khoá VI đã
ban hành Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1959 và thành lập Uỷ
ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch
Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch. Sau một năm rưỡi làm việc khẩn
trương, Uỷ ban đã hoàn thành Dự thảo. Bản Dự thảo được đưa ra cho toàn
dân thảo luận. Tháng 9/1980, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam đã họp kì đặc biệt để xem xét và cho ý kiến bổ sung, sửa chữa Dự thảo
trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Sau một thời gian thảo luận, tại
kì họp thứ 7, Quốc hội khoá VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp.
2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp năm 1980 bao gồm lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi
nhận những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong
Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu còn xác
định những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ
bản mà Hiến pháp năm 1980 đề cập.
Chương I của Hiến pháp năm 1980 quy định chế độ chính trị của Nhà nước ta.
Chương này có 14 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) bao gồm các vấn đề cơ bản sau đây:
- Xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô
sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động... xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản (Điều 2).
- Khác với Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm
1980 quy định các quyền dân tộc cơ bản bao gồm 4 yếu tố: Độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây là một phạm trù pháp luật quốc
tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng dựa trên những khái niệm chung về
quyền tự nhiên của con người. Phạm trù quyền dân tộc cơ bản được thế giới
thừa nhận một cách rộng rãi và trở thành một trong những phạm trù quan
trọng của luật quốc tế hiện đại, một đóng góp lớn của Việt Nam vào sự
nghiệp bảo vệ các quyền cơ bản của các dân tộc.
- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 thể chế
hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội vào một
điều của Hiến pháp (Điều 4).
Sự thể chế hoá này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp cũng quy định: Các tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp.
- Ngoài việc thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp năm 1980 còn
xác định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội quan trọng khác như
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng công đoàn Việt Nam (Điều 10).
Đây cũng là lần đầu tiên vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội này
được quy định trong Hiến pháp.
- Với Hiến pháp năm 1980, quan điểm về quyền làm chủ tập thể của Đảng ta
đã được thể chế hoá (Điều 3).
- Cũng như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định
chính sách đoàn kết dân tộc của Nhà nước ta. Điều 5 Hiến pháp năm 1980
quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thong
nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đẩt nước Việt Nam, bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ. Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cổ khối đại đoàn
kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vỉ miệt thị, chia rẽ dân tộc”.
- Hiến pháp năm 1980 kế tục tư tưởng của Hiến pháp năm 1959 nhấn mạnh
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra
và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Cũng như Hiến pháp năm 1959, Hiến
pháp năm 1980 quy định Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cũng như các
cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Ngoài nguyên tắc tập trung dân chủ, Hiến pháp còn quy định nguyên tắc
pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Đây là một quy định hoàn toàn mới so với Hiến
pháp năm 1959. Tại Điều 12 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Nhà nước quản
lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tàng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Chương II- Chế độ kinh tế, gồm 22 điều (từ Điều 15 đến Điều 36).
Giống như Hiến pháp năm 1959, Chương này quy định những vấn đề cơ bản
trong lĩnh vực kinh tế như mục đích của chính sách kinh tế, các hình thức sở
hữu, các thành phàn kinh tế, các nguyên tắc lãnh đạo nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 CÓ nhiều điểm khác với Hiến pháp năm
1959. Theo Hiến pháp năm 1959, đất đai có thể thuộc sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân, còn Hiến pháp năm 1980 quốc hữu hoá toàn bộ
đất đai (Điều 19). Theo Hiến pháp năm 1959, các hình thức sở hữu về tư liệu
sản xuất là: Sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân), sở hữu của hợp tác xã (sở
hữu tập thể của nhân dân lao động), sở hữu của người lao động riêng lẻ và
hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11). Còn theo Điều 18 Hiến
pháp năm 1980 thì Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất,
hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi Xã hội chủ nghĩa,
thiết lập và củng cố chế độ sở hữu Xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm
thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế họp tác xã
thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, Kỹ thuật, bao gồm 13 điều (từĐiều 37 đến Điều 49).
Đây là một chương hoàn toàn mới so với Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp
năm 1959. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn
hoá là xây dựng nền văn hoá mới có nội dung Xã hội chủ nghĩa và tính chất
dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân; xây dựng con người mới có ý thức
làm chủ tập thể, yêu lao động, quý trọng của công, có văn hoá, có kiến thức
khoa học, kĩ thuật, có sức khoẻ, yêu nước Xã hội chủ nghĩa và có tinh thần
quốc tế vô sản (Điều 37). Theo quy định của Hiến pháp, chủ nghĩa Mác -
Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam (Điều 38). Nhà
nước ta chủ trương bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá và tinh thần
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới; chống các tư tưởng phong
kiến, tư sản... và bài trừ mê tín, dị đoan. Ngoài những quy định trên, Chương
III còn xác định chính sách về khoa học, lỡ thuật, văn học, nghệ thuật và các
công tác thông tin, báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình..
Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bao gồm 3 điều (từ Điều 50 đến Điều 52).
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ Tổ quốc Xã hội
chủ nghĩa được xây dựng thành một chương riêng trong hiến pháp. Điều này
xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ
Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định là một trong hai nhiệm vụ
chiến lược của Đảng và Nhà nước.. Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Xã hội chủ
nghĩa là hai nhiệm vụ tồn tại song song trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, có sự gắn bó và tương hỗ lẫn nhau. Tại Điều 50 Hiến pháp năm 1980
xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước là xây dựng một nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc
với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với
sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống
ngoại xâm với sức mạnh của chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 51 Hiến pháp
xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân. Điều cuối cùng trong
Chương này là thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp
quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.
Nhà nước ta xây dựng nền quốc phòng toàn dân, vì vậy Hiến pháp đã quy
định: “Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy
đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định”
(Điều 52).
Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 29 điều (từ Điều 53 đến Điều 81).
Ke tục và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980 một mặt ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân đã quy định
trong hai bản Hiến pháp trước, mặt khác xác định thêm một số quyền và
nghĩa vụ mởi phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa.
So với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã xác định thêm một số
quyền mới của công dân như quyền tham gia quản lý công việc của Nhà
nước và của xã hội (Điều 56), quyền được khám và chữa bệnh không phải
trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62), quyền được học tập không phải
trả tiền (Điều 60), quyền của các xã viên hợp tác xã được phụ cấp sinh đẻ
(Điều 63). Hiến pháp cũng xác định thêm một số nghĩa vụ mới của công dân:
Công dân phải trung thành với Tổ quốc (Điều 76); ngoài bổn phận làm nghĩa
vụ quân sự, công dân còn phải tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân;
ngoài nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, tôn trọng
những quy tắc của cuộc sống Xã hội chủ nghĩa, công dân còn phải bảo vệ an
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật nhà nước; ngoài nghĩa
vụ đóng thuế, công dân còn phải tham gia lao động công ích. Tuy nhiên, một
số quyền mới quy định trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với điều
kiện thực tế của đất nước nên không có điều kiện vật chất đảm bảo thực hiện.
Mặc dù có những hạn chế nói trên song chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân trong Hiến pháp năm 1980 vẫn là một bước phát triển mới,
phong phú hơn, cụ thể hơn, rõ nét hơn.
Chương VI - Quốc hội, bao gồm 16 điều (từ Điều 82 đến Điều 97).
Cũng như quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 xác định
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội
quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu
phát triển kinh tế và văn hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Quốc hội thành lập các cơ quan nhà nước tối cao như
bầu ra Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Nhà
nước; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Bộ
trưởng; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước... (Điều 82 và 83). Như vậy về cơ bản, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Quốc hội không thay đổi nhưng cơ cấu tổ chức của Quốc
hội có sự thay đổi lớn. Nếu theo Hiến pháp năm 1959 cơ quan thường trực
của Quốc hội là Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì theo Hiến pháp năm 1980 cơ
quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước. Nhưng Hội đồng Nhà
nước theo Hiến pháp năm 1980 còn là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 1959, khi Quốc hội họp thì
bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp (Điều 47), còn theo Hiến pháp năm
1980 thì Quốc hội bầu ra Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch
Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội, bảo đảm việc thi hành nội quy
của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội; điều hoà và phối họp
hoạt động của các uỷ ban của Quốc hội; chứng thực những luật và những
nghị quyết đã được Quốc hội thông qua; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.
Như vậy, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội là một thiết chế mới, một
cách tổ chức mới của Quốc hội mà trước đó lịch sử lập hiến nước ta chưa biết đến.
Chương VII - Hội đồng Nhà nước, bao gồm 6 điều (từ Điều 98 đến Điều 103).
Đây là một chương mới so với Hiến pháp năm 1959. Theo quy định tại Điều
98 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động
thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch
nước. Vì vậy, thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm
quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của Chủ tịch nước
trong Hiến pháp năm 1959. Hội đồng Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền
hạn rất lớn, được quy định tại Điều 100 Hiến pháp năm 1980.
Trong số các quyền của Hội đồng Nhà nước thì việc quyết định thành lập
hoặc bãi bỏ các bộ, các uỷ ban nhà nước; cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng, các chủ nhiệm uỷ ban nhà nước; việc
tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, Hội đồng Nhà nước
phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kì họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài
những nhiệm vụ, quyền hạn đã được xác định, tại khoản 21 Điều 100 Hiến
pháp năm 1980 còn ghi nhận: “... Quốc hội cỏ thể giao cho Hội đồng Nhà
nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khỉ xét thấy cần thiết”.
Thể chế
Chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm và nhược
điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề quan trọng của đất
nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như vậy thường
vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó là do mọi
vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc đôi khi chậm chạp, trách nhiệm
của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chưa thật rõ ràng. Giữa hai kì họp của Quốc
hội thì quyền hạn của Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng trong kì họp Quốc
hội thì thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước lại hầu như không được thể hiện.
Mặt khác, việc Hội đồng Nhà nước được quyền quyết định một số quyền hạn
thuộc thẩm quyền Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập
trung quyền lực, nhất là quyền lập pháp vào Quốc hội. Theo quy định của
Hiến pháp thì chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội đồng Nhà nước rất lớn
nhung cơ cấu của thành viên Hội đồng Nhà nước hầu hết gồm những người kiêm nhiệm.
Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng, bao gồm 9 điều (từ Điều 104 đến Điều 112).
Theo quy định tại Điều 104 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng là
Chính phủ của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí như Hội
đồng Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959. Tuy nhiên, Hội đồng Bộ trưởng
về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính
phủ theo quy định của Hiến pháp năm 1959 là “cơ quan chấp hành của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Việt Nam dãn chủ cộng hoà”.
Khác với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Bộ
trưởng Nà cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhấc.
Với quy định này, có thể thấy tính độc lập của
Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội bị hạn chế.
Về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, Điều 107 Hiến pháp năm
1980 quy định các vấn đề cơ bản sau đây:
Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; trình dự án luật, dự án pháp
lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước; lập dự án kế
hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước trình Quốc hội; tổ chức thực
hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước; thống nhất quản lý việc cải
tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, việc xây dựng và phát triển
văn hoá, giáo dục, khoa học, kĩ thuật; xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý
nhà nước từ trung ương đến cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng
đội ngũ cán bộ nhà nước; lãnh đạo công tác cùa các bộ và các cơ quan khác
thuộc Hội đồng Bộ trưởng; bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực
hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương;
lãnh đạo ủy ban nhân dân các cấp; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi
bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư không thích đáng của các bộ và các cơ
quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết
không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi
hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi
bỏ những quyết định, chỉ thị không thích đáng của ủy ban nhân dân các cấp;
quyết định việc phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh..
về cơ bản, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng theo Hiến pháp năm
1980 giống với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp
năm 1959. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1980 bổ sung một số nhiệm vụ, quyền
hạn mới phù hợp với nhu cầu của xã hội như tổ chức và lãnh đạo công tác
trọng tài nhà nước về kinh tế; tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm nhà
nước ...So với các hiến pháp trước thì chế định về Hội đồng Bộ trưởng còn
có một điểm mới nữa là quy định về trách nhiệm tập thể của các thành viên
Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Chương IX - Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bao gồm 14 điều (từ
Điều 113 đến Điều 126).
Tại Chương này, Hiến pháp quy định về phân cấp hành chính ở nước ta, xác
định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
về phân cấp đơn vị hành chính, Hiến pháp năm 1980 quy định nước ta có ba
cấp hành chính. Đó là tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương
đương; huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn.
Khác với Hiến pháp năm 1959 khu tự trị bị bãi bỏ (theo Nghị quyết kì họp
Quốc hội khoá V ngày 27/12/1975) nhưng lập thêm đơn vị hành chính đặc
khu (tương đương với tỉnh), đơn vị phường ở những thành phố, thị xã (tương
đương với xã). Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
Những quy định của Hiến pháp năm 1980 về Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân được cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân năm 1983. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
năm 1989 đưa thêm vào cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã một cơ quan mới là thường trực Hội
đồng nhân dân. Nhiệm kì Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp
cũng được nâng lên từ 3 năm lên 5 năm.
về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân cơ bản giống Hiến pháp năm 1959.
Chương X - Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều (từ
Điều 127 đến Điều 141).
Cũng giống như Hiến pháp năm 1959, Chương này quy định về nhiệm vụ
chung của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, về hệ thống các cơ
quan toà án, chức năng của các cơ quan toà án, các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của toà án. Có thể khẳng định rằng các quy định của Hiến pháp
năm 1980 trong Chương này hoàn toàn giống với Hiến pháp năm 1959.
Chương Xỉ của Hiển pháp quy định về Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô.
Chương XII quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
Điều 146 Hiến pháp quy định: Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp, về thủ tục sửa đổi Hiến pháp hoàn toàn giống Hiến pháp năm 1959.
Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ữong phạm vi cả nước. Tuy có nhược điểm nhưng Hiến pháp năm
1980 là một mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.
3. Tìm hiểu những vấn đề khác liên quan đến Hiến pháp 1980
Hiến pháp Việt Nam năm 1980 là Đạo luật gốc, cơ bản được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa VI, kì họp thứ 7 thông qua ngày
18.12.1980 và Chủ tịch Hội đồng nhà nước công bố ngày 19.12.1980, gồm
12 chương, 147 điều, được sửa đổi, bổ sung hai lần: Lần thứ nhất sửa đổi
Lời nói đầu tại kì họp thứ 4 Quốc hội Khóa VIII; lần thứ hai, sửa đổi các điều
57, 115 (điểm 9), 116, 118, 122, 123 và 125 tại kì họp thứ 5 Quốc hội Khoá VIII.
Hiến pháp năm 1980 là bản Hiến pháp thứ bậc của nước Việt Nam và là bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa.
Sau ngày 30.4.1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng và do Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lí. Trên đất nước Việt
Nam tổn tại hai chính quyền, xét theo bản chất, đều là chính quyền nhân dân
và đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vấn để thống nhất nước Việt Nam trước
hết về mặt nhà nước đã được đặt ra. Từ ngày 15 đến 21.11.1975, Hội nghị
hiệp thương chính trị bàn về vấn đề thống nhất Việt Nam về mặt nhà nước đã
được tiến hành giữa hai Đoàn cấp cao của miền Bắc và miền Nam cuộc tổng
tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất đã được tiến
hành ngày 25.4.1976 kì họp đầu tiên của Quốc hội chung của nước Việt Nam
thống nhất đã khai mạc tại thủ đô Hà Nội. Ngày 24.6.1976, Quốc hội đã có
những quyết định quan trọng, trong đó có quyết định thành lập Uỷ ban dự
thảo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sau hơn bốn
năm làm việc khẩn trương, cuối năm 1980, Hiến pháp mới, thứ ba đã được Quốc hội thông qua.
Kế thừa, phát triển, nâng cao những quy định của 2 bản Hiến pháp trước, vận
dụng vào điều kiện cụ thể của giai đoạn phát triển mới, Hiến pháp năm 4980
là một bước phát triển mới của nền lập hiến Việt Nam. Đi theo mô hình "Lời
nói đầu" phổ biến lúc bấy giờ của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa, "Lời nói đầu"
Hiến pháp năm 1980 là một bản tổng kết lớn thành quả đấu tranh của dân tộc
Việt Nam trong trường kì lịch sử dựng nước, giữ nước, nhất là trong thời hiện
đại, dưới sự lãnh đạo của Đẳng Cộng sản Việt Nam đã giành được những
thắng lợi có tính lịch sử. "Lời nói đầu", đồng thời, lần đầu tiên đã xác định vai
trò, sứ mệnh của hoạt động lập hiến trong mối quan hệ với đường lối chính trị
của Đảng lãnh đạo là thể chế hóa đường lối của Đảng: Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam cần có một bắn Hiến pháp thể chế hóa đường lối của
Đẳng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới của thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
Chương l - Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chế độ chính trị vốn
là chương thường bao gồm những thể chế cơ bản của Nhà nước và xã hội.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tính chất, đặc trưng cơ bản là
"một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm
đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo" và tiếp theo là sự ghi nhận các chế
định cơ bản của chính quyền: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; nhân dân
sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Đồng thời, ở Chương I, lần đầu tiên xác nhận bản chất chuyên chính vô sản
của chính quyền ở ngay tại Điều 2, thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội.
Tiếp đó, Hiến pháp đã lần lượt xác định vị trị, vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận (Điều 9) và dành riêng một
điều về Tổng công đoàn Việt Nam (Điều 10); của tập thể nhân dân lao động ở
cơ quan, xí nghiệp (Điều 12)...
Chương II - Chế độ kinh tế có 22 điều từ Điều 15 đến Điều 36 là một trong
những chương lớn của Hiến pháp, chỉ đứng sau Chương V - Quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Nội dung chủ yếu của cả chương là thể chế hoá một
cách tổng quát đường lối xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
của xã hội Việt Nam trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thiết lập và
củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện
một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc
doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu
tập thể của nhân dân lao động.
Chương III - Văn hoá, giáo dục, khoa học, Kĩ thuật: có 13 điều từ Điều 37 đến
Điều 49. Lần đầu tiên, trong đạo luật cơ bản của Nhà nước các vấn đề `
thuộc đường lối phát triển văn hoá, giáo dục, khoa Aà học, kĩ thuật của đất
nước đã được tập trung lại, thể hiện thành những thể chế hiến định trong một
chương riêng, phản ánh một cách nhìn mới về văn hoá, giáo dục, khoa học kĩ
thuật trong đời sống của đất nước trong quá trình phát triển đi lên của xã hội.
Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: gồm 3 điều, từ Điểu 50 đến
điều 52. Cũng là lần đầu tiên, bảo vệ Tổ quốc có vị trí của một chương riêng
biệt trong Hiến pháp - luật cơ bản, phản ánh một thực tế đấu tranh đã trở
thành quy luật trong trường kì lịch sử, công cuộc dựng nước bao giờ cũng
gắn với sự nghiệp giữ nước, bảo vệ Tổ quốc.
Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: gồm 29 điều, từ Điều
53 đến Điều 81, là chương lớn nhất của Hiến pháp thể hiện quan điểm
như sợi chỉ đổ xuyên suốt các Hiến pháp Việt Nam và đến Hiến pháp năm
4980 có bước phát triển mới: địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội của nhân dân.
Nội dung của chương này quy định tương đối bao quát, đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, các quyền tự do dân chủ (các điều 67, 68, 71).
Một điều mới trong cách thể hiện là lao động và học tập được quy định là
quyền đồng thời là nghĩa vụ của công dân. Các nghĩa vụ cơ bản của công
dân cũng được quy định đầy đủ.
Một đặc điểm đáng kể của chương này là cùng với các quy định đầy đủ, toàn
diện về các quyền và nghĩa vụ của công dân, lại có những quy định tuy không
trực tiếp đề cập quyền và nghĩa vụ công dân nhưng lại có mối quan hệ khăng
khít trong cuộc sống cộng đồng như vị trí, vai trò của gia đình là tế bào của xã
hội (Điều 64) hoặc trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc chú trọng
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng (Điều 65), "fạo
điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, năng
khiếu và thể lực" (Điều 66). Năm chương từ Chương VI đến Chương X gồm
60 điều từ Điều 82 đến Điều 141, với các quy định về tổ chức bộ máy nhà
nước trung ương và địa phương thể hiện mối quan hệ khăng khít với nhau
theo tinh thần vừa có sự phân công, vừa có phối hợp trên cơ sở tiếp thu, kế
thừa các quy định đã thành nguyên tắc, nguyên lí của hai Hiến pháp trước,
đồng thời, có sự điều chỉnh lớn, đưa mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước Việt
Nam về cơ bản theo mô hình tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa phổ biến ở
những năm 70, 80, thế kỉ XX.
Về Quốc hội, Chương VỊ có 16 điều từ Điều 83 đến Điều 97, khẳng định các
quy định truyền thống có tính nguyên tắc về vị trí của Quốc hội, đồng thời,
khẳng định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết
định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh
tế và văn hoá, quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước... và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước (Điều 82).
Chương VII - Hội đồng nhà nước: có 6 điều từ Điều 98 đến Điều 103, thiết kế
một thể chế rất mới mẻ ở Việt Nam, vừa làm chức năng của cơ quan thường
trực của Quốc hội, vừa làm chức năng của Chủ tịch nước - nguyên thủ quốc gia. Điều 98 ghi:
Hội đồng nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc
hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. . Hội
đồng nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng thay mặt nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng có 9 điều từ Điều 104 đến Điều 112, chủ
yếu kế thừa, tiếp thụ các quy định của thiết chế Hội đồng Chính phủ của Hiến
pháp năm 1959 với những điều chỉnh, bổ Sung cần thiết cho phù hợp với giai
đoạn phát triển mới, Hội đồng Bộ trưởng, theo Điều 104, là Chính phủ của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành
chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về
chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của Hội đồng Bộ trưởng về cơ bản như ở
Hiến pháp năm 1959 với sự cụ thể hoá, bổ sung một số chức năng mà Nhà
nước ta, do bản chất nhân dân của nó, ở giai đoạn nào cũng được thể hiện,
nhưng ở các Hiến pháp trước chưa được chính thức ghi nhận thì nay đã
được bổ sung, trở thành những nhiệm vụ, quyền hạn mới của Hội đồng Bộ trưởng.
Chương IX - Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân: có 14 điều, từ Điều 113
đến Điều 126, chủ yếu kế thừa, tiếp tục các quy định của thiết kế mô hình tổ
chức chính quyền địa phương của các Hiến pháp trước: tổ chức chính quyền
ba cấp hoàn chỉnh: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã đều có Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân (cơ quan hành pháp địa phương đã được gọi là Uỷ ban
nhân dân thay cho tên gọi Uỷ ban hành chính ở hai Hiến pháp trước.
Tháng 6.1989, kì họp thứ 9 Quốc hội Khoá VII đã có nghị quyết sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm 1980 trực tiếp liên quan đến các quy
định của Chương IX, theo đó tất cả 6 điều được sửa đổi, bổ sung đều quan
hệ đến 1 thiết chế là thường trực Hội đồng nhân dân được thành lập ở Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng nhân dân cấp huyện, gồm Chủ tịch, Phó
Chủ tịch và Thư kí Hội đồng nhân dân làm nhiệm vụ triệu tập hội nghị Hội
đồng nhân dân cùng cấp và điều hành, phối hợp hoạt động của các ban do
Hội đồng nhân dân lập r4, nhiệm vụ mà trước đó do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cùng cấp thực hiện. Nghị quyết sửa đổi bổ surb một số điều của Hiến
pháp năm 1980 cũng điều chỉnh nhiệm kì của
Hội đồng nhân dân, nếu trước đây cấp tỉnh là 4 năm, cấp huyện, cấp xã là 2
năm (Điều 116), thì nay theo nghị quyết mới tất cả đều 5 năm.
Chương X - Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân có 15 điều từ Điều
127 đến Điều 141 về cơ bản kế thừa, tiếp thu những quy định của Hiến pháp
năm 1959 về Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Lần đầu tiên, ở
tầm hiến định, chương này có quy định: Ởở cơ sở, thành lập các tổ chức
thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh
chấp nhỏ trong nhân dân, theo quy định của pháp luật.
Chương XI - Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô có 4 điều, từ Điều 142 đến
Điều 145, so với Hiến pháp năm 1959, có bổ sung quan trọng về Quốc ca:
Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội quyết định.
Về Quốc kì (Điều 142); Quốc huy (Điều 143) có sự bổ sung, miêu tả cụ thể
những chỉ tiết của quốc kì - hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều
dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh; đối với Quốc huy cũng có mô
tả chỉ tiết cụ thể (Điều 143).
Chương XII - Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp có 2 điều:
Điều 146 và Điều 147. So với Hiến pháp 1959, có bổ sung một điều đặc biệt
quan trọng về hiệu lực của Hiến pháp, cụ thể Điều 146 ghi: Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp. Điều 147 về sửa đổi Hiến pháp giữ nguyên như Điều 112 Hiến pháp
năm 1959: chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp và phải được hai
phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành mới có giá trị.
Document Outline

  • Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản Luật Hiến Pháp V
    • 1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1980
    • 2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1980
    • 3. Tìm hiểu những vấn đề khác liên quan đến Hiến p